Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

Đề cương môn Xây dựng đảng có đáp án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (586.24 KB, 44 trang )

Câu 1: Bản chất giai cấp công nhân Việt Nam của Đảng cộng sản Việt Nam
Bài làm
Từ ngày thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định bản chất giai cấp công nhân của
mình. Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong công tác xây dựng Đảng, được Điều lệ Đảng chỉ
rõ: “Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc”. Hiện nay, Đảng ta đang hoạt động trong điều kiện phát triển
kinh tế nhiều thành phần, áp dụng cơ chế thị trường, mở cửa, môi trường xã hội có nhiều phức tạp; cán bộ,
Đảng viên giữ nhiều trọng trách, hàng ngày hàng giờ tiếp xúc với hàng và tiền, đối mặt với chủ nghĩa tư
bản. Vì vậy, nhận thức đúng và chăm lo giữ vững bản chất giai cấp công nhân, tính tiên phong, tính nhân
dân và dân tộc của Đảng là hết sức cần thiết và không được phép lơi lỏng đối với người Đảng viên.
1. Tại sao Đảng cộng sản Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân
a. Cơ sở khoa học về bản chất giai cấp công nhân của Đảng cộng sản Việt Nam
Khi bàn về bản chất giai cấp của một chính đảng, chúng ta thấy rằng bất kỳ một đảng chính trị nào
cũng là sản phẩm của đấu tranh giai cấp và mang bản chất của một giai cấp nhất định. Đảng nào cũng
đứng trên lập trường của một giai cấp nhất định, không thể có một chính đảng không mang tính giai cấp,
đứng ngoài giai cấp.
Đảng Cộng sản là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân. Thiếu một
trong hai yếu tố đó thì không thể đưa tới sự ra đời của Đảng Cộng sản. Trong giai đoạn đầu của cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa tư bản, khi chưa có chủ nghĩa Mác Lênin soi đường thì các cuộc đấu tranh của giai
cấp công nhân thời kỳ này chỉ mang tính tự phát, dừng lại ở đấu tranh vì quyền lợi trước mắt. Chỉ khi có chủ
nghĩa xã hội khoa học ra đời và thâm nhập vào phong trào công nhân thì giai cấp công nhân mới trở thành
giai cấp đấu tranh có ý thức tự giác. Là hệ thống lý luận khoa học về thế giới quan, nhân sinh quan cách
mạng được đúc kết từ trí tuệ của Mác, Ăng ghen và nhiều nhà khoa học trí thức thế kỷ 19, Chủ nghĩa Mác
(chủ nghĩa xã hội khoa học) đã chỉ rõ vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là đội quân chủ yếu
trong cuộc đấu tranh xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện sứ
mệnh lịch sử đó, giai cấp công nhân phải tổ chức ra chính đảng độc lập của mình là Đảng cộng sản để tập
họp tổ chức quần chúng nhằm thống nhất hành động cho những mục tiêu chung : xóa bỏ chủ nghĩa tư bản,
giải phóng mình đồng thời giải phóng nhân loại, xây dựng xã hội mới không có áp bức, bóc lột : xã hội xã
hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Cũng như các Đảng Cộng sản khác, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là sự kết hợp giữa chủ nghĩa
Mác-Lênin với phong trào công nhân. Tuy nhiên, là một nước thuộc địa bị đế quốc thực dân đàn áp, bóc lột


và đội ngũ công nhân mới ra đời, còn non trẻ nhưng bên cạnh đó, nước ta lại có đông đảo các lực lượng
khác từ tầng lớp nông dân trí thức yêu nước vì cùng chịu chung cảnh áp bức, bóc lột; do vậy họ luôn
sát cánh với giai cấp công nhân trong mọi cuộc đấu tranh. Phong trào công nhân lúc bấy giờ là một bộ phận
của phong trào yêu nước, phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở ta hoà quyện vào nhau, thống
nhất với nhau trong mục tiêu chung là giành độc lập cho dân tộc, mưu hạnh phúc cho nhân dân Xuất phát
từ đặc thù lịch sử đó, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời còn mang đặc điểm riêng : đảng là sự kết hợp yếu tố
phong trào yêu nước với chủ nghĩa Mác-Lênin và phong trào công nhân, sự ra đời và vai trò lãnh đạo của
Đảng ta đã gắn liền cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc với đấu tranh giải phóng giai cấp công nhân, gắn liền
dân tộc, yêu nước với chủ nghĩa xã hội
Ngay từ khi thành lập, Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định bản chất giai cấp công nhân của
Đảng, xuất phát từ nhận thức sâu sắc về vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Với sự phân
tích khoa học, chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra rằng giai cấp công nhân lực lượng đại diện cho phương thức
sản xuất mới tiên tiến, có tinh thần cách mạng triệt để, có tính tổ chức cao, có bản chất quốc tế và là đội
quân chủ yếu trong cuộc đấu tranh xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa. Giai
cấp công nhân có hệ tư tưởng khoa học và cách mạng, cơ sở lý luận tiên tiến hướng dẫn : đó là Chủ nghĩa
Mác-Lênin. Là giai cấp bị giai cấp tư sản bóc lột nặng nề nên giai cấp công nhân có điều kiện liên minh với
giai cấp nông dân và quần chúng lao động
Bản chất giai cấp công nhân của Đảng thấm sâu vào tất cả các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức,
cả trong đường lối chính trị, nền tảng tư tưởng, nguyên tắc tổ chức và mọi hoạt động của Đảng. Dù ở giai
đoạn phát triển nào hay trong hoàn cảnh lịch sử nào, bản chất giai cấp công nhân vẫn là nguồn gốc quyết
định sự tồn tại và phương hướng phát triển của Đảng.
b. Tính tiền phong của Đảng :
Tuy nhiên, khi nói bản chất giai cấp công nhân của Đảng thì không thể hiểu đơn giản Đảng với giai
cấp là một. Ngay từ buổi đầu hoạt động của Liên đoàn những người cộng sản, Mác và Ăngghen đã từng nói
đến hai đặc điểm phân biệt người cộng sản với những người vô sản là: "Về mặt thực tiễn, những người
cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn luôn thúc
đẩy phong trào tiến lên; về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ
những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản". Lênin cũng chỉ rõ phải phân biệt Đảng
với giai cấp, Đảng phải là đội tiên phong, là bộ phận tiên tiến, giác ngộ nhất, có tổ chức chặt chẽ nhất của
giai cấp, đảng tập họp những người có yếu tố tự giác nhất vào phong trào công nhân, có nhiệm vụ dẫn dắt

lãnh đạo giai cấp công nhân tiến lên trong cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp và nhân loại.
Tính tiên phong của Đảng cộng sản thể hiện ở sự tiên phong về lý luận, tiên phong trong tổ chức và
tiên phong trong hành động. Về lý luận, theo Lê nin, Đảng phải “được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì
mới có khả năng làm tròn vai trò người chiến sĩ tiền phong'' và cơ sở lý luận của đảng là Chủ nghĩa cộng
sản khoa học. Hồ chủ tịch đã nói “Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa Mác-Lênin làm cốt”. Đảng cộng sản
còn là đội tiên phong về tổ chức : đây là đội ngũ có tổ chức chặt chẽ nhất, tính tổ chức của đảng thể hiện
ngay trong điều kiện gia nhập đảng và đòi hỏi sự giác ngộ về tổ chức. Cán bộ đảng viên phải sinh hoạt
trong một tổ chức của đảng, phải bằng hành động có tổ chức để chiến đấu cho nhiệm vụ của đảng, phải
chấp hành mọi nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của đảng. Trong điều kiện Đảng cấm quyền tính tiên phong
về mặt tổ chức càng được khẳng định rõ hơn. Bên cạnh đó, đảng tập họp những người có tính giác ngộ
cao vì vậy đảng cũng mang tính tiên phong về hành động, “tính đảng không chỉ thể hiện ở lời nói mà còn ở
việc làm” (Lênin) mà “đảng phải đi trước để làng nước theo sau” (Hồ Chí Minh).
Như vậy, giữa tính giai cấp và tính tiên phong của Đảng có mối quan hệ với nhau, Đảng viên và giai
cấp công nhân có chung lợi ích, lập tường, quan điểm nhưng đảng không phải là toàn bộ giai cấp mà là bộ
phận ưu tú, là đội tiên phong của giai cấp. Do đó, bản chất giai cấp quyết định tính tiên phong của đảng,
tính tiên phong là biểu hiện cao nhất của bản chất giai cấp. Nói cách khác là chỉ khi nào có lập trường giai
cấp vững vàng mới có những hành động tiên phong cao và khi tính tiên phong cao càng làm cho lập trường
giai cấp vững chắc hơn.
c. Đảng là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân
tộc
Có ý kiến cho rằng Đảng cộng sản Việt Nam mang tính giai cấp, cho nên chỉ có thể là Đảng của
giai cấp công nhân, Đảng không thể đại diện cho lợi ích dân tộc cũng như của các tầng lớp nhân dân lao
động khác.
Để nhận thức về điều này , chúng ta thấy rằng thực tiễn Việt Nam cho thấy những người cách
mạng đi từ chủ nghĩa yêu nước hoàn toàn có thể tiếp cận chủ nghĩa Mác-Lênin, chuyển sang lập trường
cách mạng của giai cấp công nhân. Chủ nghĩa Mác-Lênin là ngọn cờ đấu tranh giải phóng giai cấp công
nhân đồng thời cũng là ngọn cờ thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc trong thời đại mới. Sự nghiệp
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh mà Đảng
ta đã và đang phấn đấu là mục tiêu, lý tưởng của giai cấp công nhân, của đông đảo nhân dân lao động và
của cả dân tộc. Mặt khác, trong hoàn cảnh cụ thể của nước ta, giai cấp công nhân có quan hệ mật thiết với

giai cấp nông dân và toàn thể dân tộc, hầu hết giai cấp công nhân đều xuất thân từ giai cấp nông dân và
nhân dân lao động. Tuy nhiên, dù mang tinh thần yêu nước cao nhưng các tầng lớp, giai cấp khác (nông
dân, trí thức ) chưa bao giờ là giai cấp lãnh đạo chủ yếu của cách mạng bởi họ thiếu sự dẫn dắt của một
hệ tư tưởng và một chính đảng của mình. Do vậy, chỉ đi theo sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân
- Đảng của chủ nghĩa Mác-Lênin - thì dân tộc mới được giải phóng. Dân tộc có được giải phóng thì giai cấp
công nhân và các tầng lớp, giai cấp khác mới được giải phóng. Lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân hoàn
toàn đồng nhất với lợi ích dân tộc và lợi ích của các nhân dân lao động.
Chính những điều ấy cho thấy rằng tính giai cấp của Đảng gắn bó chặt chẽ với tính nhân dân, tính
dân tộc. Từ trải nghiệm thực tế, nhân dân ta, dân tộc ta tự nguyện thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng ta -
Đảng giương cao ngọn cờ dân tộc, tuyệt đối trung thành với dân tộc và lãnh đạo thành công sự nghiệp đấu
tranh giải phóng dân tộc.
Ngay từ khi tuyên bố thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã thể hiện
rõ luận điểm: "Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của dân tộc." Đối
với một nước nông nghiệp lạc hậu như nước ta, đội ngũ công nhân chưa đông đảo thì Đảng cộng sản Việt
Nam không chỉ là tập họp của giai cấp công nhân mà còn là tổ chức của những người giác ngô cách mạng
đến từ nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội. Người chỉ rõ : “Đảng phải tập hợp được trong hàng ngũ của
mình những người trong giai cấp công nhân, thủ công nghiệp, nông dân nghèo, binh lính…miễn là những
người đó “tin theo chủ nghĩa cộng sản, chương trình Đảng và Quốc tế Cộng sản, hăng hái đấu tranh và dám
hy sinh, phục tùng mệnh lệnh Đảng và đóng kinh phí, chịu phấn đấu trong một bộ phận Đảng”. Lực lượng
mà Đảng cần phải tập hợp để tiến hành cách mạng trước hết là giai cấp công nhân, kế đến là “đa số quần
chúng nông dân”, “dựa vững chắc vào hạng dân cày nghèo”, đồng thời lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung
nông, lợi dụng và lôi kéo phú nông, tư sản bậc trung, trung và tiểu địa chủ. Người cho rằng mục tiêu chiến
đấu của Đảng là vì độc lập dân tộc, vì hạnh phúc của đồng bào; không có mục tiêu nào khác : “Đảng không
phải là 1 tổ chức để làm quan, phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu
mạnh, đồng bào sung sướng” , Đảng bao giờ cũng là “đội tiên phong dũng cảm và bộ tham mưu sáng suốt
của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động và của cả dân tộc” luôn “phấn đấu hy sinh vì lợi ích của Tổ
quốc, của nhân dân, của giai cấp vô sản, chứ không vì lợi ích nào khác” (Trích Hồ Chí Minh toàn tập, T5,
Nxb CTQG, HN, 1995)
Từ những phân tích trên cho thấy rằng đảng ta không chỉ đại biểu cho lợi ích của giai cấp công
nhân, mà đại biểu của một liên minh các giai cấp, tầng lớp xã hội, cụ thể là giai cấp công nhân, giai cấp

nông dân, tầng lớp trí thức và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Và với tư cách là một đảng cầm
quyền, Điều lệ Đảng xác định: ''Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ,
chịu sự giám sát của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng đảng; đoàn kết và lãnh đạo nhân dân tiến
hành sự nghiệp cách mạng''.
d. Bản chất giai cấp công nhân của đảng thể hiện như thế nào
Vậy bản chất giai cấp công nhân của đảng được thể hiện như thế nào ? Bản chất của giai cấp
công nhân hiện đại là lao động sáng tạo, khoa học và cách mạng. Vì vậy, trong xây dựng tổ chức đảng và
trong mọi hoạt động của Đảng phải thể hiện tính khoa học và cách mạng. Trong 8 nguyên tắc về học thuyết
Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân của Lênin. bản chất khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân
được thể hiện ở những điểm sau :
Về tư tưởng : Đảng cộng sản mang hệ tư tưởng của giai cấp công nhân tức là chủ nghĩa Mác-
Lênin, đây là hệ thống lý luận khoa học đã tạo ra thế giới quan và phương pháp luận đúng cho cuộc cách
mạng của giai cấp công nhân. Hồ Chí Minh - người sáng lập Đảng ta - đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của
dân tộc đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, vạch ra đường lối đúng đắn cho cách mạng nước ta.
Chính vì vậy, Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng ta và ngày
càng giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần, tư tưởng của dân tộc ta. Bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lê Nin
phải đi đôi với việc phát triển và vận dụng nó vào điều kiện lịch sử cụ thể, phải nhận thức đúng đắn rằng lý
luận chủ nghĩa Mác - LêNin không phải là cái bất khả xâm phạm mà “chỉ coi đó như là những nền tảng giúp
ta về mặt phương pháp” (Lênin) và “như kim chỉ nam giúp ta về phương hướng” (Hồ Chí Minh).
Về chính trị : khi có chính quyền, Đảng cộng sản phải là đảng cầm quyền lãnh đạo hệ thống chính
trị để đề ra mục tiêu, phương hướng, đường lối, chính sách đúng, phù hợp với yêu cầu phát triển khách
quan của đất nước và trung thành với mục tiêu, lý tưởng của giai cấp : xóa bỏ chế độ xã hội cũ bóc lột, xây
dựng thành công chế độ xã hội mới – chế độ xã hội chủ nghĩa, tiến lên cộng sản chủ nghĩa. Buông lỏng sự
lãnh đạo của đảng đối với chính quyền là sai lầm về nguyên tắc, thủ tiêu sức mạnh của đảng và nhà nước
cũng như sức mạnh của cả hệ thống chính trị và là mở đường cho các phần tử phải động cướp chính
quyền.
Về tổ chức : bản chất giai cấp công nhân còn thể hiện Đảng phải được tổ chức chặt chẽ và hoạt
động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thường xuyên tự phê bình và
phê bình, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng. Mọi sự chia rẽ, bè phái, buông lỏng kỷ luật đều trái với

bản chất giai cấp công nhân
2. Thực trạng và phương hướng giữ gìn bản chất giai cấp công nhân của Đảng cộng sản Việt
Nam
Tuân thủ và vận dụng sáng tạo những nguyên lý của Chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng Đảng kiểu
mới của giai cấp công nhân, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta từ trước đến nay đã thể
hiện đầy đủ bản chất giai cấp công nhân của mình.
Tuy số lượng công nhân ở nước ta còn nhỏ bé nhưng Đảng vẫn luôn đứng vững trên lập trường
cách mạng, giữ vững bản chất giai cấp, lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Đảng chú trọng phát triển đảng viên và đào tạo cán bộ xuất thân từ giai
cấp công nhân đi đôi với việc không ngừng xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh cả về số lượng và chất
lượng
Đảng ta không ngừng xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân, xây dựng các đoàn thể quần
chúng trong hệ thống chính trị, phát huy quyền làm chủ của nhân dân; trong sinh hoạt Đảng, giữ vững
nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện tự phê bình và phê bình.
Bản chất giai cấp công nhân của Đảng ta còn thể hiện ở sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Từ
ngày ra đời, cho đến nay, Đảng ta không có bè phái, không có chia rẽ về đường lối, nếu mất đoàn kết thì
cũng chỉ là cục bộ và tạm thời. Toàn Đảng vẫn là một khối đoàn kết thống nhất, đó là truyền thống tốt đẹp
của Đảng ta, là sinh mệnh của Đảng, là nguồn sức mạnh của Đảng
Bên cạnh đó, thành công của công cuộc đổi mới đã đưa kinh tế, xã hội tăng trưởng ngày một cao,
văn hóa, khoa học ngày càng phát triển, nhiều gia đình công nhân, nông dân, trí thức có con cháu trở thành
trí thức làm ăn khá giả ngày càng nhiều. Lớp công nhân hiện đại làm việc trong các doanh nghiệp quốc
doanh, liên doanh, tư doanh, hợp tác xã, đều được nâng cao trình độ tri thức và nghề nghiệp. Như vậy,
thuận lợi chưa từng có là công - nông - trí đan xen lẫn nhau, thâm nhập vào nhau, chuyển hóa, thúc đẩy lẫn
nhau cùng phát triển. Ngoài quan hệ với nhau có tính chất máu thịt, còn có quan hệ về kinh tế, văn hóa, xã
hội, khiến sức mạnh được nhân lên gấp bội.
Tuy nhiên, trong xây dựng và hoạt động Đảng thời gian qua cũng còn tồn tại nhiều hạn chế. Tính tiên
phong cách mạng của Đảng cũng bị hạn chế do giai cấp công nhân Việt Nam vẫn còn yếu và bộc lộ nhiều
hạn chế trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước như : trình độ học vấn,
chuyên môn nghề nghiệp thấp so với yêu cầu và mất cân đối nghiêm trọng trong cơ cấu lao động kỹ thuật
giữa các bộ phận công nhân ; lòng say mê nghề nghiệp, ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp còn

yếu ; một bộ phận công nhân bị tha hóa về thái độ lao động, phẩm chất giai cấp và lối sống.
Mặt khác, đất nước ta đang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các thành
phần kinh tế phát triển mạnh mẽ, tạo nên những biến đổi sâu sắc về số lượng, cơ cấu, chất lượng đội ngũ
công nhân, viên chức, người lao động và tác động đến sự phân hóa trong đảng. Một bộ phận không nhỏ
trong Đảng đã thoái hóa, biến chất, tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức lối sống. Một số
nơi cấp ủy đảng và đảng viên vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ. Một số vụ án thời gian qua từ Tamexco
đến Năm Cam rồi Lã Thị Kim Oanh, cảng Miền Trung buộc chúng ta có những giải pháp tích cực để đấu
tranh, giữ vững bản chất giai cấp của Đảng. Đây chính là nguy cơ nếu không được khắc phục sẽ làm cho
Đảng thoái hoá biến chất, không còn là đảng của giai cấp công nhân, đảng của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Từ thực trạng trên cho thấy rằng việc giữ gìn và nâng cao bản chất giai cấp công nhân của Đảng luôn
luôn là một yêu cầu cơ bản của công tác xây dựng đảng. Để giữ vững và nâng cao bản chất giai cấp công
nhân của Đảng ta trong điều kiện hiện nay, Điều lệ Đảng và Văn kiện Đại hội lần thứ VIII của Đảng chỉ rõ 6
phương hướng như sau :
Một là kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. trong bất kỳ tình huống nào cũng
không dao động, xa rời mục tiêu đó.
Hai là trung thành và vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, xuất phát đầy đủ từ thực tiễn cụ thể của nước ta để đề ra đường lối, chủ trương và các chính
sách đúng đắn.
Ba là giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách,
thường xuyên tự phê bình và phê bình, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Bốn là thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng lập trường, quan điểm, ý thức tổ chức của giai cấp
công nhân; xây dựng đội ngũ cán bộ và Đảng viên theo quan điểm của giai cấp công nhân.
Năm là củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết toàn
dân. Chăm lo đời sống, thực sự phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Sáu là kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của
giai cấp công nhân. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, tạo nên sức mạnh tổng hợp của
cách mạng.
Để thực hiện những phương hướng trên, Đảng ta phải chỉ đạo quyết liệt hơn cuộc vận động xây
dựng, chỉnh đốn Đảng tương xứng với vị trí là nhiệm vụ then chốt và tập trung vào một số việc trọng tâm
sau:

- Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, Kiên quyết khắc phục sự
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên. Xử lý nghiêm minh những cán bộ,
đảng viên vi phạm pháp luật và kỷ luật của Đảng
- Đẩy mạnh xây dựng, kiện toàn và tăng sức chiến đấu cho tổ chức cơ sở đảng gắn với xây dựng
chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể cơ sở và phong trào cách mạng của quần chúng. Phát huy dân chủ,
dựa vào đông đảo đảng viên và nhân dân để đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, xây dựng quy chế
tham gia giám sát của nhân dân và đảng viên, quy chế thanh tra, kiểm tra của các cơ quan lập pháp
- Tiếp tục đổi mới công tác cán bộ cả về quan điểm nội dung, phương pháp, tổ chức quản lý, chế
độ trách nhiệm, bộ máy và con người làm công tác cán bộ, triển khai đồng bộ các mặt đánh giá, quy hoạch,
luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng và bố trí, sử dụng cán bộ
- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng. Tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận, giải đáp đúng những vấn đề do thực tiễn đặt ra với tinh
thần độc lập, tự chủ, sáng tạo
Tóm lại, giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng là điều kiện sống còn của đảng
và nó chỉ có thể thực hiện tốt trên cơ sở mỗi đảng viên phải nắm vững và quán triệt sâu sắc để vận dụng
những quan điểm của đảng vào trong thực tế hoạt động xây dựng và phát triển Đảng, chống lại các luận
điểm sai trái và xuyên tạc của các thế lực thù địch.
Câu 02: “Đảng Cộng Sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ”. Đồng chí hãy
phân tích sự khẳng định đó
Bài làm
Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản về xây dựng tổ chức và hoạt động của Đảng. Nó đảm bảo sự
thống nhất ý chí và hành động, tạo nên sức mạnh vô địch của Đảng cách mạng. Hiện nay Đảng ta đang
hoạt động trong hoàn cảnh môi trường mới rất phức tạp, nó mở ra thời cơ và cả những thách thức mới hết
sức gay gắt, đòi hỏi Đảng ta hơn bao giờ hết phải được củng cố vững mạnh không những về chính trị, tư
tưởng mà cả về tổ chức. Đảng phải trở thành một khối đoan kết thống nhất chặt chẽ mới hoàn thành được
vai trò, sứ mệnh của mình trong giai đoạn hiện nay. Muốn vậy, Đảng phải thực hiện nghiêm túc nguyên tắc
tập trung dân chủ và cụ thể hóa những nội dung của nguyên tắc này trong sinh hoạt và hoạt động của
Đảng, xem đó là nguyên tắc sống còn của Đảng.
1. Tại sao Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ :
Hầu hết các đảng cộng sản trên thế giới đều khẳng định ngay từ đầu tinh thần dân chủ trong đảng và lấy

tập trung dân chủ làm nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và sinh hoạt của đảng.
Tư tưởng về xây dựng Đảng theo nguyên tắc tập trung dân chủ đã được Mác và Ănghen là người đầu
tiên nêu lên và được ghi vào “Điều lệ của liên đoàn những người cộng sản”, và văn kiện “Điều lệ hội liên
hiệp công nhân quốc tế” với các nội dung bao gồm: Đảng phải là một tổ chức tập trung chặt chẽ; các cơ
quan lãnh đạo của Đảng phải được bầu một cách dân chủ, họ sẽ bị bãi miễn bất kỳ lúc nào nếu họ không
hoàn thành nhiệm vụ được giao, Đảng phải là một khối thống nhất về chính trị, tư tưởng và hành động dựa
theo chế độ cá nhân phục tùng tổ chức, cấp dưới phục tùng cấp trên, tập thể phục tùng ban chấp hành
trung ương.
Sau khi C. Mác, Ph. Ăng ghen qua đời, những tư tưởng về nguyên tắc tập trung dân chủ tiếp tục được
V.I. Lê nin kế thừa và phát triển khi xây dựng nên học thuyết về Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.
Lênin cho rằng tổ chức chỉ trở thành hiện thực và có ích cho cuộc sống khi nó có các nguyên tắc để liên kết
thống nhất và điều khiển hành vi của các thành viên. Ông cũng cho rằng : Đảng phải là một đội ngũ có tổ
chức và là tổ chức chặt chẽ của giai cấp công nhân, Đảng phải là một khối thống nhất về chính trị, tư
tưởng. Chính điều đó buộc Đảng phải thực hiện chế độ tập trung dân chủ trong xây dựng và hoạt động của
Đảng như một tất yếu. Chế độ tập trung đòi hỏi đảng phải có một điều lệ, một kỷ luật, một cơ quan tuyên
truyền và cổ động thống nhất, một cơ quan lãnh đạo thống nhất, thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục
tùng cấp trên, toàn đảng phục tùng Đại hội Đảng toàn quốc và Ban chấp hành Trung ương, chỉ như vậy mới
bảo đảm cho đảng thật sự thống nhất và do đó mới thật sự mạnh. Người nói “Giai cấp vô sản chỉ có một
chế độ tập trung tuyệt đối và kỷ luật hết sức nghiêm minh, đó là một trong những điều kiện để chiến thắng,
thống nhất hành động, tự do thảo luận, phê bình đó là quy định của Đảng cộng sản. Tự do đó phải được đặt
trong khuôn khổ của giai cấp vô sản, nghĩa là phải đúng lúc đúng nơi.” Cùng với giữ vững sự lãnh đạo tập
trung, tăng cường kỷ luật của Đảng, Lênin nhấn mạnh: Mọi công việc trong Đảng phải do toàn thể đảng
viên, bình đẳng và không trừ một ai, trực tiếp hoặc thông qua các đại biểu giải quyết; tất cả các cơ quan
lãnh đạo phải do tuyển cử lập ra, phải chịu trách nhiệm báo cáo trước đảng viên và có thể bị các đảng viên
bãi miễn; trong các tổ chức đảng phải thực hiện chế độ lãnh đạo tập thể - nguyên tắc lãnh đạo cao nhất của
Đảng; phải phát huy dân chủ nêu cao tính chủ động sáng tạo của các địa phương trong việc tìm ra những
biện pháp, những phương tiện phù hợp với đặc điểm địa phương để đạt tới mục tiêu chung.
Hồ Chí Minh - người sáng lập, giáo dục, rèn luyện Đảng ta - đã vận dụng sáng tạo học thuyết của
Chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng Đảng của giai cấp công nhân vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Người quán triệt đầy đủ nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới của LêNin và vận dụng vào việc tổ chức xây

dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam. Người khẳng định Đảng phải là khối thống nhất ý chí và hành động, trong
tổ chức, Đảng phải thực hiện đầy đủ nguyên tắc tập trung dân chủ - một nguyên tắc quyết định sức mạnh
của Đảng Người chỉ rõ rằng dân chủ phải đi đôi với với tập trung, phải kiên quyết thực hành kỷ luật.
Trong lãnh đạo, Hồ Chí Minh đòi hỏi Đảng phải thực hiện đúng đắn nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân
phụ trách. Thực hiện đúng đắn nguyên tắc này mới tránh cho Đảng không rơi vào chủ quan, độc đoán,
chuyên quyền và mới biến đường lối của Đảng trở thành thực tiễn sinh động. Trong sinh hoạt Đảng, Hồ
Chí Minh đặt vấn đề phải thực hiện tốt nguyên tắc tự phê bình và phê bình - một vũ khí và là quy luật làm
cho Đảng trở nên trong sạch, vững mạnh. Đồng thời, Đảng phải thực hiện tốt nguyên tắc kỷ luật nghiêm
minh và tự giác, cũng như nguyên tắc đoàn kết thống nhất trong Đảng, cán bộ đảng viên phải tự giác chấp
hành kỷ luật của Đảng, phải giữ gìn sự thống nhất của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình.
Ðược lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh thành lập và rèn luyện, ngay từ ngày thành lập cho đến
ngày nay, Ðảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định: Ðảng là tổ chức tự nguyện của những người cùng
chung lý tưởng cộng sản; mọi đảng viên đều có quyền biết, thảo luận và biểu quyết các công việc của
Ðảng; được ứng cử, đề cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Ðảng; phê bình, chất vấn về hoạt động
của các tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp; đề xuất các kiến nghị với cơ quan có trách nhiệm; v.v Từ
khi trở thành Ðảng cầm quyền, Ðảng Cộng sản Việt Nam kiên định và có bước phát triển mới trong việc
phát huy dân chủ nội bộ, thực hành nguyên tắc tập trung dân chủ cả trong Ðảng và trong tổ chức, hoạt
động của Nhà nước. Hội nghị Trung ương 9, (khoá IX) của Đảng ta đã nhấn mạnh: phải thực hiện đúng đắn
nguyên tắc tập trung dân chủ trên cơ sở thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng.
2. Nội dung, bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ :
2-2
Đảm bảo nguyên tắc tập trung chủ là vấn đề sống còn của Đảng trong giai đoạn hiện nay. Bài học từ sự
sụp đổ của các Đảng cộng sản Liên xô và Đông âu cho thấy rằng việc vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc
tập trung dân chủ là một trong những nguyên nhân làm giảm sút sức chiến đấu của Đảng, làm tan vỡ Đảng
về mặt tổ chức. Chương II, điều 9 - Điều lệ Đảng chỉ rõ “Đảng cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc
tập trung dân chủ”. Nội dung cơ bản của nguyên tắc đó bao gồm :
Một là cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách.
Hai là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng ta là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo ỡ mỗi
cấp là đại hội đại biểu hoặc Đại hội Đảng viên. Giữa 2 kỳ Đại hội cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban chấp

hành Trung ương, ở mỗi cấp là Ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp ủy)
Ba là cấp ủy các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước đại hội cùng cấp, trước
cấp uỷ cấp trên và cấp dưới, định lỳ thông báo tình hình hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực
thuộc, thực hiện tự phê bình và phê bình
Bốn là tổ chức Đảng và Đảng viên phải chấp hành Nghị quyết của Đảng . Thiểu số phục tùng đa số,
cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội
đại biểu toàn quốc và Ban chấp hành Trung ương
Năm là Nghị quyết của các cấp cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi có hơn một nửa
số thành viên trong cơ quan đó tán thành. trước khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của
mình. Đảng viên có y kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp trên cho đến Đại hội
đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh Nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với
Nghị quyết của Đảng . cấp uỷ có thẩm quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó , không phân biệt đối xử với
Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số
Sáu là tổ chức Đảng quyết định các vấn đề thuộc về phạm vị quyền hạn của mình , song không được
trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước và Nghị quyết của cấp trên
Qua 6 nội dung trên, tính tập trung trên cơ sở dân chủ trong Đảng được thể hiện ở tính tự giác của
toàn thể đảng viên. Tính tập trung trong Đảng đòi hỏi Đảng phải có cương lĩnh, đường lối, mục tiêu cách
mạng thống nhất, được mọi tổ chức Đảng và đảng viên tuân thủ và thực hiện, toàn dân hướng vào phấn
đấu. Đảng phải có điều lệ thống nhất - Điều lệ chính là bộ luật của toàn Đảng mà mọi tổ chức Đảng và đảng
viên phải chấp hành vô điều kiện cả về mặt nhận thức và chấp hành. Tập trung trong Đảng còn đòi hỏi
Đảng phải có một cơ quan lãnh đạo thống nhất, đó là đại hội đại biểu toàn quốc, giữa 2 kỳ đại hội là Ban
chấp hành TW do đại hội bầu ra. Về mặt tổ chức, Đảng phải thống nhất về quy mô và hình thức tổ chức của
Đảng. Đảng phải có kỷ luật thống nhất mà mọi tổ chức Đảng, đảng viên không phân biệt đều phải chấp
hành nghiêm túc kỷ luật của Đảng, không có những đặc quyền đặc lợi.
Tính dân chủ trong Đảng được thể hiện ở nội dung toàn thể Đảng viên đều bình đẳng về quyền và lợi
ích, đều được tham gia trực tiếp hoặc thông qua đại biểu để thực hiện quyền của mình, thể hiện ý kiến của
mình trong mọi công việc của Đảng, khi thảo luận thì phải thực sự dân chủ, nhưng khi hành động thì thống
nhất trăm người như một. Tất cả những người có trách nhiệm trong Đảng và tất cả các cơ quan lãnh đạo
của Đảng đề do dân chủ bầu cử mà lập nên, đều có trách nhiệm thực hiện và báo cáo trước tổ chức đã bầu
ra mình và họ có thể bị bãi miễn bất kỳ lúc nào nếu không xứng đáng và không hoàn thành nhiệm vụ tổ

chức giao.
Có ý kiến xuyên tạc cho rằng tập trung đối lập với dân chủ. Cần phải nhận thức đúng đắn rằng tập
trung dân chủ thể hiện sự thống nhất hài hòa và biện chứng giữa hai mặt tập trung và dân chủ trong một sự
việc, một hiện tượng. Đó là những yếu tố không hề loại trừ lẫn nhau mà còn làm tiền đề cho nhau, lập thành
một chỉnh thể và là một tất yếu khách quan trong tổ chức và hoạt động của Ðảng. Chúng ta biết rằng ở đâu
có hoạt động của số đông, ở đó cần đến tổ chức, cần đến sự phân công, phối hợp, cần đến vai trò điều
khiển, chỉ huy của người nhạc trưởng như Mác nói. Ðảng Cộng sản là một Ðảng cách mạng, Ðảng chiến
đấu và Ðảng hành động, sức mạnh của tổ chức và hiệu quả của hoạt động trong toàn Ðảng chỉ có thể đạt
được khi dựa trên sức mạnh và hiệu quả của tập trung dân chủ, của việc thực hành dân chủ và tập trung
dân chủ một cách tự giác, thống nhất và nhất quán từ các cơ quan lãnh đạo đến mọi cán bộ, đảng viên. Có
dân chủ mới có sự thúc đẩy và phát huy tính chủ động, sáng tạo, mới nuôi dưỡng và phát triển được các tài
năng. Có tập trung mới tạo ra được sức mạnh chung, thống nhất ý chí và hành động vì mục tiêu chung của
cách mạng. Tập trung đúng đắn, hợp lý sẽ làm tăng sức mạnh của dân chủ. Dân chủ lành mạnh phải dựa
trên cơ sở tập trung. Tóm lại, giữa 2 mặt tập trung và dân chủ phải được coi trọng như nhau, không được
xem nhẹ mặt nào, không nên tuyệt đối hóa một mặt nào đều dẫn đến sai lầm nguy hiểm, có hại cho sự lãnh
đạo của Đảng
3. Tình hình và biện pháp thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ
2-4
Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, cùng với các chủ trương khác về đổi mới, chỉnh đốn Ðảng, Ðảng
ta đã khẳng định: Trong điều kiện là Ðảng duy nhất cầm quyền, việc thực hiện nghiêm túc, đúng đắn
nguyên tắc tập trung dân chủ trong Ðảng có ý nghĩa quyết định đối với việc thực hiện tập trung dân chủ
trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước và tạo lập phương thức lãnh đạo đúng đắn của Ðảng.
Thời gian qua, Đảng ta có nhiều chuyển biến tích cực trong việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ.
Chúng ta vẫn giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách, có tiến bộ trong
vệc thực hiện dân chủ trong xã hội, phát huy trí tuệ tập thể và sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết
toàn dân. Nhiều cấp ủy và tổ chức Đảng ở các cấp đã có không khí thảo luận cởi mở, thẳng thắn hơn….
Các cấp ủy Đảng thực hiện đúng chế độ hàng năm kiểm điểm công tác tự phê bình và phê bình. Đã kiểm
tra, phát hiện và xử lý nhiều vụ vi phạm kỷ luật Đảng và pháp luật của Nhà nước và bảo đảm sự đoàn kết
thống nhất trong Đảng….
Song, bên cạnh đó vẫn bộc lộ những mặt hạn chế như nhận thức và thực hiện nguyên tắc tập trung dân

chủ chưa tốt trong một số đảng viên và tổ chức cơ sở đảng. Có lúc,có nơi một số cán bộ và cấp ủy còn vi
phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, nặng nề về tập trung quan liêu, độc đoán thiếu dân chủ hoặc dân chủ
hình thức. Không ít nơi, tập thể chỉ là “bình phong” hợp thức hóa ý kiến người đứng đầu. Trong sinh hoạt
của nhiều cấp ủy và tổ chức Đảng chuẩn bị không chu đáo, thảo luận qua loa, Nghị quyết không cụ thể,
không tạo sự thống nhất cao trong nhận thức và hành động. Dân chủ không đi đôi với kỷ luật dẫn đến tình
trạng kỷ cương lỏng lẻo, nói và làm tùy tiện, chấp hành kỷ luật của Đảng, Nhà nước không nghiêm. Có nơi
lãnh đạo cấp trên có thiếu sót, sai lầm, cấp dưới thường ngại đấu tranh hoặc có đấu tranh cũng khó được
cấp trên tiếp thu sửa chữa nhưng cũng có nơi còn lợi dụng dân chủ để nói xấu, đả kích, làm mất uy tín, gây
nghi ngờ, chia rẽ nôi bộ… Ðại hội lần thứ IX của Ðảng đã nghiêm khắc nhận định: "Việc tổ chức thực hiện
nghị quyết, chủ trương, chính sách của Ðảng chưa tốt; kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm. Tình trạng tùy tiện,
thiếu ý thức tổ chức, kỷ luật và tinh thần trách nhiệm, không chấp hành chỉ thị, nghị quyết của Ðảng, pháp
luật, chính sách của nhà nước, báo cáo không trung thực, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ làm cho
một số nghị quyết của Ðảng khó vào cuộc sống ” “Một số tổ chức Đảng ở các cấp chưa được chỉnh đốn;
dân chủ bị vi phạm, kỷ luật, kỷ cương lỏng lẻo, nội bộ không đoàn kết; chất lượng sinh hoạt Đảng giảm sút”.
Một số vụ án thời gian qua từ Tamexco, đến Năm Cam rồi Lã Thị Kim Oanh, Cảng Hàng không Miền Trung
v.v buộc chúng ta suy nghĩ, nhìn nhận lại công tác thực hiện tập trung dân chủ trong Đảng. Tại sao có
những cán bộ sa đọa, thoái hóa, tham nhũng từ nhiều năm mà tổ chức cơ sở đảng và lãnh đạo cấp trên
vẫn không biết, vẫn đề bạt lên các chức vụ quan trọng? Mỗi cán bộ bổ nhiệm, đề bạt, bầu cử đều qua cả
một hệ thống rà soát: Ban tổ chức, ủy ban kiểm tra, ban bảo vệ chính trị nội bộ, đảng ủy cơ quan, đảng ủy
khối mà sao vẫn sơ hở vậy? Đánh giá, phân loại đảng bộ đại đa số trong sạch, vững mạnh, đảng viên hầu
như 100% đủ tư cách, tại sao lại xảy ra tiêu cực, tham nhũng nghiêm trọng như thế?
Nguyên nhân của tình hình trên trước nhất là do chưa có sự thống nhất cao trong nhận thức về
nguyên tắc tập trung dân chủ, không ít cán bộ hiểu tách rời hai mặt hoặc nhấn mạnh một chiều “tập trung”
hoặc “dân chủ”. Bên cạnh đó, công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về nguyên tắc tập trung dân
chủ chưa được đặt ra đúng mức và thiếu những quyết định cụ thể phù hợp với từng lĩnh vực, từng ngành,
từng cấp, từng nơi. Tuy nhiên nguyên nhân sâu xa này là do một số cán bộ Đảng viên quen ỷ lại cấp trên,
quen chấp hành những hành động mang tính hình thức hoặc do chủ nghĩa cá nhân thực dụng, ít kỷ, vụ lợi
phát triển, trong khi đó công tác kiểm tra của chúng ta không thường xuyên nên đã ảnh hưởng không tốt
đến việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình trong Đảng….
Để khắc phục những tồn tại trên, chúng ta phải thực hiện đồng bộ các giải pháp như sau :

Một là phải có nâng cao nhận thức trong Đảng một cách đúng đắn và thống nhất về yêu cầu, nội
dung dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ.
Hai là phải có cơ chế đúng để đảm bảo việc nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, phải cụ thể
hóa nguyên tắc này thành các quy chế, quy định, kèm theo các chế tài cần thiết, càng cụ thể càng tốt để dễ
thực hiện và kiểm tra như : phải quy định thành chế độ cán bộ lãnh đạo các cấp đi làm việc trực tiếp ở cơ
sở, tiếp xúc với dân, đối thoại với quần chúng và cấp dưới, giải quyết kịp thời và dứt khoát những công việc
cấp bách. Phải quy định hết sức rạnh ròi, cụ thể trách nhiệm cá nhân trong việc thực hiện chế độ “tập thể
lãnh đạo, cá nhân phụ trách”, phải quy định rõ tất cả những vấn đề thuộc về chủ trương, biện pháp lớn nhất
thiết phải được tập thể cấp ủy hoặc tập thể chi bộ bàn bạc và quyết định; những vấn đề kế hoạch, biện
pháp cụ thể để thực hiện chủ trương đó thì giao cho cá nhân phụ trách, và có quyền tự giải quyết, nhưng
không trái với chủ trương, biện pháp của Đảng, của tập thể đã quyết . Phải bảo đảm các quyền của Đảng
viên, nhất là quyền được thảo luận một cách thẳng thắn các vấn đề về đường lối, chính sách của Đảng,
quyền được phê bình, chất vấn trong phạm vi tổ chức, về hoạt động của tổ chức Đảng và Đảng viên ở mọi
cấp. Đảng viên có quyền được thông tin, được quyền bảo lưu ý kiến.
Ba là phải chấp hành nghiêm túc các quy định về chế độ báo cáo, tự phê bình và phê bình. Phải phát
hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh các tổ chức Đảng và cán bộ Đảng viên vi phạm nguyên tắc tập trung dân
chủ, những người có thái độ trấn áp, trù dập người phê bình hoặc lợi dụng phê bình để đả kích, vu cáo
người khác gây chia rẽ mất đoàn kết.
Bốn là phải tăng cường kiểm tra của cấp ủy cấp trên đối với việc thực hiện dân chủ và nguyên tắc
tập trung dân chủ của cấp ủy cấp dưới là một biện pháp hữu ích về nhiều mặt. Kiểm tra vừa nhằm phát
hiện, chấn chỉnh các sai phạm, vừa giúp cấp ủy cấp trên tổng kết thực tiễn, kịp thời tháo gỡ các vướng mắc
của cấp dưới, bổ sung các quy chế để áp dụng chung. Vì thế, kiểm tra việc thực hiện dân chủ và nguyên
tắc tập trung dân chủ phải là một nội dung trọng yếu trong công tác kiểm tra kỷ luật đảng.
Năm là trong công tác cán bộ, cần quy định cụ thể tiêu chuẩn cho từng chức danh cán bộ. Việc giới
thiệu người để bầu vào cấp ủy phải được tiến hành từ cơ sở. Bổ nhiệm cán bộ phải hỏi ý kiến của cơ sở và
lấy phiếu tín nhiệm từ cơ sở. Việc đánh giá cán bộ nhất thiết phải hỏi ý kiến cấp quản lý cán bô, hỏi ý kiến
quần chúng và cấp dưới, cùng những người có quan hệ, có hiểu biết về cán bộ đó, trực tiếp với cán bộ đó.
Mọi quyết định về bổ nhiệm, đề bạt cán bộ phải là của tập thể. Phải bảo đảm các điều kiện để dân chủ thực
chất, khắc phục dân chủ hình thức, hợp thức hóa ý định của người đứng đầu. Mặt khác, trách nhiệm cá
nhân trong công tác cán bộ phải rõ.

