Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

skkn đổi mới phương pháp dạy-học các dạng bài luyện từ và câu lớp 4 thcs cẩm châu cẩm thủy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.95 KB, 23 trang )

PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lý do chọn đề tài.
Học sinh tiểu học là thế hệ măng non của đất nước, các em "Học vì ngày mai
lập nghiệp". Học để hiểu biết, học để trau dồi tri thức và học để trở thành những
người công dân có ích cho xã hội. Vì vậy việc đào tạo thế hệ trẻ trở thành những
người năng động sáng tạo độc lập tiếp thu tri thức để trở thành một công dân thực
thụ là một vấn đề quan tâm hàng đầu của nền giáo dục nước ta. Để thực hiện tốt
nhiệm vụ này nhà trường Tiểu học phải bước đầu cung cấp cho học sinh những tri
thức ban đầu để hình thành và phát triển các năng lực nhận thức và trang bị các
phương pháp kĩ năng về hoạt động nhận thức, bồi dưỡng và phát triển tình cảm thói
quen, đức tính tốt đẹp của con người thông qua việc dạy các môn học nói chung và
môn Tiếng Việt nói riêng.
Môn Tiếng Việt trong chương trình bậc Tiểu học giúp học sinh biết đọc
thông viết thạo, biết sử dụng từ ngữ một cách chuẩn xác và có kĩ năng giao tiếp
trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. Những kiến thức của môn Tiếng Việt là tiền
đề là cơ sở cho học sinh tiếp cận với các môn học khác. Việc dạy và học môn Tiếng
Việt trong nhà trường luôn được chú trọng ngay từ lớp đầu cấp. Đặc biệt trong bộ
môn Tiếng Việt phân môn Luyện từ và câu có một vị trí rất quan trọng là chìa khoá
mở ra kho tàng văn hoá trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội của con người. Hơn nữa
phân môn Luyện từ và câu còn có nhiệm vụ cung cấp những kiến thức sơ giản về
Tiếng Việt và rèn luyện kĩ năng dùng từ đặt câu (nói-viết), kĩ năng đọc cho học
sinh.Cụ thể là:
- Mở rộng, hệ thống hoá vốn từ trang bị cho học sinh một số hiểu biết sơ giản
về từ và câu.
- Rèn luyện cho học sinh các kĩ năng dùng từ đặt câu và sử dụng dấu câu.
- Bồi dưỡng cho học sinh thói quen dùng từ đúng và nói thành câu, có ý thức
sử dụng Tiếng Việt văn hoá trong giao tiếp.
Nhận thức được tầm quan trọng đó của phân môn Lyuện từ và câu, tôi đã
mạnh dạn nghiên cứu đề tài " Đổi mới phương pháp dạy - học các dạng bài tập
Luyện từ và câu lớp 4".
II. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.


1. Mục đích.
Nghiên cứu nội dung chương trình sách giáo khoa phân môn Luyện từ và
câu lớp 4, dự giờ, học hỏi đồng nghiệp, đồng thời điều tra khảo sát việc dạy và học
phân môn Luyện từ và câu của giáo viên và học sinh lớp 4. Từ đó thấy được những
khó khăn, vướng mắc của giáo viên và học sinh thông qua các giờ dạy và bài tập
Luyện từ và câu để tìm ra một số biện pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng dạy
1
và học môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Luyện từ và câu nói riêng ở Tiểu
học.
2. Nhiệm vụ .
Tìm hiểu tình hình học phân môn Luyện từ và câu trong môn Tiếng Việt,
thực hành xác định phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu. Đề
xuất một số biện pháp thực hiện khi dạy học sinh dạng bài này.
III. Phương pháp nghiên cứu .
- Phương pháp nghiên cứu lí luận (đọc tài liệu ).
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp thực nghiệm.
- Phương pháp đàm thoại.
- Phương pháp tổng kết, rút kinh nghiệm.
IV. Đối tượng và thời gian nghiên cứu .
1. Đối tượng.
- Đối tượng nghiên cứu: Đổi mới phương pháp dạy - học các dạng bài tập
Luyện từ và câu lớp 4.
- Khách thể nghiên cứu: Học sinh lớp 4B - Trường Tiểu học Cẩm Châu.
2. Thời gian :
- Từ tháng 9 năm 2012 đến hết tháng 3 năm 2013.
PHẦN II : GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lý luận của việc dạy và học phân môn luyện từ và câu.
1. Vị trí vai trò của phân môn Luyện từ và câu.

Phân môn Luyện từ và câu là một môn học giữ vị trí quan trọng trong
chương trình Tiếng Việt lớp 4. Ngay từ đầu của hoạt động học tập ở trường, học
sinh đã được làm quen với lý thuyết của từ và câu. Sau đó chương trình được mở
rộng thêm và nâng cao dần để phục vụ cho nhu cầu ngày một tăng trong cuộc sống
của các em cũng như trong lao động, học tập và giao tiếp.
Vai trò quan trọng đặc biệt trong hệ thống ngôn ngữ là đơn vị trung tâm của
ngôn ngữ. Chính vì vậy, dạy Luyện từ và câu có vị trí rất quan trọng không có một
vốn từ đầy đủ thì không thể nắm được ngôn ngữ như một phương pháp giao tiếp.
Việc dạy từ và câu giúp học sinh nắm được tiếng mẹ đẻ, tạo điều kiện học tập phát
triển toàn diện. Khả năng giáo dục nhiều mặt của Luyện từ và câu là rất to lớn. Nó
có nhiều khả năng để phát triển ngôn ngữ, tư duy logíc và các năng lực trí tuệ như
trừu tượng hoá, khái quát hoá, phân tích tổng hợp và các phẩm chất đạo đức như
2
tính cẩn thận, cần cù. Ngoài ra phân môn Luyện từ và câu còn có vai trò hướng dẫn
cho học sinh kĩ năng nói, đọc, viết.
Luyện từ và câu là môn học nền tảng để học sinh học các môn học khác
trong tất cả các cấp học sau cũng như trong lao động và giao tiếp trong cuộc
sống, bởi nó giúp học sinh có năng lực nói đúng. Từ đó sử dụng Tiếng Việt văn hoá
một cách thành thạo làm công cụ tư duy để học, giao tiếp và lao động.
2. Nhiệm vụ của phân môn Luyện từ và câu.
Dạy phân môn Luyện từ và câu ở trường Tiểu học nói chung và ở lớp 4 nói
riêng có nhiệm vụ cung cấp cho các em một số kiến thức cơ bản ban đầu và cần
thiết về từ, câu, các kiểu từ, các kiểu câu nhưng phải vừa sức đối với lứa tuổi các
em.
Dạy Luyện từ và câu có nhiệm vụ trang bị cho học sinh một số hệ thống khái
niệm, sự hiểu biết về cấu trúc ngôn ngữ và những quy luật của nó. Cụ thể là Luyện
từ và câu ở tiểu học giúp cho học sinh hiểu về cấu tạo của từ, khái niệm về từ và
câu.
Những kĩ năng mà học sinh cần đạt trong giờ Luyện từ và câu: Biết dùng từ,
câu trong nói và viết, nói đúng, dễ hiểu và sử dụng các câu văn hay, nhận ra những

