Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức trong nền kinh tế ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.32 KB, 29 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Lời mở đầu
Những thành tựu trong công cuộc đổi mới của nớc ta trong thời gian qua
đã tạo ra thế và lực mới, cả bên trong và bên ngoài để chúng ta bớc vào một thời
kỳ phát triển mới. Nhiều tiền đề cần thiết cho công nghiệp hoá và hiện đại hoá
đã đợc tạo ra. Quan hệ của nớc ta với các nớc trên thế giới mở rộng hơn bao giờ
hết. Khả năng giữ vững độc lập tự chủ và hội nhập với cộng đồng thế giới tăng
thêm. Cách mạng khoa học và công nghệ phát triển nhanh với trình độ ngay
càng cao, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đời sống xã hội. Các
nớc đều có cơ hội phát triển. Tuy nhiên u thế về vốn, công nghệ, thị trờng thuộc
các nớc phát triển, khiến cho những nớc chậm phát triển và đang phát triển
đứng trớc những thử thách to lớn. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều
nớc trong khu vực vẫn là thử thách to lớn và gay gắt do điểm xuất phát của
chúng ta quá thấp, lại đi lên trong môi trờng cạnh tranh quyết liệt.
Trớc tình hình đó, cùng với xu thế phát triển của thời đại, Đảng và nhà nớc
ta cần liên tục tiến hành và đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện đất nớc,
trong đó đổi mới kinh tế đóng vai trò then chốt và chủ đạo. Đồng thời đổi mới về
chính trị cũng mang tính cấp bách bởi giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
có mối liên hệ chặt chẽ với nhau không thể tách rời. Chính vì vậy, tìm hiểu mối
quan hệ giữ vật chất và ý thức sẽ cho phép ta vận dụng nó vào mối quan hệ giữ
kinh tế và chính trị của đất nớc, giúp cho công cuộc xây dựng nền kinh tế nớc ta
ngày càng giàu mạnh.
Với ý nghĩa đó sau một thời gian nghiên cứu và học tập, cùng với sự hớng
dẫn nhiệt tình của các thầy cô giáo, em đã quyết định chọn đề tài:"Mối quan hệ
biện chứng giữa vật chất và ý thức trong nền kinh tế ở nớc ta hiện nay". Do
thời gian có hạn và kiến thức của bản thân em còn nhiều hạn chế do đó bài viết
sẽ không tránh khỏi thiếu sót, vậy em kính mong sự chân thành góp ý của thầy
cô giáo và các bạn đọc.
Em xin chân thành cảm ơn.
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368


Phần I
Lý luận chung về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
1. Vật chất.
1. 1. Định nghĩa vật chất:
Vật chất là phạm trù rất phức tạp và có rất nhiều quan niệm khác nhau về vật
chất đứng trên các giác độ khác nhau. Nhng theo Lênin định nghĩa:
vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan đợc đem lại
cho con ngời trong cảm giác, đợc cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.

Lênin chỉ rõ rằng, để định nghĩa vật chất, không thể làm theo cách thông th-
ờng là quy một khái niệm cần định nghĩa sang một khái niệm khác rộng hơn vì
khái niệm vật chất là một khái niệm rộng nhất. Để định nghĩa vật chất, Lênin đã
đối lập vật chất với ý thức, hiểu vật chất là thực tại khách quan đợc đem lại cho
con ngời trong cảm giác, vật chất tồn tại độc lập đối với cảm giác, với ý thức, còn
cảm giác, ý thức phụ thuộc vào vật chất, phản ánh vật chất.
Khi định nghĩa vật chất là một phạm trù triết học, LêNin một mặt muốn
chỉ rõ vật chất là một khái niệm rộng nhất, rộng vô hạn và mặt, muốn phân biệt vật
chất với t cách là một phạm trù triết học, là kết quả của sự khái quát và trừu tợng,
với những dạng vật chất cụ thể, với những hạt nhỏ cảm tính. Vật chất với t cách
là một phạm trù triết học không có những đặc tính cụ thể có thể cảm thụ đợc. Định
nghĩa vật chất nh vậy khắc phục đợc những quan niệm siêu hình của chủ nghĩa
duy vật cũ đồng nhất vật chất với những hình thức biểu hiện của nó.
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Lênin cho rằng vật chất vốn tự nó có không do ai sinh ra, không thể tiêu diệt
đợc, nó tồn tại bên ngoài và không lệ thuộc vào cảm giác, ý thức con ngời, vật chất
là một thực tại khách quan. Khác với quan niệm ý niệm tuyệt đối của chủ nghĩa
duy tâm khách quan, thợng đế của tôn giáo, vật tự nó không thể nắm đợc của
thuyết không thể biết, vật chất không phải là lực lợngsiêu tự nhiêntồn tại lơ lởng ở

