Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức trong nền kinh tế ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.88 KB, 24 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Lời nói đầu
Những thành tựu trong công cuộc đổi mới của nớc ta trong thời gian qua
đã tạo ra thế và lực mới, cả bên trong và bên ngoài để chúng ta bớc vào một thời
kỳ phát triển mới. Nhiều tiền đề cần thiết cho công nghiệp hoá và hiện đại hoá
đã đợc tạo ra. Quan hệ của nớc ta với các nớc trên thế giới mở rộng hơn bao giờ
hết. Khả năng giữ vững độc lập tự chủ và hội nhập vào cộng đồng thế giới tăng
thêm. Cách mạng khoa học và công nghệ phát triển nhanh với trình độ ngày
càng cao; thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đời sống xã hội.
Các nớc đều có cơ hội phát triển. Tuy nhiên u thế về vốn, công nghệ, thị trờng
thuộc các nớc phát triển, khiến cho những nớc chậm phát triển và đang phát
triển đứng trớc những thử thách to lớn. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so
với nhiều nớc trong khu vực vẫn là thử thách to lớn và gay gắt do điểm xuất
phát của chúng ta quá thấp, lại đi lên trong môi trờng cạnh tranh quyết liệt.
Trớc tình hình đó, cùng với xu thế phát triển của thời đại, Đảng và nhà n-
ớc ta cần liên tục tiên hành và đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện đất nớc,
trong đó đổi mới kinh tế đóng vai trò then chốt và chủ đạo. Đồng thời đổi mới
về chính trị cũng mang tính cấp bách bởi giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính
trị có mối liên hệ chặt chẽ với nhau không thể tách rời. Chính vì vậy, tìm hiểu
mối quan hệ giữ vật chất và ý thức sẽ cho phép ta vận dụng nó vào mối quan hệ
giữ kinh tế và chính trị của đất nớc, giúp cho công cuộc xây dựng nền kinh tế n-
ớc ta ngày càng giàu mạnh.
Với ý nghĩa đó sau một thời gian nghiên cứu và học tập, cùng với sự hớng
dẫn nhiệt tình của các thầy cô giáo em đã quyết định chọn đề tài: "Mối quan hệ
biện chứng giữa vật chất và ý thức trong nền kinh tế ở nớc ta hiện nay".
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Phần I - Lý luận chung về mối quan hệ giữa
vật chất và ý thức
1. Vật chất
1.1. Định nghĩa vật chất


Vật chất là phạm trù rất phức tạp s và có nhiều quan niệm khác nhau về vật
chất đứng trên các giác độ khác nhau. Nhng theo Lênin định nghĩa: "vật chất là
một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan đợc đem lại cho con ng-
ời trong cảm giác, đợc cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh lại,
và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác".
Lê nin chỉ rõ rằng, để định nghĩa vật chất, không thể làm theo cách thông
thờng là quy một khái niệm cần định nghĩa sang một khái niệm khác rộng hơn
vì khái niệm vật chất là một khái niệm rộng nhất. Để định nghĩa vật chất, Lê nin
đã đối lập vật chất với ý thức, hiểu vật chất là thực tại khác quan đợc đem lại
cho con ngời trong cảm giác, vật chất tồn tại độc lập đối với cảm giác, với ý
thức, còn cảm giác, ý thức phụ thuộc vào vật chất, phản ánh vật chất.
Khi định nghĩa "vật chất là một phạm trù triết học", Lê nin một mặt muốn
chỉ rõ vật chất là một khái niệm rộng nhất vô hạn và mặt, muốn phân biệt vật
chất với t cách là một phạm trù triết học, là kết quả của sự khái quát và trừu t-
ợng, với những dạng vật cụ thể, với những "hạt nhỏ" cảm tính. Vật chất với t
cách là một phạm trù triết học không có những đặc tính cụ thể có thể cảm thụ đ-
ợc. Định nghĩa vật chất nh vậy khắc phục đợc những quan niệm siêu hình của
chủ nghĩa du vật cũ đồng nhất vật chất với những hình thức biển hiện của nó.
Lê nin cho rằng vật chất vốn tự nó có không do ai sinh ra, không thể tiêu
diệt đợc, nó tồn tại bên ngoài và không lệ thuộc vào cảm giác, ý thức con ngời,
vật chất là một thực tại khác quan. Khác với quan niệm "ý niệm tuyệt đối" của
chủ nghĩa duy tâm khác quan, "thợng đế" của tôn giáo, "vật tự nó không thể
nắm đợc" của thuyết không thể biết, vật chất không phải là lực lợng siêu tự
nhiên tồn tại lơ lửng đâu đó. Trái lại, phạm trù vật chất là kết quả của sự khái
quát các sự vật, hiện tợng có thật, hiện thực, và do đó các đối tợng vật chất có
thật, hiện thực đó có khả năng tác động vào giác quan để gây ra cảm giác, và
nhờ đó mà ta có thể biết đợc, hiểu đợc, nắm đợc đối tợng này. Định nghĩa vật
chất của Lê nin đã khẳng định đợc câu trả lời của chủ nghĩa duy vật cả hai mặt
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368

