Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

Giáo trình Xã Hội Học Lối Sống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.6 KB, 65 trang )

Xã hội học lối sống Hà Văn Tác
Chương 1:
KHÁI NIỆM LỐI SỐNG .
ĐỐI TƯNG, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ
VÀ PHƯƠNG PHÁP CỦA XÃ HỘI HỌC LỐI SỐNG
1.KHÁI NIỆM LỐI SỐNG.
1.1 Đònh nghóa lối sống:
Lối sống là một hệ thống những đặc điểm chủ yếu nói lên hoạt động
của các dân tộc, các giai cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân trong những
điều kiện của một hình thái kinh tế-xã hội nhất đònh.
Lối sống tổng hòa những hình thức hoạt động cơ bản phụ thuộc vào
điều kiện và những nhu cầu của con người do những điều kiện đó qui
đònh.
Lối sống bò qui đònh bởi hoàn cảnh khách quan của xã hội, bởi những
điều kiện sống củ các giai cấp, dân tộc…Nghóa là lối sống một mặt, do
quan hệ thực tế của con người với tự nhiên, do trình độ trang bò kỹ thuật,
năng suất lao động của họ, trạng thái của lực lượng sản xuất và do đó cả
tính chất tiêu dùng, mặt khác do tính chất quan hệ sản xuất, chế độ kinh
tế của xã hội là cơ sở của toàn bộ hệ thống quan hệ xã hội, qui đònh. Tuy
nhiên, nhấn mạnh hoàn cảnh khách quan của lối sống không vó nghóa là
loại trừ khả năng lựa chọn của con người về một hình thức hoạt động nào
đó. Những phương hướng có mục đích rõ ràng, những đònh hướng giá trò
của con người tạo nên mặt chủ quan của lối sống.
Lối sống của con người phải được hiểu trong sự thống nhất giữa mặt
lượng và mặt chất. Nhân tố quyết đònh mặt chất của lối sống là tính chất
của chế độ xã hội, đòa vò giai cấp trong hệ thống các quan hệ kinh tế và
chính trò. Các nhân tố quyết đònh mặt lượng và trình độ phát triển của lực
1
Xã hội học lối sống Hà Văn Tác
lượng sản xuất và tiêu dùng, thể hiện trước hết ở mức sống và một số chỉ
tiêu khác.


Khái niệm lối sống luôn chứa đựng câu trả lời cho câu hỏi : con
người làm gì và làm như thế nào. Karl Marx khẳng đònh : hoạt động sống
của các cá nhân như thế nào thì bản thân họ là như thế. Do đó, tư cách
của họ là cái gì thì sẽ trùng với sự sản xuất của họ – trùng với việc họ sản
xuất ra cái gì cũng như trùng với việc họ sản xuất như thế nào.
Trong đònh nghóa khái niệm lối sống, việc phân biệt nó với khái
niệm những điều kiện sống, hệ thống những nhân tố xã hội và tự nhiên
chứa đựng nội dung và tính chất của lối sống có một ý nghóa quan trọng
mang tính nguyên tắc. Vì rằng lối sống không phải là cái gì khác ngoài
cách thức đặc thù mà trong đó những điều kiện sống, và trước hết,
phương thức sản xuất trong hoạt động sống hàng ngày của con người, đã
được nhận biết, được phản ánh và biểu hiện trong sự cảm thụ, nhận thức
và sự tái tạo hiện thực. Lối sống là sinh hoạt cá nhân, chủ quan hóa của
hệ thống những quan hệ xã hội, của toàn bộ tổng thể những điều kiện
sống, thể hiện ra trong những hoạt động của con người.
Nhận thức khái niệm lối sống như vậy sẽ giúp tránh được việc qui nó
thành một yếu tố nhất đònh của hoạt động sống của con người, chẳng hạn
không qui nó vào việc thỏa mãn các nhu cầu của họ, hoặc vào mức sống
của họ, đồng thời cũng tránh được việc xử lý khái niệm lối sống một cách
quá rộng, đồng nhất nó với khái niệm xã hội, khái niệm phương thức sản
xuất, làm cho nó mất ý nghóa khoa học độc lập.
1.2. Phân biệt các khái niệm: lối sống, nếp sống, cách sống.
- Lối sống có sự kết hợp biện chứng giữa yếu tố vật chất và yếu tố
tinh thần, gắn liền với phương thức sản xuất của xã hội với chế độ chính
trò xã hội, với hình thái kinh tế – xã hội. Vì vậy khi nói xây dựng một lối
sống là gắn với xây dựng một hình thái kinh tế – xã hội, một nền văn hóa
xã hội.
2
Xã hội học lối sống Hà Văn Tác
- Nếp sống hàm chứa ý nghóa hẹp hơn. Nếp sống bao gồm những

cách thức, hành động và suy nghó, những qui ước được lặp đi lặp lại hàng
ngày trở thành thói quen, tập quán trong sản xuất, sinh hoạt, trong phong
tục, nghi lễ, trong hành vi đạo đức, pháp luật. Trong thói quen ngôn ngữ
Việt Nam hiện nay đều dùng cả hai từ lối sống và nếp sống một cách lẫn
lộn không phân biệt nghóa. Nhưng nhìn chung đều được hiểu theo nghóa
lối sống.
- Điểm khác rất căn bản giữa lối sống và nếp sống mà trong nhiều
trường hợp buộc phải dùng một cách chính xác là lối sống nói lên tính
đònh hướng, đònh tính, chỉ ra phương hướng chính trò và tư tưởng của vấn
đề, còn nếp sống nói lên tính đònh hình, đònh lượng.
- Cách sống có nghóa hẹp và cụ thể. Đó là kiểu sống cụ thể theo cá
tính và thò hiếu của cá nhân hoặc theo một điều kiện qui đònh cụ thể nào
đó của một môi trường nhỏ. Chẳng hạn, nói cách sống của một gia đình,
cách sống người già, cách sống người độc thân, cách sống của một nghệ
só. Tuy nhiên cách sống được đánh giá trên cơ sở một lối sống, nếp sống
nào đó. [Trần Độ.1984.7]
1.3. Nội dung và mối quan hệ của các khái niệm số lượng, chất lượng
của lối sống, mức sống và chất lượng sống.
- Chất lượng lối sống phản ánh trình độ tự do mà con người đạt được
trong khi họ hành động.
Mặt chất lượng của lối sống được thể hiện qua các chỉ dẫn về số
lượng trong các lónh vực hoạt động : lao động sản xuất; phúc lợi, tiêu
dùng, sinh hoạt hàng ngày; giáo dục văn hóa; sức khỏe dân cư; hoạt động
chính trò xã hội.v.v. Hệ thống các chỉ tiêu số lượng của lối sống là một hệ
thống mở, nó phát triển tùy trình độ từng nước, từng giai đoạn cụ thể.
3
Xã hội học lối sống Hà Văn Tác
Hệ thống các chỉ tiêu số lượng này biểu thò mức sống của con người.
Do đó không thể tách rời mức sống với lối sống. Mức sống trong chừng
mực nhất đònh có ảnh hưởng quyết đònh đến lối sống.