đâu đó. Trái lại, phạm trù vật chất là kết quả của sự khái quát các sự vật, hiện tợng
có thật, hiện thực, và do đó các đối tợng vật chất có thật, hiện thực đó có khả năng
tác động vào giác quan để gây ra cảm giác, và nhờ đó mà ta có thể biết đợc, hiểu
đợc, nắm bắt đợc đố tợng này. Định nghĩa vật chất của Lênin đã khẳng định đợc
câu trả lời của chủ nghĩa duy về cả hai mặt của vấn đề cơ bản của triết học, phân
biệt về nguyên tắc chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan
cũng nh thuyết không thể biết.
Hơn thế nữa, Lênin còn khẳng định, cảm giác lại, chụp lại, phản ánh vật chất,
những vật chất tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác. Khẳng định nh vậy, một mặt
Lênin muốn nhấn mạnh tính thứ nhất của vật chất, vai trò quyết điịnh của nó đối
với ý thức, và mặt khác khẳng định phơng pháp và khả năng nhận thúc khách quan
của con ngời. Điều này không chỉ phân biệt chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy
tâm, vơí thuyết không thể biết mà còn hân biệt chủ nghĩa duy vật với nhị ngôn
luận.
Nh vậy, chúng ta thấy rằng, định nghĩa vật chất của Lênin là một định nghĩa
toàn diện và triệt để, nó giải đáp đợc cỉa hai mặt vấn đề cơ bản về triết học trên lập
trờng của chủ nghĩa duy vật biện chứng, đồng thời nó còn khắc phục lý thuyết siêu
hình, hẹp hòi trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật cũ.
Định nghĩa vật chất của Lênin còn giúp chúng ta xác định nhân tố vật chất
trong đời sống xã hội, và nó có ý thức trực tiếp định hớng cho khoa học tự nhiên,
giúp khoa học tự nhiên ngày càng đi sâu vào nghiên cứu các dạng cụ thể của vật
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
chất trong giới vi mô. Nó còn giúp chúng ta có thái độ khách quan và đòi hỏi
chúng ta phải xuất phát từ thực tế khách quan trong suy nghĩ và hành động.
1. 2. Các đặc tính của vật chất:
* Vận động là phơng thức tồn tại của vật chất và là thuộc tính cố hữu của vật
thể.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động là mọi sự biến
đổi nói chung chứ không phải chỉ là sự dịch chuyển vị trí trong không gian,

Ăngghen cho rằng vận động là một phơng thức tồn tại của vật chất, là một thuộc
tính cố hữu của vật chất, nó bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn
ra trong vũ trụ, kể từ sụ thay đổi vị trí đơn giản cho đế t duy. Vận động có nhiều
hình thức trong đó có năm hình thức cơ bản: thứ nhất vận động cơ học (sự di
chuyển vị trí các vật thể trong không gian); thứ hai vận động vật lý (vận động của
các phần tủ, các hạt cơ bản, vận động điện tử, các quá trình nhiệt, điện..); thứ ba
vận động hoá học(vận động của các nguyên tử, các quá trình hoá hợp và phân giải
các chất); thứ t vận động sinh học (trao đổi các chất giữa các cơ thể sống và môi
trờng); thứ năm, vận động xã hội (sự biến đổi, thay thế các hình thái kinh tế xã
hội). Các hình thái kinh tế xa hội này đều có quan hệ chặt chẽ với nhau. Một hình
thức vận động nào đó đợc thực hiện là do sự tác động qua lại với các hình thức vận
động khác, trong đó hình thúc vận động cao bao giờ cũng bao hàm những vận
động thấp hơn, nhng cũng không thể coi hình thức vận động cao là tổng số đơn
giản của các vận động thấp. Mỗi sự vật hiện tợng cụ thể có thể gắn với nhiều hình
thứ vận động nhng bao giờ cũng đợc đặc trng bằng một hình thức vận động cơ
bản.
Thế giới vật chất bao giờ cũng ở trong quá trình vận động không ngừng,
không thể có vật chất không vận động, tức là vật chất tồn tại bằng cách vận động
và thông qua vận động mà biểu hiện sự tồn tại, hay nói các khác vận động là hình
thức tồn tại của vật chất. Ăngghen nhận định rằng các hình thức và các hình thức
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
khác nhau của vật chất chỉ có thể nhận thức đợc thông qua vận động, chỉ có thể
thông qua vận động mới có thể thấy đợc thuộc tính của vật thể. Trong thế giới vật
chất từ các hạt cơ bản trong thế giới vi mô đến các hệ thống các hành tinh khổng
lồ trong thế giới vĩ mô, từ vô cơ đến hữu cơ, đến xã hội loài ngời, tất cả đều ở
trong trạng thái vận động. Bất cứ một dạng vật chất nào cũng là một thể thống
nhất có kết cấu xác định, gồm những nhân tố, những bộ phận, nhng xu hớng khác
nhau, cùng tồn tại, ảnh hởng và tác động lẫn nhau. Sự tác động qua lại đó gây ra
biến đổi. Nguồn gốc vận động là do những nguyên nhân bên trong, vận động của