từ và câu không có văn hoá để loại ra khỏi vốn từ, ngoài ra học còn nắm được văn
hoá chuẩn của lời nói.
Hơn nữa phân môn Luyện từ và câu còn rèn cho học sinh khả năng tư duy
logic cao và khả năng thẩm mĩ.
Nhiệm vụ chủ yếu của việc dạy từ và câu giúp học sinh mở rộng, phát triển
vốn từ (phong phú hoá vốn từ), nắm được nghĩa của từ(chính xác hoá vốn từ), quản
lí phân loại vốn từ (hệ thống hoá vốn từ và luyện tập sử dụng từ), tích cực
hoá vốn từ.
3. Tác dụng của phân môn luyện từ và câu .
Xuất phát từ nhiệm vụ của phân môn Luyện từ và câu đã được trình bày ở
trên, giúp học sinh phân biệt câu và từ, từ và tiếng, các kiểu câu trong đó biết
dùng từ đặt câu, biết mở rộng vốn từ và giải nghĩa từ, biết dùng dấu câu phù hợp,
góp phần bổ sung kiến thức, rèn luyện tư duy và hình thành nhân cách cho học
sinh( Thông qua các kĩ năng các em dùng từ để đặt câu).
Qua phân môn Luyện từ và câu các em nắm được cấu tạo từ và mở rộng vốn
từ, giải nghĩa của từ, nắm được các kiểu câu, các dấu câu ( dấu chấm hỏi, dấu chấm
than, dấu hai chấm, dấu ngoặc kép, dấu ngoặc đơn), biết cách sử dụng từ và câu
phù hợp với ngữ cảnh và lời nói.
3
Ngoài ra, nội dung chương trình của phân môn Luyện từ và câu ở tiểu học
được xây dựng phù hợp với yêu cầu phát triển lời nói của học sinh, giúp các em mở
rộng thêm kiến thức trong quá trình học tập, lao động và giao tiếp ngày một tốt
hơn, tiến bộ hơn, đạt kết quả cao hơn. Như vậy phân môn Luyện từ và câu có tác
dụng to lớn trong quá trình phát triển tư duy ngôn ngữ cho học sinh.
II. Thực trạng của việc dạy và học phân môn luyện từ và câu.
1. Khảo sát nội dung chương trình sách giáo khoa.
Môn Luyện từ và câu lớp 4 cả năm có 62 tiết và được bố trí dạy 2tiết/ 1tuần.
Nội dung chương trình gồm:
- Mở rộng và hệ thống hoá vốn từ theo chủ điểm ( Gồm 10 chủ điểm ).
Học kì I Học kì II

Chủ điểm 1: Thương người như thể
thương thân.
Chủ điểm 1: Người ta là hoa đất - tài
năng - sức khoẻ.
Chủ điểm 2: Trung thực - Tự trọng
Chủ điểm 2:Vẻ đẹp muôn màu - cái
đẹp.
Chủ điểm 3: Trên đôi cánh ước mơ
thực hiện ước mơ.
Chủ điểm 3: Những người quả cảm-
Dũng cảm.
Chủ điểm 4: Có chí thì nên - nghị lực
- ý chí.
Chủ điểm 4: Khám phá thế giới - Du
lịch - Thám hiểm.
Chủ điểm 5: Tiếng sáo diều - Đồ chơi
- Trò chơi
Chủ điểm 5: Tình yêu cuộc sống-Lạc
quan yêu đời.
- Cung cấp kiến thức sơ giản về cấu tạo của tiếng và từ:
+ Cấu tạo của tiếng.
+ Cấu tạo của từ: Từ đơn và từ phức, các loại từ phức.
- Từ loại: Cung cấp kiến thức sơ giản về Danh từ, Động từ, Tính từ.
- Câu: Cung cấp cho học sinh một số hiểu biết sơ giản về cấu tạo, công dụng
và cách sử dụng các kiểu câu như câu hỏi, câu kể(bao gồm: Ai làm gì?; Ai thế
nào?; Ai là gì?), câu khiến, câu cảm, thêm trạng ngữ cho câu.
- Ôn luyện kiến thức về công dụng và luyện tập sử dụng một số dấu câu: Dấu
hai chấm (: ), dấu ngoặc kép(" "), dấu chấm hỏi(?), Dấu ghạch ngang(-).
2. Khảo sát việc dạy và học của giáo viên, học sinh.
a. Thuận lợi.