Để thực hiện được các giải pháp trên, trước hết cán bộ cấp trên, cán bộ lãnh đạo phải gương mẫu,
các cơ quan kiểm tra giám sát phải tích cực hoạt động. Nhưng vấn đề cực kỳ quan trọng là phải có sự giám
sát thường xuyên của quần chúng, có sự đấu tranh của công luận. Tùy vấn đề và ở từng mức độ, phạm vi
thích hợp, phải thực hiện công khai các hoạt động của Đảng, của những người lãnh đạo các cấp. Đặc biệt
chú trọng công khai tài chính, công khai chế độ đãi ngộ, công khai các ý kiến khác nhau, công khai xử lý kỷ
luật, chấm dứt tình trạng giữ bí mật, “xử lý nội bộ” những trường hợp đã rõ là phạm pháp.
Thực tế cho thấy rằng thông thường trong công tác hoặc trong sinh hoạt đảng thường nảy sinh những
ý kiến khác nhau, tranh cãi thì có người cho rằng đó là dấu hiệu mất đoàn kết, không thống nhất nội bộ, vội
quy chụp khuyết điểm về lập trường quan điểm. Có người chủ toạ cuộc họp khi thấy những ý kiến khác
nhau thì tìm cách tránh né, dung hoà ý kiến, kết luận không dứt khoát để không mất lòng ai. Mặt khác, có
người khi thấy ý kiến của mình không được cấp trên chấp nhận, không được đa số đồng tình, mặc dù
không thông đã vội xin rút lui, không tranh luận đến cùng, không dám bảo lưu ý kiến, để khỏi va chạm với
cấp trên, với đa số. Hoặc một số người trong hội nghị không dám nói thẳng, nói hết suy nghĩ của mình
nhưng ra ngoài hội nghị lại bàn tán vô tổ chức, truyền bá ý kiến riêng của mình, gây mất đoàn kết nội bộ. Đó
là những thái độ không đúng với nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt đảng nhưng lại khá phổ biến
ở một số nơi. Để thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong đảng, người đứng đầu tổ chức đảng giữ
vai trò đặc biệt quan trọng trong vấn đề này. Người lãnh đạo hiểu rõ ý nghĩa của dân chủ, tầm quan trọng
của việc thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ sẽ chủ động, tích cực tìm ra và tổ chức thực hiện tốt
nguyên tắc này, tạo lập trong cấp ủy và tổ chức đảng bầu không khí dân chủ, lành mạnh, mọi người mạnh
dạn nói thẳng, nói đúng, nói hết suy nghĩ của mình, chăm lo giữ gìn sự đoàn kết, nhất trí cả khi thuận lợi,
thành công lẫn lúc gặp khó khăn, thất bại. Mặt khác, rèn luyện, đề cao tính trung thực, bản lĩnh và năng lực
chính trị, chuyên môn của đảng viên là rất quan trọng bởi vì chỉ có đạo đức trong sáng, trí tuệ sâu sắc và
tinh thần dũng cảm mới có thể thực hiện đúng và phát huy tốt tác dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong
sinh hoạt đảng.
Tóm lại, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Ðảng không những là vấn đề cốt tử, sống
còn của Ðảng mà còn là nhân tố bảo đảm sự lãnh đạo bền vững của Ðảng đối với Nhà nước và xã
hội. Ý thức đầy đủ, sâu sắc điều này là điều kiện đầu tiên để toàn Ðảng tích cực nghiên cứu lý luận,
tổng kết thực tiễn, tìm tòi những hình thức, biện pháp thích hợp hơn để mở rộng dân chủ và thực
hành nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ trong Ðảng. Chúng ta tin tưởng sâu sắc rằng, với trí tuệ
và bản lĩnh chung của toàn Ðảng, với sự ủng hộ của nhân dân, các đảng cộng sản cầm quyền sẽ

luôn là chính đảng kiểu mẫu về dân chủ, về đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động
Câu 3 : Đặc điểm của Đảng cầm quyền
Bài làm
1. Định nghĩa Đảng cầm quyền
Khái niệm Đảng cầm quyền chỉ rõ đặc điểm, vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản trong giai
đoạn cách mạng mà giai cấp công nhân đã giành được chính quyền, thiết lập hệ thống chính trị mới và
tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vị trí đảng cầm quyền là bước trưởng thành vượt bậc, tạo ra thế và
lực mới để Đảng có thể lãnh đạo nhân dân tiến tới những thắng lợi cách mạng to lớn hơn. Tuy nhiên, lý
luận về Đảng cầm quyền là vấn đề còn mới và khó. Thực tế cho thấy mặc dù CNXH đã tồn tại trên 80 năm
nhưng sụp đổ của các Đảng cộng sản cầm quyền tại những nước XHCN ở Đông Âu và Liên xô đã đặt ra
hàng loạt vấn đề thực tiễn và lý luận về Đảng cộng sản cầm quyền. Để củng cố và giữ vững vị trí, vai trò
2-82-8
lãnh đạo của Đảng cầm quyền, cần phải nghiên cứu để vận dụng sáng tạo đúng đắn học thuyết Mác-Lênin
và tư tưởng Hồ chí Minh về Đảng cách mạng của giai cấp công nhân vào điều kiện cụ thể của nước ta.
2. Phân tích 3 đặc điểm của Đảng cầm quyền
Đảng cộng sản cầm quyền có 3 đặc điểm chính sau đây:
Một là nhiệm vụ chính trị của Đảng đã thay đổi căn bản. Từ chưa có chính quyền đến có chính
quyền là một bước ngoặc căn bản của cách mạng, là một bước phát triển mới về chất đối với sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân. Trước đây khi chưa có chính quyền, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng là thuyết
phục, vận động nhân dân thấy sự đúng đắn của cương lĩnh và sách lược của mình để lãnh đạo nhân dân
đánh đổ đế quốc và phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân. Khi có chính quyền thì nhiệm vụ chủ
yếu, trọng tâm của Đảng là tổ chức xây dựng, quản lý, phát triển đất nước trên mọi lĩnh vực. Chủ nghĩa xã
hội từ lĩnh vực lý luận đã chuyển sang lĩnh vực thực tiễn. Trong tình hình đó, khó khăn là ở chỗ phải hiểu rõ
những đặc điểm của bước chuyển từ nhiệm vụ chủ yếu là thuyết phục nhân dân và dùng vũ lực quân sự
trấn áp, bóc lột sang nhiệm vụ chủ yếu là tổ chức, quản lý kinh tế - xã hội.
Tổ chức quản lý kinh tế - xã hội là một việc hết sức khó khăn đòi hỏi tính khoa học và nghệ thuật cao.
Hơn nữa đây cũng là một công việc hết sức mới mẻ và phức tạp, không thể không trải qua một thời kỳ khó
khăn mò mẫm, thử nghiệm và vấp váp. Lênin nói: “sự xuất hiện của một giai cấp mới trên vũ đài lịnh sử, với
tư cách là người lãnh tụ và người lãnh đạo xã hội không bao giờ diễn ra mà lại không có một thời kỳ ‘tròng
trành’ hết sức dữ dội, một thời kỳ chấn động, đấu tranh và bão táp, đó là một mặt; Mặt khác không bao giờ

diễn ra mà lại không có một thời kỳ mò mẫn thử nghiệm, do dự, ngả nghiêng trong việc lựa chọn những
phương pháp mới đáp ứng tình hình thế giới khách quan mới”. (Lênin toàn tập, NXB sự thật, Tập 36, Trang
259). Tình hình đó đòi hỏi trong suốt quá trình lãnh đạo, bên cạnh việc học tập kinh nghiệm xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở các nước XHCN đi trước, Đảng cầm quyền phải luôn tổng kết thực tiễn, đúc kết phát triển
thành lý luận, để dựa vào đó xây dựng đường lối, chính sách lãnh đạo phù hợp, giải đáp đúng những vấn
đề do thực tiễn đặt ra với tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, giảm đến mức thấp nhất những sai lầm, vấp
váp.
Hai là Đảng lãnh đạo trong điều kiện có nhà nước XHCN. Giành được chính quyền, Đảng cộng
sản phải thiết lập nhà nước XHCN nhằm lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân lao động tiếp tục thực
hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình. Đây là bước ngoặt lớn đưa vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng lên
tầm cao mới về thế và lực.
Đảng cầm quyền lãnh đạo xã hội, lãnh đạo nhân dân chủ yếu thông qua nhà nước và bằng nhà
nước. Vì vậy khái niệm đảng cầm quyền có nội hàm chủ yếu là đảng xây dựng và lãnh đạo chính
quyền, phát huy vai trò chính quyền để quản lý đất nước, quản lý kinh tế - xã hội theo Hiến pháp và
pháp luật. Đồng thời với việc lãnh đạo chính quyền, đảng cầm quyền phải xây dựng, lãnh đạo các tổ
chức khác trong hệ thống chính trị, phát huy vai trò Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội, phối
hợp hoạt động của toàn bộ hệ thống chính trị hướng vào những mục tiêu chung.
Trong hệ thống chính trị của chủ nghĩa xã hội nhà nước giữ vị trí trung tâm và có vai trò cực kỳ
quan trọng. Nhà nước chính là tổ chức tập trung nhất để thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân
dân, Nhà nước XHCN còn mang đặc điểm là nhà nước của dân, do dân, vì dân. Hiệu lực quản lý của
nhà nước có liên quan rất lớn đến vai trò, năng lực lãnh đạo của Đảng.
Tuy nhiên, cần phải nhận thức rõ rằng Đảng cầm quyền hoàn toàn không phải là "đảng trị". Đảng
không phải là cơ quan quyền lực nhà nước, bộ máy cai trị dân. Đảng không đứng trên Nhà nước,
không đứng trên pháp luật mà Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Sự lãnh
đạo của Đảng thể hiện qua việc đề ra đường lối chiến lược, chính sách lớn đối với tất cả lĩnh vực
của đời sống kinh tế xã hội nhằm hướng đến mục tiêu chung là giữ vững độc lập dân tộc và xây
dựng thành công CNXH. Sự lãnh đạo của Đảng còn xác lập dựa trên việc xây dựng một bộ máy nhà
nước trong sạch, vững mạnh, thật sự của dân, do dân và vì dân. Đảng đề ra nguyên tắc, tư tưởng
chỉ đạo, xây dựng và tổ chức hoạt động của nhà nước. Đảng kiểm tra nhà nước và hệ thống chí trị
thông qua việc kiểm tra Đảng viên, những người đang giữ những nhiệm vụ chủ chốt tronng bộ máy

chính quyền và thông qua quần chúng nhân dân. Đảng đề ra quan điểm toàn diện cho công tác cán
bộ : đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ và quyết định các chính sách lớn về cán bộ.
Có chính quyền là thuận lợi cơ bản nhưng mặt khác, khi có chính quyền thì trong đảng cũng tiềm ẩn
nguy cơ chủ quan, tự mãn, quan liêu, đặc quyền đặc lợi, xa rời nhân dân mà Đảng cần tỉnh táo ngăn chặn,
phòng ngừa. Có chính quyền thì cán bộ Đảng viên được bố trí vào những cương vị, chức vụ chủ chốt trong
bộ máy nhà nước nhằm để thực hiện vai trò lãnh đạo của Đảng. Nhưng khi có chức, có quyền thì một bộ
phận cán bộ Đảng viên dễ lợi dụng chức quyền để làm việc sai trái như quan liêu, cửa quyền, hách dịch…
3-2
làm cho nhân dân oán ghét, uy tín của Đảng giảm sút. Hiện tượng này không gắn với bản chất của Đảng,
của nhà nước, nhưng nếu không có biện pháp ngăn chặn, nếu kỷ luật của Đảng, pháp luật của nhà nước
không nghiêm, không kịp thời khắc phục thì sẽ gây ra hậu quả khó lường.
Ba là phương pháp lãnh đạo của Đảng đã thay đổi. Khi Đảng cộng sản cầm quyền, cách mạng
chuyển sang một giai đoạn mới với tình hình, vai trò, nhiệm vụ mới, điều này đòi hỏi Đảng phải thay đổi
phương pháp lãnh đạo. Khi chưa có chính quyền, Đảng trực tiếp giải quyết mọi việc. Có chính quyền, có hệ
thống chính trị, Đảng phải sử dụng rộng rãi cả hệ thống chính trị để thực hiện nhiệm vụ trung tâm của Đảng
là lãnh đạo công cuộc xây dựng, trước hết là trên lĩnh vực kinh tế. Mặt khác, có chính quyền rồi, với tồn tại
đan xen của nhiều thành phần kinh tế, cuộc đấu tranh giai cấp vẫn tiếp tục nhưng để lãnh đạo các thành
phần giai cấp khác cùng hướng về một mục tiêu chung, Đảng cộng sản phải lãnh đạo bằng những hình
thức, phương pháp và biện pháp khác. Lênin chỉ ra rằng: “khi tình hình đã thay đổi và chúng ta phải giải
quyết những nhiệm vụ thuộc loại khác, thì không nên nhìn lại đằng sau và sử dụng những phương pháp
của ngày hôm qua” (VI Lênin toàn tập, NXB Tiến Bộ, Matxcơva, 1978, Tập 44, Trang 398)
Có chính quyền, Đảng cộng sản phải biết loại bỏ những phương pháp, hình thức không còn phù
hợp. Có những phương pháp, hình thức trước đây có tính chất phổ biến đến nay không còn phổ biến nữa
như phương pháp tuyên truyền vận động cá biệt đến từng nhà, từng người nay vẫn còn, nhưng phải sử
dụng rộng rãi bằng phương tiện thông tin đại chúng, sử dụng cả hệ thống chính trị của chủ nghĩa xã hội để
tuyên truyền giáo dục, vận động quần chúng hành động cách mạng có hiệu quả trên mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội mà trước hết là trên lĩnh vực kinh tế. Lênin đã cảnh báo những người cộng sản rằng: Ai muốn
dùng phương pháp cũ trong cuộc đấu tranh giành chính quyền để giải quyết những nhiệm vụ tổ chức thì
người đó sẽ phá sản hoàn toàn với tính cánh là nhà chính trị, là người XHCN.
Vì vậy cần phải sáng tạo những phương pháp, hình thức mới ngày càng phong phú. Đó là những

phương pháp, hình thức kết hợp giáo dục chính trị, tư tưởng với kích thích lợi ích kinh tế, kết hợp hài hoà
lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích xã hội, kết hợp giáo dục với hành chính và cưỡng bức, kết hợp chặt
chẽ công tác tư tưởng, công tác tổ chức và công tác kinh tế. Đảng cầm quyền đặc biệt chú trọng đến
phương pháp lãnh đạo thông qua nhà nước, phát huy vai trò, hiệu lực của nhà nước trong lĩnh vực thể chế
hoá đướng lối chính sách của Đảng bằng các hình thức, biện pháp quản lí của nhà nước.
3. Đặc điểm lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Đảng ta là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào
yêu nước, đã thể hiện tính tất yếu về kinh tế và tính tất yếu về chính trị ngay từ khi ra đời. Nhìn
chung, trong hơn 70 năm qua, cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng về cơ bản phản ánh
được ý chí, nguyện vọng và những lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả
dân tộc, đả không ngừng đưa cách mạng Việt Nam đi theo những phương hướng gắn liền độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn đó của cách mạng Việt Nam đã gắn bó Đảng ta với nhân dân
bằng cả chiều dài và cả chiều sâu lịch sử, không có lực lượng chính trị nào thay thế được. Nhân
dân ta tự giác thừa nhận sự lãnh đạo của Đảng rõ ràng không phải là do sự áp đặt, mà xét đến cùng
là do tính tất yếu khách quan của cách mạng nước ta.
Đảng ta trở thành đảng cầm quyền từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Nhưng đến 1975 với
thắng lợi trọn vẹn của cuộc kháng chiến chống Mỹ và nhất là từ khi thực hiện công cuộc đổi mới thì vấn đề
xây dựng Đảng cầm quyền đặt ra những yêu cầu bức xúc mới.
Đảng cộng sản cầm quyền ở nước ta ngoài những đặc điểm của một Đảng cộng sản cầm quyền,
còn có những đặc điểm riêng. Trước nhất, đó là Đảng duy nhất cầm quyền. Đảng có hệ thống chính trị-xã
hội, đặc biệt là nhà nước được xây dựng từ trung ương đến cơ sở, giúp Đảng thực hịên vai trò lãnh đạo
của mình. Có đội ngũ cán bộ Đảng viên đông đảo, nắm chức vụ chủ chốt trong bộ máy nhà nước. Các tổ
chức chính trị-xã hội và lực lượng nòng cốt giúp Đảng giữ lấy chính quyền, tuyên truyền trong quần chúng
nhân dân. Đảng là người chịu trách nhiệm về các mặt đời sống chính trị xã hội của quần chúng nhân dân,
sự phát triển của đất nước. Hai là Đảng có bề dày tri thức và kinh nghiệm trong lãnh đạo kháng chiến, xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Song do trong lãnh đạo xây dựng và quản lí đất nước còn nhiều mới mẻ. Lực lượng
của Đảng có bản lĩnh chính trị vững vàng (qua đấu tranh) nhưng có nhiều người không được đào tạo căn
bản, do đào tạo nhiều nguồn khác nhau nên có nhiều ý kiến khác nhau, chưa thống nhất cao dẫn đến nảy
sinh bệnh bảo thủ giáo điều… Ba là Đảng lãnh đạo xây dựng đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội với nhiều khó
khăn phức tạp. Bốn là Đảng lãnh đạo nhà nước pháp quyền đang xây dựng và hoàn thiện, hệ thống pháp

