Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Đề cương triết học đại cương có đáp án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.92 KB, 7 trang )

Câu 1: Mối quan hệ biện chứng giữa
vật chất và ý thức. Ý nghĩa của vấn đề
này đối với quá trình đổi mới ở nước
ta hiện nay.
Bài làm
Mối quan hệ biện chứng giữa
vc và yt là vấn đề cơ bản của TH. Quan
hệ vc và yt là mqh đã được các nhà TH
trước Mác quan tâm với nhiều quan
điểm khác nhau và luôn diễn ra cuộc đấu
tranh giữa cndt và cndv trong suốt quá
trình lịch sử của TH.
Quan điểm Macxit cho rằng
chỉ có 1 thế giới duy nhất và thống nhất
là tgvc. Tgvc tồn tại khách quan có trước
và độc lập với yt của CN.
Trong tác phẩm” cn duy vật
và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” ,V.I
Lênin đã định nghĩa: “VC là một phạm
trù triết học dùng để chỉ thực tại khách
quan được đem lại cho con người trong
cảm giác, được cảm giác của chúng ta
chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại
không lệ thuộc vào cảm giác”.
“ VC là một phạm trù th”.
Như vậy, phạm trù vc của th là phạm trù
có tính khái quát nhất, khg giống với khái
niệm vc trong một số ngành kh cụ thể,
hay trong đời sống thường ngày. Vì vậy,
khg được đồng nhất vc với tư cách là
một phạm trù th với các dạng tồn tại cụ


thể của nó mà các kh chuyên ngành
nghiên cứu.
VC có thuộc tính cơ bản
nhất, q trọng nhất là “ thực tại kq” và “
tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
Thuộc tính tồn tại kq không phụ thuộc
vào ý thức con người là đk cần và đủ để
phân biệt cái gì thuộc về vc và cái gì
khg thuộc về vc.
“ Thực tại kq, được đem lại
cho con người trong cảm giác, được
cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh”. Điều này nói lên rằng thực tại
kq ( vc) là cái có trước, cảm giác con
người là cái có sau. Cảm giác của CN có
thể “ chép lại, chụp lại, phản ánh” được
thực tại kq ( vc). Như vậy, vc không tồn
tại trù tượng mà tồn tại thông qua các
dạng tồn tại cụ thể cảu mình và bằng
cảm giác ( ý thức) CN có thể nhận thức
được.
Rõ ràng định nghĩa của
Lenin đã giải quyết được cả hai mặt của
vấn đề cơ bản của th trên lập trường
dvbc.
Theo th dvbc, ý thức của CN
có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xh.
Nguồn gốc TN: Phản ánh là
thuộc tính chung của mọi dạng vc. Đó là
năng lực giữ lại, tái hiện lại của 1 hệ

thống vc này những đặc điểm của 1 hệ
thống vc khác khi 2 hệ thống vc đó tác
động lẫn nhau; Cùng với sự phát triển
của tgvc, thuộc tính pa của nó cũng
phát triển từ thấp đến cao. Như vậy, ý
thức là thuộc tính của 1 dạng vc cso tổ
chức cao là bộ não người. Tóm lại, não
người và sự phản ánh tgkq vào não
người chính là nguồn gốc tn của ý thức.
Nguồn gốc xh: Chính lđ và
ngôn ngữ là hai nguồn gốc xh quyết định
trực tiếp đến sự hình thành và phát triển
của ý thức; chính lđ đã đóng vai trò qđ
trong việc chuyển biến từ vượn thành
người, làm cho CN khác với tất cả động
vật khác; lđ giúp CN cải tạo thế giới và
hoàn thiện chính mình; thong qua lđ, não
người ngày càng hoàn thiện, phát triển
giúp tư duy trừu tượng phát triển; chính
lđ là cơ sở hình thành, phát triển của
ngôn ngữ. Sự ra đời của ng ngữ lại giúp
CN pa sự vật khái quát hơn. Điều này
thúc đẩy tư duy trừu tượng phát triển.
Đây là 2 yếu tố quan trọng để phát triển
ý thức. Như vậy, Lao động và ngôn ngữ
là “ hai sức kích thích chủ yếu” để biến
bộ não vượn thành não người, phản
ánh tâm lý động vật thành phản ánh ý
thức.
TH dvbc cho rằng bc của yt

là sự pa tgkq vào bộ não người trên cơ
sở hoạt động thực tiễn. Cho nên, yt là
hình ảnh chủ quan của tgkq; yt là hình
ảnh chứ khg phải là bản than sự vật; yt
là hình ảnh của sự vật được thực hiện ở
trong bộ não người; yt là sự pa sang tạo
tgkq vào bộ não người, nghĩa là pa yt
khg phải là bản sao chụp; pa yt là tích
cực, chủ động. Nghĩa là CN trên cơ sở
hoạt động thực tiễn, chủ động tác động
vào sv, ht làm cho chúng bộ lộ thuộc
tính, tính chất của mình, qua đó CN có
thể hiểu biết được svht. Hơn nữa CN
còn biết vận dụng tri thức và cải tạo
tgkq; Pa yt luôn mang bản chất xh. Bởi
lẽ, yt luôn là sp của sự phát triển của
xh,dựa trên hoạt động thực tiễn xh, các
quan hệ xh. CN tách rời khỏi xh sẽ khg
có ý thức.
Giữa vc và yt có mối quan hệ
biện chứng với nhau, tác động lẫn nhau:
Vc có vai trò quyết định đối
với yt: vc có trước, yt có sau, vc tồn tại
kq, độc lập với yt và là nguồn gốc sinh
ray t. Não người là dạng vc cao có tổ
chức của tgvc, là cơ quan pa để hình
thành yt. Yt tồn tại phụ thuộc vào hoạt
động thần kinh của não bộ trong quá
trình pa tgkq; yt là sự pa tgvc vào não
người, là hình ảnh của tgkq. Tgkq là

nguồn gốc của yt, quyết định nội dung
của yt.
Yt có tính độc lập tương đối
so với vc, tác động trở lại vc: yt có tính
năng động, sang tạo nên thông qua hoạt
động thực tiễn của CN có thể thúc đẩy
hoặc kìm hãm ở mức độ nhất định các
điều kiện vc, góp phần cải biến tgkq. Yt
pa đúng hiện thực kq thì có tác dụng
thúc đẩy hoạt động thực tiễn của CN
trong cải tạo tg. Ngược lại, yt sẽ kìm
hãm hoạt động thực tiễn cải tạo tg của
CN nếu khg pa đúng tgkq; Sự tác động
trở lại của yt đối với vc, thông qua hoạt
động thực tiễn của CN dù đến mức độ
nào chăng nữa vẫn phải dựa trên sự pa
tgvc và các điều kiện vc khách quan.
Từ quan điểm duy vật biện
chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức một nguyên tắc được rút ra, đó là
nguyên tắc khách quan. Nguyên tắc
khách quan trước nhất thừa nhận vai trò
quyết định của vật chất đối với ý thức,
nó đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và
hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ
hiện thực khách quan, tôn trọng và hành
động theo quy luật khách quan, “phải lấy
thực thể khách quan làm căn cứ cho mọi
hoạt động của mình”. Tuy nhiên, việc
thực hiện nguyên tắc khách quan không

có nghĩa là quan điểm khách quan xem
nhẹ, tính năng động, sáng tạo của ý thức
mà nó còn đòi hỏi phát phát huy tính
năng động sáng tạo của ý thức, của
nhân tố chủ quan. Bởi vì quá trình đạt tới
tính khách quan đòi hỏi chủ thể phải
phát huy tính năng động, sáng tạo trong
việc tìm ra những biện pháp, những con
đường để từng bước thâm nhập sâu vào
bản chất của sự vật, trên cơ sở đó con
người thực hiện sự biến đổi từ cái “vật
tự nó” (tức thực tại khách quan) thành
cái phục vụ cho nhu cầu của con người
đồng thời sử dụng hiệu quả các điều
kiện, sức mạnh vật chất khách quan,
sức mạnh của quy luật … để phục vụ
cho các mục tiêu, mục đích khác nhau
của con người.
Như vậy, vật chất và ý thức
có mối quan hệ biện chứng với nhau và
mối liên hệ đó tuân theo các quy luật
khách quan vốn có của nó. Nếu trong
nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng
ta tuyệt đối hóa, cường điệu hóa vai trò
của một trong hai mặt thì sẽ ảnh hưởng
không nhỏ đến sự phát triển của xã hội
và rơi vào bệnh chủ quan duy ý chí hoặc
bệnh bảo thủ trì trệ.
Vận dụng:
Bệnh chủ quan duy ý chí

và bệnh bảo thủ trì trệ có nguyên nhân
từ sự yếu kém lạc hậu về tư duy lý luận,
trí thức lý luận không đáp ứng được yêu
cầu của thực tiễn. Sự giản đơn yếu kém
về lý luận thể hiện ở chổ : hiểu và vận
dụng chưa đúng nguyên lý, quy luật,
phạm trù, chưa chú ý tiếp thu kế thừa
những thành tựu, kỹ thuật công nghệ
mới của chủ nghĩa tư bản, của nhân loại,
thậm chí còn có định kiến phủ nhận một
cách cực đoan những thành tựu đó,
chưa chú ý tổng kết những cái mới từ sự
vận động, phát triển của thực tiễn. theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh thì nguyên nhân
của bệnh chủ quan là kém lý luận, lý
luận là lý luận suông. Bệnh chủ quan
duy ý chí, bảo thủ còn do nguồn gốc lịch
sử, xã hội, giai cấp, tâm lý của con
người chi phối. Những nguyên nhân
khách quan ấy có thể kế như : do xuất
phát điểm của nước ta quá thấp, nền SX
nhỏ với trình độ SX lạc hậu, do hậu quả
của chiến tranh kéo dài ảnh hưởng rất
lớn đến không chỉ đến tốc độ phát triển
kinh tế - xã hội mà còn làm cho đội ngũ
cán bộ - đảng viên không có điều kiện để
học tập nên trình độ KH công nghệ, tri
thức không đáp ứng đầy đủ những yêu
cầu của sự nghiệp cách mạng, cơ chế
quan liêu bao cấp, bệnh quan liêu ảo

tưởng, “kiêu ngạo cộng sản”… cũng tạo
điều kiện cho sự ra đời của căn bệnh
chủ quan duy ý chí.
Bệnh chủ quan duy ý chí và
bệnh bảo thủ trì trệ là một thực tế tồn tại
trong thời kỳ khá dài trước đổi mới
(trước Đại hội lần VI tháng 12-1986).
Đánh giá về những sai lầm do chủ quan
duy ý chí của Đảng trong thời kỳ này,
Văn kiện Đại hội VI đã nêu:
Về đánh giá tình hình xác
định mục tiêu và bước đi: “Do chưa nhận
thức đầy đủ rằng thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là một quá trình lịch sử
tương đối dài, phải trãi qua nhiều chặng
đường và do tư tưởng chỉ đạo chủ quan,
nóng vội muốn bỏ qua những bước đi
cần thiết”.
Về bố trí cơ cấu kinh tế: “…
thường chỉ xuất phát từ lòng mong muốn
đi nhanh, khg tính tới đk và khả năng
thực tế, khg kết hợp chặt chẽ ngay từ
đầu công nghiệp với nông nghiệp thành
một cơ cấu hợp lý ” và do bệnh bảo thủ
trì trệ mà“ khg thực hiện nghiêm chỉnh
nq của ĐH V. Nông nghiệp chưa thật sự
được coi là mặt trận hàng đầu, khg
được đảm bảo các đk để phát triển …”
Về cải tạo xhcn, củng cố
qhsx mới, sử dụng các thành phần kinh