- Chương trình SGK sau năm 2000 trình bày các bài Luyện từ và câu tương
đối khoa học giúp học sinh dễ phát hiện kiến thức, giáo viên dễ áp dụng các
phương pháp và hình thức dạy học. Phân môn đã chỉ rõ hai dạng bài: Bài lý thuyết
và bài tập thực hành với định hướng rõ ràng.
4
- Công tác giảng dạy luôn được Ban giám hiệu nhà trường quan tâm tạo mọi
điều kiện thuận lợi về đồ dùng dạy học, SGK và được học về sử dụng các phương
tiện dạy học hiện đại, luôn tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn để rút kinh
nghiệm trong tiết dạy, tổ chức kiểm tra, đánh giá kết quả dạy - học của giáo viên và
học sinh.
- Đội ngũ giáo viên có tay nghề chuyên môn vững vàng, giàu kinh nghiệm,
nhiệt tình trong công tác, sáng tạo trong việc đổi mới phương pháp dạy học.
- Học sinh: Hầu hết học sinh đều có ý thức làm bài tập, có thái độ tích cực
trong việc học và làm bài tập Luyện từ và câu. Các em đã được làm quen với cách
học mới từ lớp 1,2,3 nên đã biết cách lĩnh hội và luyện tập thực hành dưới sự
hướng dẫn của giáo viên.
- Phụ huynh học sinh: Sự quan tâm của phụ huynh học sinh cũng góp phần
nâng cao chất lượng môn học nói riêng và môn Tiếng Việt nói chung.
b. Khó khăn.
*Đối với giáo viên.
- Phân môn Luyện từ và câu là phần kiến thức khó nên một số giáo viên còn
lúng túng và gặp khó khăn trong khi hướng dẫn học sinh nắm được yêu cầu và vận
dụng vào việc làm các bài tập .
- Một số giáo viên chưa chịu đầu tư thời gian cho việc nghiên cứu để khai
thác kiến thức và tìm ra phương pháp phù hợp với học sinh còn lệ thuộc vào đáp
án, gợi ý dẫn đến học sinh ngại học phân môn này.
- Hình thức tổ chức dạy học của một số giáo viên còn đơn điệu, hầu như ít
sáng tạo, chưa thu hút lôi cuốn học sinh.
- Một số giáo viên còn chưa quan tâm đến việc mở rộng vốn từ, phát triển vốn
từ cho học sinh, giúp học sinh làm giàu vốn hiểu biết phong phú về Tiếng Việt.

* Đối với học sinh.
- Hầu hết học sinh chưa hiểu hết vị trí, tầm quan trọng, tác dụng của phân
môn Luyện từ và câu nên ít có hứng thú học tập, chưa dành nhiều thời gian để học
môn này.
- Nhiều học sinh chưa nắm rõ khái niệm của từ, câu Từ đó việc nhận diện
phân loại, xác định hướng làm bài lệch lạc. Việc xác định còn nhầm lẫn .
- Học sinh chưa có thói quen phân tích dữ kiện của đầu bài, thường hay bỏ
sót, làm sai hoặc không làm hết yêu cầu của đề bài.
- Học sinh thường nắm kiến thức một cách máy móc, thụ động và tỏ ra yếu
kém thiếu chắc chắn.
Trong quá trình dạy học, sau khi học bài: "Từ ghép, từ láy", SGKTV4 -
Trang 38), tôi đã tiến hành khảo sát học sinh lớp bằng bài tập sau :
Đề bài : Xác định từ ghép và từ láy trong đoạn văn sau.
5
Dáng tre mộc mạc, màu tre tươi nhũn nhặn. Rồi tre lớn lên cứng cáp, dẻo
dai, vững chắc. Tre trông thanh cao, giản dị, chí khí như người.
Kết quả khảo sát như sau:
Số
HSKS
Giỏi Khá Trung bình Yếu
21 SL TL SL TL SL TL SL TL
2 9,4 4 18,8 10 47,0 5 24,8
Qua bảng số liệu cho thấy. Số học sinh đạt điểm giỏi (9,10) là những em nắm
vững cấu tạo từ, phân biệt và xác định đúng từ ghép, từ láy đạt 9,4%.Số học sinh
đạt điểm khá đạt 18,8% là những học sinh đã nắm được cấu tạo từ nhưng xác định
từ ghép, từ láy chưa đầy đủ, Số học sinh đạt điểm trung bình đạt 47,0% đây là
những học sinh chưa nắm vững cấu tạo từ,chỉ biết tìm từ láy dựa vào hình thức ( Từ
phối hợp những tiếng có âm đầu hay vần hoặc cả âm đầu và vần giống nhau là các
từ láy), học sinh không căn cứ vào nghĩa của từ. Số học sinh yếu chiếm 24,8%, là
những học sinh chưa nắm vững cấu tạo từ, không xác định đúng từ ghép, từ láy.

Qua giảng dạy tôi nhận thấy kết quả chưa cao là do hai phía: người dạy và người
học. Xuất phát từ tình hình thực tế trên tôi đã tập trung nghiên cứu kiến thức của
từng bài học Luyện từ và câu, thông qua đó để tìm ra phương pháp dạy học hợp lý
cho từng dạng bài tập, cho từng đối tượng học sinh, giúp các em phần nào khắc
phục tình trạng trên.
III.Một số biện pháp trong giảng dạy phân môn luyện từ và câu.
1. Để có thể học tốt phân môn luyện từ và câu, ngay từ đầu tiết học giáo
viên phải khơi sự tò mò, hứng thú học tập cho học sinh.
Hứng thú là một khâu quan trọng, là một hiện tượng trong tâm lý đời sống
mỗi người. Hứng thú tạo điều kiện cho con người học tập lao động được tốt hơn.
Nhà văn M.Goóc ki nói "Thiên tài nảy nở từ tình yêu đối với công việc".Việc bồi
dưỡng hứng thú học tập môn Tiếng Việt - Phân môn Luyện từ và câu lớp 4 là một
việc làm cần thiết. Để tạo được sự hứng thú học tập cho các em, người giáo viên
phải tạo được sự thoải mái trong học tập, phải làm cho các em cảm nhận được vẻ
đẹp và khả năng kì diệu của ngôn từ, để kích thích vốn từ sẵn có của từng em. Nếu
giáo viên biết gây hứng thú học tập cho học sinh sẽ làm cho các em thích thú học
tập không còn gây cảm giác khô khan, chán học .
Khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài giáo viên có thể sử dụng nhiều phương
pháp, hình thức khác nhau (Phương pháp trò chơi, phương pháp động não, phương
pháp hỏi đáp) phù hợp với từng loại bài.
Ví dụ : Sử dụng phương pháp hỏi đáp khi giới thiệu bài " Mở rộng vốn từ:
Trung thực - Tự trọng" - Tuần 5 SGK trang 48-49. Giáo viên đặt câu hỏi: Cậu bé
Chôm trong truyện "Những hạt thóc giống"có đức tính gì đáng quý?(Trung thực).
6
Vậy theo em trung thực là gì? Còn tự trọng, em hiểu thế nào là tự trọng?(Học sinh
nêu ý kiến).
Giáo viên: Để giúp các em biết thêm nhiều từ, nắm được nghĩa và cách dùng
các từ ngữ theo chủ điểm Trung thực - Tự trọng. Hôm nay chúng ta sẽ mở rộng vốn
từ theo chủ điểm này.
Để thu hút học sinh vào bài học, ngoài giới thiệu bài thì trong khi tổ chức,