- Khái niệm chất lượng sống chỉ dùng trong xã hội học tư bản. Khái
niệm này không phản ánh đúng nội dung khoa học cần biểu đạt. Trong xã
hội học Mác xít không dùng khái niệm chất lượng sống mà chỉ dùng khái
niệm chất lượng của lối sống.
1.4. Phân loại lối sống
Lối sống được phân loại theo các tiêu chí khách quan :
- Theo hình thái kinh tế – xã hội:lối sống phong kiến, lối sống
TBCN, lối sống XHCN…
- Theo giai cấp : lối sống tư sản, tiểu tư sản, nông dân, công nhân, trí
thức…
- Theo trình độ chuyên môn: lối sống người lao động giản đơn, lối
sống người lao động phức tạp, lối sống công nhân có tay nghề bậc cao…
- Theo lứa tuổi, giới tính: lối sống thanh niên; lối sống người về hưu,
lối sống phụ nữ…
- Theo lãnh thổ: lối sống nông thôn, lối sống đô thò, lối sống đồng
bằng, lối sống miền núi.
- Theo tiêu chí dân tộc: lối sống người Kinh, người Tày, người
Khmer…
- Theo tiêu chí quản lý: lối sống những người thực hiện chức năng
quản lý và lối sống cộng đồng những người thừa hành.
- Theo tiêu chí đoàn thể: lối sống đảng viên và người ngoài đảng, lối
sống đoàn viên thanh niên cộng sản…
- Theo tiêu chí sức khỏe: lối sống nhóm người tàn tật, lối sống nhóm
người khỏe mạnh.
4
Xã hội học lối sống Hà Văn Tác
- Theo tiêu chí sự phát triển và lónh vực sản xuất: lối sống nông
nghiệp và lối sống công nghiệp…
Việc phân loại lối sống có ý nghóa cần thiết là giúp lãnh đạo quản lý
có cơ sở đi sâu phân tích đặc điểm từng đối tượng từng nhóm xã hội để

xác đònh phương thức cụ thể xây dựng lối sống mới cho phù hợp.
2. ĐỐI TƯNG, CHỨC NĂNG VÀ NHIỆM VỤ CỦA XÃ HỘI HỌC LỐI SỐNG.
2.1. Đối tượng của xã hội học lối sống.
- Khách thể nghiên cứu của xã hội học lối sống là các nhóm xã hội.
- Đối tượng nghiên cứu của xã hội học lối sống là những nét căn bản
đặc trưng cho hoạt động của các nhóm xã hội trong những điều kiện xã
hội cụ thể. Nó tìm hiểu những yếu tố tác động đến sự biến đổi và qui luật
phát triển của lối sống.
- Khác với chủ nghóa xã hội khoa học, xã hội học lối sống không chỉ
nghiên cứu những đặc điểm chung về lối sống của các nhóm lớn mà còn
làm sáng tỏ lối sống đặc thù của từng nhóm nhỏ.
2.2. Chức năng và nhiệm vụ của xã hội học lối sống.
Với tư cách là chuyên ngành xã hội học, xã hội học lối sống cũng
thực hiện các chức năng của xã hội học như : chức năng nhận thức, chức
năng thực tiễn trong điều hành quản lý xã hội, chức năng dự đoán, dự báo
về sự phát triển của lối sống, chức năng tư tưởng.V.V.
Thứ nhất, xã hội học lối sống cung cấp những tri thức cần thiết để
hiểu biết thực trạng của lối sống một nhóm xã hội hay cả một xã xã hội
cụ thể. Nó tái tạo lại bức tranh hiện thức sinh động để làm cho những ai
quan tâm đến lối sống có được cách nhìn nhận đúng bản chất của lối sống
một nhóm hay toàn bộ xã hội. Và qua đó nó thực hiện chức năng nhận
thức. Nhiệm vụ lý luận của xã hội học lối sống thể hiện ra ở chỗ nó cung
5
Xã hội học lối sống Hà Văn Tác
cấp những tri thức lý thuyết về xã hội học lối sống, trên cơ sở đó đònh
hình một hệ thống tri thức khoa học về lónh vực này. Xã hội học lối sống
phải đưa ra một hệ thống khái niệm, phạm trù để nghiên cứu những khía
cạnh khác nhau của lối sống.
Thứ hai, khi triển khai khảo sát nghiên cứu xã hội học về những khía
cạnh của lối sống, xã hội học lối sống sẽ cung cấp và làm giàu hệ thống

tri thức về lối sống nói chung, bổ sung vào kho tàng nhận thức về một
hiện tượng đặc thù của thế giới khách quan. Các nghiên cứu cụ thể của
xã hội học lối sống sẽ đem lại những cách nhìn khoa học về cơ chế vận
hành, cách thức biến đổi của lối sống từng nhóm xã hội. Những nghiên
cứu này sẽ đem lại những thông tin cho công tác quản lý, điều hành xã
hội. Những thông tin, những đề xuất và kiến nghò cụ thể của các cuộc
nghiên cứu về lối sống sẽ đem lại đóng góp nhất đònh cho việc tạo cơ sở
để đề ra các chính sách đúng hợp quy luật tác động đònh hướng, hình
thành lối sống mới tiến bộ.
Thứ ba, mục tiêu chung của mọi nghiên cứu xã hội học về lối sống là
đều thống nhất ở chỗ, bằng những số liệu, thông tin thu thập một cách
khoa học, các nhà nghiên cứu xã hội học có những khuyến nghò về
phương pháp, giải pháp nhằm cải tạo và thay những mục tiêu kinh tế –
xã hội để nâng cao chất lượng lối sống vì hạnh phúc cá nhân và sự phát
triển xã hội.
Nhiệm vụ thực tiễn của xã hội học lối sống là nghiên cứu để giải
thích những hiện tượng mới nảy sinh về lối sống trong tiến trình đổi mới
của đất nước. Nhiệm vụ này được thực hiện trong các nghiên cứu xã hội
học thực nghiệm. Nhiệm vụ lý luận của xã hội học lối sống được thể hiện
ở chỗ, xây dựng được hệ thống các khái niệm, phạm trù để từ đó xây
dựng một lý thuyết xã hội học về lối sống, đáp ứng được sự phát triển của
lý luận xã hội học ở Việt Nam hiện nay. Mặt khác, nó cần phải đưa ra
được những dữ liệu để cho phép trên cơ sở đó hoạch đònh được chính sách
6
Xã hội học lối sống Hà Văn Tác
phát triển lối sống văn hóa trong thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa
đất nước hiện nay, chỉ ra những xu thế tất yếu của việc hình thành lối
sống mới – lối sống xã hội chủ nghóa- một lối sống tiên tiến và đậm đà
bản sắc truyền thống dân tộc, để Việt Nam vừa hội nhập tốt vừa giữ được
độc lập, ổn đònh và phát triển.