tế: “trong nhận thức và hành động chúng
ta chưa thật sự thừa nhận cơ cấu kt
nhiều t” hành phần … chưa nắm vững
và vận dụng đúng quy luật về sự phù
hợp giữa qhsx với tính chất và trình độ
của llsx”
Về cơ chế quản lý kinh tế:
Do thiếu hiểu biết và ít kinh nghiệm quản
lý, lại chưa chú trọng đến tổng kết rút
kinh nghiệm và do khuynh hướng bảo
thủ, trì trệ, khg muốn đổi mới, nóng vội
và giản đơn muốn giải quyết vấn đề
trong thời gian ngắn nên “chậm đổi mới
cơ chế và bộ máy qlkt, việc điều hành
không nhạy bén là những nguyên nhân
quan trọng dẫn đến hành động khg
thống nhất; nhiều chính sách, thể chế đã
lỗi thời chưa được thay đổi, một số thể
chế ql mới còn chắp vá, khg ăn khớp
thậm chí trái ngược nhau”.
Về phân phối lưu thông: đây
là sai lầm rất nghiêm trọng trong lãnh
đạo qlkt thời gian qua làm cho tình hình
kt-xh rối ren và luôn căng thẳng, những
sai lầm đó là: bố trí cơ cấu kt, chưa có
chính sách cơ bản về tài chính đúng đắn
gắn liền với giá cả, tiền lương…
Về thực hiện chuyên chính
vô sản: Trong lĩnh vực tư tưởng đã bộ lộ
sự lạc hậu về nhận thức lý luận và vận

dụng các quy luật hoạt động trong tkqđ. “
chúng ta đã có thành kiến khg đúng, trên
thực tế chưa thừa nhận những quy luật
hàng hóa đang tồn tại kq ”…
Trên cơ sở quán triệt mối
quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý
thức, rút kinh nghiệm từ những sai lầm
do chủ quan duy ý chí, từ Đại hội VI của
Đảng (1986) Đảng đã chỉ rõ bài học kinh
nghiệm là: Một là, trong toàn bộ hoạt
động của mình, đảng phải quán triệt tư
tưởng “ lấy dân làm gốc”, xd và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân lđ; Hai là,
Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế,
tôn trọng và hành động theo quy luật
khách quan, Năng lực nhận thức và
hành động theo quy luật là đk đảm bảo
sự lãnh đạo đúng đắn của đảng; Ba là
phải biết kết hợp sức mạnh của toàn dân
với sức mạnh của thời đại trong điều
kiện mới; Bốn là, phải xây dựng Đảng
ngang tầm với nhiệm vụ chính trị của
một đảng cầm quyền lãnh đạo nd tiến
hành cuộc cm xhcn.
Đại hội Đảng lần thứ IX tiếp
tục tổng kết từ sự vận động của thực
tiễn trong nước và trên thế giới đã khẳng
định một trong những bài học chủ yếu
đưa công cuộc đổi mới ở nước ta đi đến
thắng lợi là: “ đường lối đúng đắn của

đảng là nhân tố quyết định thành công
của đổi mới. Đảng khởi xướng và lãnh
đạo công cuộc đổi mới, tổng kết thực
tiễn và nghiên cứu lý luận, hoàn thiện
đường lối đổi mới; thường xuyên xây
dựng chỉnh đống Đảng, tạo ra sự thống
nhất về quan điểm, ý chí và hành động
trong toàn Đảng; lãnh đạo tổ chức thực
hiện, xây dựng và kiện toàn bộ máy nhà
nước trong sạch vững mạnh”
Hai mươi năm qua, trong
công cuộc xd xhcn của đất nước, từ
thực tiễn đổi mới, Đảng và Nhà nước ta
càng tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm
lãnh đạo và quản lý, Đại hội Đảng lần
thứ X tiếp tục tổng kết từ sự vận động
của thực tiễn trong nước và trên thế giới
đã khẳng định một trong những bài học
chủ yếu đưa công cuộc đổi mới ở nước
ta đi đến thắng lợi là: Trong quá trình đổi
mới phải kiên định mục tiêu đldt và cnxh
trên nền tảng cn M-L và TTHCM; Đổi
mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa,có
bước đi, hình thức và cách làm phù hợp;
Đổi mới phải vì lợi ích của nd, dựa vào
nd phát huy vai trò chủ động, sang tạo
của nd, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén
với cái mới; Phát huy cao độ nội lực,
đồng thời ra sức khai thác ngoại lực, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh

thời đại trong điều kiện mới; Nâng cao
năng lực và sức chiến đấu của đảng,
khg ngừng đổi mới tổ chức và hoạt động
của htct, xd từng bước hoàn thiện nền
dân chủ xhcn, bảo đảm quyền lực thuộc
về nd.
Tóm lại, từ những phân tích
trên cho thắng lợi của công cuộc đổi mới
có được là dựa trên một nền tảng tư
tưởng đúng, đó là chủ nghĩa Mác-Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh mà trong đó sự
quán triệt và vận dụng đúng quy luật,
nguyên tắc khách quan là điều kiện đảm
bảo sự đường lối lãnh đạo đúng đắn của
Đảng trong quá trình đưa nước ta đi lên
cnxh./.
1
Câu 2 : Phân tích mối liên hệ biện
chứng giữa lý luận và thực tiễn, từ đó
rút ra quan điểm thực tiễn; vận dụng
quan điểm đó để phân tích, phê phán
bệnh kinh nghiệm, giáo điều và để
phân tích phương hướng đổi mới sau
đây của Đảng ta : “Đẩy mạnh tổng kết
thực tiễn và nghiên cứu lý luận, thảo
luận dân chủ, sớm làm rõ và kết luận
những vấn đề mới, bức xúc nảy sinh
từ thực tiễn; từng bước cụ thể hóa,
bổ sung phát triển đường lối, chính
sách của Đảng, đấu tranh với khuynh

hướng, tư tưởng sai trái”(Văn kiện
Đại hội IX, trang 141)
Bài làm
Đối với Đảng ta, kiên trì, vận
dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa
Mác – Lênin là vấn đề có tính nguyên tắc
số một. Trung thành với chủ nghĩa Mác –
Lênin có nghĩa là nắm vững bản chất
cách mạng và khoa học của chủ nghĩa
Mác – Lênin , vận dụng một cách đúng
đắn , thích hợp với điều kiện nước ta,
góp phần phát triển chủ nghĩa Mác –
Lênin một cách sáng tạo. Nghị Quyết đại
hội VIII của Đảng nêu rõ “ Đảng làm giàu
trí tuệ của mình bằng cách không ngừng
nâng cao trình độ lý luận, nắm vững và
vận dụng sáng tạo những luận điểm cơ
bản và phương pháp luận chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng HCMinh, đồng
thời phải không ngừng tổng kết kinh
nghiệm thực tiển sinh động, từ phong
trào CM của quần chúng”. NQ ĐH IX của
Đảng tiếp tục khẳng định “lấy chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tường HCM làm nền
tảng tư tường, kim chỉ nam cho hành
động là bước phát triển quan trọng trong
nhận thức và tư duy lý luận của Đảng
ta”. Triết học Mác – Lênin đã giải quyềt
tòan bộ các vần đề nêu trên, trong đó
mối quan hệ VC va YT .

Bệnh kinh nghiệm, giáo điều là
những sai lầm khá phổ biến ở nước ta
trong thời kỳ trước đổi mới, nó dẫn đến
hậu quả là làm cho hành động của
chúng ta không xác định được phương
hướng, hoặc xa rời với hoàn cảnh lịch
sử cụ thể và gây tác hại nghiêm trọng
đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Một trong những nguyên nhân của
bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều xuất
phát từ khuynh hướng nhận thức sai
lệch về mối quan hệ giữa lý luận và thực
tiển.
Việc phân tích tìm hiểu mối liên
hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn,
từ đó rút ra quan điểm thực tiễn và vận
dụng đúng đắn quan điểm đó trong hoạt
động thực tiễn là rất cần thiết đối với sự
nghiệp đổi mới ở nước ta - như Văn kiện
Đại hội Đảng lần IX đã xác định : : “Đẩy
mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên
cứu lý luận, thảo luận dân chủ, sớm
làm rõ và kết luận những vấn đề mới,
bức xúc nảy sinh từ thực tiễn; từng
bước cụ thể hóa, bổ sung phát triển
đường lối, chính sách của Đảng, đấu
tranh với khuynh hướng, tư tưởng sai
trái”(Văn kiện Đại hội IX, trang 141)
Thực tiễn - theo quan điểm
triết học duy vật biện chứng - là toàn bộ

hoạt động vật chất
có mục đích mang tính lịch sử XH của
con người làm biến đổi, cải tạo tự nhiên
và xã hội. Bản chất của hoạt động thực
tiễn đó là sự tác động qua lại của chủ
thể và khách thể, là con người sử dụng
những công cụ vật chất tác động vào đối
tượng vật chất làm biến đổi chúng theo
mục đích của mình. Thực tiễn cũng có
quá trình vận động, phát triển, trình độ
phát triển của thực tiễn nói lên quá trình
chinh phục tự nhiên, làm chủ xã hội của
con người. Thực tiễn mang tính lịch sử
xã hội bởi nó phát triển qua các giai
đoạn lịch sử. Hoạt động thực tiễn có thể
chia làm 3 hình thức cơ bản : hoạt động
SX vật chất, hoạt động biến đổi chính trị
xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa
học. Ttrong đó, hoạt động SX vật chất là
hoạt động có ý nghĩa quyết định các
hình thức khác, hoạt động biến đổi chính
trị xã hội là hình thức cao nhất và hoạt
động thực nghiệm khoa học là hình thức
đặc biệt nhằm thu nhận những tri thức
về hiện thực khách quan.
Lý luận – theo Chủ tịch Hồ chí
Minh – là sự tổng kết kinh nghiệm của
loài người, sự tổng hợp những tri thức
về tự nhiên, xã hội đã được tích lũy lại
trong quá trình lịch sử của con người. Lý

luận là sản phẩm cao của nhận thức
đồng thời thể hiện trình độ cao của nhận
thức, của những tri thức về bản chất,
quy luật của hiện thực và vì vậy, bản
chất của lý luận là hình ảnh chủ quan
của thế giới khách quan.
Giữa lý luận và thực tiễn có
mối quan hệ biện chứng, tác động qua
lại với nhau. Trong mối quan hệ đó,
thực tiễn có vai trò quyết định, vì thực
tiễn là hoạt động vật chất, còn lý luận là
sản phẩm của hoạt động tinh thần. Vai
trò quyết định của thực tiễn đối với lý
luận thể hiện ở chổ : chính thực tiễn là
cơ sở, là động lực, là mục đích, là tiêu
chuẩn để kiểm tra nhận thức và lý luận;
nó cung cấp chất liệu phong phú sinh
động để hình thành lý luận và thông qua
hoạt động thực tiễn, lý luận mới được
vật chất hóa, hiện thực hóa, mới có sức
mạnh cải tạo hiện thực. Lý luận mặc dù
được hình thành từ thực tiễn nhưng nó
có vai trò tác động trở lại đối với thực
tiễn. Sự tác động của lý luận thể hiện
qua vai trò xác định mục tiêu, khuynh
hướng cho hoạt động thực tiễn (lý luận
là kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn),
vai trò điều chỉnh hoạt động thực tiễn,
làm cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả
2