hướng dẫn làm bài tập giáo viên cũng luôn tạo không khí học tập để khơi gợi sự
hứng thú đối với học sinh.
Ví dụ : Khi dạy bài Từ ghép - từ láy, Giáo viên tổ chức cho học sinh chơi
trò chơi "Phân biệt nhanh".
*Mục tiêu : Giúp học sinh có khả năng phân biệt các kiểu từ trong Tiếng
Việt. Rèn tính nhanh nhẹn chính xác.
* Chuẩn bị: Bảng phụ ghi sẵn 5 từ ghép, từ láy; giấy bìa có ghi sẵn kí hiệu L-
G .
Từ Kí hiệu
1. Lung linh
2.Thông minh
3. Bờ bãi
4.Ruộng đồng
5. Chào mào.
* Thời gian : 3 phút.
* Cách tổ chức : GVchia lớp thành 3 đội, mỗi đội có 5 em tham gia. Giáo
viên cho các em từng đội nhận giấy bìa, trong thời gian 3 phút các em đính kí hiệu
đúng vào kiểu từ ở bảng phụ. Hết thời gian đội nào phân biệt đúng nhất, nhanh nhất
thì đội đó thắng cuộc .
Từ Kí hiệu
1.Lung linh L
2.Thông minh G
3. Bờ bãi G
4.Ruộng đồng G
5. Chào mào. G
Tóm lại vì Luyện từ và câu được đánh giá là môn học hơi khô nên việc gây
hứng thú đối với học sinh là rất quan trọng. Tuy nhiên phải làm sao trong lúc học
mà chơi, không biến giờ học thành giờ chơi.
2. Giáo viên cần phân ra các kiểu bài trong phân môn luyện từ và câu.
Với mỗi loại bài đều có phương pháp, hình thức tổ chức dạy học khác nhau.

Vì vậy để tiết học đạt hiệu quả cao giáo viên cần nghiên cứu kĩ nội dung chương
7
trình, xác định các loại bài cụ thể trong phân môn để từ đó vận dụng các phương
pháp, hình thức dạy học phù hợp.
a. Đối với dạng bài mở rộng vốn từ.
Cơ sở của việc hệ thống hoá vốn từ là sự tồn tại của từ trong ý thức con
người, từ tồn tại trong đầu óc con người không phải là những yếu tố rời rạc mà là
một hệ thống. Chúng được sắp xếp theo một hệ thống liên tưởng nhất định giữa các
từ này với từ khác có một nét gì chung khiến ta phải nhớ đến từ kia nên từ được
tích luỹ nhanh chóng hơn. Từ mới có thể được sử dung trong lời nói và khi sử dụng
nhờ hệ thống liên tưởng, học sinh nhanh chóng huy động lựa chọn từ phù hợp với
yêu cầu giao tiếp.
Với mục đích tích luỹ nhanh chóng vốn từ và tạo điều kiện để sử dụng từ
một cách dễ dàng, giáo viên nên đưa ra những từ theo một hệ thống và sử dụng linh
hoạt nhiều phương pháp, hình thức dạy học ( Thảo luận nhóm, trò chơi, đàm thoại,
hỏi đáp ) có sự hỗ trợ tích cực của đồ dùng dạy học.
Ví dụ : Khi tổ chức làm bài tập2 trang 17, tiết Luyện từ và câu bài " Mở rộng
vốn từ: Nhân hậu. - Đoàn kết" tuần 2.Giáo viên xác định mục tiêu bài học và chuẩn
bị đồ dùng cho tiết dạy như sau:
- Mục tiêu :Mở rộng và hệ thống hoá vốn từ ngữ theo chủ điểm. Nắm được
cách dùng từ ngữ đó.
- Đồ dùng: Bảng ( Từ có tiếng nhân có nghĩa là "người" và Từ có tiếng nhân
có nghĩa là "lòng thương người").
Từ có tiếng nhân có nghĩa là "người" Từ có tiếng nhân có nghĩa là"lòng
thương người"

+Bộ thẻ từ ghi từ đã cho :
nhân hậu
nhân ái công nhân
nhân loại nhân từ

nhân tài
nhân đức
8
nhân dân
-Cách thực hiện: Giáo viên chia lớp thành các nhóm ( nhóm 4), phát cho các
nhóm bộ thẻ từ, thảo luận và gắn vào hai cột trên bảng cho phù hợp.Các nhóm trình
bày kết quả (dán phiếu) trên bảng hoăc trên tường ở vị trí của nhóm.
Từ có tiếng nhân có nghĩa là "người" Từ có tiếng nhân có nghĩa là"lòng
thương người"