của vấn đề cơ bản của triết học, phân biệt về nguyên tắc chủ nghĩa duy tâm chủ
quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng nh thuyết không thể biết.
Hơn thế nữa, Lê nin còn khẳng định cảm giác lại, chụp lại, phản ánh vật
chất, những vật chất tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác. Khẳng định nh vậy,
một mặt Lê nin muốn nhấn mạnh tính thứ nhất của vật chất, vai trò quyết định
của nó đối với ý thức, và mặt khác khẳng định phơng pháp và khả năng nhận
thức khách quan của con ngời. Điều này không chỉ phân biệt chủ nghĩa duy vật
với chủ nghĩa duy tâm, với thuyết không thể biết mà còn phân biệt chủ nghĩa
duy vật với nhị ngôn luận.
Nh vậy, chúng ta thấy rằng, định nghĩa vật chất của Lê nin là một định
nghĩa toàn diện và triệt để, nó giải đáp đợc cải hai mặt vấn đề cơ bản về triết
học trên lập trờng của chủ nghĩa duy vật biện chứng, đồng thời nó còn khắc
phục lý thuyết siêu hình, hẹp hòi trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy
vật cũ.
Định nghĩa vật chất của Lê nin còn giúp chúng ta xác định nhân tố vật chất
trong đời sống xã hội, và nó có ý thức trực tiếp định hớn cho khoa học tự nhiên,
giúp khoa học tự nhiên ngày càng đi sâu vào nghiên cứu các dạng cụ thể của vật
chất trong giới vi mô. Nó còn giúp chúng ta có thái độ khách quan và đòi hỏi
chúng ta phải xuất phát từ thực tế khách quan trong suy nghĩ và hành động.
1.2. Các đặc tính của vật chất
* Vận động là phơng thức tồn tại của vật chất và là thuộc tính cố hữu
của vật thể.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động là mọi sự
biến đổi nói chung chứ không phải chỉ là sự dịch chuyển vị trí trong không
gian, Ăngghen cho rằng vận động là một phơng thức tồn tại của vật chất, là một
thuộc tính cố hữu của vật chất, nó bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá
trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến t duy. Vận
động có nhiều hình thức trong đó có năm hình thức cơ bản: thứ nhất là vận động
cơ học (sự di chuyển vị trí các vật thể trong không gian); thứ hai vận động vật lý
(vận động của các phần tử, các hạt cơ bản vận động điện tử, các quá trình nhiệt,

điện); thứ ba vận động hoá học (vận động của các nguyên tử, các quá trình
hoá hợp và phân giải các chất); thứ t vận động sinh học (trao đổi các chất giữa
các cơ thể sống và môi trờng); thứ năm, vận động xã hội (sự biến đổi, thay thế
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
các hình thái kinh tế xã hội). Các hình thái kinh tế xã hội này đều có quan hệ
chặt chẽ với nhau. một hình thức vận động nào đó đợc thực hiện là do tác động
qua lại với các hình thức vận động khác, trong đó hình thức vận động cao bao
giờ cũng bao hàm những vận động thấp hơn nhng cũng không thể coi hình thức
vận động cao là tổng số đơn giản của các vận động thấp. Mỗi sự vật hiện tợng
cụ thể gắn với nhiều hình thức vận động nhng bao giờ cũng đợc đặc trng bằng
một hình thức vận động cơ bản.
Thế giới vật chất bao giờ cũng ở trong quá trình vận động không ngừng,
không thể có vật chất không vận động, tức là vật chất tồn tại bằng cách vận
động và thông qua vận động mà biểu hiện sự tồn tại, hay nói cách khác vận
động là hình thức tồn tại của vật chất. Ăngghen nhận định rằng các hình thức
và các hình thức khác nhau của vật chất chỉ có thể nhận thức đợc thông qua vận
động. Trong thế giới vật chất từ các hạt cơ bản trong thế giới vi mô đến các hệ
thống các hành tinh khổng lồ trong thế giới vĩ mô, từ vô cơ đến hữu cơ, đên xã
hội loài ngời, tất cả đều ở trong trạng thái vận động. Bất cứ một dạng vật chất
nào cũng là một thể thống nhất có kết cấu xác định, gồm những nhân tố, những
bộ phận, những xu hớng khác nhau, cùng tồn tại, ảnh hởng và tác động lẫn
nhau. Sự tác động qua lại đó gây ra biến đổi. Nguồn gốc vận động là do những
nguyên nhân bên trong, vận động của vật chất là tự thân vận động.
Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất, không thể có vận động bên
ngoài của vật chất. Vận động không do ai sáng tạo ra và không thể tiêu diệt đợc,
do đó vận động đợc bảo toàn cả về số lợng lẫn chất lợng. Khoa học đã chứng
minh đợc rằng nếu một hình thức vận động nào đó của sự vật nhất định mất đi
thì tất yếu nẩy sinh một hình thức vận động khác thay thế nó. Các hình thức
vận động chuyển hoá lẫn nhau, còn vận động của vật chất nói chung thì vĩnh