hơn. Lý luận cách mạng có vai trò to lớn
trong thực tiễn cách mạng. Lênin viết
“không có lý luận cách mạng thì không
thể có phong trào cách mạng”. Như vậy,
giữa lý luận và thực tiễn có sự liên hệ,
tác động qua lại, tạo điều kiện cho nhau
cùng phát triển và gắn bó hữu cơ với
nhau do đó sự thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn là nguyên lý cao nhất của triết
học Mác Lênin. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
từng chỉ rõ “Thực tiễn không có lý luận
hướng dẫn thì thành thực tiễn mù
quáng”, “Lý luận mà không có thực tiễn
là lý luận suôn”
Từ mối quan hệ biện chứng
giữa lý luận và thực tiễn, ta rút ra được
quan điểm thực tiễn. Quan điểm thực
tiễn đòi hỏi khi xem xét sự vật hiện
tượng phải gắn với thực tiễn, phải theo
sát sự phát triển của thực tiễn để điều
chỉnh nhận thức cho sự phù hợp với sự
phát triển của thực tiễn, hiệu quả của
thực tiễn để kiểm tra những kết luận của
nhận thức, kiểm tra những luận điểm
của lý luận. Quan điểm thực tiễn cũng
đòi hỏi những khái niệm của chúng ta về
sự vật phải được hình thành, bổ sung và
phát triển bằng con đường thực tiễn,
trên cơ sở thực tiễn chứ không phải
bằng con đường suy diễn thuần túy,

không phải bằng con đường tự biện. Do
thực tiễn luôn vận động và phát triển nên
phải thường xuyên ổng kết quá trình vận
dụng lý luận vào thực tiễn, xem nó thừa
thiếu nhằm bổ sung phát triển nó cho
phù hợp.
Nắm vững quan điểm thực tiễn
có ý nghĩa trong việc góp phần hạn chế
bệnh giáo điều và bệnh chủ quan duy ý
chí trong tư duy và trong hoạt động thực
tiễn.
Kinh nghiệm thực tiễn có vai trò
rất quan trọng đối với lý luận, kinh
nghiệm chính là cơ sở để tổng kết, khái
quát thành lý luận. Kinh nghiệm là căn
cứ để chúng ta không ngừng xem xét lại
bổ sung, sửa đổi, phát triển lý luận. Tri
thức lý luận hình thành tổng kết khái
quát kinh nghiệm nhưng lại phải thông
qua tư duy trừu tượng của cá nhân nhà
lý luận cho nên nó cũng chứa đựng khả
năng không chính xác xa rời thực tiễn.
Vì vậy trí thức lý luận phải được thể
nghiệm trong thực tiễn để khẳng định, bổ
sung sửa đổi hoàn thiện. Mặt khác lý
luận một khi đã được hình thành nói
không phải thụ động, mà có vai trò độc
lập tương đối của nó. Lý luận tác động
trở lại đối với thực tiễn hướng dẫn chỉ
đạo hoạt động thực tiễn, dự báo dự đón

tình hình và phương hướng hoạt động
thực tiễn trong tương lai …
Chúng ta coi trọng những kinh
nghiệm thực tiễn và không ngừng tích
lũy vốn kinh nghiệm quý báu đó. Tuy
nhiên nếu chỉ dừng lại ở trình độ kinh
nghiệm, chỉ dựa vào những hiểu biết ở
trình độ kinh nghiệm, thỏa mãn với vốn
kinh nghiệm của bản thân coi kinh
nghiệm là tất cả, tuyệt đối hóa kinh
nghiệm đồng thời coi nhẹ lý luận, ngại
học tập, nghiên cứu lý luận, ít am hiểu lý
luận vươn lên để nắm lý luận, không
quan tâm tổng kết kinh nghiệm để đề
xuất lý luận … thì rất dễ mắc bệnh kinh
nghiệm chủ nghĩa. Trong thực tế, đây là
trường hợp thường có ở những cán bộ,
đảng viên có kinh nghiệm và làm theo
kinh nghiệm. Họ không hiểu được rằng
kinh nghiệm của họ tuy tốt nhưng cũng
chỉ là từng bộ phận, từng mặt mà thôi.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận xét: ''Có kinh
nghiệm mà không có lý luận cũng như
một mắt sáng, một mắt mờ''
Mặt khác, thái độ thực sự coi
trọng lý luận đòi hỏi phải ngăn ngừa
bệnh giáo điều chủ nghĩa. Bệnh giáo
điều chủ nghĩa là tuyệt đối hóa lý luận,
coi thường kinh nghiệm thực tiễn, xem lý
luận là bất di bất dịch, việc nắm lý luận

chỉ dừng lại ở những nguyên lý chung
trừu tượng, không chú ý đến những
hoàn cảnh lịch sử cụ thể của sự vận
dụng lý luận. Bệnh giáo điều có 2 dạng :
giáo điều lý luận và giáo điều kinh
nghiệm. Bệnh giáo điều lý luận là việc
thuộc lòng lý luận, cho rằng áp dụng lý
luận áp dụng vào đâu cũng được không
xem xét điều kiện cụ thể của mình. Bệnh
giáo điều kinh nghiệm là việc áp dụng
nguyên si rập khuôn mô hình của nước
khác, của địa phương khác vào địa
phương mình mà không sáng tạo, chọn
lựa …
Thực chất của những sai lầm
của bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều
là vi phạm sự thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn. Cho nên để khắc phục bệnh
kinh nghiệm, giáo điều trong công tác lý
luận cần từ bỏ lối nghiên cứu một cách
kinh viện thuần túy, cần chống lại lối tư
duy bắt chước sao chép rập khuôn,
thoát ly thực tế, bất chấp những đặc
điểm truyền thống và điều kiện cụ thể
của đất nước, của dân tộc đồng thời
phải tăng cường tổng kết thực tiễn bổ
sung phát triển lý luận.
Một trong những sai lầm
trong đường lối chính sách của Đảng
trong thời kỳ trước đổi mới cũng xuất

phát từ căn bệnh giáo điều. Trong thời
kỳ này, đã có lúc ta bắt chước rập khuôn
mô hình CNXH ở Liên Xô trong việc
thành lập các bộ ngành của bộ máy nhà
nước (ở Liên Xô có bao nhiêu Bộ,
Ngành ta cũng có bấy nhiêu Bộ ngành),
hoặc về công nghiệp hóa cũng vậy, ta
chỉ chú ý tập trung phát triển công
nghiệp nặng mà không chú ý phát triển
công nghiệp nhẹ Hoặc theo học thuyết
của Mác thì phải xóa bỏ tư hữu, do đó
khi áp dụng vào nước ta, Đảng đã có
biểu hiện nóng vội trong việc tiến hành
cải tạo XHCN nhằm xóa tất cả các thành
phần kinh tế mà không thấy được rằng
"Nền kinh tế nhiều thành phần là một
đặc trưng của thời kỳ quá độ", sự có mặt
của nhiều thành phần kinh tế với các mối
quan hệ tác động qua lại của nó sẽ tạo
động lực cho sự phát triển kinh tế trong
giai đoạn này. Chính những sai lầm này
là một trong những nguyên nhân gây ra
tình trạng khủng hoảng kinh tế trầm
trọng trong thời kỳ trước đổi mới.
Nhận thức được những sai lầm
trên, từ ĐH Đảng lần VI (1986) Đảng đã
khởi xuớng công cuộc đổi mới toàn diện
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội,
trong đó có lĩnh vực tư tưởng, lý luận, tư
duy và đề ra phương hướng đổi mới của

Đảng ta : “Đẩy mạnh tổng kết thực
tiễn và nghiên cứu lý luận, thảo luận
dân chủ, sớm làm rõ và kết luận
những vấn đề mới, bức xúc nảy sinh
từ thực tiễn; từng bước cụ thể hóa,
bổ sung phát triển đường lối, chính
sách của Đảng, đấu tranh với khuynh
hướng, tư tưởng sai trái” ”(Văn kiện
Đại hội IX, trang 141)
Phương hướng mà Đảng đề
ra là sự khẳng định trong quá trình đổi
mới phải đẩy mạnh việc tổng kết thực
tiễn trong việc nghiên cứu và không
ngừng hoàn chỉnh lý luận để có thể dự
báo tình hình, kịp thời phát hiện và giải
quyết đúng đắn những vấn đề mới nảy
sinh trên tinh thần kiên định thực hiện
đường lối đổi mới. Kết quả của tổng kết
thực tiễn cung cấp những cơ sở cho việc
nâng tầm lý luận, thiết thực hơn đó là
việc bổ sung, hoàn thiện và hoạch định
đường lối, chính sách cũng như cách
thức, bước đi thích hợp để đưa đất
nước ta vững bước đi lên. Bởi vì mỗi
chủ trương chính sách biện pháp KT-XH
dù là đúng đắn nhất thì trong quá trình
thực hiện nhưng bên cạnh mặt tích cực
là chủ yếu cũng thường có những hệ
quả tiêu cực nhất định. Những vấn đề
mới nảy sinh, cần phải dự kiến trước và

theo dõi để chủ động ngăn ngừa, giải
quyết, tránh suy nghĩ giản đơn một chiều
đến khi có vấn đề mới nảy sinh, có mặt
tiêu cực mới xuất hiện thì hoang man hốt
hoảng hoặc khi gặp khó khăn thì dao
động và quay lại những cách sai lầm cũ.
Hiện nay, công cuộc đổi mới
ở nước ta càng đi vào chiều sâu, những
biến đổi trên thế giới nhanh chóng,
phức tạp, khó lường thì những vấn đề
mới đặt ra ngày càng nhiều , trong đó có
những vấn đề liên quan đến nhận thức
về CNXH và con đường xây dựng
CNXH. Do đó tổng kết thực tiễn là
phương pháp căn bản để khắc phục
bệnh giáo điều, bệnh kinh nghiệm, để
nhận rõ hơn con đường cách mạng mà
chúng ta tất yếu phải đi tới . Có thể nói
rằng mỗi ĐH Đảng là một dịp để Đảng
và Nhà nước ta tổng kết thực tiễn, nâng
tầm lý luận, làm căn cứ cho việc hoạch
định đường lối, chính sách phù hợp cho
từng giai đoạn. Tuy nhiên, nhấn mạnh
tổng kết thực tiễn không có nghĩa là xem
nhẹ nghiên cứu cơ bản mà lý luận cơ
bản càng tiếp cận với những vấn đề cụ
thể bao nhiêu càng phải có những quan
điểm chung cơ bản bấy nhiêu
Vì thế ĐH VII của ĐCS VN
khẳng định : “Chỉ có tăng cường tổng

kết thực tiễn, phát triển lý luận thì
công cuộc đổi mới mới trở thành hoạt
động tự giác, chủ động và sáng tạo,
bớt được những sai lầm và những
bước đi quanh co, phức tạp”.
Hơn lúc nào hết muốn lãnh đạo
công cuộc đổi mới đi đến thắng lợi Đảng
ta phải nâng cao trình độ hiểu biết và
năng lực tổ chức thực tiễn từ việc phải
hiểu và nắm vững quy luật vận động của
đời sống XH ta, của bản thân Đảng cho
đến hiểu biết về thế giới về thời đại.
Tổng kết thực tiễn tổng kết những cái
mới, đang hàng ngày hàng giờ nảy sinh
trong đời sống đất nước và cả thế giới
tiếp thu những thành quả trí tuệ của loài
người. Chỉ trên cơ sở ấy Đảng mới có
thể đưa ta đến đường lối chủ trương
đúng đắn tránh được những sai lầm,
khuyết điểm và làm cho đường lối chủ
trương được thực hiện thắng lợi.
Tóm laị, cội nguồn của những
đột phá tạo ra những bước tiến vượt bật
của xã hội loài người có sự đóng góp
của lý luận đích thực. Tuy nhiên, lý luận
phải gắn với thực tiễn, phải được kiểm
tra, đúc kết, khái quát từ thực tiễn thông
qua việc tổng kết thực tiễn. Chính từ
nguyên tắc tổng kết thực tiễn, khái quát
lý luận và sự vận dụng đúng quan điểm

thực tiển sẽ giúp chúng ta đạt được
những thành công trong cuộc sống,
trong suy nghĩ, hành động cũng như
trong quá trình thực hiện công cuộc đổi
mới và xây dựng đất nước
3
Câu 3: Nội dung của quy luật về sự
phù hợp của quan hệ sản xuất vời
trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Vận dụng để phân tích khuyết
điểm, yếu kém trong việc nhận thức
và vận dụng quy luật này trong thời
kỳ trước đổi mới và để phân tích
phương hướng đổi mới sau đây của
Đảng ta “Đẩy mạnh công nghiệp hóa -
hiện đại hóa
1
, xây dựng nền kinh tế
độc lập, tự chủ
2
, đưa nước ta trở
thành một nước công nghiệp, ưu tiên
phát triển lực lượng sản xuất
3
, đồng
thời xây dựng quan hệ sản xuất phù
hợp
4
theo định hướng xã hội chủ
nghĩa” (VK 9-Tr 87)