Ngoài việc tổ chức chia nhóm như trên giáo viên có thể tổ chức hoạt động học
theo hình thức trò chơi .
Ví dụ : Khi tổ chức làm bài tập 4 ở tiết Luyện từ và câu tuần 5 trang 148
SGK,Tiếng Việt 4, tập 1, bài "Mở rộng vốn từ: Đồ chơi - Trò chơi".Giáo viên tổ
chức cho học sinh chơi trò chơi " Mở rộng từ ngữ".
* Mục tiêu : Giúp học sinh củng cố mở rộng thêm từ, tích luỹ được vốn từ.
Giúp học sinh phát huy tính chủ động và tự tin .
* Chuẩn bị: Chuẩn bị bảng nhóm, bút lông.
* Thời gian : 3 phút
* Cách chơi: Giáo viên tổ chức cho học sinh chơi theo đội, mỗi nhóm học tập là
một đội, giáo viên giao việc cho các đội trong thời gian 3 phút, học sinh tìm tìm
các từ miêu tả tình cảm thái độ của con người khi tham gia các trò chơi và ghi vào
bảng nhóm các từ đúng theo yêu cầu thuộc chủ điểm. Hết thời gian các đội trình
bày. Đội nào tìm được nhiều từ đúng thì đội đó thắng .
Kết quả học sinh sẽ tìm được các từ như: hào hứng, say mê, say sưa, đam mê,
mê, ham thích
b. Dạng bài tập về cấu tạo từ- Tìm từ ghép, từ láy.
Dạy nghĩa của từ được hiểu là nội dung đối tượng vật chất, là sự phản ánh
đối tượng của hiện thực trong nhận thức được ghi lại bằng tổ hợp âm thanh xác
nhân loại

nhân ái
nhân từ
nhân đức
c
9
nhân dân
công nhân
nhân
hânhaaaaa
aaanhaanh
nhân hậu
nhân tài
định. Để làm tăng vốn từ cho học sinh, công việc đầu tiên giáo viên cần phải làm
cho học sinh hiểu nghĩa của từ.
Muốn thực hiện được điều này người giáo viên phải hiểu được nghĩa của từ,
phải biết vận dụng các phương pháp cũng như hình thức dạy học phù hợp với đối
tượng học sinh.
Đối với các dạng bài tập này giáo viên tổ chức cho học sinh làm việc theo
nhóm. Các nhóm thi làm bài và trình bày kết quả.
Đối với hình thức chia nhóm, giáo viên nên sử dụng theo nhiều cách khác
nhau tạo điều kiện cho các em được học hỏi, giao lưu với nhiều bạn khác trong lớp.
Giáo viên có thể chia nhóm theo số điểm danh, theo màu sắc, theo tên các loại trái
cây các em yêu thích Yêu cầu học sinh có cùng số điểm danh, cùng một màu,
cùng một loại trái cây yêu thích sẽ cùng vào một nhóm.
Ví dụ : Bài tập 2 trang 40 SGK tiết Luyện từ và câu " Từ ghép và từ láy".
- Tìm từ láy, từ ghép chứa các tiếng sau đây:
a) Ngay
b) Thẳng
c) Thật
*Mục tiêu: Học sinh biết vận dụng kiến thức đã học để phân biệt từ ghép với

từ láy, tìm được các từ ghép và từ láy đơn giản, tập đặt câu với các từ đó.
*Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị phiếu bài tập sau:
PHIẾU BÀI TẬP
Từ ghép
Từ láy
* Cách thực hiện:
- Giáo viên phát cho mỗi nhóm một phiếu bài tập như trên.
- Giáo viên yêu cầu học sinh các nhóm thảo luận và tìm từ phù hợp để viết
trên mỗi hình.
- Các nhóm trình bày kết quả. Cả lớp nhận xét.
10
Theo cách tổ chức này, các em rất thích thú và quan trọng là đảm bảo cho
mọi học sinh đều được làm tất cả các phần của bài tập.
Sau khi học sinh trình bày kết quả. Cùng yêu cầu của bài đã cho học sinh
chọn từ để đặt câu với từ đó. Giáo viên cho học sinh làm việc cá nhân.
* Cho học sinh so sánh từ láy với từ ghép:
Giáo viên chốt :
Từ bao giờ cũng có nghĩa vì nó là đơn vị nhỏ nhất để đặt câu.
Khi phân loại từ phải dựa vào mối quan hệ giữa các tiếng trong từ : Nếu có
quan hệ về mặt ngữ nghĩa là từ ghép. Nếu có quan hệ về mặt ngữ âm là từ láy.
Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh lấy thêm ví dụ:
- Từ ghép : nhà cửa, sách vở
- Từ láy : chăm chỉ, luộm thuộm
c. Dạng bài về danh từ, động từ, tính từ, .
Với các dạng bài tập này giáo viên cần cho học sinh phân tích đề bài một
cách rõ ràng. Khi cần giáo viên có thể giải thích để các em nắm được yêu cầu của
bài tập. Khi hướng dẫn học sinh làm bài tập, giáo viên cần phải nắm chắc trình tự
giảng giải, cần có những dự tính cho những tình huống và những lỗi học sinh mắc
phải khi giải quyết bài tập để sửa chữa kịp thời.
Ví dụ : Tìm những từ ngữ biểu thị mức độ của đặc điểm, tính chất (được in

nghiêng) trong đoạn văn sau:
` Hoa cà phê thơm đậm và ngọt nên mùi hương thường theo gió bay đi rất xa.
Nhà thơ Xuân Diệu chỉ có một lần đến đây ngắm nhìn hoa cà phê đã phải
thốt lên.
Hoa cà phê thơm lắm em ơi
Hoa cùng một điệu với hoa nhài
Trong ngà trắng ngọc, xinh và sáng.
Như miệng em cười đâu đây thôi
Đây là dạng bài tập về tính từ dạng bài này hơi trừu tượng với học sinh nên
giáo viên cần cho các em phân tích đề bài trước vì yêu cầu của bài không quen
thuộc với học sinh , khi các em đã hiểu đề bài yêu cầu các em tìm những từ biểu thị
mức độ của đặc điểm tính chất của các từ in nghiêng.Cụ thể: Hoa cà phê thơm như
thế nào?( thơm đậm và ngọt) nên mùi hương bay đi rất xa. Lần lượt học sinh
tìm( trả lời cá nhân theo phương pháp động não).
Thơm - lắm
Trong - ngà
Trắng - ngọc
Như vậy các em sẽ thấy quen với cách làm của bài này. Cuối cùng giáo viên
kiểm tra, đánh giá kết quả nhằm kích thích hứng thú học tập của học sinh và muốn
11
học sinh có mẫu sản phẩm tốt nhất thì giáo viên phải chuẩn bị mẫu lời giải đúng và
dùng nó đối chiếu với bài làm của học sinh. Với những bài làm sai giáo viên không
nhận xét chung mà chỉ rõ bài học sinh sai ở đâu và chuyển từ lời giải sai sang lời
giải đúng.
d. Dạng bài tập về câu.
Với dạng bài tập này cũng được lựa chọn với thực tiễn sinh động hàng ngày
để học sinh biết đặt câu đúng, phù hợp với tình huống giao tiếp, đảm bảo lịch sự
khi đặt câu. Vì vậy khi dạy dạng bài tập này giáo viên cần đặt trong hệ thống
chương trình để thấy rõ vị trí của nó đồng thời phải nắm chắc nội dung khái niệm.
Đây chính là nội dung mà giáo viên cần đưa đến cho học sinh.Trong mảng kiến