viễn tồn tại cùng với sự tồn tại vĩnh viễn của vật chất.
Mặc dù vật chất luôn ở trong quá trình vận động không ngừng nhng điều
đó không loại từ mà còn bao hàm hiện tợng đứng im tơng đối. không có hiện t-
ợng đứng im tơng đối thì không có sự phân hoá thế giới vật chất thành các sự
vật, hiện tợng phong phú và đa dạng. Ăngghen khẳng định rằng khẳ năng đứng
im tơng đối của các vật thể, khả năng cân bằng tạm thời là những điều kiện chủ
yếu của sự phân hoá vật chất. Nếu vận động là sự biến đổi của các hiện vật hiện
tợng thì đứng im là sự ổn định, là sự bảo toàn tính quy định của các sự vật hiện
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tợng, đứng im chỉ thể hiện của một trạng thái vận động: vận động trong thăng
bằng, trong sự ổn định tơng đối, trạng thái đứng im cần đợc biểu hiện nh một
quá trình vận động trong phạm vi của sự vật ổn định, cha biến đổi, đứng im chỉ
là tạm thời vì nó xẩy ra trong một thời gian nhất định. Vận động riêng biệt có
xu hớng chuyển thành cân bằng nhng vận động toàn thể lại phá hoại sự cân
bằng riêng biệt làm cho các sự vật hiện tợng luôn thay đổi chuyển hoá cho
nhau.
* Không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất
Không gian phản ánh thuộc tính của các vật chất có vị trí, có hình thức kết
cấu có độ dài, ngắn, cao, thấp. Không gian biểu hiện sự cùng tồn tại và tác biệt
của các sự vật với nhau, biểu hiện quán tính của chúng, trật tự phân bố chung.
Còn thời gian phản ánh thuộc tính của các quá trình vật chất diễn ra nhanh hay
chậm kế tiếp nhau theo một trật tự nhất định. Thời gian biểu hiện tốc độ, trình
tự diễn biến của các quá trình vật chất, tính tách biệt các giai đoạn khác nhau
của quá trình đó, trình tự xuất hiện và mất đi các sự vật hiện tợng.
Không gian và thời gian là hình thức cơ bản của vật chất đang vận động Lê
nin đã chỉ ra không có gì ngoài vật chất đang vận động và vật chất đang vận
động không thể vận động ở đâu ngoài không gian và thời gian. Không gian và
thời gian là tồn tại khách quan. Nó không phải là hình thức chủ quan để sắp đặt
các cảm giác mà ta thu nhận một các lộn xộn nh chủ nghĩa duy tâm quan niệm,