Nội dung quy luật QHSX phù hợp với
trình độ phát triển của LLSX. Sự nhận
thức và vận dụng quy luật này trong
quá trình xây dựng CNXH ở nước ta.
a- Nội dung quy luật QHSX phù
hợp với trình độ phát triển của LLSX:
- Khái niệm QHSX, LLSX:
+ Quan hệ sx được hiểu là
quan hệ kinh tế giữa người với người
trong quá trình sx vật chất. QHSX là
tổng thể thống nhất bởi 3 quan hệ: quan
hệ sở hữu, quan hệ tổ chức quản lý và
quan hệ phân phối.
+ Lực lượng sx được hiểu là sự
kết hợp giữa người lao động với TLSX
mà trước hết là công cụ lao động tạo
thành sức sản xuất xã hội.
QHSX và LLSX cùng với kiến
trúc thượng tầng là những yếu tố tạo
nên kết cấu hình thái kinh tế - xã hội.
b- Nội dung quy luật:
+ LLSX quyết định QHSX: 1)
LLSX là yếu tố động, QHSX là yếu tố
tương đối ổn định. QHSX hình thành và
phát triển dưới ảnh hưởng quyết định
của LLSX, phụ thuộc vào trình độ phát
triển của LLSX. 2) Khi trình độ LLSX
phát triển đến một mức độ nhất định nào
đó sẽ mâu thuẫn với QHSX hiện có, đòi
hỏi phải hình thành một QHSX mới phù

hợp với LLSX phát triển.
+ QHSX tác động trở lại LLSX:
1) Nếu QHSX phù hợp với trình độ phát
triển của LLSX sẽ tạo đk cho LLSX phát
triên , ngược lại, sẽ kìm hãm sự phát
triển của LLSX. 2) QHSX quy định mục
đích sx, ảnh hưởng đến thái độ lao động
của người sx ( LLSX)
b- Sự nhận thức và vận dụng quy
luật này trong quá trình xây dựng CNXH
ở nước ta.
- Trước đổi mới: (nêu trong VK
đại hội VI và Cương lĩnh 1991): Trong
nhận thức cũng như trong hành động,
những người hoạch định đường lối kinh
tế chưa nắm vững và vận dụng đúng
quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát
triển của LLSX, áp đặt chủ quan của
mình theo hướng QHSX đi trước LLSX
Cụ thể: 1) Xóa bỏ ngay nền kinh tế
nhiều thành phần . 2) Nóng vội trong cải
tạo XHCN.3) Có lúc đẩy mạnh quá mức
việc xd công nghiệp nặng. 4) Duy trì quá
lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan
liêu bao cấp. 5) Có nhiều chủ trương sai
trong cải cách giá cả, tiền tệ, tiền lương.
- Sau đổi mới: (nêu trong VK đại
hội VI đến X): Nhận thức được sai lầm
trước đó, vận dụng đúng quy luật QHSX
phù hợp với trình độ phát triển của

LLSX. Cụ thể: 1) Thừa nhận sự tồn tại
tất yếu của nền kinh tế nhiều thành phần
vận hành theo cơ chế thị trường theo
có định hướng XHCN trong thời kỳ quá
độ . 2) Phát triển LLSX hiện đại gắn với
xây dựng QHSX trên 3 mặt : sở hữu,
quản lý và phân phối. 3) Phát triển LLSX
phải thông qua CNH, HĐH gắn liền với
kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN, gắn với phát triển kinh tế tri thức.
4) Thực hiện đường lối kinh tế đối ngoại
rộng mở, hòa nhập, gắn chặt việc xd
nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế. 5) Giải phóng
mạnh mẽ và phát triển LLSX đồng thời
với phát triển nhiều thành phần kinh tế,
nhiều hình thức sở hữu.
Trả lời
Mác-Ăngghen, Lê nin luôn luôn
nhấn mạnh vai trò sản xuất vật chất xã
hội trong quá trình phát triển của nhân
loại, đặc biệt là sự phát triển của LLSX,
nhưng không bao giờ xem nhẹ vai trò
của tính tích cực của con người và kiến
trúc thượng tầng. Từ tiếp cận hiện thực
của mối quan hệ giữa đời sống vật chất
và đời sống tinh thần XH , để XH phát
triển theo quy luật tự nhiên, cần nhận
thức khách quan khoa học nguồn gốc,
động lực của sự phát triển, và nhất thiết

phải thủ tiêu mọi kìm hãm về xã hội, giai
cấp, dân tộc để động lực XH trong LLSX
luôn phát triển. Nếu chúng ta thấm
nhuần sâu sắc, biện chứng quá trình vận
động của từng HT KT-XH cũng như quá
độ của một HT KT-XH này đến một HT
KT-XH cao hơn thì chắn chắn dễ tiếp
thu việc phát triển KT nhiều thành phần
theo cơ chế thị trường, định hướng
XHCN. Vì chủ nghĩa Mác Lênin, tư
tưởng Hồ chí Minh dạy chúng ta lấy sự
phát triển LLSX, nâng cao đời sống với
nhân dân lao động làm mục đích cao
nhất, đó là quy luật, động lực phát triển
của XH Việt Nam trongf thời kỳ quá độ.
Xã hội loài người tồn tại và phát
triển theo những quy luật khách quan và
một trong những quy luật đó là quy luật
về sự phù hợp của quan hệ sản xuất vời
trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Trên cơ sở nghiên cứu, vận dụng
quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lên nin
về quy luật này trong định hướng đổi
mới, Đảng ta đã xác định : “Đẩy mạnh
công nghiệp hóa - hiện đại hóa, xây
dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đưa
nước ta trở thành một nước công
nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng
sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ
sản xuất phù hợp theo định hướng xã

hội chủ nghĩa”. Đây chính là sự vận
dụng quy luật đúng đắn về sự phù hợp
của QHSX với trình độ phát triển của
LLSX vào sự phát triển nền kinh tế ở
nước ta. Để làm rõ luận điểm trên, sau
đây chúng ta sẽ đi sâu phân tích về nội
dung của quy luật quan hệ sản xuất là
lực lượng sản xuất và sự vận dụng của
Đảng ta trong quá trình cách mạng Việt
Nam trước và sau thời kỳ đổi mới.
Theo chủ nghĩa duy vật lịch
sử khẳng định rằng : phương thức sản
xuất là cách thức con người tiến hành
sản xuất vật chất của con người trong
giai đoạn lịch sử nhất định. Phương thức
SX là chỉnh thể thống nhất bởi 2 mặt của
quá trình sản xuất vật chất : đó là lực
lượng SX và quan hệ SX.
Lực lượng sản xuất là biểu
hiện quan hệ giữa con người với tự
nhiên trong quá trình sản xuất vật chất.
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp thống
nhất giữa người lao động với tư liệu sản
xuất (trước hết là công cụ lao động) để
tạo thành sức sản xuất xã hội. Ngày nay,
khi khoa học phát triển mạnh mẽ và nó
được vận dụng nhanh chóng, rộng rãi,
trực tiếp vào trong quá trình sản xuất thì
cùng với công nghệ hiện đại nó đã trở
thành một thành tố mới trong lực lượng

sản xuất, làm thay đổi sâu sắc bộ mặt
của lực lượng sản xuất của nhân loại và
quy định nội dung mới của sức sản xuất
xã hội trong thời đại ngày nay. Chính vì
lẽ đó mà Đảng ta quan niệm “cùng với
giáo dục, đào tạo khoa học công nghệ
phải được coi là quốc sách hàng đầu “.
Quan hệ sản xuất dùng để
chỉ quan hệ kinh tế giữa người với người
trong quá trình sản xuất vật chất của xã
hội. Nó là một chỉnh thể thống nhất của 3
quan hệ : mối quan hệ giữa người với
người trong việc sở hữu đối với tư liệu
sản xuất (gọi tắt là quan hệ sở hữu),
quan hệ giữa người với người trong việc
tổ chức quản lý sản xuất vào trao đổi
cho nhau trong sản xuất (gọi tắt là quan
hệ quản lý), quan hệ giữa người với
người trong việc phân phối sản phẩm xã
hội (gọi tắt là quan hệ phân phối). Trong
chỉnh thể quan hệ sản xuất, quan hệ sở
hữu giữ vai trò quyết định đối với các
quan hệ khác, nó chính là mặt pháp lý
của quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ
quản lý và phân phối cũng rất quan
trọng, vai trò của nó biểu hiện ở chỗ nó
có thể củng cố quan hệ sở hữu nhưng
cũng có thể làm xói mòn, đổ vỡ quan hệ
sở hữu. Vì vậy, nhận thức quan hệ sản
xuất trong quan hệ với lực lượng sản

xuất phải thấy rõ tính chỉnh thể của nó,
không được có quan điểm thiếu đồng
bộ.
Khi chủ nghĩa duy vật lịch sử
khẳng định rằng : phương thức sản xuất
là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát
triển của xã hội thi điều đó có nghĩa là
phải nhận thức sự tác động biện chứng
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ SX.
Mối quan hệ cơ bản và biện chứng giữa
2 yếu tố này hình thành nên quy luật
kinh tế - xã hội tất yếu, phổ biến, quyết
định sự vận động và phát triển của các
hình thái kinh tế - xã hội. Đó là quy luật
“về sự phù hợp của quan hệ sản xuất
với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất
Quy luật về sự phù hợp của
QHSX với trình độ phát triển của LLSX
thể hiện trước hết ở vai trò quyết định
của LLSX đối với QHSX. Điều này thể
hiện qua việc lực lượng sản xuất ở trình
độ và tính chất nào thì nó yêu cầu tất
yếu một kiểu quan hệ sản xuất thích ứng
phù hợp với nó mà không đòi hỏi cao
hơn hoặc thấp hơn nó. Mối quan hệ sản
xuất chỉ tồn tại chỉ hình thành và tồn tại
trên cơ sở một lực lượng sản xuất nhất
định và chịu sự quyết định của lực lượng
sản xuất ấy. Điều đó cũng có nghĩa là

quan hệ quan hệ sản xuất mang tính
khách quan, do vậy, con người không có
quyền tự do lựa chọn quan hệ sản xuất
theo ý muốn chủ quan của mình.Ví dụ :
nếu lực lượng sản xuất ở trình độ thủ
công thì nó chỉ đòi hỏi quan hệ sản xuất
cá thể, tư hữu, tự cung tự cấp, tự quản
lý theo sản xuất nhỏ. Nhưng nếu lực
lượng sản xuất ở trình độ cơ khí hóa,
tính chất xã hội hóa cao (do dây chuyền
công nghệ khép kín, có sự chuyên môn
hóa cao) thì nó đòi hỏi tất nhiên phải có
hình thức quan hệ sản xuất mang tính xã
hội hóa cao thì quá trình sản xuất mới
trôi chảy được. đương nhiên là quan hệ
SX có đáp ứng đúng đòi hỏi của lực
lượng sản xuất hay không thì còn do
nhiều nguyên nhân từ phía bản thân của
quan hệ sản xuất.
Ở đây cần hiểu rằng xác
định lực lượng sản xuất ở trình độ nào
để xem xét quan hệ sản xuất phù hợp
với nó chỉ là tương đối và lực lượng sản
xuất luôn ở trạng thái vận động phát
triển liên tục. Trong thực tiễn sản xuất
thường không xuất hiện sự không trùng
khớp giữa đòi hỏi của lực lượng sản
xuất và sự đáp ứng của quan hệ sản
xuất, điều đó là do sự can thiệp của chủ
thể trái với tính tất yếu kinh tế. Song tính