thức về câu gồm có:
- Câu kể.
- Câu hỏi .
- Câu khiến .
- Câu cảm (Câu cảm thán)
Đây chính là nội dung mà giáo viên cần đưa đến cho học sinh,để thực hiện
giảng dạy giáo viên cần linh hoạt sử dụng kết hợp các phương pháp,hình thức như:
trực quan, hỏi đáp,thảo luận nhóm, trò chơi , giúp học sinh rút ra kiến thức của bài
học.
Mục đích cuối cùng của việc dạy câu trong nhà trường là sử dụng chúng một
cách có ý thức để thực hiện chính xác tư tưởng, tình cảm trong hình thức nói và
viết. Vì vậy, thực hành câu nhất thiết phải được dạy một cách có định hướng, có kế
hoạch thông qua hệ thống bài tập câu.
Ví dụ : Khi dạy bài "Luyện tập về câu kể Ai là gì?", trang 78 SGK Tiếng
Việt 4.
- Giáo viên chuẩn bị bảng (phiếu bài tập) đã ghi sẵn tên các bộ phận của câu,
và bộ thẻ từ:
+ Bộ thẻ ghi các câu kể có trong đoạn văn, được chia thành hai mảnh:


12
Cả hai ông là người Thừa Thiên.
Nguyễn Tri Phương đều không phải là người Hà Nội.
Hoàng Diệu
quê ở Quảng Nam

+ Phiếu bài tập:
PHIẾU BÀI TẬP
CN VN
CN VN

CN VN
CN VN
- Giáo viên chia lớp thành các nhóm 4, phát thẻ từ cho các nhóm. Trong nhóm,
học sinh đặt các mảnh ngửa trên bàn, xáo đều và xếp thành hai dãy. Từng em trong
nhóm lần lượt chọn hai mảnh từ hai dãy sao cho hai mảnh này khi đặt lại với nhau
sẽ tạo thành một câu kể Ai là gì? với hai vế câu có nội dung phù hợp và dán các thẻ
câu trên phiếu bài tập.
Ông Năm
là dân ngụ cư của làng này.
Cần trục là cánh tay kì diệu của các chú công nhân.
13
Ông Năm là dân ngụ cư của làng này.
Cần trục là cánh tay kì diệu của các chú công nhân.

Sau khi các nhóm đã hoàn thành, các nhóm trình bày kết quả và nêu tác dụng
của từng câu.
e. Dạng bài về cách dùng trạng ngữ trong câu .
Trong câu, ngoài hai bộ phận chính câu còn có bộ phận phụ là trạng ngữ.
Việc nhận diện trạng ngữ cũng là một vấn đề khó đối với các em. Về vai trò ngữ
pháp, trạng ngữ là thành phần phụ không bắt buộc phải có mặt trong câu, nhưng
thêm phần trạng ngữ cho câu là để phản ánh đầy đủ tình cảm, nhận thức chủ quan
của người nói. Về cấu tạo trạng ngữ là một cụm từ có hoặc không có quan hệ từ
đứng trước. Trạng ngữ có thể đứng ở đầu câu, giữa câu hoặc cuối câu. Trạng ngữ ở
đầu câu dễ gặp nhất, học sinh dễ nhận thấy còn trạng ngữ ở giữa câu và cuối câu
học sinh khó nhận diện. Vì vậy khi dạy dạng bài này giáo viên cần đưa ra những
câu hỏi mà học sinh dễ phát hiện ra kiến thức của bài học.
Ví dụ : Khi tổ chức làm bài tập 1 trang 135, tiết Luyện từ và câu "Thêm
trạng ngữ chỉ thời gian cho câu".
- Tìm trạng ngữ chỉ thời gian trong các câu sau:
Buổi sáng hôm nay, nùa đông đột nhiên đến, không báo cho biết trước. Vừa

mới ngày hôm qua, trời hãy còn nắng ấm và hanh, cái nắng về cuối tháng mườilàm
nớt nẻ đất ruộng và làm giòn khô những chiếc lá rơi. Thế mà qua một đêm mưa rào,
trời bỗng đổi gió bấc, rồi cái lạnh ở đâu đến làm cho người ta tưởng đang ở giữa
mùa đông rét mướt.
PHIẾU BÀI TẬP






CN VN




CN VN


CN VN


CN VN
14
Nguyễn Tri Phương
là người Thừa Thiên.
Cả hai ông
đều không phải là người Hà Nội.
Đối với dạng bài tập này giáo viên sẽ tổ chức cho học sinh làm việc cá nhân.
Giáo viên hướng dẫn học sinh khi xác định các thành phần trong câu thì xác định