3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA XÃ HỘI HỌC LỐI SỐNG.
3.1. Về phương pháp luận :
Xã hội học lối sống cần vận dụng triệt để quan niệm duy vật về lòch
sử của chủ nghóa Mác – Lênin. Sử dụng phương pháp biện chứng duy vật
cho phép đem lại cách nhìn nhận toàn diện, khách quan, cụ thể về những
hiện tượng và các quá trình xã hội. Quan niệm duy vật lòch sử là cơ sở
phương pháp luận cho nghiên cứu xã hội học thực nghiệm. Bởi lẽ, muốn
hay không, để nghiên cứu xã hội học thành công thì nghiên cứu đó phải
luôn xuất phát từ tiền đề thực tiễn : con người hiện thực, hoạt động hiện
thực của có người và những điều kiện sống và hoạt động của họ.
Vì vậy, nghiên cứu lối sống là nghiên cứu hoạt động của con người
trong mối quan hệ với điều kiện sống.
3.2. Một số cách tiếp cận trong nghiên cứu xã hội học lối sống.
- Cách tiếp cận hệ thống.
Nghóa là xem xét lối sống như một chỉnh thể, là tổng thể của các
thành tố có quan hệ với nhau và đối với môi trường. Đặc trưng của cách
tiếp cận này thể hiện ra ở chỗ, nó cho phép xem xét cơ cấu của lối sống
và cơ cấu của những điều kiện lối sống. Vì thế, khi tiến hành nghiên cứu
xã hội học lối sống cho phép xem xét toàn diện, khách quan cụ thể các
mối quan hệ giữa các loại hoạt động với các điều kiện của hoạt động,
giữa các cá nhân, các nhóm, cộng đồng với nhau trong quá trình hình
thành biến đổi phát triển một lối sống.
- Cách tiếp cận lòch sử – cụ thể.
7
Xã hội học lối sống Hà Văn Tác
Theo cách tiếp cận này, nó cho phép nghiên cứu các hiện tượng,
quá trình xã hội, các qui luật xã hội và sự ảnh hưởng của nó đối với
những hoạt động tương tác của các chủ thể hoạt động trong những nhóm
xã hội nhất đònh trong những điều kiện kinh tế và xã hội nhất đònh. Nó
cho phép nghiên cứu những yếu tố truyền thống còn đang chi phối các

hành động của cá nhân, nhóm, cộng đồng xã hội trong quá trình hoạt
động sống chung của các chủ thể hành động này.
- Cách tiếp cận cấu trúc – chức năng.
Cách tiếp cận này xuất phát từ quan niệm cho rằng bất kỳ hệ thống
hành động nào đều có những nét nổi bật chung nhằm hoạt động thành
công và những điều kiện tiên quyết phải được thực thi. Để nghiên cứu
một hệ thống, cần miêu tả những cấu trúc đặc trưng và chức năng của hệ
thống rồi nghiên cứu xem trạng thái ổn đònh của hệ thống trong quá trình
tương tác giữa hai hoặc nhiều chủ thể hành động được hình thành và duy
trì thế nào. Talcott Parsons – người khởi xướng thuyết cấu trúc chức năng
cho rằng, có 4 chức năng thể hiện ra cho mỗi hệ thống (theo sơ đồ A G I
L) : Phù hợp (Adaptation); Đạt mục đích (Goal attainment); Hòa nhập
(Integration); Bảo toàn cấu trúc (Latency). Với cách tiếp cận này, cho
phép xem xét quá trình hình thành lối sống như là một quá trình xã hội
hóa trong gia đình, trong cộng đồng thân tộc, trong cộng đồng xã hội,
trong tập thể lao động…
- Ngoài ra người ta có thể tiếp cận theo giới tính, lứa tuổi, dân tộc,
vùng, miền, cộng đồng lãnh thổ…
3.3. Hệ phương pháp nghiên cứu xã hội học lối sống.
- Phương pháp thực nghiệm.
Ở đây người ta chọn ra một đối tượng nghiên cứu nhất đònh với
những điều kiện đặt ra để tiến hành tác động thực nghiệm. Nhà nghiên
cứu xây dựng chương trình nghiên cứu, tìm những điều kiện nhất đònh để
khống chế những tác động ngẫu nhiên trong phạm vi nghiên cứu của
8
Xã hội học lối sống Hà Văn Tác
mình; sử dụng những tác động đã dự đònh, sau đó quan sát, ghi chép và
phân tích những biến động nảy sinh trong quá trình nghiên cứu, chỉ ra
những nguyên nhân và những qui luật nảy sinh những biến đổi đó.
Đây là phương pháp quan trọng để người nghiên cứu chủ động tìm

tòi những qui luật biến đổi xã hội một cách khách quan. Tuy nhiên nó rất
khó thực hiện bởi vì nó đòi hỏi thời gan, công sức. Hơn nữa con người
hoạt động không giống như những chất liệu tự nhiên nên trong quá trình
thực nghiệm sẽ có nảy sinh những biến cố ngoài dự đònh. Vì thế ít được
sử dụng trong thực tế.
- Phương pháp lòch sử.
Nhờ phương pháp này người ta có thể khảo cứu sự hình thành và
phát triển lối sống trong tiến trình lòch sử của nó. Vận dụng phương pháp
này bằng cách phân tích tài liệu để tái dựng lại bức tranh về hoàn cảnh
điều kiện kinh tế xã hội để xác đònh nghóa gốc ra đời cũng như diễn biến
và trình tự phát triển của lối sống, điều kiện lòch sử làm cho cơ cấu các
mặt bên trong của lối sống bò thay đổi.
- Phương pháp thống kê xã hội học.
Hiện nay, những phương pháp xử lý thông tin xã hội học theo cách
thức xử lý thống kê được các nhà lập trình tin học chương trình hóa thành
chương trình xử lý chung cho các khoa học xã hội (SPSS + version 6.0).
Chương trình đó là một công cụ hữu hiệu để xử lý và thu được những
thông tin đònh lượng của một cuộc nghiên cứu xã hội học. Để sử dụng
được chương trình này, các nhà nghiên cứu, các tác giả xã hội học không
những cần có sự hiểu biết và cách sử dụng chương trình, mà còn phải
hiểu cách xác lập những mối quan hệ, các tương quan giữa những biến cố
được quan sát trong khảo sát nghiên cứu xã hội học nói chung và nghiên
cứu xã hội học lối sống nói riêng.
- Phương pháp chọn mẫu trong nghiên cứu xã hội học lối sống.
9
Xã hội học lối sống Hà Văn Tác
Để có mẫu mang tính đại diện cao, cần phải có phương pháp chọn
mẫu đúng, tùy theo đối tượng. Các cách chọn mẫu thường dùng : chọn
mẫu ngẫu nhiên thuần túy; chọn mẫu khoảng cách (ngẫu nhiên cơ học);
chọn mẫu tỷ lệ, chọn mẫu phân tầng…