tất yếu kinh tế bao giờ cũng tự vạch
đường đi cho mình, do đó con người
phải biết phát hiện và giải quyết những
xung đột đó để đưa sản xuất phát triển
tiến lên.
Mặt khác, trong sự vận động
biến đổi không ngừng của sản xuất vật
chất, lực lượng sản xuất là yếu tố biến
đổi trước, , vừa mang tính cách mạng,
vừa mang tính chất kế tục lịch sử, năng
động hơn quan hệ sản xuất do phải thỏa
mãn nhu cầu ngày càng cao và tiên tục
của con người. Sự phát triển của lực
lượng sản xuất đòi hỏi quan hệ sản xuất
cũng phải biến đổi phát triển theo để phù
hợp với trình độ mới của lực lượng sản
xuất. Mỗi khi xuất hiện quan hệ sản xuất
mới phù hợp với lực lượng sản xuất thì
cũng có nghĩa là phương thức sản xuất
mới ra đời thay thế cho phương thức
sản xuất cũ, thúc đẩy xã hội tiến lên 1
bước cao hơn. Ăng Ghen đã từng khẳng
định “Suy đến cùng thì mọi sự biến đổi
từ chế độ chiếm hữu này sang chế độ
chiếm hữu khác đều là kết quả tất yếu
của việc tạo nên những lực lượng sản
xuất mới”. Mác cũng khẳng định “do có
được những lực lượng sản xuất mới,
loài người thay đổi phương thức sản
xuất của mình và do thay đổi phương

thức sản xuất cách kiếm sống của mình,
loài người thay đổi tất cả các quan hệ xã
hội của mình.
Ngày nay, trên thế giới khi
mà lực lượng sản xuất đã mang tính
quốc tế rộng lớn và sâu sắc thì tất yếu
đòi hỏi trong quan hệ kinh tế quốc tế
giữa các quốc gia, dân tộc cũng phải
phát triển theo xu hướng đó. Việc hình
thành các khối liên kết kinh tế quốc tế và
khu vực, các hình thức công tất yếu đa
quốc gia, xuyên quốc gia hay việc điều
chỉnh ở những phạm vi, mức độ nhất
định của quan hệ sản xuất trong các
nước tư bản phát triển đều thể hiện
đúng yêu cầu của quy luật quan hệ SX
phù hợp với trình độ của lực lượng SX
trong điều kiện quốc tế hiện nay.
Mặc dù khẳng định lực lượng
sản xuất là yếu tố quyết định đối với
quan hệ SX, Triết học Mác Lênin cũng
chỉ ra rằng quan hệ SX không hoàn toàn
phụ thuộc một cách thụ động vào lực
lượng SX, nó có vai trò độc lập tương
đối trong sự tác động trở lại lực lượng
SX. Sự tác động của quan hệ SX đối với
lực lượng SX diễn ra theo 2 hướng : phù
hợp hoặc không phù hợp, điều này do
quan hệ SX mang tính ổn định tương đối
và biến đổi chậm hơn so với lực lượng

SX, mặt khác còn do trình độ năng lực
của chủ thể SX, do quan hệ lịch sử giai
cấp chi phối
Sự tác động của quan hệ SX
gọi là phù hợp với lực lượng SX nghĩa là
quan hệ sản xuất sau khi hình thành và
tồn tại, nó đáp ứng đúng đòi hỏi tất yếu
của lực lượng sản xuất và sau đó nó có
vai trò tạo ra sự liên kết, kết hợp có hiệu
quả hơn giữa các yếu tố cấu thành lực
lượng sản xuất, làm cho tất cả các yếu
tố ấy phát huy tất cả tiềm năng, sức
mạnh vốn có của nó, nhờ vậy tiềm năng
của người lao động và tư liệu SX được
khai thác tốt hơn, tạo ra năng suất lao
động cao hơn. Với ý nghĩa đó, quan hệ
sản xuất là hình thức phát triển, là địa
bàn rộng lớn, là động lực phát triển thúc
đẩy sự phát triển của lực lượng sản
xuất.
Ngược lại, nếu quan hệ SX
tác động không phù hợp với đòi hỏi tất
yếu của lực lượng sản xuất thì nó sẽ kìm
hãm, phá hoại sự phát triển của lực
lượng sản xuất dẫn đến những hậu quả
kinh tế xã hội nghiêm trọng. Biểu hiện
của sự không phù hợp thể hiện ở 2 khía
cạnh : một là khi quan hệ sản xuất đã lỗi
thời, lạc hậu so với trình độ mới của lực
lượng sản xuất, hai là trường hợp chú

thể dùng ý chí chủ quan của mình áp đặt
một “mô hình” quan hệ sản xuất”, “cao
hơn” trình độ lực lượng sản xuất. Cả 2
trường hợp này đều kìm hãm sự phát
triển của lực lượng sản xuất, nhưng
không có nghĩa là lực lượng sản xuất
đứng im tại chổ với lực lượng SX thì nó
sẽ kìm hãm, thậm chí phá hoại đối với
lực lượng sản xuất. Tình hình đó làm
cho SX có thể bị đình đốn, có khi dẫn
đến khủng hoảng KT-XH nghiêm trọng
Tóm lại, thực chất của quy
luật là lưc lượng sản xuất đòi hỏi quan
hệ SX phải luôn phù hợp với tính chất và
trình độ của LLSX. Song do nhiều yếu tố
bản thân quan hệ SX chi phối cho nên
QHSX phù hợp hoặc không phù hợp với
LLSX. Do vậy, hiểu phù hợp ở đây là
bao trùm mâu thuẫn, sự giải quyết mâu
thuẫn giữa LLSX và QHSX là thường
xuyên và theo yêu cầu phù hợp, thúc
đẩy LLSX phát triển : đó chính là nguồn
động lực của sự phát triển phương thức
SX, các hình thái KT-XH.
4
Đảng ta đã nhận thức và vận
dụng quy luật này như thế nào ? Ở đây
chúng ta có thể tóm tắt thành 2 thời kỳ
lớn : thời kỳ trước Đại hội 6 (Đại hội đổi
mới toàn diện của Đảng) và thời kỳ sau

Đại hội 6 đến nay
Trong thời kỳ trước Đại hội 6,
Đảng ta đã có những sai lầm thiếu sót
trong việc nhận thức và vận dụng quy
luật XH, đặc biệt là sai lầm trong việc
nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ
SX phù hợp với trình độ của lực lượng
SX.
Những sai lầm thiếu sót ấy
được biểu hiện tập trung trong quan
điểm chỉ đạo và chính sách cải tạo quan
hệ SX cũ, xây dựng quan hệ SX mới. Do
nóng vội, nhận thức chưa đúng quy luật
khách quan, Đảng ta đã sai lầm khi cho
rằng đối với một nước lạc hậu, trình độ
lực lượng sản xuất còn thấp như nước
ta để tiến lên chủ nghĩa xã hội thì QHSX
XHCN tiên tiến có thể đi trước mở
đường cho LLSX lạc hậu phát triển
nhanh lên hiện đại. Từ nhận thức sai lầm
này, thực tế đường lối chính sách của
Đảng và Nhà nước ta giai đoạn này chỉ
chú ý đến việc xây dựng quan hệ SX
mới mà không quan tâm đến việc phát
triển lực lượng sản xuất, do đó đã kéo
dài quá lâu trình độ SX thấp, thủ công,
đầu tư công nghiệp nặng không đúng
hướng, đầu tư dàn đều, tràn lan, không
chú ý đầu tư chiều sâu mà chỉ đầu tư
chiều rộng, không phát huy tiềm năng

vốn có về tư liệu sản xuất (đất đai), lợi
thế tự nhiên từng vùng … lực lượng sản
xuất đặc thù (đa thành phần), phương
thức sản xuất vẫn ở trình độ thủ công,
cơ cấu tỷ trọng nông nghiệp trong GDP
còn cao, không phát huy và khôi phục
ngành nghề truyền thống
Trong quan hệ sản xuất,
Đảng và Nhà nước ta đã đưa QHSX lên
quá cao so với trình độ lạc hậu của
LLSX ở nước ta làm cho LLSX không
phát triển được và SX bị đình trệ. Văn
kiện Đại hội VI đánh giá như sau: “Trong
nhận thức cũng như hành động, chúng
ta chưa thật sự thừa nhận cơ cấu KT
nhiều thành phần ở nước ta còn tồn tại
trong một thời gian tương đối dài nên đã
nóng vội muốn nhanh chóng xóa bỏ KT
tư bản tư nhân, KT cá thể để sớm có
KT XHCN chiếm ưu thế tuyệt đối. Việc
xác lập quan hệ SX còn không đồng bộ
và có yếu tố đẩy quá xa, vượt lên trên
trình độ của LLSX thể hiện ở chỗ : không
đồng bộ trong các ngành, trong cơ cấu
kinh tế, trong bản thân 3 mặt của quan
hệ SX. Trong việc tổ chức hình thức sản
xuất, chúng ta đã có xu hướng tổ chức
quá nhanh mô hình sản xuất, tập đoàn,
hợp tác xã … với quy mô lớn mà không
tính đến khả năng trang bị kỹ thuật, trình

độ quản lý và năng lực của cán bộ. “Về
nội dung cải tạo, thường nhấn mạnh việc
thay đổi quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất mà không coi trọng giải quyết các
vấn đề tổ chức quản lý và chế độ phân
phối”. Mặt khác chúng ta cũng không
thừa nhận nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần trong thời kỳ quá độ. Do đó
không chấp nhận kinh tế thị trường, đa
dạng hoá hình thức sở hữu, quản lý
phân phối. Không thấy được đòi hỏi của
lực lượng SX đang ở trong tình trạng
đan xen những trình độ, tính chất khác
nhau để mà xác lập quan hệ SX. Bỏ qua
tư bản chủ nghĩa nhưng lại không thấy
tính chất quá độ là đan xen tồn tại lâu
dài của cả lực lượng SX, quan hệ SX và
kiến trúc thượng tầng. Một sai lầm thiếu
sót khác là ta đã duy trì quá lâu cơ chế
quản lý kinh tế quan liêu bao cấp vào
quan hệ SX vốn đã xác lập không phù
hợp với lực lượng SX, do đó cơ chế này
đã làm ngưng động tính sáng tạo của
người lao động, kìm hãm LLSX và đã coi
thường tính tất yếu kinh tế của SX nhỏ
đang chuyển sang SX lớn, nghĩa là
thông qua SX hàng hoá thị trường mới đi
lên được
Cương lĩnh xây dựng đất
nước đã nêu rõ : “Trong cách mạng

XHCN Đảng ta đã có nhiều cố gắng
nghiên cứu, tìm tòi, xây dựng đường lối
xác định đúng mục tiêu và phương
hướng XHCN. Nhưng Đảng đã phạm sai
lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật
khách quan, nóng vội cải tạo XHCN, xóa
bỏ ngay nền KT nhiều thành phần, có lúc
đẩy mạnh quá mức việc xây dựng công
nghiệp nặng, duy trì quá lâu, cơ chế
quản lý KT tập trung quan liêu bao cấp,
có nhiều chủ trương sai trong việc cải
cách giá cả, tiền tệ, tiền lương. Công tác
tư tưởng và tổ chức các bộ phạm nhiều
khuyết điểm nghiêm trọng”.
Từ những sai lầm đó đã dẫn
đến khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm
trọng, lạm phát đạt đến mức khủng khiếp
774% (những năm 80) sản xuất bị đình
trệ. Qua thực tiễn cuộc sống, Đảng ta đã
rút ra được những bài học thấm thía là
không thể nóng vội, làm trái với quy luật
khách quan.
Để khắc phục những sai lầm
trên và vận dụng hiệu quả quy luật này,
Đại hội 6 của Đảng đã đề xuất quan
điểm đổi mới toàn diện, trong đó đặc biệt
chú ý đổi mới nhận thức và vận dụng
các quy luật khách quan, trong đó quy
luật quan hệ SX phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng SX. Quan điểm