vật chất là tự than vận động.
Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất, không thể có vận động bên ngoài
của vật chất. Vận động không do ai sáng tạo ra và không thể tiêu diệt đợc, do đó
vận động đợc bảo toàn cả về số lợng lẫn chất lợng. Khoa học đã chứng minh đợc
rằng nếu một hình thức vân đông nào đó của sự vật nhất định mất đi thì tất yếu
nẩy sinh một hình thức vận động khác thay thế nó. Các hình thức vận động chuyển
hoá lẫn nhau, còn vận động của vật chất nói chung thì vĩnh viễn tồn tại cùng với sự
tồn tại vĩnh viễn của vật chất.
Mặc dù vật chất luôn ở trong quá trình vận động không ngừng nhng điều đó
không loại trừ mà còn bao hàm hiện tợng đứng im tơng đối. Không có hiện tợng
đứng im tơng đối thì không có sự phân hoá thế giới vật chất thành các sự vật, hiện
tợng phong phú và đa dạng. ănggen khẳng định rằng khẳ năng đứng im tơng đối
của các vật thể, khả năng cân bằng tạm thời là những điều kiện chủ yếu của sự
phân hoá vật chất. Nếu vận động là sự biến đổi của các sự vật hiện tợng thì đứng
im là sự ổn định, là sự bảo toàn tính quy định của các sự vật hiện tợng. đớng im
chỉ thể hiện của một trạng thái vận động: vận động trong thăng bằng, trong sự ổn
định tơng đối, trang thái đng im cồn đợc biểu hiện nh một quá trình vận động
trong phạm vi của sự vật ổ định, cha biến đổi. đứng im chỉ là tạm thời vì nó sảy ra
trong một thời gian nhất định. Vận động riêng biệt có xu hớng chuyển thành cân
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
bằng nhng vận động toàn thể lại phá hoại sự cân bằng riêng biệt làm cho các sự
vật, hiện tợng luôn thay đổi chuyển hoá cho nhau.
*Không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất.
Không gian phản ánh thuộc tính của các vật chất có vị trí, có hình thức kết
cấu có độ dài, ngắn cao thấp. Không gian biểu hiện sự cùng tồn tại và tác biệt của
các sự vật với nhau, biểu hiện quán tính của chúng, trật tự phan bố chúng. Còn
thời gian phản ánh thuộc tính của các quá trình vật chất diễn ra nhanh hay chậm
kế tiếp nhau theo một trật tự nhất định. Thời gian biểu hiện tốc độ, trình tự diễn
biến của các quá trình vật chất, tính tách biệt các giai đoạn khác nhau của quá

trình đó, trình tự xuất hiện và mất đi các sự vật, hiện tợng.
Không gian và thời gian là hình thức cơ bản của vật chất đang vận động
Lênin đã chỉ ra không có gì ngoài vật chất dang vận động và vật chất đang vận
động không thể vận động ở đâu ngoài không gian và thời gian. Không gian và thời
gian là tồn tại khách quan. Nó không phải là hình thức chủ quan đẻ sếp đặt các
cam giác mà ta thu nhận một các lộn xộn nh chủ nghĩa duy tâm quan niệm, cũng
nh nó không thể đng ngoài vật chất. Không có không gian tróng rỗng. không gian
và thời gian không phải là bất biến, tuyệt đối mà trái lại, không gian và thời gian
có sự biến đổi phụ thuộc vào vật chất vận động.