luật còn chồng chéo, lỏng lẻo, biện pháp giáo dục, thực hiện pháp luật chưa đến nơi đến chốn.
So với các Đảng cộng sản khác như Đảng cộng sản LX và đông âu thì Đảng ta có những đặc
điểm riêng như: ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã là một tổ chức cộng sản đoàn kết thống nhất, Đảng
có mối quan hệ máu thịt với giai cấp công nhân và nhân dân lao động (xuất thân của Đảng). Nhân
dân bao bọc, bảo vệ Đảng, tin Đảng, theo Đảng; cuộc cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của
3-3 3-4
Đảng là tự mình vì mình. Thể hiện tính độc lập, tự chủ cao về đường lối . mặc dù có lúc phải chịu sự
chi phối của các Đảng cộng sản nước lớn khác; lãnh tụ của Đảng là lãnh tụ của dân tộc, danh nhân
văn hoá thế giới-Hồ Chí Minh.
Từ thực tiễn cách mạng nước ta nhiều năm qua Đảng xác định rõ: Phát triển kinh tế là nhiệm vụ
trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Cương lĩnh chính trị của Đảng chỉ rõ Đảng phải thường
xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, coi đó là một quy luật tồn tại và phát triển của Đảng. Đảng cầm quyền cần
phòng ngừa nguy cơ thoái hoá biến chất. Trong sự nghiệp đổi mới, từ Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ Đại
hội VII, Đảng đã chỉ rõ thêm về 4 nguy cơ của Đảng cầm quyền: Tụt hậu về kinh tế, chệch hướng XHCN, tệ
quan liêu và tham nhũng, âm mưu "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch.
4. Ý nghĩa thực tiễn :
Nghiên cứu đặc điểm của Đảng cộng sản cầm quyền có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xây dựng
và củng cố Đảng trong giai đoạn hiện nay. Từ lý luận về Đảng cầm quyền, một số ý nghĩa thực tiễn đối với
nước ta cho thấy rằng Đảng cộng sản Việt Nam phải là Đảng duy nhất cầm quyền, điều này được thể hiện
trong Điều 4 Hiến pháp nước ta và sự khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng là một tất yếu khách quan.
Trước hết về mặt lý luận, chủ nghĩa Mác Lênin khẳng định rằng muốn thực hiện trọn vẹn sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân (giải phóng giai cấp và nhân loại, xây dựng một xã hội mới - xã hội XHCN - không
có áp bức, bóc bóc lột) thì chính Đảng của giai cấp công nhân phải là Đảng cầm quyền mới có thể thống
nhất ý chí của toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi công cuộc cách mạng đó. Bài học về sự sụp đổ hệ
thống XHCN ở Liên Xô và các nước Đông âu cho thấy rằng sự buông lỏng vai trò lãnh đạo của đảng là sai
lầm về nguyên tắc, là thủ tiêu sức mạnh của nhà nước và hệ thống chính trị, mở đường cho những phần tử
phản động cướp chính quyền, đưa đất nước trở lại con đường TBCN. Nhận định về vai trò của Đảng cộng
sản cầm quyền ở Trung Quốc, ông Giang Trạch Dân cũng chỉ ra rằng: "Ở một nước lớn đang phát triển có
nhiều dân tộc như nước ta, muốn hội tụ sức mạnh của hơn 1,2 tỷ dân, tiến lên theo mục tiêu hiện đại hoá
XHCN, phải có sự lãnh đạo kiên cường của ĐCS Trung Quốc. Nếu không, sẽ có thể trở thành rời rạc, chia

năm sẻ bảy, không chỉ không thực hiện được hiện đại hoá, mà tất yếu sẽ sa vào vực sâu hỗn loạn"
Thực tế 75 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam cũng đã chứng tỏ rằng chỉ có sự lãnh đạo duy nhất
của Đảng cộng sản Việt Nam mới có thể đưa cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi. Văn kiện Đại hội VIII đã
nêu rõ : “phải khẳng định sự lãnh đạo của đảng vì ở nước ta, không có sự lãnh đạo của Đảng thì không thể
có độc lập dân tộc, không có nhà nước của dân, do dân, vì dân. “ Nếu lúc bình thường vai trò lãnh đạo của
đảng là quan trọng thì ở những bước chuyển cách mạng vai trò đó lại càng quan trọng hơn. Những thắng
lợi và thành tựu, những thất bại và tổn thất của đất nước đều gắn liền với sự tồn vong của Đảng
Tuy nhiên, làm sao để Đảng có được năng lực cầm quyền, lãnh đạo hoàn thành sứ mệnh lịch sử
xây dựng thành công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc? Làm sao để nhân dân, xã hội tự nguyện thừa
nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, đoàn kết chặt chẽ xung quanh Đảng? Làm thế nào để Đảng luôn xứng
đáng là đội tiên phong cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc, mãi mãi không
thoái hoá biến chất?
Trước hết, phải nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng. Trách nhiệm của Đảng cầm quyền là
vạch ra được đường lối chính trị đúng đắn đưa cách mạng nước ta tiếp tục tiến lên mạnh mẽ, vững chắc.
Từ Đại hội VI đến nay, Đảng đã đề ra đường lối đổi mới đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã
hội, từng bước phát triển đi lên. Tuy nhiên, còn nhiều vấn đề mới đang đặt ra đòi hỏi phải được nghiên cứu
làm sáng tỏ hơn nữa về mô hình và con đường đi lên CNXH ở nước ta, về phát triển nền kinh tế thị trường
bảo đảm đúng định hướng XHCN, về kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, chấp
nhận phân hoá giàu nghèo ở mức độ hợp lý mà không phân cực quá lớn, phân hoá giai cấp dẫn đến chia
rẽ, xung đột xã hội v.v… Tất cả những điều đó đòi hỏi Đảng cầm quyền phải vững vàng về chính trị, tiêu
biểu về trí tuệ, nắm vững và biết vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu
được những tinh hoa tri thức tiên tiến của thời đại, đi sâu nghiên cứu tổng kết thực tiễn Việt Nam, vạch ra
đường lối, chủ trương, chính sách đúng và ngày càng được hoàn thiện. Điều quan trọng hàng đầu là không
để xảy ra sai lầm về đường lối dẫn đến nguy cơ tụt hậu và chệch hướng, kinh tế - xã hội không phát triển,
đời sống nhân dân không được cải thiện, nhân dân không ủng hộ Đảng thì vai trò của Đảng cầm quyền
không thể giữ vững.
Hai là để nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng cần phải phân định rõ chức năng lãnh đạo của Đảng
với nhiệm vụ tổ chức quản lý của nhà nước. Thời gian qua, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ
thống chính trị trước hết là với Nhà nước tuy đã có một bước đổi mới nhưng đòi hỏi phải tiếp tục nghiên
cứu sáng tỏ hơn nữa. Vừa phải nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng cầm quyền, vừa phát huy vai trò

của Nhà nước pháp quyền. Khắc phục tình trạng tổ chức đảng bao biện, ôm đồm, “lấn sân” hiện còn khá
phổ biến, cũng như tình trạng buông lỏng lãnh đạo của Đảng. Không thể chia cắt máy móc chức năng Đảng
lãnh đạo với chức năng Nhà nước quản lý, nhưng lại không thể lẫn lộn, trùng lắp về nhiệm vụ và trách
nhiệm.
3-6
Ba là phải có cơ chế tổ chức, giáo dục, quản lý tốt Đảng viên, nhất là đối với những đảng viên có
chức, có quyền. Đảng phải chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý tuyệt đối
trung thành với Tổ quốc và CNXH, có giác ngộ chính trị, có năng lực quản lý nhà nước, quản lý các lĩnh vực
đời sống xã hội, luôn gắn bó với nhân dân, có đạo đức và lối sống lành mạnh. Cần làm rõ thêm về tiêu
chuẩn đảng viên trong công cuộc đổi mới; làm rõ nhận thức về vấn đề lao động và bóc lột trong tình hình
mới. Với nền kinh tế nhiều thành phần, cơ cấu xã hội - giai cấp đã có những biến đổi đa dạng khác trước,
việc phát triển đảng làm sao vừa giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng vừa bảo đảm thu hút
được các phần tử ưu tú thuộc các thành phần xã hội.
Mặt khác, Đảng cầm quyền cần có đủ bản lĩnh và năng lực đấu tranh phòng và chống thoái hoá biến
chất về đạo đức lối sống mà trước hết là tệ nạn tham nhũng. Nguy cơ này đã được cảnh báo từ lâu, đã có
nhiều chỉ thị, nghị quyết, nhiều lời tuyên bố mạnh mẽ, nhưng trên thực tế kết quả làm được vẫn chưa nhiều.
Những cán bộ, đảng viên bất mãn, thoái hóa, biến chất, cơ hội được các thế lực thù địch coi là "cửa mở"
để tấn công sâu vào nội bộ của Đảng. Trong công cuộc đổi mới Đảng ta khởi xướng gần hai mươi năm qua
và quá trình hội nhập quốc tế, bên cạnh những thành tựu to lớn đạt được, Đảng ta cũng mất không ít cán
bộ, đảng viên. Sự mất mát đó quả thật là đau lòng nhưng đó là hệ quả của cuộc đấu tranh không khoan
nhượng để bảo vệ sự trong sáng của Đảng, bảo vệ lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Cần phải ý thức
được rằng sự trong sạch của bộ máy lãnh đạo Đảng có ý nghĩa quyết định đến sinh mệnh của Đảng. Đảng
cầm quyền cần có dũng khí và đủ năng lực đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tệ nạn tham nhũng, làm trong sạch
Đảng. Chỉ như vậy Đảng ta mới hoàn thành sứ mệnh của đảng cầm quyền mà nhân dân đã tin cậy giao
phó. Bên cạnh đó,
Bốn là phải thường xuyên củng cố, tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với quần chúng
nhân dân, bảo đảm quyền làm chủ thật sự của nhân dân. Xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, đó là mục tiêu của cách mạng và cũng trong quá trình đó mà Đảng được củng cố vững mạnh. Đảng có
trách nhiệm lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, với bộ máy trong
sạch, đội ngũ cán bộ, công chức am hiểu pháp luật, thành thạo nghiệp vụ, tận tuỵ thực thi nhiệm vụ. Phải

khắc phục cho được tình trạng bộ máy quan liêu, nặng nề, cồng kềnh, trách nhiệm không rõ ràng, thủ tục
phiền hà, đội ngũ cán bộ, công chức nhiều người năng lực yếu, đạo đức kém, sách nhiễu, tham nhũng.
Đảng chăm lo lãnh đạo xây dựng Mặt trận và các đoàn thể nhân dân đại diện cho ý chí nguyện vọng của
nhân dân, là cầu nối nhân dân với Đảng và Nhà nước. Sự vững mạnh của Đảng cầm quyền gắn bó chặt
chẽ với sự vững mạnh của toàn hệ thống chính trị mà Đảng là hạt nhân lãnh đạo.
Phải tổ chức và có cơ chế chính sách để nhân dân được tích cực tham gia xây dựng Đảng, tham gia
quản lý Nhà nước, được giám sát hoạt động và tư cách của cán bộ, đảng viên và các nhân viên công vụ.
Bầu cử các cơ quan quyền lực nhà nước một cách thật sự dân chủ, tạo điều kiện để cử tri thực hiện đầy đủ
quyền ứng cử, đề cử, bầu cử của mình. Nâng cao chất lượng dân chủ đại diện, đồng thời thực hiện tích
cực từng bước dân chủ trực tiếp. Những việc này mới được bắt đầu và cần làm mạnh mẽ hơn, hiệu quả
hơn.
Năm là phải thực hiện thật tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, đảo bảo sự đoàn kết thống nhất trong
toàn đảng
Tóm lại, sự thắng lợi của công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước những
năm qua cho thấy sự trưởng thành của Đảng cộng sản Việt Nam khi đã trở thành Đảng cầm quyền. Tuy
nhiên để giữ vững vai trò lãnh đạo ấy, Đảng còn phải tiếp tục tự đổi mới hoàn thiện để xứng đáng với sự
mong mỏi, niền tin của nhân dân và nhiệm vụ được trao cho.
Câu 4 : Đoàn kết thống nhất (liên hệ thực tiễn)
Bài làm
Sau 20 n m đ i m i n c ta, cùng v i s bi n đ i tích c c v kinh t là s bi n đ ng v k t c u giai t ng xã h i, chuy nă ổ ớ ở ướ ớ ự ế ổ ự ề ế ự ế ộ ề ế ấ ầ ộ ể
d ch trong m i giai t ng xã h i và vì v y trong ng c ng s n Vi t Nam c ng có s phân hóa nh t đ nh. ng tr c s bi n đ ngị ỗ ầ ộ ậ Đả ộ ả ệ ũ ự ấ ị Đứ ướ ự ế ộ
đó, vi c t ng c ng kh i đoàn k t th ng nh t trong đ ng là h t s c quan tr ng b i l s c m nh đoàn k t th ng nh t c a đ ng đangệ ă ườ ố ế ố ấ ả ế ứ ọ ở ẽ ứ ạ ế ố ấ ủ ả
đ ng tr c nh ng thách th c m i. ứ ướ ữ ứ ớ
1. Tại sao đoàn kết thống nhất là quy luật trưởng thành của Đảng
Khi đặt tiền đề lý luận cho việc thành lập Đảng cộng sản, C. Mác và Ph. Ăngghen đã khẳng định sự
đoàn kết luôn là sức mạnh của tổ chức. Tháng 10-1864, trong Điều lệ tạm thời của Hội liên hiệp công
nhân quốc tế, hai ông khẳng định “sự thành công của phong trào công nhân trong mỗi nước chỉ có thể được
bảo đảm bằng sức mạnh của sự thống nhất và sự tổ chức” .
Kế thừa tư tưởng đó, Lênin đã xác định vấn đề đoàn kết, thống nhất như một trong những nguyên tắc
quan trọng trong xây dựng đảng kiểu mới. Ông cho rằng : “Sự đoàn kết thống nhất trong Đảng bắt nguồn từ

bản chất của giai cấp công nhân và đó là nguồn sức mạnh vô địch và vô tận của Đảng”. Theo ông, đoàn kết
trong đảng là để tạo ra sự thống nhất ý chí và hành động. Ở bất kỳ giai đoạn nào đoàn kết thống nhất trong
3-8
đảng cũng hết sức quan trọng, đặc biệt trong giai đoạn Ðảng cầm quyền. Bởi vì, khi đã có chính quyền,
Ðảng trở thành lực lượng lãnh đạo toàn xã hội. Do đó, vấn đề đoàn kết, thống nhất trong đảng là tấm
gương và là hạt nhân để đoàn kết toàn dân trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Hành động chia
rẽ thiếu thống nhất trong đảng là giúp kẻ thù lợi dụng để phá hoại Ðảng.Lênin khẳng định : “một điều rõ
ràng là trong một nước đang thực hiện chuyên chính vô sản, thì một sự chia sẽ trong nội bộ giai cấp vô sản
hoặc giữa Đảng của giai cấp vô sản với quần chúng vô sản, không phải chỉ là nguy hiểm mà còn là cực kỳ
nguy hiểm, nhất là nếu trong nước đó, giai cấp vô sản lại chỉ là thiểu số nhỏ bé trong dân cư”.
T ngày thành l p, i u l đ u tiên c a ng ta đ c thông qua t i i h i I (tháng 3-1935), ghi rõ : ừ ậ Đ ề ệ ầ ủ Đả ượ ạ Đạ ộ ng là m t kh i th ngĐả ộ ố ố
nh t v t ch c, t t ng và hành ng; ng tuy t i không th a hi p v i nh ng xu h ng bè phái.ấ ề ổ ứ ư ưở độ Đả ệ đố ỏ ệ ớ ữ ướ Trong su t cu c đ i ho tố ộ ờ ạ
đ ng c a mình, Ch t ch H Chí Minh là hi n thân c a kh i đoàn k t th ng nh t toàn ng, toàn dân Vi t Nam và kh ng đ nh : “ộ ủ ủ ị ồ ệ ủ ố ế ố ấ Đả ệ ẳ ị oànđ
k t là truy n th ng c c l quý báu c a ng, c a nhân dân ta, là ngu n s c m nh vô t n, vô ch c a ngế ề ố ự ỳ ủ Đả ủ ồ ứ ạ ậ đị ủ Đả ", “ oàn k t là s c m nh, làĐ ế ứ ạ
then ch t c a thành công”ố ủ . Ng i cho r ng đoàn k t b t ngu n t nhi m v chính tr , đoàn k t chính là then ch t c a thành công “l cườ ằ ế ắ ồ ừ ệ ụ ị ế ố ủ ự
l ng đoàn k t đã giúp cách m ng Tháng 8 thành công, giúp kháng chi n th ng l i. L c l ng đoàn k t s đ ng viên nhân dân t B c đ nượ ế ạ ế ắ ợ ự ượ ế ẽ ộ ừ ắ ế
Nam đ u tranh đ th c hi n dân ch trong c n c. Vi c xây d ng kh i đoàn k t th ng nh t trong ng ph i đi đôi v i vi c quétấ ể ự ệ ủ ả ướ ệ ự ố ế ố ấ Đả ả ớ ệ
s ch ch ngh a cá nhân. Trong di chúc đ l i, Ng i c n d n l i toàn ng “ạ ủ ĩ ể ạ ườ ă ặ ạ Đả các ng chí t Trung ng n các chi b c n ph iđồ ừ ươ đế ộ ầ ả
gi gìn s oàn k t nh t trí c a ng”ữ ựđ ế ấ ủ Đả .
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Ðảng ta luôn luôn thấm nhuần tư tưởng của Lênin và chủ
tịch Hồ Chí Minh về đoàn kết, thống nhất trong Ðảng. Đảng ta coi sự đoàn kết thống nhất là sinh mệnh của
Đảng, là vấn đề sống còn của cách mạng, là cơ sở để thống nhất giai cấp, là điều kiện để đoàn kết toàn
dân và đưa cách mạng đến thắng lợi. Đảng luôn nhắc nhở các cấp bộ Đảng, toàn thể Đảng viên phải hết
sức quan tâm xây dựng và giữ gìn sự thống nhất trong Đảng như giữ gìn “con ngươi” của mắt mình.
L ch s cách m ng th gi i c ng nh cách m ng Vi t Nam đ u ch ng minh r ng đâu và lúc nào n i b Ð ng đoàn k t, nh t trí,ị ử ạ ế ớ ũ ư ạ ệ ề ứ ằ ở ộ ộ ả ế ấ
tr c h t là các c quan lãnh đ o, đ i ng cán b ch ch t c a Ð ng đoàn k t th ng nh t, thì đó, qu n chúng tin yêu và g n bó v i Ð ng.ướ ế ơ ạ ộ ũ ộ ủ ố ủ ả ế ố ấ ở ầ ắ ớ ả
Khi đó Ð ng s t p h p đ c l c l ng, quy t đ c qu n chúng quanh mình th c hi n th ng l i nhi m v cách m ng. Trái l i,ả ẽ ậ ợ ượ ự ượ ụ ượ ầ ự ệ ắ ợ ệ ụ ạ ạ
n u đâu, n i b Ð ng không đoàn k t, th ng nh t, thì không nh ng ch có h i trong n i b Ð ng mà còn làm cho qu n chúng không tinế ở ộ ộ ả ế ố ấ ữ ỉ ạ ộ ộ ả ầ
Ð ngả
Tóm l i,ạ đoàn k t th ng nh t là quy lu t tr ng thành c a ng, ng không th phát tri n v ng m nh n u nh trongế ố ấ ậ ưở ủ Đả Đả ể ể ữ ạ ế ư ở

ng x y ra tình tr ng chia r , bè phái. Ð c bi t g n 20 n m th c hi n công cu c đ i m i, tinh th n đoàn k t, th ng nh t, h n lúcĐả ả ạ ẽ ặ ệ ầ ă ự ệ ộ ổ ớ ầ ế ố ấ ơ
nào h t luôn đ c Ð ng ta đ t lên hàng đ u. T ng c ng đoàn k t nh t trí v chính tr , t t ng và t ch c trên c s h t t ng Mác -ế ượ ả ặ ầ ă ườ ế ấ ề ị ư ưở ổ ứ ơ ở ệ ư ưở
Lênin, đ ng l i quan đi m và nguyên t c t ch c c a Ð ng là v n đ s ng còn c a cách m ngườ ố ể ắ ổ ứ ủ ả ấ ề ố ủ ạ
2. Cơ sở để xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng
Để làm tốt việc xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, trước hết cần phải hiểu nội dung của
sự đoàn kết thống nhất ấy. Theo Lênin, đoàn kết có nghĩa là cùng bàn bạc thảo luận một cách dân chủ các
vấn đề lãnh đạo, sinh hoạt của Đảng. Nghị quyết đúng đắn phải được đa số thông qua và chấp hành một
cách triệt để. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đoàn kết là trong Đảng không có tình trạng “trống đánh xuôi, kèn
thổi ngược”, Đảng tuy nhiều người nhưng ý chỉ chỉ là một. Trong Đảng không phân chia thành những bộ
phận không muốn cùng nhau hợp tác, không có tình trạng bằng mặt mà không bằng lòng. Trong Đảng
không có mần móng để nảy sinh một tổ chức mới, không có những tập đoàn, cương lĩnh kế hoạch hành
động riêng. Đoàn kết là phải giải quyết tốt các mối quan hệ giữa đảng viên với đảng viên, đảng viên với tổ
chức Đảng, tổ chức Đảng cấp dưới với tổ chức Đảng cấp trên, các tổ chức Đảng với toàn Đảng, các tổ
chức Đảng với các tổ chức Đảng, tổ chức Đảng với hệ thống chính trị, Đảng với nhân dân, Đảng với vấn đề
quan hệ quốc tế. Phải xác định mối quan hệ cụ thể và bằng quy chế làm việc.
Sự đoàn kết, thống nhất trong Ðảng dựa trên cơ sở đấu tranh bảo vệ những nguyên tắc của
Ðảng, chứ không là một sự thỏa hiệp vô nguyên tắc. Ðảng chỉ có thể bảo đảm sự đoàn kết, thống
nhất thật sự trên cơ sở đấu tranh kiên quyết loại bỏ phần tử cơ hội chủ nghĩa, núp dưới chủ nghĩa
xã hội để chống lại chủ nghĩa xã hội; lợi dụng đổi mới của Ðảng để đưa đất nước đi chệch hướng
xã hội chủ nghĩa Ðoàn kết không có nghĩa là xuôi chiều mà phải thông qua trao đổi, thảo luận sẽ đi
đến nhất trí cao hơn
Từ thực tiễn vận dụng sáng tạo những tư tưởng của Mác – Lênin vào cách mạng Việt Nam, Đảng
ta đã tổng kết cơ sở để xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong đảng bao gồm các vấn đề chủ yếu
như sau :
Một là xây dưng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng phải dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng. Đây là vấn đề có ý nghĩa
quan trọng hàng đầu. Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cung cấp thế giới quan và phương
pháp luận khoa học để xem xét đánh giá đúng đắn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng và phản ánh lập
trường lợi ích của giai cấp công nhân của Đảng. Xa rời nó thì sẽ mất phương hướng và xa rời mục tiêu
đoàn kết của Đảng, dễ rơi vào đoàn kết theo kiểu phường hội, cục bộ địa phương chủ nghĩa. Quán triệt bài