ấy đã được ĐH IX tiếp tục khẳng định
“Đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại
hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự
chủ, đưa nước ta trở thành một nước
công nghiệp, ưu tiên phát triển lực
lượng sản xuất, đồng thời xây dựng
quan hệ sản xuất phù hợp theo định
hướng xã hội chủ nghĩa” (VK 9-Tr 87)
Như vậy, từ Đại hội VI đến
nay, Đảng đã căn cứ vào thực trạng lực
lượng sản xuất hiện có của đất nước ta
đối chiếu với lý luận quan hệ sản xuất và
lực lượng sản xuất để xây dựng chế độ
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
lực lượng sản xuất ở nước ta. Thực tiễn
cho thấy hệ thống trình độ lực lượng sản
xuất nước ta nhìn chung còn thấp, sản
xuất nhỏ ở nước ta còn phổ biến. Do đó
để bắt đầu xây dựng một chế độ xã hội
mới nhất thiết bắt đầu từ việc đẩy mạnh
lực lượng sản xuất phát triển trước rồi
sau đó mới phát triển quan hệ sản xuất
theo sự phát triển của lực lượng sản
xuất, tuy nhiên chúng ta không chờ quan
hệ sản xuất phát triển một cách tự nhiên
mà tạo điều kiện cho ra đời quan hệ sản
xuất mới phù hợp
Cái thiếu lớn nhất của đất
nước ta kề từ khi bước vào thời kỳ quá
độ hiện nay là thiếu một lực lượng SX

phát triển, hiện đại, đủ đảm bảo cho nền
kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững.
Việc phát triển lực lượng SX chỉ có thế
thực hiện được khi chúng ta tăng cường
tính khoa học và hiện đại vào trong lực
lượng sản xuất hiện tại, vì vậy Đảng đã
chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa
hiện đại hóa và xem đây là trọng tâm
của suốt thời kỳ quá độ. Bởi vì CNH
thực chất là xây dựng cơ sở vật chất - kỹ
thuật cho CNXH, đó là quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế gắn đổi mới căn bản
về công nghệ, chuyển từ nền SX nhỏ thủ
công sang nền SX lớn có trình độ
chuyên môn hóa và công nghiệp hóa
cao, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng
nhanh, hiệu quả và lâu bền cho nền KT
quốc dân. Với con đường CNH-HĐH đất
nước và chính sách mở cửa về đối
ngoại, chúng ta có thể tận dụng mọi khả
năng để tiếp cận, học tập những thành
tựu trên thế giới nhằm đạt được trình độ
tiên tiến, hiện đại về khoa học và công
nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và
công nghệ sinh học, từng bước phát
triển nền kinh tế tri thức. Văn kiện Đại
hội Đảng lần 9 cũng đã chỉ rõ nước ta
đang từng bước xây dựng và phát triển
nền kinh tế tri thức : ”Phát huy những lợi
thế của đất nước, tận dụng mọi khả

năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến,
đặc biệt là nghệ công nghệ thông tin và
công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng
ngày càng nhiều hơn, ở mức độ cao hơn
và phổ biến hơn những thành tựu mới
về khoa học và công nghệ, từng bước
phát triển kinh tế trí thức” Trang 91 – VK
ĐH Đảng lần IX). Việc phát huy nguồn
lực trí tuê và sức mạnh của lực lượng
SX được thực hiện song song với việc
coi trọng phát triển giáo dục, đào tạo,
khoa học và công nghệ xem đây là nền
tảng và là động lực cho sự nghiệp CNH-
HĐH đất nước.
Song song đó, do toàn cầu
hóa kinh tế đang là xu thế tất yếu trong
điều kiện của cuộc Cách mạng hiện đại
ngày nay nên Đảng đã xác định phải kết
hợp chặt chẽ việc chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế, mà mục tiêu trước mắt là
hội nhập APTA và là thành viên chính
thức của WTO với việc xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ theo những
phương hướng “độc lập, tự chủ về
đường lối, chính sách, đồng thời có
tiềm lực kinh tế đủ mạnh, có mức tích
lũy ngày càng cao với .từ nội bộ nền
kinh tế; có cơ cấu kinh tế hợp lý, có
sức cạnh tranh, kết cấu hạ tầng ngày
càng hiện đại và có một ngành công

nghiệp nặng then chốt, có năng lực
nội sinh về KH-CN ”
Về quan hệ SX. Đại hội VII
đã nêu : để phù hợp với sự phát triển
của LLSX, chúng ta phải thiết lập từng
bước quan hệ SX XHCN từ thấp đến
cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu,
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần theo định hướng XHCN, vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước. Đại hội VIII của Đảng
đã đề ra chủ trương : “Nếu CNH, HĐH
tạo nên LLSX cần thiết cho chế độ XH
mới thì việc phát triển nền KT nhiều
thành phần chính là để xây dựng hệ
thống QHSX phù hợp”. Các văn kiện Đại
hội Đảng cũng đã khẳng định các thành
phần kinh tế là những bộ phận cấu thành
phần kinh tế thống nhất, được phát triển
lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh
với nhau. Trong xu hướng vận động
chung, thành phần kinh tế Nhà nước
phải giữ vai trò chủ đạo, hỗ trợ các
thành phần kinh tế khác phát triển. Chủ
trương này đã khơi dậy tiềm năng SX ,
khơi dậy năng lực sáng tạo, chủ động
của các chủ thể lao động trong sản xuất
kinh doanh, thúc đẩy SX phát triển. Văn
kiện ĐH IX còn xác định “Phát triển
LLSX hiện đại gắn liền với xây dựng

QHSX mới phù hợp cả 3 mặt sở hữu,
quản lý và phân phối”. Đảng ta đã thừa
nhận sự tồn tại của nhiều hình thức sở
hữu và các loại hình tổ chức kinh tế gắn
liền với các hình thức sở hữu đó do lịch
sử để lại, phù hợp với từng thành phần
kinh tế. Về quản lý văn kiện Đại hội VI và
Đại hội IX cũng đã nêu chính sách phát
triển nền kinh tế thị trường theo định
hướng XHCN có sự quản lý của Nhà
nước là mô hình kinh tế tổng quát trong
thời kỳ quá độ. Việc quản lý nền kinh tế
của Nhà nước phải bằng pháp luật,
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính
sách và sử dụng cơ chế thị trường. Về
phân phối, Đại hội IX cũng đã nhấn
mạnh “thực hiện phân phối chủ yếu theo
kết quả lao động và hiệu quả kinh tế,
đồng thời phân phối theo mức đóng góp
vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất
kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội.
Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo
đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước phát triển”
Tóm lại, nhận thức và vận
dụng đúng đắn quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ của lực lượng
sản xuất cùng các hệ thống, các quy luật
KT-XH khác của nền kinh tế hàng hoá thị
trường dưới sự lãnh đạo của Đảng,

quản lý Nhà nước theo định hướng
XHCN, nhất định chúng ta sẽ thực hiện
được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, XH
công bằng, dân chủ văn minh. Những
thành tựu to lớn mà chúng ta đã đạt
được sau gần 19 năm đổi mới là những
minh chứng xác thực nhất cho điều đó.
5
Câu 4. Mối quan hệ biện chứng giữa
tồn tại xã hội và ý thức xã hội, vận
dụng để phân tích phương hướng đổi
mới sau đây của Đảng ta “Tăng
trưởng kinh tế đi lên gắn liền với phát
triển văn hóa, từng bước cải thiện đời
sống vật chất và tinh thần của nhân
dân, thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường
xã hội” (Văn kiện ĐH IX, trang 89)
Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại
xã hội và ý thức xã hội. Ý nghĩa
phương pháp luận của vấn đề trên.
a- Mối quan hệ biện chứng giữa
tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
- Tồn tại XH ( TTXH): là phạm trù
chỉ toàn bộ đời sống vật chất và những
điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.
TTXH bao gồm 3 yếu tố: PTSX vật chất,
điều kiện tự nhiên- hoàn cảnh địa lý, dân
số và mật độ dân cư. Trong 3 yếu tố
trên, PTSX vật chất là yếu tố quyết

định.
- Ý thức XH ( YTXH): là mặt tinh
thần của đời sống XH, bao gồm những
quan điểm , tư tưởng cùng những tình
cảm, tâm trạng nảy sinh trong TTXH
và phản ánh TTXH trong những giai
đoạn phát triển lịch sử nhất định.
- Quan hệ biện chứng giữa
TTXH và YTXH:
+ Tồn tại XH quyết định ý thức
XH: 1) TTXH nào thì YTXH ấy; 2) Khi
TTXH thay đổi ( nhất là PTSX) thì những
tư tưởng, tình cảm, tâm trạng ( YTXH)
sớm muộn cũng thay đổi theo.
+ Ý thức XH có tính độc lập tương
đối: 1) YTXH thường lạc hậu so với tồn
tại XH do nó không phản ánh kịp TTXH
nhưng YTXH có thể vượt trước TTXH
khi nó phản ánh đúng quy luật khách
quan của TTXH ( dự báo được trạng thái
, xu hướng vận động phát triển); 2)
YTXH tác động trở lại TTXH theo hai
hướng: hướng tích cực ( ý tưởng khoa
học và tiến bộ) - thúc đẩy TTXH phát
triển ; hướng tiêu cực ( ý tưởng không
khoa học, không tiến bộ) - kìm hãm sự
phát triển của TTXH.
Sự tác động trở lại này tùy thuộc
vào : tính đúng đắn- khách quan , mức
độ thâm nhập của YTXH vào TTXH,

mức độ vận dụng đúng đắn, sáng tạo
YTXH của chủ thể quản lý XH.
b- Ý nghĩa phương pháp luận:
- Khi nghiên cứu giải quyết các
hiện tượng YTXH , trước hết phải xuất
phát từ CSVC, cơ sở kinh tế đã sản sinh
ra nó, đồng thời phải xem xét tính độc
lập tương đối của YTXH, thấy được vai
trò tác động của những ý tưởng khoa
học tiên tiến (Muốn phát triển YTXH của
chế độ XHCN, về lâu dài phải phát triển
cơ sở vật chất , cơ sở kinh tế của nó).
- Phải thấy được tầm quan trọng
và ý nghĩa của YTXH đối với quá trình
hình thành nền văn hóa mới và con
người mới.Phải kết hợp chặt chẽ giữa
tăng trưởng kinh tế với phát triển văn
hóa- giáo dục, làm cho chủ nghĩa Mác -
Lênin, TT. Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ
đạo trong đời sống tinh thần của nhân
dân.
( Xem thêm Đề cương bài giảng trang
347- 350, Văn kiện đại hội X
trang 213 - 214 để trả lời câu
hỏi thêm về vận dụng vào thực
tiễn Việt Nam - Phần trình bày
thêm khi được hỏi! )
Bài làm
Mác-Ăngghen, Lê nin luôn luôn
nhấn mạnh vai trò sản xuất vật chất xã

hội trong quá trình phát triển của nhân
loại, đặc biệt là sự phát triển của LLSX,
nhưng không bao giờ xem nhẹ vai trò
của tính tích cực của con người và kiến
trúc thượng tầng. Từ tiếp cận hiện thực
của mối quan hệ giữa đời sống vật chất
và đời sống tinh thần XH , để XH phát
triển theo quy luật tự nhiên, cần nhận
thức khách quan khoa học nguồn gốc,
động lực của sự phát triển, và nhất thiết
phải thủ tiêu mọi kìm hãm về xã hội, giai
cấp, dân tộc để động lực XH trong LLSX
luôn phát triển. Nếu chúng ta thấm
nhuần sâu sắc, biện chứng quá trình vận
động của từng HT KT-XH cũng như quá
độ của một HT KT-XH này đến một HT
KT-XH cao hơn thì chắn chắn dễ tiếp
thu việc phát triển KT nhiều thành phần
theo cơ chế thị trường, định hướng
XHCN. Vì chủ nghĩa Mác Lênin, tư
tưởng Hồ chí Minh dạy chúng ta lấy sự
phát triển LLSX, nâng cao đời sống với
nhân dân lao động làm mục đích cao
nhất, đó là quy luật, động lực phát triển
của XH Việt Nam trongf thời kỳ quá độ.
Xã hội loài người tồn tại và phát
triển theo những quy luật khách quan và
những quy luật đó được thực hiện thông
qua hoạt động có ý thức của con người.
Do đó, nhận thức đúng đắn bản chất của