* Tính thống nhất vật chất của thế giới.
Chủ nghĩa duy tâm coi ý thức, tinh thần có trớc, quyết định vật chất, do đó
cũng cho rằng thế giới thống nhất ở tinh thần. Chủ nghĩa duy vật biện chứng lại
khẳng định rằng tính thống nhất chân chính của thế giới là ở tính vật chất của nó.
Triết học Mác-Lênin khẳng định chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất
không có thế giới tinh thần, thế giới thần linh, ma quỷ tồn tại ở đâu, ở trên, ở dới,
bên trong bên ngoài thế giới vật chất. Đồng thời còn khẳng định rằng các bộ phận
thế giới đều là những dạng cụ thể của vật chất, có liên hệ vật chất với nhau nh liên
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
hệ về cơ cấu tổ chức, liên hệ về lịch sử phát triển và đều tuân thủ theo những quy
luật khách quan của thế giới vật chất. Do đó, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô
hạn, và vô tận, không do ai sinh ra và cũng không mất đi; trong thế giới đó, không
có cái gì khác ngoài các quá trình vật chất đang biến đổi và chuyển hoá lẫn nhau
là nguyên nhân và kết quả của nhau.
2. ý thức.
2. 1. Kết cấu của ý thức:
Cũng nh vật chất, có rất nhiều quan niệm về ý thức theo các trờng phái khác
nhau. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng ý thức là
đặc tính và là sản phẩm của vật chất, ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan

vào bộ óc của con ngời thông qua lao động và ngôn ngữ. Mác nhấn mạnh rằng
tinh thần, ý thức chẳng qua chỉ là vật chất đợc di chuyển vào trong bộ óc của con
ngời và đợc cải biến đi trong nó.
ý thức là một tâm lý xã hội có kết cấu phức tạp bao gồm tự ý thức, tri thức,
tình cảm, ý trí, trong đó tri thức là quan trọng nhất là phơng thức tồn tại của ý
thức.
Tri thức là phơng thức tồn tại của ý thức vì sự hình thành và phát triển của ý
thức có liên quan mật thiết với quá trình con ngời nhận thức và cải biến giới tự
nhiên. Tri thức càng đợc tích luỹ, con ngời ngày càng đi sâu vào bản chất sự vật và
cải tạo sự vật có hiệu quả hơn, tính năng động của ý thức cũng nhờ đó mà tăng
hơn. Việc nhấn mạnh tri thức là yếu tố cơ bản quan trọng nhất ý thức có ý nghĩa
chống quan điểm giản đơn coi ý thức chỉ là tình cảm, là niềm tin, ý trí. Quan niệm
đó chính là biểu hiện của bệnh chủ quan duy ý trí, của niềm tin mù quáng, của sự
tởng tợng chủ quan. tuy nhiên việc nhấn mạnh yếu tố tri thức cũng không đồng
nghĩa với việc phủ nhận hoặc coi nhẹ vai trò của các nhân tố tình cảm ý trí.
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Tự ý thức cũng là một yêu tố quan trọng của ý thức. Chủ nghĩa duy tâm coi
tự ý thức là một thực thể độc lập tự nó có sẵn trong các cá nhân, điều kiện sự hớng
về bản thân mình tự khẳng định Cái tôi riêng biệt tách rời những quan hệ xã
hội. Trái lại chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng tự ý thức là ý thức hớng về bản
thân mình thông qua quan hệ với thế giơí bên ngoài khi phản ánh thế giới khách
quan con ngời tự phân biệt mình, đối lập mình với thế giới đó và tự nhận thức
mình nh là một thực thể hoạt động có cảm giác có tu duy, có các hành vi đạo đức
và có vị trí trong xã hội. Mặt khác sự giao tiếp trong xã hội và hoạt động thực tiễn
xã hội đòi hỏi con ngời phải nhận rõ bản thân mình và tự điều chỉnh bản thân theo
các quy tắc, các tiêu chuẩn mà xã hội đề ra. Ngoài ra văn hoá cũng đóng vai trò là
cái gơng soi giúp cho con ngời tự ý thức về bản thân.
Vô thức là một hiện tợng tâm lý nhng có liên quan đến những hoạt đọng xảy
ra ở ngoài phạm vi của ý thức. Có hai loại vô thức: loại thứ nhất liên quan đến các