cũng nh nó không thể đứng ngoài vật chất. Không có không gian trống rỗng,
không gian và thời gian không phải là bất biết, tuyệt đối mà trái lại, không gian
và thời gian có sự biến đổi phụ thuộc vào vật chất vận động.
* Tính thống nhật vật chất của thế giới
Chủ nghĩa duy tâm coi ý thức, tinh thần có trớc, quyết định vật chất, do đó
cũng cho rằng thế giới thống nhất ở tinh thần. Chủ nghĩa duy vật biện chứng lại
khẳng định rằng tính thống nhất chân chính của thế giới vật chất của nó. Triết
học Mác - Lênin khẳng định chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất
không có thế giới tinh thần, thế giới tinh thần, ma quỷ tồn tại ở đâu, ở trên, ở d-
ới, bên trong bên ngoài thế giới vật chất. Đồng thời còn khẳng định rằng các bộ
phận thế giới đều là những dạng cụ thể của vật chất, có liên hệ vật chất với
nhau nh liên hệ về cơ cấu tổ chức, liên hệ về lịch sử phát triển và đều tuân thủ
theo những quy luật khách quan của thế giới vật chất. Do đó, thế giới vật chất
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tồn tại vĩnh viễn, vô vàn, và vô tận, không do ai sinh ra và cũng không mất đi:
trong thế giới đó, không có cái gì khác ngoài các quá trình vật chất đang biến
đổi và chuyển hoá lẫn nhau là nguyên nhân và kết quả của nhau.
2. ý thức
2.1. Kết cấu của ý thức
Cũng nh vật chất, có rất nhiều quan niệm về ý thức theo các trờng phái
khác nhau. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng
ý thức là đặc tính và là sản phẩm của vật chất, ý thức là sự phản ánh thế giới
khách quan vào bộ óc của con ngời thông qua lao động và ngôn ngữ. Mác nhấn
mạnh rằng tinh thần, ý thức chẳng qua chỉ là vật chất đợc di chuyển vào trong
bộ óc của con ngời và đợc cải biến đi trong nó.
ý thức là một tâm lý xã hội có kết cấu phức tạp bao gồm tự ý thức, tri thức
tình cảm, ý trí, trong đó tri thức là quan trọng nhất là phơng thức tồn tại của ý
thức.
Tri thức là phơng thức tồn tại của ý thức vì sự hình thành và phát triển của

ý thức có liên quan mật thiết với quá trình con ngời nhận thức và cải biến giới
tự nhiên. Tri thức càng đợc tích luỹ, con ngời ngày càng đi sâu vào bản chất sự
vật và cải tạo sự vật có hiệu quả hơn, tính năng động của ý thức cũng nhờ đó mà
tăng hơn. Việc nhấn mạnh tri thức là yếu tố cơ bản quan trọng nhất ý thức có ý
nghĩa chống quan điểm giản đơn coi ý thức chỉ là tình cảm, là niềm tin, ý trí.
Quan điểm đó chính là biểu hiện của bên chủ quan duy ý trí, của niềm tin mù
quáng, của tởng tợng chủ quan, tuy nhiên việc nhấn mạnh yếu tố tri thức cũng
không đồng nghĩa với việc phủ nhận hoặc coi nhẹ vai trò của các nhân tố tình
cảm ý chí.
Tự ý thức cũng là một yếu tố trong ý thức. Chủ nghĩa duy tâm coi tự ý thức
là một thực thể độc lập tự nó có sẵn trong các cá nhân, điều kiện hớng về bản
thân mình tự khẳng định "Cái tôi" riêng biệt tách rời những quan hệ xã hội.
Trái lại chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng tự ý thức là ý thức hớng về bản
thân mình thông qua quan hệ với thế giới bên ngoài khi phản ánh thế giới khách
quan coi con ngời tự phân biệt mình, đối lập với thế giới đó và hành vi đạo đức
và coi vị trí trong xã hội. Mặt khác sự giao tiếp trong xã hội và hoạt động thực
tiển xã hội đòi hỏi con ngời phải nhận rõ bản thân mình và tự điều chỉnh bản
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thân theo các quy tắc, các tiêu chuẩn mà xã hội đề ra. Ngoài ra văn hoá cũng
đóng vai trò là cái "gơng soi" giúp cho con ngời tự ý thức về bản thân.
Vô thức là hiện tợng tâm lý nhng có liên quan đến những hoạt động xảy ra
ở ngoài phạm vi của ý thức. Có hai loại vô thức: loại thứ nhất liên quan đến các
hành vi cha đợc con ngời ý thức, loại thứ hai liên quan đến các hành vi trớc kia
đã đợc ý thức những do lặp lại đã trở thành thói quen, có thể diễn ra "tự động"
bên ngoài sự chỉ đạo của ý thức. Vô thức ảnh hởng đến nhiều phạm vi hoạt
động của con ngời. Trong những hoàn cảnh noà đó giúp con ngời giảm bớt sự
căng thẳng trong hoạt động. Để biến những hành vi tích cựu thành thói quen coi
vai trò rất quan trọng trong đời sống của con ngời. Trong con ngời ý thức vẫn là
cái chủ đạo, cái quyết định hành vi cá nhân.