ý thức xã hội và sự chuyển hóa từ tư
tưởng thành hiện thực trong đời sống xã
hội có ý nghĩa rất quan trọng để hiểu lịch
sử xã hội loài người. Trên cơ sở nghiên
cứu, vận dụng mối quan hệ biện chứng
giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong
phương hướng đổi mới đất nước, Đảng
ta đã khẳng định “Tăng trưởng kinh tế
đi lên gắn liền với phát triển văn hóa,
từng bước cải thiện đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ
và cải thiện môi trường xã hội”.
Tồn tại xã hội là đời sống (sinh
hoạt) vật chất của xã hội cùng toàn bộ
những điều kiện sinh hoạt vật chất của
xã hội. Trước hết sinh hoạt vật chất của
xã hội phương thức sản xuất (bao gồm
lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất). Sinh hoạt vật chất của xã hội còn
bao gồm những sinh hoạt vật chất khác
như : trao đổi, tiêu dùng hàng ngày, kế
thừa tài sản Điều kiện sinh hoạt vật
chất của xã hội bao gồm : điều kiện tự
nhiên xung quanh, hoàn cảnh địa lý, dân
số và mật độ dân số … Trong các yếu tố
cấu thành nên tồn tại xã hội, phương
thức SX là nhân tố cơ bản vì nó có ảnh
hưởng quyết định đến sự biến đổi của ý
thức xã hội và nó làm thay đổi ý nghĩa

của hoàn cảnh địa lý và điều kiện dân số
trong sự phát triển của xã hội.
Ý thức xã hội là mặt tinh thần
của đời sống xã hội bao gồm toàn bộ
những quan điểm tư tưởng lý luận cùng
những tình cảm, tâm trạng, mong muốn,
truyền thống … phản ánh tồn tại xã hội
trong những giai đoạn phát triển lịch sử
xã hội nhất định.
Căn cứ vào trình độ nhận thức,
có thể phân ý thức xã hội thành ý thức
xã hội thông thường và ý thức lý luận (ý
thức lý luận làm gia tăng yếu tố khoa
học, trí tuệ của ý thức thông thường).
Nói cách khác, ý thức xã hội biểu hiện
qua tâm lý xã hội và hệ tư tưởng.
Trong xã hội có giai cấp, các
giai cấp có những điều kiện sinh hoạt vật
chất khác nhau, những lợi ích khác nhau
do địa vị xã hội của mỗi giai cấp quy định
nên ý thức xã hội cũng có tính giai cấp,
nghĩa là mỗi giai cấp đều có những quan
điểm, tư tưởng và tâm lý riêng, không có
ý thức chung cho mọi giai cấp mà chỉ có
ý thức chung cho một giai cấp nhất định.
Hệ tư tưởng thống trị trong mỗi thời đại
là hệ tư tưởng của giai cấp thống trị về
kinh tế. Giai cấp thống trị luôn tìm cách
hạn chế ý thức của giai cấp bị trị và
truyền bá ý thức của giai cấp hình thành

của xã hội.
Khi nghiên cứu về ý thức xã
hội, chủ nghĩa duy vật lịch sử đã đặt ý
thức xã hội trong quan hệ với cơ sở vật
chất, với cơ sở kinh tế để nghiên cứu và
từ đó khẳng định ý thức xã hội và tồn tại
xã hội có quan hệ biện chứng với nhau.
Trong mối quan hệ đó tồn tại xã
hội giữ vai trò quyết định đến nội dung,
khuynh hướng phát triển của ý thức xã
hội, ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn
tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Ý
thức xã hội do tồn tại xã hội sinh ra, nội
dung của nó là kết quả của sự phản ánh
tồn tại xã hội. Khi tồn tại xã hội tác động
đến nhận thức của chủ thể thì hình
thành những quan điểm, tư tưởng, nhận
định và thái độ của chủ thể. Sự phản
ánh của ý thức xã hội bao giờ cũng
xuyên qua một mắt khâu là lợi ích, trong
xã hội có giai cấp đó là lợi ích của giai
cấp. Do đó xem xét nội dung của ý thức
xã hội phải gắn chặt chẽ với quan hệ lợi
ích. Mặt khác, ý thức xã hội là sự phản
ánh tồn tại xã hội nhưng không phải bất
cứ tư tưởng nào, một hình thức ý thức
xã hội nào cũng phản ánh rõ ràng và
trực tiếp các quan hệ kinh tế của thời đại
mà nó có thể là phản ánh trực tiếp hoặc
gián tiếp qua khâu trung gian, nhưng xét

đến cùng bằng cách này hay cách khác
nó vẫn phản ánh các quan hệ kinh tế
của thời đại. Tính quyết định của tồn tại
xã hội đối với ý thức xã hội còn thể hiện
khi tồn tại xã hội - nhất là phương thức
sản xuất - biến đổi thì ý thức xã hội
(những tư tưởng và lý luận xã hội,
những quan điểm về chính trị, pháp
quyền, triết học, đạo đức, văn hóa, nghệ
thuật …) sớm muộn sẽ biến đổi theo.
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh các thời
đại khác nhau có những tư tưởng khác
nhau đều bắt nguồn từ sự khác nhau
của cơ sở kinh tế và sự thay đổi, phát
triển của ý thức xã hội trước hết là xuất
phát từ sự thay đổi và phát triển của
phương thức sản xuất.
Khi khẳng định vai trò quyết
định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã
hội, chủ nghĩa duy vật lịch sử không xem
ý thức xã hội như là một yếu tố thụ động
trái lại còn nhấn mạnh tác động tích cực,
sáng tạo của ý thức xã hội đối với đời
sống kinh tế xã hội, nhấn mạnh tính độc
lập tương đối của ý thức xã hội, nghĩa là
tuy bị tồn tại xã hội quy định nhưng ý
thức xã hội lại vừa có tính quy luật, lôgíc
phát triển riêng. Sự thống nhất giữa
chức năng phản ánh và chức năng sáng
tạo tích cực của ý thức xã hội đối với tồn

tại xã hội biểu hiện ở chổ ý thức xã hội
vừa vượt trước vừa lạc hậu so với sự
phát triển của tồn tại xã hội.
Sự lạc hậu của ý thức xã hội
thường xảy ra khi ý thức xã hội không
phản ánh kịp thời sự vận động, phát
triển của đời sống xã hội bởi vì ý thức xã
hội chí là cái phản ánh được sinh ra từ
tồn tại xã hội, còn tồn tại xã hội thì gắn
trực tiếp với hoạt động thực tiễn nên
thường biến đổi nhanh hơn. Sự lạc hậu
của ý thức xã hội còn thể hiện ở những
tư tưởng và đặc biệt là tâm lý của xã hội
của xã hội cũ còn rơi rớt lại vẫn tồn tại
dai dẳng sau khi tồn tại xã hội đã thay
đổi, bởi vì những tư tưởng, tâm lý một
khi đã ăn sâu vào đời sống xã hội và trở
thành lối sống, nếp nghĩ phong tục, tập
quán, thói quen thì nó có tính ổn định
tương đối và tồn tại lâu hơn, không dễ
mất đi ngay. Mặt khác, các giai cấp lỗi
thời, phản động cũng tìm cách duy trì
những tư tưởng cũa nhằm phục vụ lợi
ích của chúng, như lối sống ăn bám,
chây lười lao động, tệ nạn tham nhũng
… Lê nin nói rằng: “Một người bệnh chết
đi ta có thể đem chôn cùng với căn bệnh
nhưng một xã hội mất đi ta không thể
đem chôn cùng những căn bệnh của nó
được mà những căn bệnh này rữa ra

xâm nhập vào những con người đang
sống”
Những hiện tượng ý thức lạc
hậu tiêu cực không mất đi dễ dàng cho
nên sự nghiệp xây dựng xã hội mới phải
thường xuyên tăng cường công tác tư
tưởng xây dựng ý thức xã hội mới (cách
mạng tư tưởng) đấu tranh chống lại
những âm mưu và hành động phá hoại
của những lực lượng thù địch về mặt tư
tưởng, kiên trì xóa bỏ những tàn dư ý
thức cũ đồng thời ra sức phát huy những
truyền thống tư tưởng tốt đẹp.
Khi khẳng định tính lạc hậu hơn
của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội,
triết học Mác đồng thời cũng thừa nhận
rằng trong những điều kiện vật chất nhất
định, tư tưởng của con người đặc biệt
những tư tưởng khoa học tiên tiến có
thể vượt trước sự phát triển của tồn tại
xã hội, phản ánh đúng quy luật vận động
và phát triển của tồn tại xã hội. Từ đó nó
đưa ra các dự báo tương lai một cách
khoa học, giúp con người xác định được
mục tiêu và lựa chọn những giải pháp,
định hướng cho việc tổ chức chỉ đạo
hoạt động thực tiễn của con người để
đạt được mục tiêu đó. Tuy nhiên khi nói
tư tưởng tiên tiến có thể vượt trước tồn
tại xã hội, dự kiến được quá trình khách

quan của sự phát triển xã hội thì không
có nghĩa là trong trường hợp này ý thức
xã hội không còn bị tồn tại xã hội quyết
định nữa. Tư tưởng khoa học tiên tiến
không thoát ly tồn tại xã hội mà phản
ánh chính xác, sâu sắc mối quan hệ tất
yếu, bản chất của tồn tại xã hội.
Ý thức xã hội của một thời đại
bao giờ cũng phản ánh đời sống vật chất
của thời đại đó, đồng thời là sự kế thừa
của những giá trị tinh thần mà các thế hệ
trước đó tích lũy được. Quan hệ kế thừa
nói lên sự phát triển liên tục về tư duy
giữa các thế hệ, tuy nhiên nó không phải
là việc sử dụng kế thừa máy móc mà
trên cơ sở “lọc bỏ”. Kế thừa và lọc bỏ là
biện chứng của sự phát triển của ý thức
xã hội, nội dung kế thừa hoặc lọc bỏ
xuất phát từ quan hệ về lợi ích và nhu
cầu của giai cấp chi phối. Những giai
cấp khác nhau kế thừa những nội dung ý
thức khác nhau của các thời đại trước.
Vì vậy, khi tiến hành cuộc đấu tranh giai
cấp trên lĩnh vực ý thức thì không những
phải vạch ra tính chất phản khoa học,
phản tiến bộ của những trào lưu tư
tưởng phản động trong điều kiện hiện tại
mà còn phải chỉ ra những nguồn gốc lý
luận của chúng trong lịch sử và phải kế
thừa, phát huy những giá trị tinh thần