4-2
học này đòi hỏi chúng ta cần phải nắm vững được vị trí, vai trò của đoàn kết thống nhất và tư tưởng cơ bản
của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng về đoàn kết; mỗi cán bộ Đảng viên phải quán
triệt sâu sắc đường lối, quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng để làm cơ sở cho đoàn kết thống nhất
trong tư tưởng và tổ chức; các cấp ủy phải đặc biệt coi trọng việc xây dựng chủ trương, nhiệm vụ và biện
pháp lãnh đạo đúng đắn phù hợp với tình hình đơn vị việc xây dựng chủ trương, nhiệm vụ chính trị và biện
pháp lãnh đạo đúng đắn phù hợp với tình hình thực tế của địa phương và đơn vị.
Hai là sự đoàn kết thống nhất trong Đảng dựa trên cơ sở tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc
tập trung dân chủ. Tập trung dân chủ bảo đảm cho Ðảng luôn thống nhất ý chí và hành động, đoàn kết
nhất trí, chống mọi sự chia rẽ. Có dân chủ mới có sự thúc đẩy và phát huy tính chủ động, sáng tạo, mới
nuôi dưỡng và phát triển được các tài năng, phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực
lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên. Có tập trung mới tạo ra được sức mạnh chung, thống nhất ý
chí và hành động vì mục tiêu chung của cách mạng. Càng đi sâu vào kinh tế thị trường, dân chủ hóa mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội, Ðảng càng cần giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ. Hiện nay, hơn lúc nào
hết càng phải kiên định, bảo vệ, phát triển và làm phong phú thêm nội dung phương thức thực hiện nguyên
tắc tập trung dân chủ. Xa rời nguyên tắc tập trung dân chủ là Đảng tự phá hoại sức mạnh về tổ chức của
mình. Các thế lực thù địch đang mong muốn chúng ta vấp phải những sai lầm đó.
Chấp hành nguyên tắc này cần thực hiện những yêu cầu sau : Trong sinh hoạt Đảng phải phát huy
dân chủ, tự do tư tưởng, mọi người được trình bày hết ý kiến của mình không bị một áp lực nào chi phối.
Muốn có đoàn kết thì khi đã nhất trí thì phải nói và làm theo đa số “khi đã có kết luận của tập thể, đã hoàn
thành nghị quyết tất cả mọi cán bộ, Đảng viên, không trừ một ai đều phải nói và làm theo nghị quyết của
Đảng” (NQ Hội Nghị lần thứ V của BCH TW khoá VI). Ý kiến trái ngược thì được bảo lưu, báo cáo cấp trên.
Mọi Đảng viên phải nêu cao ý thức tổ chức kỷ luật và việc tăng cường kỷ luật, góp phần tăng cường đoàn
kết thống nhất.
Ba là thường xuyên bồi dưỡng tình đồng chí thân ái cho cán bộ, Đảng viên, tình đồng chí trong
sáng đúng đắn và đi đến thống nhất trong hành động. Kinh nghiệm cho thấy với thái độ chân thành cởi
mở, tôn trọng nhau, biết thông cảm, khiêm tốn lắng nghe ý kiến của nhau, thường giúp đỡ nhau…
sẽ tao nên bầu không khí đoàn kết thoải mái trong tập thể, từ đó tạo điều kiện hoàn thành tốt nhiệm
vụ chung. Điều này cũng đòi hỏi các cấp ủy Đảng cần phải quan tâm giáo dục tư tưởng cách mạng
và xây dựng tình đồng chí trong sáng, mỗi đảng viên phải có thái độ chân thành cởi mở, tương trợ,

khiêm tốn, biết thông cảm và hết lòng giúp đở nhau vì nhiệm vụ chung
Bốn là thường xuyên và nghiêm túc tự phê bình và phê bình là một phương pháp căn bản để tăng
cường đoàn kết thống nhất trong Đảng. Lê nin coi tự phê bình và phê bình là một trong những tiêu chí
quan trọng để xem xét Đảng. Tự phê bình và phê bình vừa là quy luật phát triển, xây dựng củng cố
khối đoàn kết thống nhất trong Đảng, vừa là phương pháp có hiệu quả để giáo dục, rèn luyện cán bộ
Đảng viên. Do đó, cần phải có phương pháp, thái độ đúng đắn khi thực hiện tự phê bình và phê
bình. Chỉ có Đảng Mác xít chân chính mới có thái độ đúng đắn với sai lầm của mình. Đối với một
đảng “cứ giữ mãi sai lầm, đi sâu thêm để bào chữa cho nó, “đưa nó đến chỗ tột cùng” thì từ một sai
lầm nhỏ người ta luôn luôn có thể làm cho nó thành một sai lầm lớn ghê gớm”. Tất cả đảng viên
được thật sự tự do phê bình, nhưng phải tuân thủ phương châm giữ gìn sự đoàn kết thống nhất
trong đảng
Năm là xây dựng và bảo vệ hạt nhân lãnh đạo thật sự là trung tâm cho khối đoàn kết thống
nhất của Đảng. Chính vì vậy, Lênin đã khẳng định: “không có một trung tâm lãnh đạo thống nhất, không có
một cơ quan trung ương thống nhất thì không có thống nhất thật sự trong Đảng” (Lênin Toàn Tập, Tập 11,
NXB Tiến Bộ, 1979, Trang 210)
3. Hiện nay xây dựng khối đoàn kết thống nhất cần giải quyết những vấn đề gì ?
Trong V n ki n đ i h i IV, ng ta có t ng k t ch ra : ă ệ ạ ộ Đả ổ ế ỉ oàn k t là m t truy n th ng quý báu c a ng ta, s oàn k t yđ ế ộ ề ố ủ Đả ự đ ế ấ
c th thách và tôi luy n trong quá trình chi n u lâu dài, lúc thu n l i c ng nh lúc khó kh n, lúc cách m ng phát tri n bình th ngđượ ử ệ ế đấ ậ ợ ũ ư ă ạ ể ườ
c ng nh trong b c ngo c l ch sũ ư ướ ặ ị ử. Trong báo cáo đ i h i V, ng ta v ch rõ quan đi m là ạ ộ Đả ạ ể ng ta c ng có truy n th ng oàn k tĐả ũ ề ố đ ế
nh t trí v ng l i, s oàn k t th ng nh t c a ng c th hi n rõ trong BCH Trung ngấ ề đườ ố ựđ ế ố ấ ủ Đả đượ ể ệ ươ . Báo cáo Trung ng VI l n 2,ươ ầ
ng ta ti p t c kh ng đ nh: Đả ế ụ ẳ ị tr c tình hình bi n ng chính tr trên toàn th gi i và trong n c có nhi u di n bi n ph c t pướ ế độ ị ế ớ ướ ề ễ ế ứ ạ
nh ng ng ta v n ti p t c phát huy c truy n th ng cách m ng, có b n l nh chính tr và kiên nh v i m c tiêu lý t ng, nguyênư Đả ẫ ế ụ đượ ề ố ạ ả ĩ ị đị ớ ụ ưở
t c t ch c và nêu cao c tinh th n d c l p t chắ ổ ứ đượ ầ ộ ậ ự ủ.
Tuy nhiên, thời gian qua trong Đảng cũng đã có một số biểu hiện mất đoàn kết. Tuy mang tính cục bộ
và tạm thời nhưng những biểu hiện đó cũng phần nào làm giảm sút sức mạnh của Đảng. Đã có sự chưa
nhất trí cao một số vấn đề cơ bản cũng như một số vấn đề liên quan đến quan điểm qường lối, chủ trương,
chính sách lớn của Đảng. Một số nơi, nội bộ trong Đảng mất đoàn kết khá nghiêm trọng, chủ yếu do kèn
cựa địa vị, tranh giành chức quyền, lơi lộc, nhất à ở cán bộ chủ chốt. Có nơi vì mâu thuẫn cá nhân mà tập
hơp lực lượng, hình thành bè cánh trong Đảng và trong nhân dân để chống đối nhau, gây mất đoàn kết và
mất ổn định xã hội, giảm uy tín lãnh đạo. Có tình rạng khá phổ biến là trong hội nghị thì nhất trí nhưng ra

4-4
ngoài thì nói khác hoặc không chấp hành. Mất đoàn kết trong thường vụ cấp ủy, bí thư với chủ tịch, phó bí
thư, giữa bí thư với thủ trưởng, giám đốc ở các đơn vị. Mất đoàn kết giữa già với trẻ, cũ với mới, giữa cán
bộ nghĩ hưu và cán bộ đương chức.
Nguyên nhân mất đoàn kết là do ba nguyên nhân chủ yếu: một là do tư tưởng cá nhân chủ nghĩa
cục bộ địa phương, phe cánh, tranh giành chức vụ, chay chức quyền; hai là do không tôn trọng nguyên tắc
tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình mang tính hình thức dẫn đến đoàn kết kém, ba là do tư tưởng
gia trưởng, độc đoán, chuyên quyền chạy công. đổ lỗi. Từ 3 nguyên nhân trên, có thể kết luận rằng chủ
nghĩa cá nhân là nguyên nhân bao trùm xuyên suốt mà trung tâm là vì lợi ích cá nhân. Nếu ở đâu, nơi nào
mất đoàn kết kéo dài và nghiêm trọng điều đó chỉ xảy ra ở đội ngũ cán bộ chủ chốt. Những vụ mất đoàn kết
xảy ra trước bước ngoặc của lịch sử, đó là khi Đảng mới ra đời hay khi cách mạng chuyển giai đoạn từ thời
kỳ này đến thời kỳ khác.
Sự mất đoàn kết trong nội bộ Đảng cùng với sự sa sút phẩm chất chính trị đạo đức của một số Đảng
luôn là kẻ hở để những thế lực thù địch lợi dung để làm cái loa tuyên truyền cho chúng. Mượn những cán
bộ, đảng viên bất mãn, bất đồng ý kiến, cơ hội chính trị để công kích lại Đảng, dựa vào những cán bộ, đảng
viên thoái hóa, biến chất để chứng minh rằng "Đảng Cộng sản Việt Nam đang từng bước từ bỏ bản chất
giai cấp công nhân của mình" hoặc là "Đảng đang đổi màu" Chúng cũng rêu rao rằng Đảng Cộng sản Việt
Nam đang dần dần mất đi vai trò lãnh đạo và uy tín vì nhiều cán bộ, đảng viên của Đảng tiêu cực, tham
nhũng
Qua những bài học kinh nghiêm về vấn đề đoàn kết có một số vấn đề cần chú ý để xây dựng củng cố
khối đoàn kết thống nhất trong Đảng hiện nay là :
Một là kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa cơ hội Khi một Đảng đã có chính quyền
thì thường mất đi sự sàng lọc tự nhiên; mặt khác sự hấp dẫn của Đảng cầm quyền lại lớn, nên bọn
cơ hội thường tìm mọi cách chui vào Đảng. Chủ nghĩa cá nhân là nguồn gốc của chủ nghĩa cơ hội.
Sự rạn nứt đi đến tan rã là xu hướng vận động của một tổ chức trong đó có sự hoạt động của chủ
nghĩa vo chính phủ. Giữa chủ nghĩa vô chính phủ và chủ nghĩa cơ hội có quan hệ biện chứng với
nhau. Chủ nghĩa vô chính phủ là một biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội về mặt hình thức. Bè phái, phe
nhóm là cơ sở tồn tại của chủ nghĩa cơ hội trong Đảng. Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận:
“do chủ nghĩa cá nhân mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức kỉ luật, kém tinh thần trách nhiệm…” (Hồ
Chí Minh Toàn Tập, NXB CTQG, Hà Nội 1996, Tập 8, Trang 484) Đấu tranh chống chủ nghĩa bè phái,

cơ hội, bảo đảm sự đoàn kết thống nhất trong đảng đã trở thành vấn đề có tính nguyên tắc trong
xây dựng Đảng.
Hai là trong Đảng có sự khác nhau về ý kiến, về chủ trương, biện pháp … là điều bình thường,
nhất là trước những bước ngoặc của lịch sử.Đảng phải biết chờ đợi, bình tĩnh, dân chủ để giải quyết
những ý kiên khác nhau trong đó, không được để phát triển thành những bất đồng, xung đột cá
nhân
Ba là phải xóa bỏ tình trạng đặc quyền, đặc lợi về điều kiện sinh hoạt và các chế độ đãi ngộ
trong Đảng. Bất bình đẳng về lợi ích kinh tế không thể tạo nên sự thống nhất về tư tưởng cũng như hành
động.
Bốn là Đảng phải quan tâm xây dựng đường lối, chính sách đúng, có cơ chế tổ chức hợp lý, quy chế
làm việc rõ ràng, phong cách dân chủ, kiên quyết chống bệnh quan liêu, gia trưởng. Kinh nghiệm cho
thấy, ở đâu thiếu những điều kiện đó thì ở đó thiếu sự thống nhất về tư tưởng và tổ chức. Đường lối
đúng là cơ sở cho sự đoàn kết. Ngược lại, đường lối sai là nguồn gốc của sự phân tán, chia rẽ. Cơ
chế đ1ng đảm bảo cho bộ máy vận động thống nhất, ngược lại lại cơ chế sai tạo ra sự bao biện và
cả kẽ hở làm cho hành động không thống nhất. Chủ nghĩa quan liêu, gia trưởng, mất dân chủ không
thể tạo được bầu không khí cởi mở, thân ái trong tấp thể
Năm là Đảng cần có những biện pháp đặc biệt kiên quyết xử lý nghiêm minh kịp thời phát hiện
những việc mất đoàn kết. Từng đảng bộ chủ động ngăn chặn tình trạng mất đoàn kết, thiếu thống
nhất trong tập thể lãnh đạo. Những cấp uỷ, tổ chức đảng nào vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ,
cán bộ lãnh đạo độc đoán, chuyên quyền, kéo bè, kéo cánh, gây mất đoàn kết nội bộ thì cấp uỷ cấp
trên chỉ đạo kiểm điểm làm rõ đúng sai, kiện toàn tổ chức cán bộ, xử lý nghiêm những người có
khuyết điểm để sớm ổn định tình hình; nơi không có khả năng khắc phục thì phải giải tán về tổ
chức, lập tổ chức mới theo quy định của Điều lệ Đảng. Bố trí người đứng đầu phù hợp; thực hiện
tốt nguyên tắc tập trung dân chủ; có quy chế công tác rõ ràng chặt chẽ, nhất là công tác cán bộ;
thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống kèn cựa địa vị, cơ hội, cục bộ, bè phái… bồi
dưỡng tình thương yêu tôn trọng đồng chí, giúp đỡ lẫn nhau; phát hiện sớm hiện tượng mất đoàn
kết, giải quyết và xử lí dứt điểm
Tóm l i,ạ xây d ng kh i đoàn k t th ng nh t v ng ch c là quy lu t tr ng thành c a m t ng c ng s n chân chính. i h iự ố ế ố ấ ữ ắ ậ ưở ủ ộ Đả ộ ả Đạ ộ
đ i bi u toàn qu c l n th IX cho r ng: Th c hi n đ i đoàn k t là k th a truy n th ng quý báu c a dân t c, là đ ng l i chi n l c, làạ ể ố ầ ứ ằ ự ệ ạ ế ế ừ ề ố ủ ộ ườ ố ế ượ
ngu n s c m nh và đ ng l c to l n đ xây d ng và b o v t qu c. nh ng b c ngo t c a cách m ng, trong nh ng lúc khó kh n,ồ ứ ạ ộ ự ớ ể ự ả ệ ổ ố Ở ữ ướ ặ ủ ạ ữ ă

4-6
ph c t p, vi c gi v ng nguyên t c và s đoàn k t th ng nh t trong ng, tr c h t là c quan lãnh đ o cao nh t c a ng, có ýứ ạ ệ ữ ữ ắ ự ế ố ấ Đả ướ ế ở ơ ạ ấ ủ Đả
ngh a quy t đ nh s thành b i c a cách m ng. Ngày nay, trong đi u ki n m i, m i cán b , đ ng viên càng ph i nêu cao tinh th n đoàn k t,ĩ ế ị ự ạ ủ ạ ề ệ ớ ọ ộ ả ả ầ ế
ý th c gi gìn s th ng nh t c a ng. S đoàn k t th ng nh t trong ng đ c xây d ng trên c s đ ng l i chính tr đúng đ n,ứ ữ ự ố ấ ủ Đả ự ế ố ấ Đả ượ ự ơ ở ườ ố ị ắ
tình c m cách m ng trong sáng c a nh ng ng i đ ng chí th ng yêu nhau, đ ng th i th c hi n nghiêm túc các nguyên t c t ch c vàả ạ ủ ữ ườ ồ ươ ồ ờ ự ệ ắ ổ ứ
sinh ho t ng; th c hi n chính sách cán b m t cách nh t quán, công b ng.ạ Đả ự ệ ộ ộ ấ ằ
Thực tiễn tại địa phương :
Muốn đoàn kết : tổ chức đoàn thể phải vững mạnh, dân chủ hóa mọi mặt hoạt động, trong đó phải có cơ
chế phản ánh và tiếp thu phản ánh phải giải quyết tới nơi, tới chốn mọi mâu thuẩn, thắc mắc theo từng cấp
(từ bí thư ) Thủ trưởng, lãnh đạo phải có phương châm làm việc chí công vô tư, tôn trọng ý kiến, chú ý
đến quyền lợi dù là nhỏ của từng người. Xóa triệt để những hiện tượng bè phái, cơ hội, đề bạt sai Phát
huy vai trò giám sát của quần chúng, lựa chọn người đứng đầu phải có phẩm chất tốt là trung tâm đoàn kết
nội bộ. Hoạt động của đơn vị phải đảm bảo : chính quyền phải chí công, vô tư, đảng phải nắm vững tư
tưởng, hiểu và biết cách giáo dục, rèn luyện cán bộ, công đoàn phải chăm lo tốt đời sống, là trung tâm
đoàn kết thương yêu giúp đở nhau
Câu 5 : Tổ chức cơ sở Đảng
Bài làm
ng c ng s n Vi t Nam, đ i tiên phong c a giai c p công nhân Vi t Nam, là m t đ i ng th ng nh t v chính tr , t t ng và có tĐả ộ ả ệ ộ ủ ấ ệ ộ ộ ũ ố ấ ề ị ư ưở ổ
ch c ch t ch , khoa h c. Tính t ch c c a ng th hi n tr c tiên ch ng là m t h th ng các c p t ch c t trung ng đ n cứ ặ ẽ ọ ổ ứ ủ Đả ể ệ ướ ở ỗ Đả ộ ệ ố ấ ổ ứ ừ ươ ế ơ
s , đ c xây d ng theo nguyên t c t p trung dân ch . Trong h th ng đó, các t ch c c s - chi b c s và ng b c s - dù đ c thành l pở ượ ự ắ ậ ủ ệ ố ổ ứ ơ ở ộ ơ ở Đả ộ ơ ở ượ ậ
lo i hình đ n v c s nào trong xã h i đ u có vai trò là ở ạ ơ ị ơ ở ộ ề “n n móng”ề c a ng, là h t nhân chính tr c s , là s i dây chuy n c a ng liên hủ Đả ạ ịở ơ ở ợ ề ủ Đả ệ
v i qu n chúngớ ầ Các t ch c c s đ ng tr c ti p ti n hành các ho t đ ng xây d ng ng v ng m nh v chính tr , t t ng và t ch c, đ mổ ứ ơ ở ả ự ế ế ạ ộ ự Đả ữ ạ ề ị ư ưở ổ ứ ả
b o đ ng l i, chính sách c a ng, pháp lu t c a Nhà n c đ c th c hi n có hi u qu và tr thành hi n th c. Vì v y, xây d ng các t ch cả ườ ố ủ Đả ậ ủ ướ ượ ự ệ ệ ả ở ệ ự ậ ự ổ ứ
c s đ ng trong s ch, v ng m nh, có n ng l c lãnh đ o toàn di n, s c chi n đ u cao là nhi m v r t quan tr ng, c p thi t góp ph n xâyơ ở ả ạ ữ ạ ă ự ạ ệ ứ ế ấ ệ ụ ấ ọ ấ ế ầ
d ng ng v ng m nh toàn di n, hoàn thành th ng l i nhi m v trong m i tình hu ngự Đả ữ ạ ệ ắ ợ ệ ụ ọ ố
1. Tổ chức cơ sở đảng là gì
Khái niệm tổ chức cơ sở Đảng được Đảng ta ghi rõ ở Điều 21 - Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam. Tổ chức
cơ sở Đảng là đơn vị cơ sở (xã, phường, thị trấn, cơ quan, hợp tác xã, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp, đơn vị cơ
sở trong quân đội, công an và các đơn vị cơ sở khác) có từ 3 đảng viên chính thức trở lên. Tổ chức cơ sở Đảng
dước 30 đảng viên lập chi bộ cơ sở có các tổ chức Đảng trực thuộc. Tổ chức cơ sở Đảng có từ 30 đảng viên trở