2.2. Nguồn gốc của ý thức
* Nguồn gốc tự nhiên
ý thức ra đời là kết quả của sự phát triển lâu dài của goí tự nhiên cho tới
khi xuất hiện con ngời và bộ óc ngời. Khoa học đã chứng minh rằng thế giới vật
chất nói chung và trái đất nói riêng đã từ tồn tại rất lâu trớc khi xuất hiện con
ngời, rằng hoạt động ý thức của con ngời diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lý
thần kinh của bộ não con ngời. Không thể tách rời ý thức ra khỏi hoạt động của
bộ não vì ý thức là chức năng của bộ não, bộ não là phí quan của ý thức. Sự phụ
thuộc của ý thức vào sự hoạt động của bộ não thể hiện ở chỗ khi bộ não bị tổn
thơng thì hoạt động ý thức sẽ bị rối loạn. Tuy nhiên không thể quy một cách
đơn giản ý thức của các quá trình sinh lý bởi vì óc chỉ là cơ quan phản ánh ý
thức là sự phản ánh khách quan vào bộ óc con ngời. Sự xuất hiện của ý thức gắn
liền với sự phát triển của đặc tính phản ánh đặc tính này phát triển cùng với sự
phát triển của thế giới tự nhiên. Sự xuất hiện của con ngời và xã hội loài ngời đa
lại hình thức cao nhất của sự phản ánh, đó là sự phản ánh ý thức. Sự phản ánh ý
thức luôn gắn liền với làm cho tự nhiên thích nghi với nhu cầu phát triển của xã
hội.
- Nguồn gốc xã hội:
Sự ra đời của ý thức gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của bộ
óc ngời dới sự ảnh hởng của lao động, của giao tiếp và các quan hệ xã hội.
Lao động của con ngời là nguồn gốc vật chất có tính chất xã hội nhằm cải
tạo tự nhiên, thoả mãn nhu cầu và phục vụ mục đích của bản thân con ngời.
Chính nhờ lao động, con ngời và xã hội loài ngời mới hình thành và phát triển.
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Lao động là phơng thức tồn tại cơ bản đầu tiên của con ngời, lao động đồng thời
ngay từ đầu đã liên kết những con ngời với nhau trong mối quan hệ khách quan,
tất yếu: mối quan hệ này đến lợt nó lại làm nảy sinh nhu cầu trao đổi kinh
nghiệm và tổ chức lao động, nhu cầu "cần phải nói với nhau một cái gì". Và kết
quả là ngôn ngữ ra đời. Ngôn ngữ đợc coi là cái vỏ vật chất của t duy. Với sự

xuất hiện của ngôn ngữ, t tởng của con ngời có khả năng biểu hiện thành hiện
thực trực tiếp, trở thành tín hiệu vật chất tác động tới các cơ quan con ngời và
gây cảm giác. Nhờ có ngôn ngữ con ngời có thể giao tiếp, trao đổi t tởng, tình
cảm với nhau, truyền đạt kinh nghiệm cho nhau, thông qua đó mà ý thức cá
nhân trở thành ý thức xã hội và ngợc lại, ý thức xã hội thâm nhập vào ý thức cá
nhân. Ngôn ngữ đã trở thành một phơng tiện vật chất không thể thiếu đợc của
sự trừu tợng hoá, tức là quá trình hình thành, thực hiện ý thức. Và chính nhờ sự
trừu tợng hoá và khái quát hoá mà con ngời có thể đi sâu vào bản chất của sự
vật hiện tợng, đồng thời tổng kết đợc hoạt động của mình trong toàn bộ quá
trình phát triển lịch sử.
2.3. Bản chất của ý thức.
Từ việc xem xét nguồn gốc của ý thức, có thể thấy rõ ý thức có bản tính
phản ánh, sáng tạo và bản tính xã hội.
Bản tính phản ánh thể hiện thông tin về thế giới bề ngoài, là biểu thị nội
dung nhận thức đợc từ vật gây tác động và đợc truyền đi trong quá trình phản
ánh. Bản tính phản ánh quy định mặt khách quan của ý thức, từ là ý thức phải
lấy cái khách quan làm tiền đề, bị khách quan qui định và có nội dung phản ánh
là thế giới khách quan.
ý thức ngay từ đầu đã gắn liền với lao động, với hoạt động sáng tạo cải
biến và thống trị tự nhiên của con ngời và trở thành mặt không thể thiếu đọc của
hoạt động đó. Tính sáng tạo của ý thức thể hiện ở chỗ, nó không chụp lại một
cách thụ động, nguyên xi sự vật mà phản ánh gắn liền với cải biến, quá trình thu
thập thông tin gắn liền với quá trình xử lý thông tin. Tính sáng tạo của ý thức
còn thể hiện ở khả năng gián tiếp khái quát thế giới khách quan ở quá trình chủ
động tác động vào thế giới để phán ánh thế giới đó.
Phản ánh và sáng tạo liên quan chặt chẽ với nhau, không thể tách rời.
Không có phản ánh thì không có sáng tạo vì phản ánh là điểm xuất phát, là cơ
sở của sáng tạo. Ngợc lại không có sự sáng tạo thì không phải là sự phản ánh ý
thức. Đó là mối quan hệ giữa hai quá trình thu nhận xử lý thông tin , là sự thống
nhất giữa mặt khách quan và chủ quan trong ý thức.