thành phần chính của câu trước, sau đó xác định đến thành phần phụ. Như thế sẽ
không bị nhầm thành phần phụ với thành phần chính. Đọc cả câu văn lên, xác định
mục đích cần thông báo. Mục đích ấy chính là thành phần chính trong câu.
Chẳng hạn ở câu 3 để xác định bộ phận trạng ngữ, ta cần đặt câu hỏi cho cả
câu. Trong câu này, có từ chỉ thời gian "qua một đêm mưa rào". Vậy thì có thể là
trạng ngữ chỉ thời gian nên ta chọn câu hỏi "khi nào trời bỗng đổi gió bấc, rồi cái
lạnh ở đâu đến làm cho người ta tưởng đang ở giữa mùa đông rét mướt".Và câu trả
lời sẽ là "qua một đêm mưa rào", đây chính là trạng ngữ của câu.
Học sinh rất dễ phát hiện vì đây là các tình huống rất quen thuộc với học sinh
nên nhất thiết phải hướng dẫn cụ thể.
Như vậy mức độ khó của bài tập không phụ thuộc vào các loại, các dạng bài
tập nữa mà phụ thuộc vào chính ngữ liệu mà giáo viên đưa ra cho học sinh .
3. Để việc dạy và học phân môn Luyện từ và câu được tốt, giáo viên còn
quan tâm đến một số điều sau:
3.1. Chú ý bồi dưỡng đối tượng học sinh khá, giỏi, nâng cao chất lượng
đại trà.
Trong một lớp học bao giờ cũng có nhiều đối tượng như học sinh khá giỏi,
học sinh trung bình và có thể có cả học sinh yếu. Các bài tập trong SGK theo yêu
cầu của Chuẩn kiến thức, kĩ năng thì mọi đối tượng học sinh đều phải đạt được.
Ngoài ra vì là lớp hai buổi có thời gian rèn luyện thêm vào buổi chiều. Nên bản
thân tôi thấy cần phải có các bài tập dành cho học sinh khá, giỏi, từng bước nâng
cao chất lượng học sinh trung bình và yếu.
Ví dụ : Bài Mở rộng vốn từ: Ý chí - Nghị lực.Sau tiết học, giáo viên cho các
em rèn luyện thêm vào tiết luyện các bài tập như sau.
Bài tập 1: Chọn từ thích hợp trong các từ sau để điền vào ô trống ý chí,
quyết chí, chí hướng, chí thân.
a, Nam là người bạn của tôi.
b, Hai người thanh niên yêu nước ấy cùng theo đuổi một
c, của Bác Hồ cũng là của toàn thể nhân dân Việt Nam.
d, Không có việc gì khó.

Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
ắt làm nên.
Lời giải: a.chí thân; b.chí hướng; c.ý chí; d. Quyết chí.
Bài tập2: Trong các câu tục ngữ dưới đây, câu nào không nói về ý chí, nghị
lực:
15
a. Có chí thì nên.
b.Thua keo này, bày keo khác.
c. Có bột mới gột nên hồ.
d. Có công mài sắt, có ngày nên kim.
e. Có đi mới đến, có học mới hay.
g. Thắng không kiêu, bại không nản.
Lời giải: c. Có bột mới gột nên hồ.
Như vậy đối với hai bài tập này, mục tiêu của giáo viên đề ra là với bài tâp 1
dành cho học sinh toàn lớp, bài tập 2 dành cho học sinh khá giỏi.
Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy việc quan tâm đến các đối tượng học
sinh là một việc làm quan trọng, không thể thiếu trong quá trình giảng dạy, nhất là
những lớp học hai buổi / ngày. Với những bài tập rèn luyện thêm đã phát huy được
khả năng học tập của các em học sinh khá, giỏi, nâng cao chất lượng học sinh đại
trà. Bên cạnh đó còn rèn cho các em tính chăm chỉ, không chịu rừng lại ở những gì
mình đã biết. Về việc ra bài tập để các em rèn luyện, giáo viên cần căn cứ theo tình
hình thực tế ở lớp mình, tham khảo thêm các sách như: Tiếng Việt nâng cao lớp 4,
Bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt 4 của nhà xuất bản Giáo Dục.
3.2. Gắn kiến thức bài học với thực tế.
Kiến thức Tiếng Việt vốn bắt nguồn từ đời sống thực tế, nếu trong khi dạy ,
giáo viên liên hệ thực tế để học sinh tìm kiến thức thì các em làm bài tập tốt hơn,
hứng thú hơn. Ngược lại sau mỗi hoạt động hoặc mỗi bài, giáo viên cần liên hệ
thực tế để giáo dục các em vận dụng những điều đã học vào cuộc sống. có như vậy,
các em mới cảm thấy kiến thức bài học thật gần gũi, yêu thích môn học hơn.

Ví dụ: Bài Mở rộng vốn từ "Nhân hậu - Đoàn kết",Tuần 3, trang 33 SGK
Tiếng Việt 4, nếu dạy bài vào thời điểm nước ta đang chịu ảnh hưởng bão, lũ, giáo
viên có thể cho học sinh xem băng hình, phóng sự về cảnh bà con đang chống chọi
với thiên taivà cảnh khắp nơi đang tổ chức quyên góp, ủng hộ sẽ giúp học sinh tìm
từ và đặt câu theo từ ngữ dễ hơn. Ngoài ra, từ việc liên hệ thực tế đó, giáo viên sẽ
làm xúc động học sinh, khắc sâu, giáo dục tinh thần tương tân tương ái, sống nhân
hậu đoàn kết, và các em biết vận dụng vào cuộc sống bằng những việc làm cụ thể
như: ủng hộ lũ lụt, ủng hộ bạn nghèo đồ dùng học tập
IV. Kết quả đạt được.
Trong quá trình nghiên cứu, thử nghiệm và tích cực tìm tòi phương pháp tổ
chức cho học sinh làm các dạng bài tập Luyện từ và câu, qua một thời gian áp dụng
phương pháp nghiên cứu tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng học sinh của lớp qua
bài tập sau:
Đề bài :
16
Chú chuồn nước mới đẹp làm sao. Màu vàng trên lưng chú lấp lánh, bốn
cánh mỏng như giấy bóng. Cái đầu tròn và hai con mắt long lanh như thuỷ tinh
- Tìm từ đơn, từ ghép, từ láy trong đoạn văn trên.
- Đặt một câu với một từ đơn, từ ghép, từ láy em vừa tìm được.
Số học sinh tham gia khảo sát là 21 em. Kết quả thu được:
Giỏi Khá Trung bình Yếu
SL TL SL TL SL TL SL TL
5 22,5 6 28,2 8 39,9 2 9,4
Qua bảng số liệu cho thấy, kết quả khảo sát chất lượng học sinh đã được
nâng lên rõ rệt. Số học sinh nắm vững cấu tạo từ, xác định đúng từ ghép,từ láy,đặt
câu chính xác với từ tìm được đạt 22,5%. Số học sinh đã phân biệt được từ loại
,biết sử dụng từ trong đặt câu đạt 28,2%. Số học sinh đã biết phân biệt từ ghép từ
láy nhưng chưa đặt câu phù hợp đạt 39,9%. Số học sinh yếu đã giảm (9,4%).
Điều này chứng tỏ phương pháp tổ chức cho học sinh học các bài tập Luyện
từ và câu là rất quan trọng, nó quyết định rất nhiều đến kết quả học tập của học