3.4. Hệ phương pháp thu thập thông tin xã hội học trong nghiên
cứu xã hội học lối sống.
- Phương pháp phân tích tài liệu.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp phỏng vấn (Phỏng vấn bảng hỏi và phỏng vấn sâu).
- Phương pháp trưng cầu ý kiến bằng bản anklet.
3.5. Các bước tiến hành nghiên cứu xã hội học lối sống.
Bước 1. Chọn đề tài nghiên cứu.
Bước 2. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu.
Bước 3. Lập giả thuyết nghiên cứu.
Bước 4. Thao tác hóa khái niệm.
Bước 5. Lựa chọn và xây dựng các phương pháp thích hợp để triển
khai nghiên cứu.
Bước 6. Lập bảng hỏi.
Bước 7. Chuẩn bò đòa bàn nghiên cứu, chọn mẫu nghiên cứu và điều
tra thử.
Bước 8. Tập huấn điều tra viên.
Bước 9. Triểân khai nghiên cứu tổng thể theo mẫu để thu thập thông
tin.
Bước 10. Xử lý, phân tích thông tin.
Bước 11. Viết báo cáo về kết quả nghiên cứu.
10
Xã hội học lối sống Hà Văn Tác
Chương 2:
CƠ CẤU LỐI SỐNG
VÀ CỦA NHỮNG ĐIỀU KIỆN SỐNG
1.CƠ CẤU CỦA LỐI SỐNG.
1.Cơ cấu lôi sống là gì ?
Lối sống, là sự phản xạ động có mục đích và tích cực của hệ thống
xã hội. Nó là sự tái hiện trở lại của hiện thực xã hội ở cấp độ cá nhân. Vì

vậy cơ cấu của lối sống về căn bản là có sự tương đồng với cơ cấu xã hội.
Cơ cấu của lối sống là một hệ thống những yếu tố, thành phần và những
mối quan hệ cơ bản cấu tạo nên lối sống, qui đònh chất của lối sống.
Thành phần cơ bản của lối sống là các loại, kiểu, biến dạng hoạt động
sống của con người (trả lời câu hỏi con người làm gì) và các yếu tố thuộc
mặt khách quan, chủ quan của hành động con người (trả lời câu hỏi con
người làm như thế nào).
1.2. Nội dung cơ cấu lối sống
1.2.1. Các loại hoạt động cơ bản qui đònh chất lối sống. (Các chỉ số
phản ánh con người làm gì).
11
Xã hội học lối sống Hà Văn Tác
Xét những hoạt động sống cơ bản của con người và xã hội với tư
cách một tổng thể và xét theo chỗ con người ta làm cái gì, thì hoạt động
sống có thể được chia thành các loại, kiểu và biến dạng khác nhau.
Những loại hoạt động cơ bản cũng sẽ là những thành phần cơ bản của lối
sống xét theo tính chất các loại khác nhau của hoạt động nhằm thỏa mãn
những nhu cầu tương ứng. Thường người ta chia các hoạt động của con
người thành các loại cơ bản sau đây [V.Đô-bơ-ri-a-nốp.1985.218] :
1. Hoạt động sản xuất vật chất (lao động).
2. Hoạt động chính trò – xã hội.
3. Hoạt động văn hóa.
4. Hoạt động tái sinh sản.
5. Hoạt động giao tiếp.
Trong mỗi loại hoạt động cơ bản đó, đều có thể đưa ra những dấu
hiệu xác đònh những chỉ số nhờ đó mà người ta đưa vào thực nghiệm
những khái niệm về các hoạt động cơ bản cần nghiên cứu.
Chẳng hạn như trong hoạt động sản xuất vật chất có thể được cụ thể
hóa thông qua việc phân loại các kiểu và các biến dạng hoạt động của
con người và tần số của từng loại hoạt động riêng biệt như: nông nghiệp,

công nghiệp …
Hoạt động chính trò - xã hội được cụ thể hóa thông qua những khái
niệm về thành phần chính trò, về sự tham gia vào hoạt động của những cơ
quan nhà nước và những tổ chức xã hội khác nhau.
Hoạt động văn hóa được bao gồm bởi những khái niệm về sự tham
gia vào những hình thức hoạt động văn hóa khác nhau như : khoa học,
giáo dục, nghệ thuật v.v
Hoạt động tái sinh sản được cụ thể hóa trong những hoạt động nhằm
tái sản xuất ra mức sống của cá nhân như : nhà ở, thức ăn và quần áo, y
tế và sức khỏe, hoạt động thể dục thể thao và nghỉ ngơi; cũng như trong
12
Xã hội học lối sống Hà Văn Tác
như4ng hoạt động nhằm tái sản xuất ra dân cư và xã hội hóa dân cư như :
chăm sóc và giáo dục trẻ em, dạy nghề, các hoạt động nghi lễ v.V.
Hoạt động giao tiếp thể hiện trong những hoạt động trao đổi thông
tin, tình cảm như : thăm hỏi, tiếp xúc bạn bè, đọc sách báo, tham gia câu
lạc bộ tâm lý v.V
Mỗi chỉ số trong vô số những chỉ số khái niệm cụ thể hóa những loại
hoạt động cơ bản đều có thể được đưa vào thực nghiệm và được đo lường
thông qua việc xác đònh xem cá nhân tham gia nhiều ít thế nào vào các
hoạt động khác nhau và cũng có thể xác đònh xem chi phí thời gian bao
nhiêu, hoặc thông qua việc ấn đònh tần số của từng hoạt động riêng biệt
(thông qua phương pháp nghiên cứu q thời gian).
Mỗi loại, mỗi kiểu và mỗi biến dạng hoạt động được xếp trong q
thời gian của từng người, có thể được nhận biết như hoạt động trong thời
gian làm việc (sản xuất), trong thời gian hoạt động sinh hoạt gia đình,
trong thời gian hoạt động văn hóa (giáo dục, hoạt động xã hội, hoạt động
thể dục thể thao, sức khỏe, v.v…), trong thời gian làm thỏa mãn những
nhu cầu sinh lý (ngủ, vệ sinh, v.v…), trong thời gian tự do (vui chơi giải
trí…).