8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ý thức chỉ đợc nảy sinh trong lao động, trong hoạt động cải tạo thế giới của
con ngời. Hoạt động đó không thể là hoạt động đơn lẻ mà là hoạt động xã hội. Do
đó ý thức ngay từ đầu là sản phẩm của xã hội. ý thức trớc hết là tri thức của con
ngời về xã hội và hoàn cảnh, về những gì đang diễn ra ở thế giới khách quan, về
mối liên hệ giữa ngời với ngời trong xã hội. Do đó, ý thức xã hội hình thành và bị
chi phối bởi tồn tại xã hội cùng các qui luật của sự tồn tại xã hội đó - và ý thức của
mỗi cá nhân mang trong lòng nó ý thức xã hội. Bản tính xã hội của ý thức cũng
thống nhất với bản tính phản ánh và sáng tạo. Sự thống nhất đó thể hiện ở tính
năng động chủ quan của ý thức. ở quan hệ giữa nhân tố vật chất và nhân tố ý thức
trong hoạt động cải tạo thế giới của con ngời.
3. Mối quan hệ giữa vật chất ý thức.
Lênin đã chỉ ra rằng, sự đối lập giữa vật chất và ý thức có ý nghĩa tuyệt đối
trong phạm vi hết sức nan chế, trong trờng hợp này, chỉ giới hạn trong vấn đề nhận
thức luận cơ bản là thừa nhận cái gì là cái có trớc cái gì là cái có sau. Ngoài giới
hạn đó thì không còn nghi ngờ gì nữa rằng sự đối lậpđó chỉ là tơng đối. Nh vậy, để
phân ranh giới chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, để xác định bản tính và sự
thống nhất của thế giới, cần có sự đối lập tuyệt đối giữa vật chất và ý thức trong khi
trả lời câu hỏi cái nào có trớc, cái nào quyết định. Không nh vậy sẽ lẫn lộn hai đ-
ờng lối cơ bản trong triết học, lẫn lộn vật chất và ý thức và cuối cùng sẽ là quan
điểm duy vật. Song sự đối lập giữa vật chất và ý thức chỉ là tơng đối nếu nh chúng
ta chỉ xét chúng nh là những nhân tố những mặt không thể thiếu đợc trong hoạt
động của con ngời, đặc biệt là hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới của con ngời.
Bởi vì, ý thức tự nó không thể cải biến đợc sự vật, không có khả năng tự biến thành
hiện thực, nhng thông qua hoạt động thực tiễn của con ngời, ý thức có thể cải biến
đợc tự nhiên, thâm nhập vào sự vật, hiện thực hoá những mục đích mà nó đề ra cho
hoạt động của mình. Điều này bắt nguồn từ chính ngay bản tính phản ánh, sáng tạo
và xã hội của ý thức và chính nhờ bản tính đó mà chỉ có con ngời có ý thức mới có
khả năng cải biến và thống trị tự nhiên, biến tự nhiên xa lạ, hoang dã thành tự

nhiên trù phú và sinh động, tự nhiên của con ngời. Vì vậy tính tơng đối trong sự
đối lập giữa vật chất và ý thức thể hiện tính độc lập tơng đối tính năng động của ý
thức. Mặt khác đời sống con ngời là sự thống nhất không thể tách rời giữa đời sống
vật chất và đời sống tinh thần trong đó những nhu cầu tinh thần hoá. Khẳng định
tính tơng đối của sự đối lập giữa vật chất và ý thức không có nghĩa là khẳng định
rằng cả hai nhân tố có vai trò nh nhau trong đời sống và hoạt động của con ngời.
Trái với triết học Mác - Lênin khẳng định rằng trong hoạt động của con ngời
9

×