hành vi cha đợc con ngời ý thức, loại thứ hai liên quan đến các hành vi trớc kia đã
đợc ý thức nhng do lặp lại đã trở thành thói quen, có thể diễn ra tự động bên
ngoài sự chỉ đạo của ý thức. Vô thức ảnh hởng đến nhiều phạm vi hoạt động của
con ngời. Trong những hoàn cảnh nào đó giúp con ngời giảm bới sự căng thẳng
trong hoạt động. Để biến những hành vi tích cựu thành thói quen có vai trò rất
quan trọng trong đời sống của con ngời. Trong con ngờ ý thức vẫn là cái chủ đạo,
cái quyết định hành vi cá nhân.
2. 2 Nguồn gốc của ý thức
*Nguồn gốc tự nhiên:
ý thức ra đời là kết quả của sự phát triển lâu dài của giới tự nhiên cho tới khi
xuất hiện con ngơì và bộ óc ngời. Khoa học đã chứng minh rằng thế giới vật chất
nói chung và trái đất nói riêng đã từ tồn tại rất lâu trớc khi xuất hiện con ngời,
rằng hoạt động ý tức của con ngời diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lý thần kinh
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
của bộ não côn ngời. Không thể tách rời ý thức ra khỏi hoạt động của bộ não vì ý
thức là chức năng của bộ não, bộ não là phí quan của ý thức. Sự phụ thuộc của ý
thức vào sự hoạt động của boọ não thể hiện ở chỗ khi bộ não bị tổn thơng thì hoạt
động ý thức sẽ bị rối loạn. Tuy nhiên không thể quy một các đơn giản ý thức của
các quá trình sinh lý bởi vì óc chỉ là cơ quan phản ánh. í thức là sự phản ánh khách
quan vào bộ óc con ngời. Sự xuát hiện của ý thức gắn liền với sự phát triển của đặc
tính phản ánh đặc tính này phát triển cùng với sự phát triển của thế giới tự nhiên.
Sự xuất hiện của con ngời và xã hội loài ngời đa lại hình thức cao nhất của sự phản
ánh, đó là sự phản ánh ý thức. Sự phản ánh ý thức luôn gắn liền với làm cho tự
nhiên thích nghi với nhu cầu phát triển của xã hội.
* Nguồn gốc xã hội:
Sự ra đời của ý thức gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của bộ óc
ngời dới sự ảnh hởng của lao động, của giao tiếp và các quan hệ xã hội.
Lao động của con ngời là nguồn gốc vật chất có tính chất xã hội nhằm cải tạo
tự nhiên, thoả mãn nhu cầu và phục vụ mục đích của bản thân con ngời. Chính nhờ

lao động, con ngời và xã hội loài ngời mới hình thành và phát triển. Lao động là
phơng thức tồn tại cơ bản đầu tiên của con ngời, lao động đồng thời ngay từ đầu đã
liên kết những con ngời với nhau trong mối quan hệ khách quan, tất yếu; mối quan
hệ này đến lợt nó lại làm nảy sinh nhu cầu trao đổi kinh nghiệm và tổ chức lao
động, nhu cầu cần phải nói với nhau một cái gì . Và kết quả là ngôn ngữ ra đời.
Ngôn ngữ đợc coi là cái vỏ vật chất của t duy. Với sự xuất hiện của ngôn ngữ, t t-
ởng của con ngời có khả năng biểu hiện thành hiện thực trực tiếp, trở thành tín
hiệu vật chất tác động tới các cơ quan con ngời và gây cảm giác. Nhờ có ngôn
ngữ, con ngời có thể giao tiếp, trao đổi t tởng, tình cảm với nhau, truyền đạt kinh
nghiệm cho nhau, thông qua đó mà ý thức cá nhân trở thành ý thức xã hội và ngợc
lại, ý thức xã hội thâm nhập vào ý thức cá nhân. Ngôn ngữ đã trở thành một phơng
tiện vật chất không thể thiếu đợc của sự trừu tợng hoá, tức là quá trình hình thanh,
9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
thực hiện ý thức. Và chính nhờ sự trừu tợng hoá và khái quát hoá mà còn ngời có
thể đi sâu vào bản chất của sự vạat hiện tợng, đồng thời tổng kết đợc hoạt động
của mình trong toàn bộ quá trình phát triển lịch sử.
2. 3. Bản chất của ý thức:
Từ việc xem xét nguồn gốc của ý thức, có thể thấy rõ ý thức có bản tính phản
ánh, sáng tạo và bản tính xã hội.
Bản tính phản ánh thể hiện thông tin về thế giới bền ngoài, là biểu thị nội
dung nhận đợc từ vật gây tác động và đợc truyền đi trong quá trình phản ánh. Bản
tính phản ánh quy định mặt khách quan của ý thức, tức là ý thức phải lấy cái
khách quan làm tiền đề, bị khách quan quy định và có nội dung phản ánh là thế
giới khách quan.
ý thức ngay từ đầu đã gắn kiền với lao động, với hoạt động sáng tạo cải biến
và thống trị tự nhiên của con ngời và trở thành mặt không thể thiếu đợc của hoạt
động đó. Tính sáng tạo của ý thức thể hiện ở chỗ, nó không chụp lại một cách thụ
động, nguyên xi sự vật mà phản ánh gắn liền với cải biến, quá trình thu thập thông
tin gắn liền với quá trình xử lý thông tin. Tính sáng tạo của ý thức còn thể hiện ở