tiến bộ của dân tộc và nhân loại. Tuy
nhiên, xét đến cùng thì tồn tại xã hội vẫn
quyết định nội dung và khuynh hướng
của sự kế thừa.
Trong quá trình phản ánh hiện
thực, mỗi hình thái ý thức xã hội đều
phản ánh tồn tại xã hội với những đặc
trưng riêng và giữ chức năng xã hội
khác nhau, không thể thay thế cho nhau
nhưng lại tồn tại trong sự liên hệ tác
động xâm nhập vào nhau, làm cho mỗi
hình thái ý thức xã hội có những mặt,
những tính chất bị ảnh hưởng bởi hình
thái khác. Trong sự ảnh hưởng, tác động
lẫn nhau đó thì tuỳ điều kiện cụ thể mà
một hình thái nào đó có ảnh hưởng lớn
hơn nhưng ở xã hội hiện đại thì ý thức
chính trị có ảnh hưởng to lớn nhất. Do
đó trong quá trình xây dựng ý thức xã
hội mới phải phát triển hài hòa và đồng
bộ tất cả các hình thái ý thức xã hội
tránh mâu thuẩn đối lập nhau.
Ý thức xã hội là do tồn tại xã
hội quyết định nhưng lại tác động trở lại
tồn tại xã hội. Sự tác động này vừa thể
hiện tính độc lập tương đối của ý thức xã
hội vừa nói lên vai trò của ý thức xã hội.
Sự tác động ý thức xã hội đối với tồn tại
xã hội diễn ra hai khuynh hướng khác
nhau. Những tư tưởng khoa học và tiến

bộ góp phần thúc đẩy xã hội phát triển;
ngược lại những tư tưởng lạc hậu, phản
động thì cản trở sự phát triển của xã hội.
Tính chất và hiệu quả tác động trở lại
của ý thức xã hội phụ thuộc vào các yếu
tố : vai trò lịch sử của giai cấp chủ thể
của tư tưởng, trình độ phù hợp của ý
thức đối với hiện thực và mức độ truyền
bá và xâm nhập của tư tưởng cả bề rộng
lẫn bề sâu trong quần chúng nhân dân.
Sự tác động của ý thức xã hội đối với
tồn tại xã hội không phải là trực tiếp biến
6
đổi tồn tại xã hội mà nó tác động thông
qua hoạt động của con người ở chỗ ý
thức xã hội vạch ra nội dung vận động
và phát triển của tồn tại xã hội, từ đó xác
định đúng đắn các mục tiêu và lựa chọn
các biện pháp tối ưu đồng thời hướng
dẫn hoạt động cải tạo .
Tóm lại, trên cơ sở nghiên cứu
mối quan hệ biện chứng giữa Tồn tại xã
hội và Ý thức xã hội, ta rút ra ý nghĩa
phương pháp luận là khi xem xét, giải
quyết các hiện tượng thuộc ý thức xã hội
trước hết phải xuất phát từ cơ sở vật
chất, cơ sở kinh tế đã sinh ra nó, đồng
thời phải xem xét tính độc lập tương đối.
Từ đó khẳng định được vai trò động lực
của những tư tưởng khoa học, tiến bộ.

Từ cơ sở lý luận trên, trong
công cuộc cải cách đổi mới và xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đại hội IX
của Đảng đã khẳng định “Tăng trưởng
kinh tế đi lên gắn liền với phát triển
văn hóa, từng bước cải thiện đời
sống vật chất và tinh thần của nhân
dân, thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường
xã hội”
Đường lối chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội này của Đảng xuất phát
từ nhận thức rõ vai trò quyết định của
kinh tế đối với ý thức xã hội. Trên con
đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội,
Đảng ta đã khẳng định phát triển kinh tế
bằng con đường công nghiệp hóa - hiện
đại hóa là nhiệm vụ trung tâm. Để thực
hiện được nhiệm vụ này và bảo đảm sự
phát triển toàn diện của xã hội thì đi đôi
với tăng trưởng kinh tế phải phát triển
văn hóa và giáo dục nhằm phát huy mọi
nguồn lực tinh thần của người Việt Nam.
Báo cáo chính trị của Ban chấp
hành TW tại Đại hội VII chỉ rõ : phải kết
hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với
phát triển văn hóa - xã hội, giữa đời
sống vật chất và đời sống tinh thần của
nhân dân, coi phát triển kinh tế là cơ sở
và tiền đề để thực hiện tốt chính sách xã

hội, là động lực thúc đẩy phát triển kinh
tế. Như vậy, với vai trò là nguồn gốc sản
sinh ra ý thức xã hội, nền kinh tế phát
triển mạnh tạo điều kiện và là tiền đề cho
việc lành mạnh hóa các QHSX, bảo vệ
truyền thống tốt đẹp của từng gia đình
và của cả dân tộc.
Đại hội IX của Đảng cũng đã
khẳng định con đường đi lên CNXH ở
nước ta là “Tăng trưởng kinh tế đi đôi
với phát triển văn hóa và giáo dục, xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ
nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh
thần của nhân dân”. Nó vừa là mục tiêu
vừa là động lực phát triển kinh tế - xã
hội.
Trong giai đoạn quá độ đi lên
chủ nghĩa xã hội hiện nay, những tàn dư
của tư tưởng cũ vẫn còn, mặt tích cực
và tiêu cực trong tình hình tư tưởng
trong Đảng và trong nhân dân hiện nay
vẫn còn đan xen nhau, trong đó mặt tích
cực là cơ bản, đã và đang quyết định
chiều hướng phát triển của xã hội, là
nguyên tố quan trọng tạo nên thắng lợi
của cuộc đổi mới đất nước. Tính tích
cực năng động sáng tạo của các tầng
lớp nhân dân ngày càng rõ trên các lĩnh

vực xã hội, được phát huy tinh thần
đoàn kết tương thân tương ái lòng yêu
nước ý thức tự hào tự tôn dân tộc truyền
thống cách mạng và lịch sử bản sắc dân
tộc được tiếp tục giữ gìn và phát huy.
Tuy nhiên, Hiện nay nhiều vấn đề xã hội
còn phức tạp, một mặt nền kinh tế thị
trường vừa tạo ra những yếu tố tích cực
để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
nhưng mặt khác nó lại vừa tạo ra những
yếu tố tiêu cực ảnh hưởng đến đời sống
tinh thần của xã hội đặc biệt là về tư
tưởng đạo đức và lối sống. Trong đó
những hạn chế mơ hồ về tư tưởng, nhận
thức và tình trạng suy thoái về đạo đức
lối sống cũng khá phổ biến. Sự suy thoái
về nhận thức, tư tưởng chính trị, đạo
đức và lối sống trong một bộ phận
không nhỏ cán bộ - Đảng viên chưa
được ngăn chặn hình thức phai nhạt lý
tưởng cách mạng sa sút phẩm chất đạo
đức tệ quan liêu tham nhũng lãng phí
chủ nghĩa cá nhân tư tưởng cơ hội thực
dụng có chiều hướng phát triển. Những
mặt tiêu cực là nguy cơ tiềm ẩn liên
quan sự mất còn của Đảng, của chế độ.
Từ tình hình đó, Đảng ta chủ
trương toàn Đảng phải nghiêm túc học
tập chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, không ngừng bồi dưỡng nâng

cao tính chất đạo đức cách mạng và
mục tiêu của cuộc cách mạng trên lĩnh
vực tư tưởng cần đạt được là xây dựng
nền văn hóa mới và con người mới
XHCN. Để thực hiện hai nhiệm vụ trong
giai đoạn hiện nay là : nhiệm vụ trọng
tâm về tư tưởng là làm cho chủ nghĩa
Mác Lênin và tư tưởng HCM giữ vai trò
chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã
hội. Còn nhiệm vụ cấp bách về văn hóa
là xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc : “Hướng mọi hoạt
động văn hóa vào việc xây dựng con
người VN phát triển toàn diện về
chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức,
thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức
cộng đồng, lòng nhân ái khoan dung,
trọng tình nghĩa, lối sống có văn hóa,
quan hệ hài hòa trong giáo dục, cộng
đồng và xã hội” và nêu cao tinh thần
trách nhiệm của gia đình trong việc xây
dựng và bồi dưỡng các thành viên có lối
sống văn hóa làm cho gia đình thật sự
là tổ ấm của mỗi người và là tế bào lành
mạnh của xã hội. Đẩy mạnh phong trào
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa”; ngăn chặn việc phục
hồi các thủ tục, khắc phục tình trạng
mê tín đang có xu hướng lan rộng
trong xã hội “(VK 9 trang 114-116). Mặt

khác, trong công cuộc tiến hành cách
mạng tư tưởng văn hóa, xây dựng con
người mới và nền văn hóa mới, ta phải
biết chọn lọc, tiếp thu, kế thừa những
thành quả văn minh, những di sản quý
giá do loài người tạo ra bao thế hệ
những thành tựu văn hóa, khoa học hiện
đại đồng thời cũng kiên quyết chống chủ
nghĩa hư vô và khuynh hướng siêu giai
cấp trong việc kế thừa di sản để lại
Việc tăng trưởng kinh tế sẽ dẫn
đến việc gia tăng hiệu quả kinh tế. Hiệu
quả kinh tế gắn liền với hiệu quả xã hội.
Việc đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế tạo
cơ hội cho mọi tầng lớp nhân dân tự do
làm ăn theo pháp luật sẽ là một tiến bộ
về mặt xã hội, là thực hiện dân chủ hóa
trong lĩnh vực kinh tế, từ đó giải quyết tốt
hơn việc làm thu nhập và đời sống tạo
tiền đề vật chất cho việc xử lý các vấn
đề xã hội. Tuy nhiên tăng trưởng kinh tế
tự nó không thể giải quyết được tất cả
các vấn đề xã hội trong đó có sự phân
hóa giàu nghèo là không tránh khỏi. Do
đó, trong đường lối phát triển kinh tế xã
hội, một mặt Đảng và Nhà nước ta chủ
trương bảo vệ và khuyến khích công dân
làm giàu hợp pháp, được hưởng thụ văn
hóa, giáo dục đào tạo, chăm lo y tế,
được hưởng thụ xứng đáng với công

sức, tiền của bỏ vào sản xuất, chống tư
tưởng bình quân, ỷ lại, đãi ngộ xứng
đáng tài năng; một mặt Đảng và Nhà
nước phải chăm lo việc thực hiện phân
phối công bằng theo lao động, mở rộng
phúc lợi xã hội, đổi mới tốt chính sách
bảo hiểm xã hội, bảo vệ sức khỏe, nâng
cao thể lực cho nhân dân, bảo đảm nhu
cầu thuốc chữa bệnh. Thực hiện tốt
chính sách đền ơn đáp nghĩa, xóa đói
giảm nghèo, tạo phong trào đoàn kết
giúp đỡ trong nhân dân theo truyền
thống “lá lành đùm lá rách” tương thân
tương ái đùm bọc lẫn nhau. Đẩy mạnh
hơn nữa chống tham nhũng, bất công xã
hội nghiêm trọng hiện nay. Cải cách chế
độ tiền lương để người lao động hăng
hái làm việc đủ sống và nâng cao mức
sống, mức đóng góp cho xã hội.
Ngược lại chính việc giải quyết
tốt những vấn đề xã hội là điều kiện
quyết định để thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế. Chúng ta không thể sớm có ngay một
xã hội tốt đẹp trong khi kinh tế nước ta
còn kém phát triển, năng suất lao động
thấp, kinh tế kỹ thuật còn lạc hậu nhưng
ta phải kết hợp ngay từ đầu tăng trưởng
kinh tế với tiến bộ xã hội.
Tóm lại, vận dụng mối quan hệ
biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức

xã hội, Đảng đã xác định đúng đắn
đường lối phát triển kinh tế gắn chặt với
công bằng xã hội và phát triển mạnh mẽ
văn hóa giàu bản sắc dân tộc ở nước ta,
đó là điều kiện đảm bảo sự thành công
và bền vững cho tiến trình đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.
7

×