sinh. Cùng với việc nghiên cứu của mình, tổ chức cho các em được hoạt động có
hiệu quả, học sinh được hướng dẫn thực hành phù hợp với từng bài. Dần dần các
em đã hình thành được thói quen làm việc có kế hoạch, linh hoạt với từng dạng bài.
PHẦN III : KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
1.Kết luận:
Thực tế cho thấy trong phân môn Luyện từ và câu thì kỹ năng dùng từ để đặt
câu là rất cơ bản và trọng tâm của môn Tiếng Việt. Muốn làm bài tập Luyện từ và
câu đúng và không sai yêu cầu học sinh phải nắm chắc lý thuyết và các các quy tắc,
định nghĩa và kĩ năng làm bài tập.
Qua kết quả thực nghiệm và thực tế giảng dạy phân môn Luyện từ và câu ở
lớp 4, tôi thấy để đạt được những kết quả trên, người giáo viên cần chú ý:
- Nghiên cứu kĩ bài dạy để soạn bài có chất lượng.
- Thường xuyên đọc các tài liệu, trao đổi kinh nghiệm giảng dạy, trau dồi
kiến thức phân môn Luyện từ và câu với các đồng nghiệp.
- Tổ chức học tập bằng nhiều hình thức: học cá nhân, học nhóm, đổi mới
phương pháp dạy học, phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh.
- Sử dụng đồ dùng trực quan để tạo hứng thú học tập cho học sinh và nhớ
nhanh nội dung bài học.
- Dùng hệ thống câu hỏi gợi mở giúp học sinh tìm được những từ có nghĩa
để đặt câu.
- Cần quán triệt phương pháp lấy học sinh làm trung tâm, coi học sinh làm
chủ thể của hoạt động nhận thức, biến các em thành người chủ động trong quá trình
17
học tập, lĩnh hội tri thức. Các em phải hoàn toàn tự mình tham gia mọi hoạt động
nhận thức và giao tiếp.
2.Đề xuất:
-Đối với học sinh cần quan tâm, xác định được tầm quan trọng của phân môn
Luyện từ và câu. Các em cần được động viên khuyến khích kịp thời để các em có
nhiều cố gắng vươn lên trong học tập.
- Đối với giáo viên cần không ngừng học hỏi, tìm tòi, tích luỹ kinh nghiệm từ

đồng nghiệp, tài liệu thông tin sách vở và từ chính học sinh. Ngoài ra giáo viên cần
nắm chắc nội dung chương trình,ý đồ sách giáo khoa, dạy sát đối tượng học sinh,
lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp với mỗi dạng bài. Và
đặc biệt giáo viên cần phải tâm huyết với nghề, luôn đặt học sinh là trung tâm, gần
gũi, động viên giúp đỡ học sinh.
Trên đây là một số biện pháp mà tôi đã áp dụng trong giảng dạy các dạng bài
tập Luyện từ và câu lớp 4, những kinh nghiệm của bản thân trình bày ở trên chỉ là
một khía cạnh nhỏ. Rất mong được sự góp ý bổ sung của Hội đồng khoa học nhà
trường cùng các bạn bè đồng nghiệp để sáng kiến kinh nghiệm của tôi được hoàn
thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !

XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ Cẩm Châu, ngày 20 tháng 3 năm 2013
HIỆU TRƯỞNG Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác .
Người viết


Trần Thị Quỳnh Phạm Thị Phượng
18
PHỤ LỤC


T
T
Tên tác giả Tên tài liệu tham khảo Nhà xuất
bản
Năm xuất
bản
1 Nguyễn văn Du Tài liệu BDTX chu kì

1996-2000, chu kì 2003-
2007
Hà Nội 1992
2 Bộ Giáo Dục Sách Tiếng Việt lơp4
Tập 1&2
Giáo Dục 2006
3 Tạp chí Giáo dục tiểu
học
Giáo Dục 2007
4 Hà Nhật Thăng Một số trò chơi Giáo Dục 2001
6 Vụ Giáo Dục tiểu
học
Hoạt động và trò chơi Giáo Dục 2006
7 Bộ Giáo Dục và
Đào Tạo.
Đổi mới phương pháp
dạy học ở tiểu học
Giáo Dục 2006
19



MỤC LỤC
TT Đề mục Trang
1
2
3
4
5
6

7
8
9
10
11
12
13
14
PhầI. Đặt vấn đề
I. Lí do chọn đề tài
II. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
III. Phương pháp nghiên cứu
IV. Đối tượng và thời gian nghiên cứu
Phần II: Nội dung
I,Cơ sở lý luận
1. Vị trí vai trò của phân môn Luyện từ và câu
2. Nhiệm vụ của phân môn Luyện từ và câu
3. Tác dụng của phân môn Luyện từ và câu
II. Thực trạng của việc dạy và học Luyện từ và câu
1. Khảo sát nội dung chương trình sách giáo khoa
2. Khảo sát việc dạy và học của giáo viên, học sinh
III. Một số biện pháp trong giảng dạy phân môn Luyện từ
và câu
1
1
2
2
3
4
5,6

6,7
7,8,9,10,11
11,12
13
13,14
14
15
16
20
15
16
17
Phần III: Kết luận
Tài liệu tham khảo
Mục lục
.
ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI CỦA HĐKH CẤP TRƯỜNG
21
ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI CỦA HĐKH PHÒNG GD&ĐT
22
ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI CỦA HĐKH SỞ GD&ĐT
23

×