khả năng gián tiếp khái quát thế giới khách quan, ở quá trình chủ động tác động
vào thế giới để phản ánh thế giới đó.
Phản ánh và sáng tạo liên quan chặt chẽ với nhau, không thể tách rời. Không
có phản ánh thì không có sáng tạo vì phản ánh là điểm xuất phát, là cơ sở của sáng
tạo. Ngợc lại không có sự sáng tạothì không phải là sự phản ánh ý thức. Đó là mối
quan hẹ giữa hai quá trình thu nhận sử lý thông tin, là sự thống nhất giữa mặt
khách quan và chủ quan trong ý thức.
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
ý thức chỉ đợc nảy sinh trong lao động, trong hoạt động cải tạo thế giới của
con ngời. Hoạt động đó không thể là hoạt động đơn lẻ mà là hoạt động xã hội. Do
đó ý thức ngay từ đầu đã là sản phẩm của xã hội. ý thức trớc hết là tri thức của
con ngời về xã hội và hoàn cảnh, về những gì đang diễn ra ở thế giới khách quan,
về mối liên hệ giữa ngời với ngời trong xã hội. Do đó, ý thức xã hội hình thành và
bị chi phối bởi tồn tại xã hội cùng các quy luật của sự tồn tại xã hội đó... và ý thức
của mỗi cá nhân mang trong lòng nó ý thức xã hội. Bản tính xã hội của ý thức
cũng thống nhất với bản tính phản ánh và sáng tạo. Sự thống nhất đó thể hiện ở
tính năng động chủ quan của ý thức. ậ quan hệ giữa nhân tố vật chất và nhân tố ý
thức trong hoạt động cải tạo thế giới của con ngời.
3. Mối quan hệ giữa vật chất ý thức.
Lê-nin đã chỉ ra rằng, sự đối lập giữa vật chất và ý thức có ý nghĩa tuyệt đối
trong phạm vi hết sức hạn chế, trong trờng hợp này, chỉ giới hạn trong vấn đề nhận
thức luận cơ bản là thừa nhận cái gì là cái có trớc cái gì là cái có sau. Ngoài giới
hạn đó thì không còn nghi ngờ gì nữa rằng sự đối lập đó chỉ là tơng đối. Nh vậy,
để phân ranh giới chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, để xác định bản tính và
sự thống nhất của thế giới, cần có sự đối lập tuyệt đối giữa vật chất và ý thức trong
khi trả lời câu hỏi cái nào có trớc, cái nào quyết định. Không nh vậy sẽ lẫn lộn hai
đờng lỗi cơ bản trong triết học, lẫn lộn vật chất và ý thức và cuối cùng sẽ là quan
điểm duy vật. Song sự đối lập giữa vật chất và ý thức chỉ là tơng đối nếu nh chúng
ta chỉ xét chúng nh là những nhân tó những mặt không thể thiếu đợc trong hoạt

động của con ngời, đặc biệt là hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới của con ngời.
Bởi vì, ý thức tự nó không thể cải biến đợc sự vật, không có khả năng tự biến
thành hiện thực, nhng thông qua hoạt động thực tiễn của con ngời, ý thức có thể
cải biến đợc tự nhiên, thâm nhập vào sự vật, hiên thực hoá những mục đích mà nó
đề ra cho hoạt động của mình. Điều này bắt nguồn từ chính ngay bản tính phản
ánh, sáng tạo và xã hội của ý thức và chính nhờ bản tính đó mà chỉ có con ngời có
11

×