Những chỉ số khái niệm trên đây trả lời câu hỏi người ta làm cái gì.
Nó là một phần quan trọng nói lên chất lối sống. Mặt khác không kém
phần quan trọng và cũng rất khó khăn là việc đưa ra những chỉ số khái
niệm để trả lời câu hỏi con người hoạt động như thế nào. Đây cũng là
những chỉ số phản ánh chất của lối sống.
1.2.2. Mặt khách quan và chủ quan trong hoạt động con người quy đònh
chất lối sống. (Các chỉ số phản ánh con người hoạt động như thế nào) .
Những chỉ số trả lời cho câu hỏi : con người hoạt động như thế nào
được thể hiện thông qua hệ thống những chỉ số khái niệm phản ánh mặt
khách quan và mặt chủ quan của hoạt động con người.
13
Xã hội học lối sống Hà Văn Tác
Theo V.Đô-bơ-ri-a-nốp, hệ thống những chỉ số khách quan về chất
của hoạt động có thể có các kiểu :
- Nội dung phong phú về khoa học – kỹ thuật của hoạt động;
- Giáo dục và chuyên môn hóa;
- Cấp độ tôn ti trật tự của hoạt động;
- Tỷ lệ của mỗi hoạt động trong toàn bộ q thời gian của cá nhân;
- Sự thù lao với tư cách là sự công nhân của xã hội thể hiện bằng
vật chất;
- Sự công nhận về mặt xã hội dưới hình thức kích thích về mặt tinh
thần.
Trong hệ thống những chỉ số chủ quan về chất của hoạt động, thì có
những cái có ý nghóa căn bản là :
- Mức độ thỏa mãn về mặt tinh thần do hoạt động;
- Động cơ của hoạt động;
- Đánh giá chủ quan của cá nhân về chất lượng của hoạt động;
- Dư luận xã hội về chất lượng của hoạt động.
Trên đây là những chỉ số về các loại, các kiểu các biến dạng hoạt
động và những chỉ số về chất lượng của hoạt động. Sự kết hợp giữa các

chỉ số đó sẽ mở ra một phạm vi rộng lớn cho việc đo lường và đánh giá
lối sống.
2. CƠ CẤU CỦA NHỮNG ĐIỀU KIỆN SỐNG.
2.1. Tại sao phải tìm hiểu cơ cấu những điều kiện sống ?
Hệ thống những điều kiện xã hội và tự nhiên của hoạt động sống
không được xếp vào khái niệm lối sống, nhưng không nghiên cứu chúng
thì không thể hiểu được và cũng chẳng quản lý được một cách có mục
đích sự phát triển của lối sống trong một xã hội nhất đònh.
2.2. Nội dung của cơ cấu những điều kiện sống.
14
Xã hội học lối sống Hà Văn Tác
Trong chương trình của một cuộc nghiên cứu xã hội học về lối sống,
người ta luôn phải đi tìm hai loại chỉ số có liên quan lẫn nhau. Thứ nhất,
đó là những chỉ số nói lên rằng lối sống đó là lối sống gì và thứ hai, đó là
những chỉ số nói lên rằng lối sống đó bò chi phối bởi cái gì. Một cách khái
quát, ta có thể chia các điều kiện sống thành điều kiện xã hội và điều
kiện tự nhiên.
2.2.1 Những điều kiện xã hội của đời sống là một hệ thống có thể được
chia ra trên cơ sở những tiêu chuẩn như sau :
- Theo tính chất của hoạt động, lối sống phụ thuộc vào :
+ Hoạt động sản xuất vật chất;
+ Hoạt động nhằm sản xuất các giá trò tinh thần;
+ Hoạt động nhằm tái sinh sản xã hội sinh học;
+ Hoạt động quản lý;
+ Hoạt động giao tiếp.
- Theo những chủ thể xã hội, lối sống phụ thuộc vào :
+ Cá nhân (những đặc tính xã hội và tâm sinh lý);
+ Nhóm nhỏ;
+ Thành phần giai cấp;
+ Nhóm chủng tộc;

+ Nguồn gốc quốc gia;
+ Nguồn gốc dân tộc.
- Theo những quan hệ và thiết chế xã hội, lối sống phụ thuộc vào :
+ Những quan hệ kinh tế (quan hệ sản xuất, trao đổi, phân phối
và tiêu dùng phúc lợi vật chất) và những thiết chế tương ứng;
+ Những quan hệ và thiết chế chính trò – xã hội;
+ Những quan hệ tinh thần và những thiết chế văn hóa tương
ứng;
+ Những quan hệ quốc tế và thiết chế tương ứng.
15
Xã hội học lối sống Hà Văn Tác
- Theo tính chất của những quá trình xã hội, lối sống phụ thuộc vào
những quá trình :
+ Phát triển hoặc ngừng trệ;
+ Liên kết hoặc phân hóa;
+ Đoàn kết hoăïc chia rẽ.
Tất cả những điều kiện xã hội của đời sống cần được xem xét ở cấp
độ vó mô, cấp độ trung gian và cấp độ vi mô.
2.2.2. Những điều kiện tự nhiên của đời sống là :
- Đất đai;
- Khí hậu;
- Đòa hình;
- Thực vật;
- Động vật;
- Nguồn năng lượng.
Lưu ý, trên đây ta phân chia ra các loại chỉ số về lối sống (các loại
hoạt động) và các loại chỉ số về nhân tố tác động đến lối sống (các điều
kiện xã hội và tự nhiên) đó là việc làm có tính nguyên tắc về mặt lý luận
và thực tiễn.
Tuy nhiên, trong nghiên cứu ở kiểu cụ thể nhất (ở cấp độ đòa