lên, lập Đảng bộ cơ sở, có các chi bộ trực thuộc Đảng ủy. Những trường hợp lập Đảng bộ cơ sở trong đơn vị cơ
sở chưa đủ 30 đảng viên, lập chi bộ trực thuộc Đảng ủy, cơ sở có hơn 30 đảng viên lập Đảng ủy bộ phận trực
thuộc Đảng ủy cơ sở, cấp ủy cấp dưới phải báo cáo và được cấp ủy cấp trên đồng ý mới thực hiện.
Theo quy định trên, khái niệm tổ chức cơ sở Đảng được gọi chung cho cả Đảng bộ cơ sở và chi bộ cơ sở
tuỳ thuộc vào số lượng đảng viên và yêu cầu nhiệm vụ cụ thể từng đơn vị cơ sở.
2. Phân tích nội dung vị trí quan trọng, chức năng của tổ chức cơ sở Đảng ?
Đảng cộng sản Việt Nam và chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm xây dựng tổ chức cơ sở Đảng. Dù ở
bất kỳ giai đoạn cách mạng nào, Đảng ta luôn khẳng định tổ chức cơ sở Đảng là nền tảng của Đảng, là hạt nhân
chính trị ở đơn vị cơ sở “mỗi chi bộ của Đảng, phải là hạt nhân lãnh đạo quần chúng ở cơ sở, đoàn kết chặt chẽ,
liên hệ mật thiết với quần chúng, phát huy được trí tuệ và lực lượng vĩ đại của quần chúng” (Hồ Chí Minh Toàn
Tập, Tập 11, NXB CTQG, HN 2000, Trang 23).
Vị trí, vai trò của tổ chức cơ sở Đảng được khái quát ở những nội dung sau:
Tổ chức cơ sở Đảng là nơi nối liền các cơ quan lãnh đạo cấp trên của quần chúng, là chiếc cầu, là bản lề
gắn bó Đảng với dân. Mọi tậm tư, nguyện vọng chính đáng cùa dân vì thế được phản ánh kịp thời lên tổ chức
Đảng cấp trên thông qua chi bộ cơ sở, Đảng bộ cơ sở. Tổ chức cơ sở Đảng là nơi thể hiện toàn diện, trực tiếp và
cụ thể nhất mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với Dân; là nơi nhân dân thực hiện và phát huy quyền làm chủ
của mình trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội ở cơ
Tổ chức cơ sở Đảng là nơi trực tiếp đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng vào quần chúng, khơi
dậy trí tuệ và nguồn lực của dân, sở và tổ chức cho quần chúng thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, chính
sách đó. .
Tổ chức cơ sở Đảng còn là nơi trực tiếp giáo dục, rèn luyện, kết nạp và sàng lọc đảng viên; nơi đào tạo cán
bộ cho Đảng; nơi xuất phát để cử ra cơ quan lãnh đạo cấp trên của Đảng; là cửa ngõ quan trọng bảo đảm tính
tiên phong, tính trong sạch của Đảng ta.
Trong điều kiện đất nước hòa bình thống nhất cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta luôn coi các tổ chức
cơ sở Đảng là các tổ chức nền tảng, là những đơn vị chiến đấu cơ bản những tế bào của Đảng, chất lượng các
Đảng bộ cơ sở là yếu tố tạo nên chất lượng lãnh đạo của Đảng đối với quá trình cách mạng, đến uy tín của Đảng
trước quần chúng nhân dân. Từ những bài học thành công và chưa thành công của tổ chức cơ sở Đảng, Đảng ta
đã nhận định: “những thành tựu đã đạt được, những tiềm năng đã khai thác, những kinh nghiệm có giá trị đều bắt
nguồn từ sự nỗ lực phấn đấu của quần chúng ở cơ sở mà hạt nhân là tổ chức cơ sở Đảng, nhưng mặt khác, sự
yếu kém của nhiều tổ chức cơ sở Đảng đã hạn chế những thành tựu của cách mạng”. Sự nhận định đó càng làm

sâu sắc thêm nhận định của chủ tịch Hồ Chí Minh: “Chi bộ là nền móng của Đảng, chi bộ tốt thì mọi việc sẽ tốt”.
Hiện nay đất nước ta phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của nhà nước, vai
trò của tổ chức cơ sở Đảng càng trở nên quan trọng. Nghị Quyết đại hội lần thứ 5 BCH TW khoá VI đã nêu: “trong
điều kiện chuyển sang thực hiện cơ chế quản lý mới, phát huy vai trò chủ động sáng tạo của các đơn vị kinh tế cơ
sở, mở rộng dân chủ XHCN, các tổ chức cơ sở Đảng phải thực sự làm hạt nhân lãnh đạo chính trị trong các tập
thể lao động”…Với vai trò đó, các Đảng bộ cơ sở phải nâng cao chất lượng trong hoạt động thực tiễn của mình,
bảo đảm cho công cuộc đổi mới được thực hiện trên thực tế ở đơn vị cơ sở, đồng thời, từ thực tiễn cuộc sông
đóng góp ý kiến với Đảng, nhà nước hoàn chỉnh đường lối chủ trương, chính sách và pháp luật.
3. Tại sao trong giai đoạn hiện nay phải nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở Đảng ?
Bước vào công cuộc đổi mới toàn diện do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đang đặt ra những yêu cầu ngày
càng cao đối với chất lượng các tổ chức cơ sở Đảng. Hiện nay, toàn Đảng có gần 47.000 tổ chức cơ sở đảng,
trong đó có 10.637 tổ chức cơ sở đảng ở xã, phường, thị trấn, chiếm 22,6% tổng số tổ chức cơ sở đảng nhưng
chiếm trên 70% tổng số đảng viên của toàn Đảng và là nơi tuyệt đại bộ phận nhân dân cư trú, sinh sống. Do vậy,
tổ chức cơ sở đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị ở xã, phường, thị trấn có vững mạnh thì huyện, tỉnh
mới vững mạnh và ngược lại, nếu cơ sở mất ổn định, hệ thống chính trị yếu kém thì sẽ ảnh hưởng toàn diện, trực
tiếp đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội ở địa phương
Về ưu điểm, phần lớn các tổ chức cơ sở Đảng thường xuyên được củng cố, tạo được sự thống nhất về tư
tưởng chính trị, nâng cao ý thức xây dựng Đảng, nền nếp và nội dung sinh hoạt, được duy trì và cải tiến theo
hướng nâng cao chất lượng. Triển khai thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị ở cơ sở. Kinh tế phát triển,
đời sống nhân dân được nâng lên, cơ sở hạ tầng được xây dựng, thực hiện tốt chính sách xã hội, xóa đói giảm
nghèo…, tạo được sự ủng hộ đồng tình của nhân dân, từ đó tạo điều kiện mở rộng việc xây dựng tổ chức cơ sở
Đảng trong sạch vững mạnh, thu hẹp diện yếu kém.
Tuy nhiên, phải thẳng thắn thừa nhận rằng so với yêu cầu cách mạng trong giai đoạn mới, chất lượng hiệu
quả hoạt động và năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng còn khoảng cách khá xa và còn nhiều bất cập. Tổ
chức cơ sở Đảng nhiều nơi yếu kém, có nơi tê liệt, không ít Đảng bộ buông lỏng công tác giáo dục, kiểm tra, quản
lí đảng viên, sinh hoạt Đảng chất lượng kém, phương thức lãnh đạo và sinh hoạt lúng túng, có tình trạng vừa kém
dân chủ vừa thiếu kỷ luật kỷ cương. Một số cán bộ cấp ủy chưa tôn trọng và thực hiện đúng nguyên tắc tập trung
dân chủ; bệnh quan liêu độc đoán cục bộ, địa phương, cá nhân chủ nghĩa rất nặng. Không ít nơi nội bộ mất đoàn
kết nghiêm trọng. Việc đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở Đảng nhiều nơi nhiều lúc chưa bám sát tiêu chuẩn,
chưa đúng thực chất tình trạng “mạnh giả, yếu thật” còn rất phổ biến, nhiều tổ chức cơ sở Đảng được công nhận

trong sạch vững mạnh nhưng việc thực hiện nhiệm vụ chính trị ở cơ sở đạt hiệu quả thấp. Báo cáo tổng kết công
tác kiểm tra năm 2004 nêu rõ: Ủy ban kiểm tra các cấp đã xác định nhiệm vụ trọng tâm 3.494 tổ chức đảng cấp
dưới có dấu hiệu vi phạm, trong đó 9 ban cán sự đảng, đảng đoàn cấp tỉnh; 30 Ban thường vụ cấp huyện; 700
Ban chấp hành, Ban thường vụ đảng ủy cơ sở; 2.755 chi bộ, chi ủy. Qua kiểm tra, kết luận 1.990 tổ chức đảng có
vi phạm, chiếm 56,9% so với tổ chức đảng được kiểm tra, trong đó thi hành kỷ luật 266 tổ chức đảng
Tình hình mất ổn định ở nông thôn Thái Bình xảy ra trong những năm 1997-1999 xuất phát từ những yếu kém
của tổ chức cơ sở đảng tại nơi đây, một bộ phận cán bộ từ tỉnh đến cơ sở tham nhũng, tiêu cực, làm giàu bất
chính, lề lối, tác phong làm việc quan liêu, cửa quyền, mất dân chủ nghiêm trọng. Nhiều nơi việc huy động sự
đóng góp của dân để xây dựng kết cấu hạ tầng lớn so với thu nhập của nhân dân, nhưng việc quản lý sử dụng lại
thiếu chặt chẽ, không được bàn bạc dân chủ, công khai với dân. Khi dân có ý kiến nhưng không được giải quyết
kịp thời, thoả đáng, thậm chí một số nơi, cán bộ còn thách đố dân hoặc cửa quyền, gây phiền hà, sách nhiễu với
dân ở Gia Lai, nhiều tổ chức đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở yếu kém, quan liêu, không
sát cơ sở, không sát với dân, không nắm được tâm tư, nguyện vọng và những diễn biến tư tưởng của nhân dân;
chưa quan tâm giải quyết kịp thời những nguyện vọng chính đáng của đồng bào các dân tộc thiểu số nên bọn
phản động trong nước và các thế lực thù địch ở nước ngoài đã lợi dụng các vấn đề về dân tộc, tôn giáo, khoét sâu
vào những khuyết điểm, yếu kém của ta để tuyên truyền, đả kích Đảng và Nhà nước; chia rẽ đồng bào các dân
tộc thiểu số với đồng bào Kinh; kích động, lôi kéo đồng bào, hình thành hệ thống chấp sự ở các cấp mà thực chất
là tổ chức chính trị phản động nhằm chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Những sai phạm này đã
gây tổn thất, hậu quả nặng nề : tư tưởng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân hoang mang, dao động; lòng tin của
nhân dân đối với Đảng giảm sút; nhiều tổ chức đảng và hàng nghìn cán bộ, đảng viên ở các cấp phải xử lý kỷ luật;
kinh tế của những nơi này bị trì trệ và tụt hậu so với các tỉnh xung quanh có cùng điều kiện.
Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng trên là do trong khi Đảng chuyển sang cơ chế mới, nhiều vấn đề mới
đặt ra nên trung ương chưa chỉ đạo, cơ sở lại thiếu tích cực năng động để giải quyết, tổ chức cơ sở Đảng gặp
nhiều lúng túng, Đảng ta chỉ đạo xây dựng tổ chức cơ sở Đảng chưa kịp thời còn hữu khuynh một số mặt, hai là
thiếu ban hành chính sách đối với cán bộ cơ sở, nhất là chính sách đào tạo và đãi ngộ. ba là trong chỉ đạo còn
quan liêu, cấp trên xa cơ sở, cơ sở xa dân. Đại hội IX đã chỉ rõ: “những khuyết điểm nêu trên là do nhiều nguyên
nhân khách quan và chủ quan, trực tiếp và chủ yếu là do nhiều cấp ủy và tổ chức Đảng, kể cả Ban chấp hành
trung ương và Bộ chính tri, tuy đã có nhiều cố gắng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhưng chỉ đạo
chưa tập trung và thiếu kiên quyết; chủ trương, biện pháp thiếu đồng bộ; chưa chỉ đạo tất việc kết hợp tự phê bình
và phê bình với kiện toàn tổ chức, đổi mới cơ chế, chính sách, chỉnh đốn các khâu quản lí kinh tế, tài chính và

tăng cường công tác giáo dục, quản lí cán bộ, đảng viên…”
Chính từ thực trạng trên, việc củng cố tổ chức cơ sở Đảng đến nay vẫn là một vấn đề cơ bản và cấp bách
trong công tác xây dựng Đảng, như Nghị quyết Trung ương VI lần 2 đã đề ra. Trong cuộc vận động xây dựng
chỉnh đốn Đảng lần này, một trong mười nhiệm vụ quan trọng mà Đảng ta đã xác định là “củng cố tổ chức, tăng
cường sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của các tổ chức cơ sở Đảng”. Về nhiệm vụ này, trong diễn văn kỷ niệm
109 năm ngày sinh chủ tịch Hồ Chí Minh và 30 năm thực hiện di chúc của Người đồng chí tổng bí thư Lê Khả
Phiêu đã nêu rõ: “một việc rất quan trọng, rất cơ bản là củng cố tổ chức cơ sở Đản, đưa toàn bộ các chế độ sinh
hoạt, học tập, phê bình và tự phê bình thành nề nếp; làm tốt việc phân công và kiểm tra công tác của đảng viên để
nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của các tổ chức cơ sở Đảng.”
4. Biện pháp nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở Đảng ?
Để nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở Đảng, cần tập trung làm tốt các nhiệm vụ sau:
Trước hết phải xác định đúng đắn nhiệm vụ chính trị của tổ chức cơ sở Đảng và tổ chức thực hiện có
kết quả nhiệm vụ chính trị đó ở cơ sở. Từ thực tiễn của Thái Bình, Gia Lai, kinh nghiệm chung nhất rút ra là:
Các tổ chức cơ sở đảng phải nắm chắc và thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình. Trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ, phải vừa nắm vững chức năng, nhiệm vụ chung của tổ chức cơ sở đảng, nắm vững đường lối
quan điểm chính trị, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước và Nghị quyết, chỉ thị của tổ chức Đảng cấp
trên, nghị quyết của Đại hội Đảng bộ cấp mình vừa phải suy nghĩ, tìm cho được những nét riêng ở từng xã,
phường, thị trấn cụ thể (điều kiện tư nhiên – xã hội, những đặc điểm tâm tư nguyện vọng của nhân dân ở cơ sở)
để từ đó, chủ động, sáng tạo đề ra những giải pháp phù hợp để xử lý mọi vấn đề trong phạm vi địa phương mình,
trên cơ sở đó tuyên truyền vận động nhân dân tích cực tham gia thực hiện các nhiệm vụ chính trị, tạo ra chuyển
biến đồng bộ, toàn diện tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội ở địa phương, cơ sở.Trong tổ chức thực hiện các chủ
trương, nhiệm vụ chính trị , tổ chức cơ sở Đảng phải xây dựng chương trình, kế hoạch triển khai thực hiện Nghị
quyết, thông qua công tác tư tưởng để giáo dục, thuyết phục, tuyên truyền, phát huy dân chủ , thực hiện “dân biết,
dân làm, dân kiểm tra” tạo ự đồng thuận; đồng thời phải phân công cán bộ, cấp ủy viên một cách rõ ràng phụ
trách trên từng nhiệm vụ cụ thể, phát huy vai trò, tính trách nhiệm : dám làm, dám chịu trách nhiệm và tính quyết
đoán trong thực hiện. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để kip thời uốn nắn những biểu hiện lệch lạc, phát
huy những ưu điểm, những mặt tốt.
Hai là phải đổi mới nâng cao chất lượng Đảng ủy, chi ủy và cán bộ chủ chốt. Đổi mới và nâng cao chất
lượng cấp ủy cơ sở cần phải quán triệt những vấn đề sau : Mỗi kỳ Đại hội thay đổi từ 30-40% cấp ủy viên nhằm
bảo đảm tính kế thừa và trẻ hóa đội ngũ cấn bộ, phải nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa số

lượng, tiêu chuẩn và cơ cấu trong kiện toàn cấp uỷ, trong đó tiêu chuẩn phải đặt lên hàng đầu, không vì cơ cấu
thiếu mà hạ thấp tiêu chuẩn. Đảng ủy, chi ủy phải thực sự là những người có đủ phẩm chất chính trị, đủ kiến thức
và năng lực tổ chức thực hiện, có đạo đức lối sống cách mạng đáp ứng yêu cầu đổi mới. Riêng đối với đồng chí bí
thư cấp ủy, ngoài tiêu chuẩn chung của cấp ủy còn phải là người tiêu biểu nhất cho tập thể cấp ủy và Đảng bộ,
phải am hiểu công tác Đảng và công tác quần chúng, phải là người có uy tín, có khả năng phối hợp điều hành
hoạt động tập thể, là trung tâm đoàn kết của toàn Đảng bộ. Muốn đổi mới nâng cao chất lượng Đảng uỷ, phải bảo
đảm dân chủ thật sự của từng Đảng viên trong ứng cử, đề cử và trong bầu cử.
Chú trong đào tạo bồi dưỡng và bố trí cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị ở cơ sở vừa đáp ứng yêu cầu
nguồn cán bộ đảm đang nhiệm vụ chính trị địa phương, vừa bổ sung cho cấp trên những cán bộ đầy đủ phẩm
chất năng lực để bố trí vào những vị trí cao hơn.
Ba là phải củng cố và kiện toàn hệ thống tổ chức , nâng cao chất lượng Đảng viên và cải tiến chất
lượng sinh hoạt cấp ủy và sinh hoạt Đảng bộ, chi bộ : củng cố và kiện toàn chi bộ và tổ chức cơ sở Đảng phải
phù hợp với quyết định của trung ương và phải bảo đảm báo sát đặc điểm, nhiêm vụ của cơ sở. Trong sinh hoạt
đảng, phải bảo đảm các nguyên tắc tập trung dân chủ , tự phê bình và phê bình. Các cuộc sinh hoạt không nên
quá chú trọng vào các công việc của chính quyền mà tập trung vào những vấn đề trong yếu của cơ sở nhất là
thảo luận, bàn bạc kỹ các giải pháp để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ, chi bộ.
Đội ngũ đảng viên là tế bào của tổ chức cơ sở Đảng “chi bộ tốt là do đảng viên tốt”, vì thế phải chăm lo xây
dựng đội ngũ đảng viên đông về số lượng, mạnh về chất lượng. Phải làm tốt việc phân công quản lý và kiểm tra
đảng viên chấp hành. Tạo điều kiện cho đảng viên được học tập nâng cao trình độ, cống hiến cho địa phương và
xử lý nghiêm minh, kịp thời những đảng viên vi phạn tư cách. Nghi quyết Trung ương 6 lần 2 quy định tổ chức cơ
sở Đảng nơi đảng viên công tác phải chủ động thường xuyên hoặc định kỳ liên hệ với cơ sở Đảng nơi đảng viên
cư trú để nắm rõ hoạt động sinh hoạt của đảng viên nơi ấy, qua đó góp phần ngăn ngừa vi phạm và thúc đẩy đảng
viên gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú.
Phải tổ chức tốt việc quần chúng tham gia xây dựng Đảng từ cơ sở. các tổ chức cơ sở Đảng phải có cơ chế
thích hợp để thực hiện phương châm “dân biết dân bàn, dân kiểm tra” tạo điều kiện cho dân tham gia đóng góp
vào các chương trình, kế họach công tác, đóng góp hoạt động của cấp ủy và đảng viên. Trước mắt các tổ chức cơ
sở Đảng phải quán triệt và thực hiện tốt chỉ thị 30/CTTW ngày 18.02.98 của Bộ chính trị về xây dựng và thực hiện
quy chế dân chủ ở cơ sở
Bốn là phải đề cao tính trách nhiệm và tăng cường sự chỉ đạo hướng dẫn, kiểm tra của cấp trên, trước
hết là cấp trên trực tiếp.