phương) thì những nhân tố chế đònh kiểu cụ thể của đời sống dường như
được “hòa nhập” vào lối sống; những chỉ số về các nhân tố được “chuyển
hóa” thành những chỉ số về lối sống, và đặc biệt là về khía cạnh chất của
lối sống. Chẳng hạn, những chỉ số về trang bò khoa học – kỹ thuật cho lao
động thể hiện khía cạnh chất của lối sống và cũng có thể đồng nhất với
những chỉ số về các điều kiện vật chất, kỹ thuật của lao động. Những chỉ
số về tính chất chuyên môn hóa của hoạt động trùng với những chỉ số về
sức lao động .V.V
16
Xã hội học lối sống Hà Văn Tác
Hiện tượng có vẻ trùng khớp “giữa những chỉ số về khía cạnh chất
của hoạt động và những điều kiện của hoạt động nó phản ánh tính biện
chứng sinh động của quá trình tác động lẫn nhau giữa chúng. Đó là quá
trình mà các điều kiện tác động với hoạt động sống của con người nhưng
mặt khác chúng lại cũng có thể là đặc tính của hoạt động đó.
Nhưng không phải vì thế mà nhập cục các điều kiện sống với hoạt
động sống làm một trong quá trình nghiên cứu lối sống.
Sơ đồ tóm tắt về cơ cấu của việc nghiên cứu xã hội học về lối sống
[V.Đô-bơ-ri-a-nốp.1985.224]:
Nước (khu vực)
Chỉ số về các kiểu và Các biến
Biến dạng hoạt động thể xã hội
Các giai khác:
17
Xã hội học lối sống Hà Văn Tác
cấp và -gia đình
nhóm xã -tuổi tác
hội -học vấn
Chỉ số về các Chỉ số về chất -nghề
nghiệp

nhân tố thuộc về lượng của hoạt -đảng phái
điều kiện hoạt động.
động.
Các tộc người
Chương 3 :
QUI LUẬT CỦA SỰ HÌNH THÀNH LỐI SỐNG.
Để xây dựng một lối sống, cần thiết phải hiểu các qui luật của nó.
Có ù thể đề cập đến vấn đề này bằng cách nói đến những cơ sở kinh tế, cơ
sở chính trò, sự tác động của văn hóa, đến sự tác động qua lại giữa tính
quyết đònh của xã hội và tính tích cực của cá nhân.
Ở đây, chúng ta đề cập đến vấn đề này dưới dạng những mối quan
hệ có tính tính tất yếu trong quá trình hình thành lối sống. [Trần
Độ.1954.11]
18
Xã hội học lối sống Hà Văn Tác
1.MỐI QUAN HỆ GIỮA YẾU TỐ VẬT CHẤT VÀ YẾU TỐ TINH THẦN
TRONG LỐI SỐNG.
Đời sống con người luôn tồn tại hai mặt cơ bản : vật chất và tinh
thần. Hai mặt này cũng tồn tại thống nhất và đều có quan hệ với nhau,
hoặc chi phối nhau, hạn chế nhau, hoặc chứa đựng nhau hoặc thâm nhập
nhau.
Mối quan hệ giữa vật chất và tinh thần là mối quan hệ biện chứng,
năng động, phong phú và phức tạp. Vì vậy khi xem xét qui luật hình
thành phát triển lối sống cần chống hai khuynh hướng cực đoan. Một là,
khuynh hướng khẳng đònh rằng không có điều kiện vật chất tốt thì không
thể xây dựng lối sống đẹp được. Đây là khuynh hướng duy vật máy móc,
tầm thường. Hai là, khuynh hướng cho rằng hễ cứ có giáo dục tư tưởng
đúng thì bất cứ hoàn cảnh vật chất thế nào cũng có lối sống đẹp được.
Đây là khuynh hướng duy tâm.
Mối quan hệ giữa yếu tố vật chất và yếu tố tinh thần trong cuộc sống

có ở nhiều qui mô và tính chất rất khác nhau, từ qui mô lớn nhất bao gồm
toàn bộ cuộc sống một xã hội đến qui mô nhỏ nhất trong từng hành vi
sống hàng ngày của mỗi con người. Trong phạm vi toàn xã hội, đó là
quan hệ giữa phương thức sản xuất và lối sống (quan hệ giữa cơ sở kinh
tế và lối sống). Trong phạm vi hẹp hơn là quan hệ giữa mức sống vật chất
và lối sống, trong phạm vi cụ thể hơn nữa là những điều kiện vật chất cụ
thể của cuộc sống như nhà ở, quần áo, tiện nghi, đồ dùng, khả năng mức
độ ăn uống.V.V…
Chẳng hạn, để có một điểm tốt trong lối sống là ăn ở trật tự, vệ sinh,
sạch đẹp thì nhất thiết phải có một diện tích ở tối thiểu hợp lý, phải có
điều kiện tối thiểu hợp lý về nguồn nước, ánh sáng…Nếu thiếu những
điều kiện vật chất tối thiểu hợp lý đó mà cứ hô hào suông phải ăn ở cho
trật tự vệ sinh, sạch đẹp là điều khó thực hiện được.
19
Xã hội học lối sống Hà Văn Tác
Nhưng ngược lại cũng trong một điều kiện vật chất tương tự như
nhau nhưng có gia đình có một cách sống hòa thuận êm ấm, ai cũng cảm
thấy hạnh phúc, lại có gia đình mà mỗi thành viên sống trong đó luôn
thấy nghẹt thở chẳng khác nào sống trong đòa ngục.
Cũng không ít những trường hợp điều kiện vật chất rất giàu có sang
trọng, lộng lẫy nhưng tình người nhạt nhẽo, sống gò bó đơn điệu về tinh
thần. Ngược lại nơi khác tuy chật chội nghèo nàn của cải nhưng vẫn tạo
được một bầu không khí cuộc sống thấm đượm tình người.
Tính qui luật này, cho thấy khi xây dựng lối sống phải quan tâm đến
các cơ sở vật chất tối thiểu hợp lý, đồng thời phải quan tâm nêu lên các
chuẩn mực chung, đònh hướng giá trò tinh thần để làm căn cứ mà đánh giá
trình độ lối sống từng cá nhân trong các mối quan hệ sống, hoặc trình độ
nếp sống của từng tập thể lớn nhỏ. Chuẩn mực là những nội dung tinh
thần hết sức quan trọng.
2. MỐI QUAN HỆ GIỮA TÍNH PHỔ QUÁT VÀ TÍNH DÂN TỘC.