Tổ chức cơ sở Đảng là cấp trực tiếp gắn bó với quần chúng, vì thế phải thấu hiểu sâu sắc nguyên vọng của
nhân dân, tình hình mọi mặt ở cơ sở để sửa đổi, bổ sung, ban hành những chính sách phù hợp. Phải đánh giá
đúng thực trạng của mỗi cơ sở để có kế hoạch củng cố xây dựng cơ sở, thu hẹp diện yếu kém. . Sự lãnh đạo, chỉ
đạo của cấp ủy cấp trên đối với cơ sở phải thường xuyên coi trọng hướng dẫn kiểm tra, chăm lo đào tạo quản lý
đội ngũ đảng viên, cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt, phải kịp thời phát hiện và giúp đỡ thiết thực những cơ sở gặp
khó khăn, nội bộ mất đoàn kết, song điều chủ yếu là sự chỉ đạo của cấp ủy cấp trên phải bảo đảm những yếu tố
cơ bản để cơ sở chủ động vươn lên. Việc đánh giá phân lọai tổ chức cơ sở Đảng phải bám sát tiêu chuẩn bảo
đảm đúng thực chất. Phải coi trọng tổng kết, nhất là đối với những điển hình tiên tiến để chỉ đạo hướng dẫn các tổ
chức cơ sở đảng phát huy, học tập
Từ kinh nghiệm của Thái Bình, Gia lai và tình hình một số cấp uỷ địa phương, rút ra một số kinh nghiệm cần
hết sức chú ý bao gồm :
Một là, trước những khó khăn và diễn biến phức tạp ở cơ sở, các cấp ủy đảng phải bình tĩnh, sáng suốt,
làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng đối với cán bộ, đảng viên và nhân dân. Thực tiễn ở Thái Bình cho
thấy, phải nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, phân tích sâu sắc các nguyên nhân, nhất là những
nguyên nhân chủ quan; chỉ rõ những khuyết điểm, yếu kém của mình và quan trọng hơn là các cấp uỷ đảng có
nghị quyết đề ra những chủ trương, giải pháp cụ thể và triển khai thực hiện trong toàn đảng bộ, tạo sự thống nhất
về nhận thức, ý chí và hành động trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Hai là, ở những nơi nhân dân kiến nghị về những sai phạm có liên quan đến tập thể và cá nhân thì cần phải
được tiến hành thanh tra, kiểm tra ngay và có kết luận rõ đúng - sai, xử lý nghiêm minh những tập thể, cá nhân sai
phạm, thu hồi tiền của thất thoát, làm trong sạch bộ máy của hệ thống chính trị. Đây là giải pháp đặc biệt quan
trọng, là cơ sở cho công tác chính trị tư tưởng, kiện toàn đội ngũ cán bộ, ổn định tình hình, phát triển kinh tế - xã
hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng của nhân dân
Ba là phải chú ý hoàn thiện và thực hiện tốt các quy chế, quy định. Thực tế cho thấy nơi nào xây dựng và
thực hiện tốt các quy chế, quy định, thì nơi đó tạo được sự thống nhất, đoàn kết trong nội bộ, ý thức chấp hành và
tổ chức thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Bốn là, lãnh đạo xây dựng và thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, mở rộng dân chủ trong Đảng và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, lắng nghe ý kiến của dân, kịp thời giải quyết những mâu thuẫn, vướng mắc
trong nội bộ nhân dân theo đúng luật pháp, không để những vướng mắc, mâu thuẫn tích tụ, dồn nén lâu ngày và
trở thành điểm nóng. Dân chủ, công khai và công bằng xã hội là nguyện vọng và đòi hỏi chính đáng của nhân dân.
Nguyện vọng đó khi bị vi phạm thì dẫn đến khiếu kiện, phát sinh điểm nóng. .

Năm là, các cấp uỷ đảng phải quán triệt quan điểm phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng
là nhiệm vụ then chốt. Kết hợp chặt chẽ giữa lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội với chăm lo xây dựng, củng cố tổ
chức đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở trong sạch, vững mạnh, ngang tầm nhiệm vụ.
Tóm lại, lý luận và thực tiễn đã chứng minh, dù ở giai đoạn nào trên con đường phát triển của cách mạng
do Đảng lãnh đạo, với vị trí nền tảng của mình, các tổ chức cơ sở Đảng luôn có vai trò là hạt nhân lãnh đạo chính
trị, là người bảo đảm cho dường lối chính sách của Đảng được tổ chức thực hiện có kết quả ở đơn vị cơ sở.
Đứng trước vai trò của sự nghiệp cách mạng ở giai đoạn mới, nhất là khi các thế lực thù địch đang thực hiện âm
mưu diễn biến hòa bàinh tập trung mũi nhọn vào việc chống phá Đảng ta thì việc nâng cao sức chiến đấu và năng
lực lãnh đạo của các tổ chức cơ sở Đảng là một trong những vấn đề bức thiết đang đặt ra cho công tác xây dựng
Đảng hiện nay. Chỉ có trên cơ sở nắm vững lý luận và kinh nghiệm thực tiển với một trách nhiệm đầy đủ của cấp
ủy các cấp và của từng đảng viên mới xây dựng được tổ chức cơ sở Đảng ngang tầm với nhiệm vụ cách mạng
hiện nay.
Câu 4: Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công (Hồ Chí Minh toàn tập – tập 11,
NXB CTQG 1996, trang 154)
Bài làm
ĐCS Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện đã lãnh đạo nhân dân Việt
Nam đấu tranh anh dũng, tiến hành cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công và các
cuộc kháng chiến chống xâm lược của chế độ thực dân phong kiến, hoàn thành sự nghiệp giải
phóng dân tộc và thống nhất đất nước, đưa cả nước chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Đảng từng bước được tôi luyện, trưởng thành và
đã xây dựng nên những truyền thống quý báu, thể hiện bản chất tốt đẹp của Đảng. Một trong
những truyền thống đó là tinh thần đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế vô sản. Chủ tịch Hồ Chí
Minh, vị lãnh tụ vĩ đại kính yêu của Đảng ta đã từng khẳng định “đoàn kết là sức mạnh, là then
chốt của thành công”.
Tổng kết và phát triển những quan điểm tư tưởng của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
đại đoàn kết toàn dân. Đại hội IX của Đảng ta xác định: “Đại đoàn kết toàn dân là đường lối chiến
5-85-8
lược nhất quán, là nguồn sức mạnh và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội”. Trong bốn bài
học chủ yếu mà Đảng ra rút ra sau 15 đổi mới, có bài học về: Đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì

lợi của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo. Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng
toàn quốc lần IX cũng đã dành hẳn mục VIII để trình bày những chủ trương lớn của Đảng về
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thắt chặt mối
liên hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
Để nắm vững những quan điểm tư tưởng của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát huy
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, trước hết chúng ta cần tìm hiểu về nội dung, vị trí quan trọng và
cơ sở của đại đoàn kết thống nhất; cần phải làm gì để giữ đoàn kết thống nhất của Đảng trong
điều kiện mới.
1/- Vị trí quan trọng công tác đoàn kết thống nhất
Trước hết đoàn kết thống nhất là một quy luật trưởng thành của Đảng. Tại sao đoàn kết là
quy luật?
Theo quan điểm của Mác và Ăngghen: sự thành công của phong trào công nhân trong mỗi
nước chỉ có thể được bảo đảm bằng sức mạnh của sự thống nhất và sự tổ chức.
Lênin thì đặc biệt quan tâm tới việc xây dựng khối đoàn kết thống nhất vững chắc trong
đảng. Người cho rằng: sự đoàn kết thống nhất trong đảng bắt nguồn từ bản chất của giai cấp
công nhân và đó là nguồn gốc sức mạnh vô địch và vô tận của Đảng. Để phát huy sức mạnh vô
địch và vô tận đó, cần phải đấu tranh, thanh trừ chủ nghĩa cơ hội, cải lương và chủ nghĩa bè
phái. Trong bài viết Lại bàn về công đoàn, về tình hình trước mắt, Lênin đã khẳng định: một điều
rõ ràng là trong một nước đang thực hiện chuyên chính vô sản, thì một sự chia rẽ trong nội bộ
giai cấp vô sản hoặc giữa Đảng của giai cấp vô sản với quần chúng vô sản, không phải chỉ là
nguy hiểm mà còn là cực kì nguy hiểm….
Quan điểm của Đảng ta luôn coi đoàn kết trong Đảng là sinh mệnh của Đảng, là vấn đề
sống còn của cách mạng, là cơ sở để thống nhất giai cấp, là điều kiện để đoàn kết toàn dân đưa
cách mạng đến thắng lợi. Trong các thời kỳ khác nhau của cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm
xây dựng và củng cố sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Ngay từ khi mới ra đời, Điều lệ đầu
tiên của Đảng thông qua tại đại hội I (3/1935) ghi rõ: Đảng là một khối thống nhất về tổ chức, tư
tưởng và hành động; Đảng tuyệt đối không thoả hiệp với những xu hướng bè phái. Hội nghị lần
thứ hai của BCH TW Đảng khóa IV đã ra nghị quyết: Đảng không bao giờ dung túng bè phái. Mọi
sự chia rẽ là tội ác lớn nhất đối với Đảng. Đảng luôn nhắc nhở các cấp bộ Đảng, toàn thể Đảng
viên phải hết sức quan tâm xây dựng và giữ gìn sự thống nhất trong Đảng như giữ gìn con ngươi

của mất mình.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết thống nhất, được Người khái quát:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,
Thành công, thành công, đại thành công”.
Ch t ch H Chí Minh cho r ng oàn k t b t ngu n t nhi m vủ ị ồ ằ đ ế ắ ồ ừ ệ ụ
chính tr , oàn k t chính là then ch t c a thành công. Trong Di chúc ị đ ế ố ủ để
l i, Ng i vi t: “ oàn k t là truy n th ng c c k quý báu c a ng vàạ ườ ế Đ ế ề ố ự ỳ ủ Đả
dân ta. Các ng chí t TW n các chi b c n ph i gi gìn s oàn k tđồ ừ đế ộ ầ ả ữ ự đ ế
nh t trí c a ng nh gi gìn con ng i c a m t mình”. Sinh th i,ấ ủ Đả ư ữ ườ ủ ắ ờ
Ng i r t quan tâm ch m lo, b o v s th ng nh t c a phong tràoườ ấ ă ả ệ ự ố ấ ủ
c ng s n và công nhân qu c t trên n n t ng CN Mác-lênin và ch ngh aộ ả ố ế ề ả ủ ĩ
qu c t vô s n. ố ế ả
Tóm l i, đoàn k t th ng nh t là quy lu t tr ng thành c a ng, ng không th phát tri n v ng m nh n u nh trong ng x y ra tình tr ngạ ế ố ấ ậ ưở ủ Đả Đả ể ể ữ ạ ế ư ở Đả ả ạ
chia s , bè phái.ẽ
oàn k t th ng nh t trong ng, có ngha là cùng bàn b c th o lu n m t cách dân ch các v n đ v lãnh đ o, sinh ho t c a ng. Ngh quy t đúngĐ ế ố ấ Đả ĩ ạ ả ậ ộ ủ ấ ề ề ạ ạ ủ Đả ị ế
đ n ph i đ c đa s thông qua và ch p hành m t cách tri t đ . oàn k t là trong ng không có tình tr ng “tr ng đánh xuôi, kèn th i ng c”, không phânắ ả ượ ố ấ ộ ệ ể Đ ế Đả ạ ố ổ ượ
chia thành nh ng b ph n không mu n cùng nhau h p tác, không có m m m ng đ n y sinh m t t ch c m i; trong ng không có nh ng t p đoàn,ữ ộ ậ ố ợ ầ ố ể ả ộ ổ ứ ớ Đả ữ ậ
nh ng c ng lnh, nh ng k ho ch hành đ ng riêng. ữ ươ ĩ ữ ế ạ ộ
2/- Cơ sở của sự đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Vận dụng sáng tạo những tư tưởng của Mác, Ăngghen và Lênin, Đảng ta đã tổng kết
những bài học kinh nghiệm lớn về xây dựng và củng cố khối đoàn kết thống nhất trong Đảng như
sau:
Thứ nhất, sự đoàn kết thống nhất phải dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng. Đây là bài học quan trọng, vì chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng. Lênin dạy chúng ta rằng,
trước khi thống nhất và để thống nhất phải phân biệt rõ ràng ranh giới về tư tưởng. Người nói:
nếu không có cái cơ sở tư tưởng chung thì không thể có vấn đề thống nhất. Đường lối, chính
sách của Đảng là định hướng, mục tiêu chung tạo nên sự thống nhất về tư tưởng, và trong hành
động của toàn Đảng; xa rời nó thì sẽ mất phương hướng, mục tiêu chung, dễ rơi vào đoàn kết
theo kiểu phường hội, cục bộ địa phương chủ nghĩa.

Thứ hai, sự đoàn kết thống nhất trong Đảng dựa trên cơ sở tuân thủ nghiêm ngặt nguyên
tắc tập trung dân chủ. Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc chỉ đạo và tổ chức hoạt động
của Đảng để đem đến sự thống nhất trong ý chí và hành động. Nguyên tắc tập trung dân chủ
vừa bảo đảm phát huy được trí tuệ, sức mạnh của tập thể đội ngũ đảng viên, vừa bảo đảm sự
lãnh đạo, tập trung thống nhất về tư tưởng, hành động của đội ngũ đảng viên.
Thứ ba, đoàn kết thống nhất phải dựa trên tình thân ái, tình đồng chí của cán bộ, đảng
viên. Thái độ chân thành cởi mở, tôn trọng nhau; biết thông cảm, khiêm tốn lắng nghe ý kiến của
nhau, thường giúp đỡ nhau cùng tiến bộ… sẽ tạo nên bầu không khí thoải mái, đoàn kết trong
tập thể, từ đó tạo điều kiện hoàn thành tốt nhiệm vụ chung.
Thứ tư, thường xuyên và nghiêm túc thực hiện tự phê bình và phê bình là một phương
pháp căn bản để tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng. Tự phê bình và phê bình vừa là
quy luật phát triển, xây dựng củng cố khối đoàn kết thống nhất trong Đảng, vừa là phương pháp
có hiệu quả để giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên. Do đó, cần phải có phương pháp, thái độ
đúng đắn khi thực hiện tự phê bình và phê bình.
Thứ năm, xây dựng và bảo vệ hạt nhân lãnh đạo thật sự là trung tâm cho khối đại đoàn kết
thống nhất trong Đảng. Lênin đã khẳng định: không có một trung tâm lãnh đạo thống nhất, không
có một cơ quan TW thống nhất thì không có thống nhất thật sự trong Đảng. Từ thực tiễn cách
mạng Việt Nam, Đảng ta đã rút ra bài học quan trọng: Đoàn kết thống nhất trong Đảng, trước hết
là ở cơ quan lãnh đạo, có ý nghĩa quyết định sự thành công của cách mạng.
Trên đây là những cơ sở cơ bản trong xây dựng khối đại đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Thực tiễn lãnh đạo hoạt động cách mạng VN của Đảng ta hơn 70 năm qua, cho thấy Đảng ta
luôn xem trọng, đề cao việc xây dựng đoàn kết thống nhất trong Đảng. Chính vì thế mà mặc dù
đã trải qua nhiều khó khăn, gian khổ nhưng Đảng vẫn lãnh đạo nhân dân ta đi từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác, từng bước đưa nước ta tiến vững chắc trên con đường xây dựng thành công
chế độ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Kết quả quá trình xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong
đảng của Đảng ta là hết to lớn, thể hiện ở những mặt:
- Đoàn kết trở thành một truyền thống quý báu của Đảng ta, được thử thách và tôi luyện
trong quá trình đấu tranh lâu dài, lúc thuận lợi cũng như và khó khăn, trong các bước ngoặc của
cách mạng Việt Nam.
- Đảng ta luôn đoàn kết thống nhất về mặt đường lối, thể hiện rõ sự đoàn kết đó từ trong

BCH TW đến cơ sở. Hiện nay trước tình hình trên thế giới và trong nước có nhiều diễn biến
phức tạp nhưng Đảng vẫn phát huy truyền thống, kiên định mục tiêu lí tưởng, giữ vững nguyên
tắc tổ chức và nêu cao tinh thần độc lập, sáng tạo, đưa đất nước vượt qua khó khăn, thủ thách
nhằm xây dựng thành công CNXH.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả to lớn trên. Việc xây dựng đoàn kết thống nhất trong
Đảng vẫn còn một số tồn tại, khuyết điểm như:
+ Trong từng thời kỳ, bước ngoặc cách mạng nước ta có một số vấn đề cơ bản cũng như
một số vấn đề liên quan đến quan điển đường lối chủ trương chính sách lớn của Đảng chưa
được sự nhất trí cao của toàn Đảng, đây đó vẫn còn những ý kiến khác như về phát triển nền
kinh tế thị trường, về con đường đi lên CNXH ở nước ta trong thời kỳ Liên Xô và các nước
XHCN Đông Âu sụp đổ.
+ Một số nơi nội bộ Đảng mất đoàn kết khá nghiêm trọng, chủ yếu là tranh giành địa vị
chức vụ, lợi lộc nhất là cán bộ chủ chốt. Có nơi còn vì mâu thuẫn cá nhân mà tập hợp lực lượng
thành bè cánh ở trong Đảng và trong nhân dân để chống đối nhau, gây mất đoàn kết và mất ổn
định xã hội.
+ Còn có tình trạng khá phổ biến là trong hội nghị thì nhất trí nhưng ra ngoài thì nói khác
hoặc không thực hiện, nói một đằng làm một nẻo. Đương chức thì nói kiểu này nhưng khi chuyển
công tác hoặc nghỉ hưu thì moi móc.
Những tồn tại, khuyết điểm trên đây chủ yếu do các nguyên nhân: Chưa thấm nhuần và
quán triệt các tư tưởng, quản điểm chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; Tư tưởng cá
nhân chủ nghĩa, cục bộ địa phương, phe cánh, tranh giành chức vụ; Không tôn trọng nguyên tắc
tập trung dân chủ, không thực hiện tốt tự phê bình và phê bình trong Đảng; Còn tư tưởng gia
trưởng, độc đoán, chuyên quyền, tranh công, đổ tội. Mà nguyên nhân sân xa là xuất phát từ lợi
ích cá nhân; trong đó nổi bật nhất là lợi ích kinh tế, sự chưa dung hòa được các lợi ích cá nhân
với lợi ích tập thể và lợi ích xã hội của từng cán bộ, đảng viên trong Đảng. Đây chính là mấu chốt
của vấn đề cần được giải quyết thấu đáng.
3/- Một số giải pháp củng cố, nâng cao khối đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Trong giai đoạn cách mạng mới hiện nay, Đảng ta càng nhận thức rõ giữ gìn và củng cố
khối đại đoàn kết thống nhất vững chắc trong Đảng là vấn đề cực kỳ quan trọng. Để củng cố,
tăng cường đoàn kết trong Đảng cần phải chú ý giải quyết tốt những vấn đề sau đây:

- Kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa cơ hội. Chủ nghĩa cá nhân là nguồn
gốc tư tưởng của chủ nghĩa cơ hội. Sự rạn nứt đi đến tan rã là xu hướng vận động của một tổ
chức, trong đó có sự hoạt động của chủ nghĩa vô chính phủ và có quan hệ biện chứng với nhau.
Chủ nghĩa vô chính phủ là một biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội về mặt hình thức. Bè phái, phe
nhóm là cơ sở tồn tại của chủ nghĩa cơ hội trong Đảng. Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận
rằng, do chủ nghĩa cá nhân mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức kỉ luật, kém tinh thần trách
nhiệm….
-Trong Đảng có sự khác nhau về ý kiến, về chủ trương, biện pháp .v.v. là điều bình thường,
nhất là trước những bước ngoặc của lịch sử. Đảng phải biết chờ đợi, bình tĩnh, dân chủ để giải
quyết những ý kiên khác nhau trong đó, không được để phát triển thành những bất đồng, xung
đột cá nhân.
- Phải xoá bỏ tình trạng đặc quyền, đặc lợi về điều kiện sinh hoạt và các chế độ đãi ngộ
khác nhau trong Đảng. Bất bình đẳng về lợi ích không thể tạo nên sự thống nhất về tư tưởng
cũng như hành động. Lênin coi tình trạng đặc quyền, đặc lợi là “Nguồn gốc gây nên sự tan rã
trong đảng và làm uy tín của các đảng viên cộng sản bị giảm sút”.
- Đảng quan tâm xây dựng đường lối, chính sách đúng, cơ chế tổ chức hợp lý, quy chế làm
việc rõ ràng, phong cách dân chủ, kiên quyết chống bệnh quan liêu, gia trưởng. Kinh nghiệm cho
thấy, ở đâu thiếu những điều kiện đó thì ở đó thiếu sự thống nhất về tư tưởng và tổ chức. Đường
lối đúng là cơ sở cho sự đoàn kết; ngược lại, đường lối sai là nguồn gốc của sự phân tán, chia
rẽ. Cơ chế đúng đảm bảo cho bộ máy vận động thống nhất; ngược lại lại cơ chế sai tạo ra sự
bao biện và cả kẻ hở làm cho hành động không thống nhất. Chủ nghĩa quan liêu, gia trưởng, mất
dân chủ không thể tạo được bầu không khí cởi mở, hòa đồng, thân ái trong tập thể.
- Đảng cần có những biện pháp đặc biệt kiên quyết để xử lí những vụ việc mất đoàn kết
như: Bố trí người đứng đầu phù hợp; thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ; có quy chế
cơng tác rõ ràng chặt chẽ, nhất là cơng tác cán bộ; thường xun tự phê bình và phê bình, đấu
tranh chống kèn cựa địa vị, cơ hội, cục bộ, bè phái… bồi dưỡng tình thương u đồng chí, tơn
trọng giúp đỡ lẫn nhau; phát hiện sớm hiện tượng mất đồn kết, giải quyết và xử lí dứt điểm.
Tóm lại: Xây dựng khối đồn kết thống nhất vững chắc là quy luật trưởng thành của một
Đảng cộng sản chân chính. ĐHĐB tồn quốc lần thứ IX cho rằng: Thực hiện đại đồn kết là kế
thừa truyền thống q báu của dân tộc, là đường lối chiến lược, là nguồn sức mạnh và động lực

to lớn để xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Văn kiện Đại hội IX của Đảng ghi rõ: “Thực hiện đại đồn
kết dân tộc, tơn giáo, giai cấp, tầng lớp, thành phần kinh tế, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của
đất nước, người trong Đảng và người ngồi Đảng, người đang cơng tác và người đã nghỉ hưu,
mọi thành viên trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù sống ở trong nước hay ở nước ngồi.
Phát huy sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc, truyền thống u nước, ý chí tự lực, tự cường và
lòng tự hào dân tộc, lấy mục tiêu giữ vững độc lập dân tộc, thống nhất, vì dân giàu, nước mạnh,
xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh là điểm tương đồng; tơn trọng những ý kiến khác nhau
khơng trái với lợi ích chung của dân tộc, xố bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về q
khứ, giai cấp, thành phần, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, hướng đến tương lai…
xây dựng khối đại đồn kết tồn dân gắn với hiệu qủa phát huy dân chủ trong xã hội dưới sự
lãnh đạo của Đảng” (VKĐH IX, NXB CTQG, HN 2001, Trang 45)
Tóm lại: Xây dựng khối đồn kết thống nhất vững chắc là quy luật trưởng thành của một
Đảng cộng sản chân chính. Đồn kết là tuyền thống q báu của Đảng và nhân dân ta, là di sản
vơ giá mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại, là nguồn gốc sức mạnh tất thắng của cách mạng Việt
Nam. Việc giữ gìn và phát huy truyền thống đó là tránh nhiệm của tồn Đảng, mà trước hết là
của các cơ quan tập lãnh đạo từ TW xuống các cơ sở. Tồn Đảng phải thực hiện nghiêm chỉnh
lời căn dạn của CT. HCM trong Di chúc “cần phải giữ gìn sự đồn kết nhất trí của Đảng như giữ
gìn con ngươi của mắt mình”. Thực tiễn của Đảng ta trong những năm gần đây và ngun nhân
của sự đổ vỡ của các ĐCS Đơng Âu và Liên Xơ trước đây cho thấy cần phải giữ gìn sự đồn kết
thống nhất trong Đảng. Cần ý thức sâu sắc lời dạy của Chủ tịch HCM rằng, đồn kết thì sống,
chia rẽ thì chết./.
Từ bài học thành cơng và chưa thành cơng trong thực tiễn xây dựng TCCS đảng, Đại hội VII của
Đảng đã khẳng định: ”Những thành tựu đã đạt được, những tiềm năng được khai thác, những kinh nghiệm
có giá trị đều bắt nguồn từ sự nỗ lực phấn đấu của quần chúng ở cơ sở mà hạt nhân là tổ chức đảng. Nhưng
mặt khác, sự yếu kém của nhiều tổ chức cơ sở đảng đã hạn chế những thành tựu của cách mạng”. Bởi vậy,
củng cố, nâng cao chất lượng TCCS đảng là nhiệm vụ thường xun có ý nghĩa cực kỳ quan trong cơng tác
xây dựng Đảng.
Nghị quyết hội nghị BCH TW lần 5, khố VI đã nêu: “trong điều kiện chuyển sang thực hiện cơ chế
quản lí mới, phát huy vai trò chủ động sáng tạo của các đơn vị kinh tế cơ sở, mở rộng dân chủ XHCN, các
TCCS Đảng phải thực sự làm hạt nhân lãnh đạo chính trị trong các tập thể lao động”.

Tuy nhiên, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của nhiều TCCS đảng còn yếu, chưa đủ
sức giải quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh từ cơ sở. Nội dung, hình thức sinh hoạt chi bộ
còn lúng túng, chậm cải tiến. Một số nơi chưa phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.
Việc đánh giá chất lượng các TCCS đảng và đảng viên còn chạy theo thành tích, chưa phản ánh
đúng chất lượng của TCCS đảng và đội ngũ đảng viên. Tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê
bình ở nhiều nơi còn yếu, nhất là đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực xảy ra ở cơ sở. Số
TCCS đảng yếu kém và những nơi tiềm ẩn những yếu tố phức tạp về chính trị, xã hội vẫn còn
nhiều. Một số tổ chức cơ sở Đảng xã, phường, thị trấn chưa khắc phục được bệnh quan liêu,
hách dịch; vai trò của TCCS Đảng trong đơn vị hành chính, cơ quan sự nghiệp, các doanh
nghiệp còn mờ nhạt, thủ trưởng chưa quan tâm đến cơng tác xây dựng Đảng. Cơng tác phát triển
đảng viên ở các doanh nghiệp tư nhân còn chậm, chưa được quan tâm đúng mức. Cơng tác
phân loại đảng viên và TCCS Đảng hàng năm ở một số nơi còn hình thức; khơng ít đảng bộ
bng lỏng cơng tác giáo dục, kiểm tra, quản lí đảng viên, sinh hoạt Đảng chất lượng kém; còn
hiện tượng đảng viên cá nhân, cơ hội, cục bộ, phe cánh gây mất đồn kết trong Đảng
Câu 08_XDD: Công tác quần chúng của Đảng.Yêu cầu :
1. Phân tích vai trò của quần chúng và công tác vận động quần chúng trong quá trình cách mạng nhất là trong
thời kỳ mới.
2. Nội dung đổi mới công tác vận động vận chúng :
- Quan điểm vận động quần chúng
- Công tác chăm lo lợi ích quần chúng.
3. Những biện pháp làm tốt công tác quần chúng của đảng trong giai đoạn mới.
Bài làm :
Dân là nhân tố quyết định sự hình thành và tồn tại của mỗi quốc gia, dân tộc. Khơng có dân thì
khơng có khái niệm "dân tộc" và cũng chẳng có khái niệm "quốc gia". Vì vậy, đối với bất kỳ quốc gia nào
và chế độ xã hội nào thì dân cũng có một vị trí, vai trò vơ cùng quan trọng. Song, nhận thức về điều đó
như thế nào và thái độ đối với dân ra sao thì mỗi quốc gia, mỗi chế độ xã hội lại có những quan điểm và
cách giải quyết khác nhau tuỳ thuộc vào giai cấp cầm quyền.
Ở nước ta, dân là ai ? dân gồm những người nào? Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Dân là mọi người dân
Việt Nam; là mọi con dân nước Việt; là mỗi người con Rồng cháu Tiên, khơng phân biệt già, trẻ, gái, trai,
giàu, nghèo, q, tiện, trong đó cơng nơng chiếm tuyệt đại đa số". Vấn đề này tưởng như đơn giản nhưng

khơng phải như vậy. Nếu khơng nắm vững quan điểm giai cấp, quan điểm quần chúng thì khơng thể xác
định được đầy đủ nội hàm của khái niệm "dân" như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định. Và, sẽ khơng thể
nào xây dựng được khối đại đồn kết tồn dân.
Với nội hàm của khái niệm "dân" như vậy thì rõ ràng dân phải là gốc của nước; dân có sức mạnh to lớn
và năng lực sáng tạo vơ tận. Quần chúng sáng tạo ra lịch sử và thúc đẩy lịch sử khơng ngừng phát triển.
Chân lý đó đã được V.I Lênin chỉ ra rất sớm và rất đầy đủ. Người khẳng định: "Chỉ có tin vào nhân dân,
hòa mình vào nguồn sáng tạo vơ tận của nhân dân thì chúng ta mới chiến thắng và giữ được chính
quyền". Còn Chủ tịch Hồ Chí Minh thì nói rất mộc mạc rằng: "Trong bầu trời khơng có gì q bằng nhân
dân; trong thế giới khơng gì mạnh bằng lực lượng của nhân dân". Người còn vạch rõ: "Làm việc gì cũng
phải có dân; khơng có dân thì việc nhỏ mấy, dễ mấy làm cũng khơng xong; có dân thì việc khó mấy, to
mấy cũng làm được". Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Quần chúng có sức mạnh to lớn và năng
lực sáng tạo phi thường. Nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ sức mạnh to lớn và năng lực sáng tạo
đã chỉ được phát huy khi có sự lãnh đạo của một đảng cách mạng chân chính. Trách nhiệm lãnh đạo của
Đảng ta là khơi dậy, tổ chức và phát huy được sức mạnh to lớn đó của nhân dân.
Cùng với việc xác định dân là gốc của nước, phải xác định dân là chủ. Dân là chủ tức là dân phải được làm chủ
một cách tồn diện: làm chủ bản thân, làm chủ Nhà nước, làm chủ đất nước và làm chủ xã hội. Đây là vấn đề khác
nhau hết sức cơ bản giữa chế độ ta và các chế độ phong kiến, tư bản. Trong chế độ phong kiến, dân chỉ là nơ dân, thứ
dân, thần dân. Còn trong chế độ tư bản dân chỉ là cơng dân bình thường chứ khơng phải là người chủ thực sự. Trong
chế độ ta, Bác Hồ chỉ rõ: " Bao nhiêu lợi ích đều vì dân; bao nhiêu quyền hạn đều của dân; chính quyền từ xã đến
Chính phủ Trung ương do dân cử ra; đồn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và
lực lượng đều ở nơi dân Chỉ khi nào xác định được một cách rõ ràng và dứt khốt như thế cơng tác vận động quần
chúng và thực thi dân chủ mới thật sự mang lại hiệu quả.
Đảng ta luôn khẳng đònh và quán triệt nghiêm túc quan điểm chủ nghóa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Hồ chí Minh về vai trò của quần chúng nhân dân trong tiến trình cách mạng VN đặc biệt trong quá
trình đổi mới để động viên mọi tiềm năng sáng tạo, phát huy vai trò làm chủ nhằm đẩy mạnh sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, XH công bằng, dân chủ, văn minh. Tư
tưởng xuyên suốt “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Vì vậy ở thời kỳ nào công tác vận
đông và tổ chức quần chúng làm cách mạng cũng có ý nghóa chiến lược” luôn được phát triển ở
tầm cao mới qua các kỳ đại hội Đảng. Đặc biệt Nghò quyết TW 8b (khoá VI) Đảng đã cụ thể hoá
bằng các quan điểm chỉ đạo công tác quần chúng của đảng.

Quan điểm thứ nhất, cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, cần được
quán triệt sâu sắc hơn nữa trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Trong đó phải chú ý các
yêu cầu sau :
Một là, phải luôn lấy mục tiêu vì hạnh phúc của nhân dân làm trọng.
Hai là, CNH, HĐH đất nước phải là sự nghiệp của toàn dân. Nhân dân là lực lượng và là người
tiến hành mọi nhiệm vụ trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Ba là, Thực hiện đại đoàn kết dân tộc, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân để tiến hành
cách mạng XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Quan điểm thứ hai, động lực thúc đẩy phong trao quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực
của nhân dân và kết hợp hài hoà các lợi ích, thống nhất quyền lợi và nghóa vụ của công dân.
Quan điểm thứ ba, các hình thức tập hợp quần chúng phải đa dạng. Có như vậy mới phát huy được
tiềm năng sáng tạo phong phú trong nhân dân và đóng góp thiết thực cho sự nghiệp chung của đất
nước Song, cần nhấn mạnh vai trò nòng cốt của các đoàn thể chính trò – xã hội và các hội quần
chúng rộng rãi.
Quan điểm thứ tư, Công tác quần chúng là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và các đoàn
thể nhân dân. Bỡi lẽ, trong điều kiện Đảng cầm quyền thì mối liên hệ giữa đảng với nhân
dân chủ yếu được thông qua bộ máy nhà nước. Do đó, bộ máy nhà nước có vai trò, trách
nhiệm to lớn trong công tác quần chúng, còn mặt trận và các đoàn thể nhân dân là lực lượng
chủ lực của công tác quần chúng, là cầu nối giữa đảng, Nhà nước và nhân dân.
Tóm lại, các quan điểm chỉ đạo đổi mới công tác quần chúng là sự tổng kết từ thực tiển
cách mạng nước ta, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiển sâu sắc. Vì vậy, đó là những
vấn đề cơ bản làm cơ sở vững chắc để tiến hành đổi mới công tác quần chúng trong thời kỳ
mới. Những quan điểm đó cần phải được quán triệt trong mỗi cấp, mỗi ngành và mỗi đoàn
thể.
Thực trạng cơng tác quần chúng của ta trong những năm gần đây ở cơ sở bên cạnh những mặt tích cực từ chỉ đạo
của Nghị quyết TW 8b (khố VI) mang lại nên cơng tác quần chúng đã có những bước tiến rõ rệt, tư tưởng dân vận của
Bác Hồ được khơi dậy, phương thức lãnh đạo của Đảng đặc biệt trong cơng tác dân vận được đổi mới, Ban dân vận các
cấp được kiện tồn một bước, tư tưởng đại đồn kết, phát huy mọi tiềm năng trong nhân dân được nhận thức, được thể
hiện đúng hơn, rõ hơn, Tuy vậy, Hạn chế vẫn còn rất nhiều, còn những "khoảng trống" để kẻ địch, phần tử xấu lợi
dụng xun tạc, lơi kéo, kích động quần chúng gây phức tạp về an ninh trật tự. Những hạn chế, thiếu sót do mấy

ngun nhân chủ yếu: Nhận thức về đấu tranh giai cấp, vai trò của quần chúng và cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng
trong giai đoạn cách mạng hiện nay của một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa đầy đủ, thiếu sâu sắc. Nhiều người cho
rằng, hiện nay lực lượng của ta mạnh, lại trong thời bình nên khơng cần phải bám đất, bám dân như trước. Sự phân
cơng, phân cấp trong hệ thống chính trị trong việc nắm cơ sở, tun truyền, vận động quần chúng chưa rõ ràng; chưa có
chế độ đãi ngộ thỏa đáng đối với cán bộ làm cơng tác vận động quần chúng. Ban dân vậ chưa ngang tầm, cán bộ, đảng
viên làm cơng tác vận động quần chúng chưa có thẩm quyền giải quyết tại chỗ những vấn đề quần chúng kiến nghị,
việc phản ánh lên cấp trên thường chậm hoặc khơng được giải quyết, dẫn tới giảm uy tín, sinh ra ngại tiếp xúc với dân.
Cán bộ có thẩm quyền giải quyết vì nhiều lý do khác nhau nên rất ít tiếp xúc với dân, chỉ nghe cán bộ đi cơ sở về báo
cáo và cho ý kiến chỉ đạo. Ngày nay, hầu hết cán bộ huyện, tỉnh sinh sống ở thị xã, thành phố, trong khi ở cơ sở sinh
hoạt còn khó khăn thiếu thốn, nên đội ngũ này tới cơ sở thường nghe cán bộ xã phản ảnh rồi cho ý kiến chỉ đạo; khơng
biết được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Nhưng trầm trọng và đáng ngại hơn là sự tập trung quan liêu. Càng tập
trung theo kiểu quan liêu thì dễ dẫn đến độc quyền, độc đốn, khơng cách xa nhau bao nhiêu với độc tài và chun
quyền của một số cá nhân đứng trên Đảng. Khi đã tập trung quan liêu và thiếu dân chủ trong Đảng thì mối quan hệ máu
thịt giữa Đảng với Dân cũng bị ảnh hưởng nặng nề. Cần mạnh dạn nhìn thẳng vào hiện tình về sinh hoạt dân chủ trong
Đảng, về cơng tác tư tưởng và cơng tác tổ chức của Đảng để chỉ ra cho được những yếu kém nhằm mạnh dạn và kiên
quyết khắc phục.
Để khắc phục tình trạng trên, đặc biệt khi chúng ta thực thi nền kinh tế thị trường, định hướng XHCN và hội nhập
kinh tế quốc tế thì chúng ta có cả thời cơ lớn, cả thách thức lớn thì điều kiện tiên quyết là biết khởi động sức mạnh tiềm
tàng trong tồn Đảng và trong nhân dân. Qua bài học kinh nghiệm từ sự nghiệp đổi mới, kinh tế thị trường là vận hội
lớn nếu ta hiểu đúng và có chủ trương đúng. Chúng ta có khả năng phát huy đến mức cao nhất thế mạnh của thị trường,
đồng thời cũng có khả năng hạn chế ở mức thấp nhất những khuyết tật của thị trường cùng những hiểm họa của một thị
trường hoang dã. Vấn đề là ta biết mạnh dạn đổi mới tư duy để nhận thức đúng, kịp thời bối cảnh mới mà đất nước ta
đang phải đương đầu. Tỉnh táo và có bản lĩnh tạo mọi điều kiện cho sự bừng nở lành mạnh và rộng khắp các hoạt động
của thị trường nhằm chuyển đổi diện mạo kinh tế của nước ta, tạo nên một sức bật mạnh cho tăng trưởng nhanh và bền
vững. Đồng thời biết khắc phục, ngăn chặn những khuyết tật của kinh tế thị trường, cũng như xu hướng chụp giật, bn
lậu, tìm cách kht sâu những sơ hở và hạn chế của luật pháp chưa đồng bộ, sự quản lý còn có nhiều chỗ bất cập để rút
ruột Nhà nước, làm nguy hại đến đời sống của dân, đẩy người lao động vào những cảnh ngộ thương tâm, vi phạm nặng
nề Luật Lao động.
Như thế có nghĩa là phải sát Dân, dựa vào Dân, phát huy hết sức Dân thì Đảng và Nhà nước mới có thể khai thác
được vận hội mà kinh tế thị trường đem lại. Có thể nói, trong những thách đố của giai đoạn cách mạng mới chưa có tiền

lệ trong kinh nghiệm của một Đảng vốn được thử thách và rèn luyện trong hoạt động bí mật và lãnh đạo kháng chiến để
hồn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, chúng ta phải có một quyết tâm mới, một nghị lực mới, kịp thời nắm bắt và
thích nghi và làm chủ mọi tình huống.
Bài học của Đại hội VI, xét đến cùng, cũng chính là bài học biết dựa vào Dân, lắng nghe nguyện vọng của Dân, tiếp
nhận những sáng tạo của đảng viên và quần chúng, phát huy dân chủ, tạo mọi điều kiện để những sức mạnh tiềm tàng
đó được khơi dậy. Bài học dân chủ trong Đảng và kịp thời đáp ứng nguyện vọng của Dân vẫn còn nóng hổi đối với
chặng đường tiến tới Đại hội X sắp tới của Đảng.
Càng muốn thành cơng trong chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng nền kinh tế thị trường văn minh, theo
định hướng XHCN thì lại càng phải phát huy đến đỉnh cao tiềm năng to lớn đang nằm trong Dân. Phải khơi dậy động
lực dân tộc, tinh thần u nước trong mọi người Việt Nam, khép lại q khứ, hướng tới tương lai để đem tồn lực ra
xây đắp giang sơn, thực hiện "một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh" như mong
muốn cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh ghi trong Di chúc của Người.
Vì thế, hơn lúc nào hết, Đảng phải làm hết sức mình để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp
nhân dân, đó chính là tạo ra sức mạnh nội lực để hội nhập kinh tế quốc tế, đương đầu với thách thức, nắm bắt thời cơ.
Cần thực hiện một cách chân thành lời căn dặn của Bác Hồ ở Đại hội thống nhất Việt Minh - Liên Việt năm 1951:
"Tinh thần u nước cũng như các thứ của q. Có khi được trưng bày trong tủ kính, trong bình pha lê, rõ ràng dễ thấy.
Nhưng cũng có khi cất giấu kín đáo trong rương, trong hòm. Bổn phận của chúng ta là làm cho những của q kín đáo
ấy đều được đưa ra trưng bày". Làm được như vậy chính là huy động được mọi nguồn lực trong tồn xã hội để tăng
cường quan hệ máu thịt Dân với Đảng.

×