Trong quá trình hình thành phát triển của mình, lối sống vừa mang
tính phổ quát vừa mang tính dân tộc.
Lối sống là tổng thể của những nét đặc trưng nhất trong hoạt động
của con người gắn với điều kiện xã hội, tự nhiên cụ thể. Mà hoạt động
con người bao giờ cũng xuất phát từ những nhu cầu. Những nhu cầu này
của mỗi người, mỗi giai cấp tập đoàn rất phong phú đa dạng. Tuy nhiên,
xét chung trên toàn nhân loại thì có nhiều nhu cầu có tính tất yếu giống
nhau bởi tất cả đều phải sống và do đó phải có một số hành vi ứng xử
trong cuộc sống như nhau. Chẳng hạn, sống phải ăn, phải mặc, quan hệ
bạn bè, kết hôn, sinh đẻ, nuôi con, phải quan hệ họ hàng xóm giềng, già,
ốm đau, chết,…
Chính vì vậy từ thời nguyên thủy, không phải ngẫu nhiên mà ở nhiều
điểm trên thế giới xuất hiện những phương thức chăn nuôi trồng trọt
20
Xã hội học lối sống Hà Văn Tác
giống nhau, có những công cụ sản xuất tương tự, có những phong tục tập
quán trong các hành vi giống nhau.
Sự giống nhau trong nhu cầu và các loại hoạt động sống cơ bản đã
tạo ra tính phổ quát của lối sống, làm cho lối sống của các quốc gia trên
thế giới có nhiều điểm tương đồng. Tính phổ quát của lối sống còn thể
hiện ở hiện tượng lan truyền, ảnh hưởng, giao lưu các lối sống giữa các
đòa phương trong một quốc gia hoặc giữa các quốc gia với nhau một cách
tự nguyện, xuất phát từ những nhu cầu văn hoá tiến bộ.
Những lối sống bao giờ cũng thể hiện qua hoạt động sống của con
người. Nó xảy ra đối với mọi người, nó diễn ra ở mỗi dân tộc, mỗi lớp
người rất khác nhau. Sự khác nhau bò qui đònh bởi những điều kiện vật
chất nhất đònh như đòa lý, khí hậu, trình độ kinh tế và bởi những phong tục
tập quán, thói quen truyền thống, trình độ kiến thức, tinh thần. Những
khác biệt đó đã làm nên tính dân tộc của lối sống.
Thừa nhận tính qui luật của mối quan hệ giữa tính phổ quát và tính

dân tộc của lối sống cũng có nghóa là thừa nhận sự tiếp nhân, kế thừa
những giá trò văn hoá tiến bộ bên ngoài một cách có chọn lọc, tự nguyện,
phù hợp hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của dân tộc. Qui luật này không đồng
nghóa với hiện tượng xâm lược của các đế quốc và âm mưu đồng hóa văn
hóa, áp đặt lối sống của nó đối với dân tộc bò xâm lược. Trong trường hợp
này phải hết sức tỉnh táo cảnh giác để dân tộc không bò đồng hóa, mất
bản sắc trong lối sống của mình. Ngược lại, nếu bảo thủ, không khôn
ngoan tìm cách tiếp thu lối sống hiện đại thì không thể phát triển được.
3.MỐI QUAN HỆ GIỮA TÍNH KẾ THỪA VÀ TÍNH PHÁT TRIỂN.
Sự sống là liên tục. Để sống, con người luôn luôn phải hoạt động, vì
thế lối sống cũng diễn ra một cách liên tục, có sự kế thừa tất yếu. Sự kế
thừa diễn ra mạnh mẽ và chủ yếu trong các nhóm sơ cấp như gia đình,
nhóm công tác, nhóm bạn và từ đó tạo nên một sự kế thừa trong cả một
dân tộc. Trong thời đại ngày nay các phương tiện truyền thông cũng đóng
21
Xã hội học lối sống Hà Văn Tác
vai trò rất quan trọng đối vớ việc kế thừa này. Tuy nhiên, gia đình có vai
trò quan trọng nhất trong việc bảo đảm tính kế thừa của lối sống. Bởi vì
mỗi con người đều sinh ra và lớn lên từ một gia đình. Những năm tháng
của tuổi thơ chủ yếu sống dựa vào những sinh hoạt trong gia đình, do đó,
điều kiện vật chất và tinh thần, lối sống của cha mẹ, của các người thân
ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành phát triển lối sống của họ. Nó để lại
những đặc điểm khó phai mờ trong cuộc đời của họ.
Xã hội càng ổn đònh thì nếp sống của gia đình cũng ổn đònh và ngày
càng trở nên sâu sắc. Xã hội càng phát triển mạnh ít ổn đònh cũng ảnh
hưởng tới các nền nếp gia đình nhưng không thể đảo lộn hết được sự kế
thừa liên tục của gia đình. Dù sao thì trong gia đình vẫn còn có những yếu
tố bền vững cố đònh. Một dân tộc sống trong một thế giới xáo động, cũng
bò xáo động theo, nhưng có những yếu tố bản sắc dân tộc cũng bền vững
vô cùng, đặc biệt là khi dân tộc đó nhận thức được giá trò bản sắc của

mình. Nếu để bản sắc dân tộc bò phá vỡ thì việc khôi phục lại bản sắc đó
rất khó khăn, thậm chí có khi không thể thực hiện được. Vì thế, hiện nay,
các nước đang phát triển bò cuốn hút vào cơn lốc công nghiệp hóa, toàn
cầu hóa không thể không quan tâm đến vấn đề này. Trong điều kiện đó,
việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của mỗi gia đình và xây dựng
gia đình văn hóa là hết sức quan trọng.
Tuy nhiên, để kế thừa, người ta phải ý thức được cái giá trò độc đáo,
cái bản sắc q báu của mình để gìn giữ, tạo nguồn sống cho quá trình
phát triển, người ta phải biết được nó quan trọng, cần thiết, tạo đà cho
phát triển tương lai như thế nào. Kế thừa không phải là sự lặp lại máy
móc, giản đơn. Phải đứng trên quan điểm phát triển để nhận thức và thực
hiện sự kế thừa. Phải nắm vững bản sắc dân tộc để đònh hướng cho sự
phát triển. Những người hoang mang, hoảng hốt báo động trước những
hiện tượng đổi mới sẽ dễ rơi vào tình trạng bảo thủ trì trệ, và ngược lại,
22
Xã hội học lối sống Hà Văn Tác
những kẻ luôn phủ nhận những giá trò đang tồn tại trong cuộc sống cũng
dễ rơi vào chủ nghóa hư vô, mất phương hướng, mất bản sắc dân tộc.
4.MỐI QUAN HỆ GIỮA TẬP THỂ VÀ CÁ NHÂN.
Cá nhân, khi trưởng thành, mỗi người đều phải tham gia vào một tập
thể lao động. Qua lao động và những quan hệ trong tập thể, những nét
tiêu biểu, phù hợp với điều kiện lao động đó được củng cố trở thành ổn
đònh. Những đặc điểm không phù hợp dần dần bò gạt bỏ. Nếu tập thể lao
động đó là tập thể tiên tiến, nó càng củng cố và phát triển lối sống lành
mạnh cho các thành viên. Ngược lại, từng thành viên trong các tập thể
mà nhất là người đứng đầu tập thể có ý thức và sống vì tập thể, có nếp
sống khoa học, lành mạnh sẽ tạo ra những tập thể có lối sống lành mạnh
và do đó toàn xã hội có lối sống lành mạnh. Mối quan hệ giữa tập thể và
cá nhân trong sự hình thành phát triển lối sống cũng chính là mối quan hệ
giữa cái chung và cái riêng.

Trong quá trình phát triển xã hội, nhà quản lý luôn hướng tới hình
thành một lối sống chung của cả hệ thống. Nhưng điều đó không có nghóa
là xóa bỏ mọi khác biệt cá nhân. Và cũng không thể có những chi tiết
khuôn mẫu qui đònh chung cho tất cả mọi thành phần trong một xã hội
được. Do đó, phải chấp nhận tính phong phú đa dạng của đời sống cá
nhân do họ còn có những điều kiện khác nhau của từng gia đình, của
những cá tính và thò hiếu riêng của từng lứa tuổi.
5. MỐI QUAN HỆ GIỮA CƯỢNG CHẾ VÀ TỰ LỰA CHỌN.
Trước những hiện tượng tiêu cực trong xã hội, bất bình trước những
tình hình sa sút mọi mặt về đạo đức lối sống, những người quan tâm đến
tương lai phát triển xã hội thường nêu câu hỏi : làm thế nào để xây dựng
nếp sống văn hóa lành mạnh. Cũng có người mong muốn ta có những
biện pháp gì thật nghiêm ngặt, cứng rắn đầy tính cưỡng chế để nhanh
chóng xóa bỏ những hiện tượng tiêu cực, sa sút đạo đức lối sống. Cũng có
người cho rằng cần có những ngành nào đó có hoàn toàn trách nhiệm
23
Xã hội học lối sống Hà Văn Tác
hoặc có khả năng để thực hiện điều mong muốn đó, như ngành văn hóa,
giáo dục, công an. Đồng thời với những mong muốn bức xúc đó là những
yêu cầu và chuẩn mực được đưa ra. Song, ngược lại cũng có người cho
rằng mọi hành vi sống văn hóa là không thể qui đònh được, cần để cho
mọi người tùy thích muốn làm thế nào thì làm.
Cần phải thấy rằng, lối sống là sự chủ quan hóa của hệ thống những
quan hệ xã hội, của toàn bộ tổng thể những điều kiện sống. Nó thể hiện
trình độ nhận thức của con người về hiện thực, nói lên mức độ tự giác của
con người về cuộc sống của mình. Nhưng trong một xã hội mức độ ý thức
của mỗi người đối với điều kiện sống không giống nhau, động cơ thái độ
không giống nhau, thậm chí đối lập nhau. Vì thế, để có một lối sống
chung được coi là lành mạnh, tiến bộ trong một giai đoạn lòch sử nhất đònh
thường phải có sự lãnh đạo hướng dẫn của nhà nước bên cạnh sự tự do lựa

chọn của cá nhân. Không có cưỡng bức, khó mà có được sự tự giác trong
phạm vò toàn xã hội. Trong lòch sử từng dân tộc cũng như trong lòch sử
chung của loài người, đã từng có những phong tục, tập quán, những nếp
sống được hình thành nên bởi một sự chuyên chế rất ngặt nghèo của các
nhân vật độc tài. Chúng ta không thể thừa nhận cưỡng chế là biện pháp
duy nhất. Nhưng phải coi nó là một trong những biện pháp cần thiết để
thực hiện sự lãnh đạo và hướng dẫn để hình thành lối sống một cách tự
giác. Sự lãnh đạo và hướng dẫn hình thành các nếp sống văn hóa có thể
được thực hiện ở nhiều cấp độ của hình thức can thiệp khác nhau :
-Có thể can thiệp bằng luật pháp (trong Hiến pháp, trong các bộ luật,
các pháp lệnh, các qui đònh của nhà nước. Đây là hình thức có tính cưỡng
chế cao nhất trong toàn xã hội.
-Có thể can thiệp bằng sự giáo dục rèn luyện qua các hệ thống giáo
dục trong nhà trường và ngoài nhà trường, qua các tác phẩm và các hoạt
động văn học nghệ thuật.
24
Xã hội học lối sống Hà Văn Tác
-Có thể can thiệp bằng sức ép của dư luận xã hội mà vai trò quan
trọng nhất thuộc về xác phương tiện truyền thông đại chúng, các sinh
hoạt chính trò – xã hội của các tổ chức xã hội, các loại qui chế, qui ước
của các đơn vò nhỏ.
-Có thể can thiệp bằng việc tổ chức đời sống cho nhân dân một cách
chu đáo trong điều kiện còn thiếu thốn điều kiện vật chất.Thực hiện
phương châm: “đói cho sạch rách cho thơm”.
Biện pháp tổ chức đời sống cụ thể để xây dựng nếp sống văn hóa là
một biện pháp cực kỳ quan trọng. Để xây dựng được một lối sống, ngoài
sự cưỡng chế trực tiếp cần có sự cưỡng chế gián tiếp qua việc điều kiện
hóa lối sống cả về điều kiện vật chất lẫn điều kiện tinh thần. Điều kiện
hóa vật chất bao gồm việc tạo cơ sở vật chất, việc nâng cao trình độ tổ
chức đời sống vật chất. Còn điều kiện hóa tinh thần, bao gồm các điều lệ,

qui đònh, qui chế, qui ước của các tổ chức, các cộng đồng, tập thể lớn nhỏ,
các khẩu hiệu, các cuộc vận động phong trào, các loại dư luận xã hội. Sự
cưỡng chế là để đi đến đạt được sự tự nguyện phổ biến lâu dài của mọi
người vì cuộc sống chung tốt đẹp trong đó có lợi ích của mỗi người. Vì
thế biện pháp điều kiện hóa phải đầy sức thuyết phục và đưa mỗi người
từ chỗ chưa tự nguyện đến chỗ tự nguyện hoàn toàn.
Tuy nhiên, trong đời sống có những hành vi sống thuộc về lónh vực
thò hiếu, cá tính thì không can thiệp. Có những phong tục riêng biệt của
từng đòa phương hoặc từng dân tộc nhỏ mà nó không có hại thì cũng
không cần can thiệp, thậm chí còn cần khuyến khích để tạo nên sự phong
phú đa dạng trong văn hóa chung của toàn xã hội. Nhưng cũng cần thấy
rằng ranh giới giữa những ý thích, thò hiếu cá nhân và những vấn đề về ý
thức chính trò, đạo đức là rất mong manh và tinh vi. Do đó một mặt, phải
tránh thô bạo, nóng vội, giản đơn trong việc xử lý đối với những ý thích,
thò hiếu cá nhân nhưng mặt khác cũng phải nâng cao đầy đủ nhận thức,
trình độ nhạy cảm mới có thể xử lý đúng đắn được.
25

×