Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

skkn đổỉ mới phương pháp dạy- học tiết “bài tập vật lý” nhằm phát huy tính tích cực hoạt động của học sinh trường thpt như thanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.16 KB, 39 trang )


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
TRƯỜNG THPT NHƯ THANH
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỤC LỤC

Trang

A. PHẦN MỞ
ĐẦU 1
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ
TÀI 1
II. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ
TÀI 2
III. NHIỆM VỤ NGHIÊN
CỨU 2
IV. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN
CỨU 2
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU 2
B. NỘI
DUNG 3
Chương 1: Cơ sở lí luận liên quan đến đề tài nghiên
cứu 3
Chương 2: Vai trò và ý nghĩa của bài tập vật lý trong quá trình
dạy học 3
Chương 3: Thực trạng của đề tài nghiên
cứu 6
Chương 4: Biện pháp, giải pháp để thực hiện đề
tài 7


Chương 5: Kết quả đạt được của đề
tài 16
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN
NGHỊ 17

A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Vật Lý là môn khoa học thực nghiệm, khi tiếp cận đòi hỏi phải có
nhiều tư duy (cả tư duy thực tế và tư duy trừu tượng). Đối với học sinh
trung học phổ thông, bài tập vật lý là một phương tiện quan trọng giúp
học sinh rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, vận dụng lý thuyết đã học vào thực
tiễn. Việc giải bài tập vật lý giúp các em ôn tập, củng cố, đào sâu, mở
rộng kiến thức, rèn luyện thói quen vận dụng kiến thức khái quát để giải
quyết các vấn đề của thực tiễn. Ngoài ra, nó còn giúp các em làm việc
độc lập, sáng tạo, phát triển khả năng tư duy cũng như giúp các em tự
kiểm tra mức độ nắm bắt kiến thức của bản thân.
Trong nhiều trường hợp, dù giáo viên có cố gắng trình bày tài liệu
mạch lạc, hợp lôgic, phát biểu định nghĩa, định luật chính xác, làm thí
nghiệm đúng phương pháp và có kết quả thì đó mới là điều kiện cần
nhưng chưa đủ để học sinh hiểu sâu sắc và nắm vững kiến thức. Chỉ có
thông qua các bài tập ở hình thức này hay hình thức khác, tạo điều kiện
cho học sinh vận dụng linh hoạt những kiến thức đã học để tự lực giải
quyết thành công những tình huống cụ thể khác nhau thì những kiến thức
đó mới trở nên sâu sắc, hoàn thiện và thành vốn riêng của học sinh.

Khi làm bài tập, học sinh phải nhớ lại những kiến thức vừa học,
phải đào sâu khía cạnh nào đó của kiến thức hoặc phải tổng hợp nhiều
kiến thức trong một chương, một phần của chương trình và do vậy, bài
tập vật lý không chỉ là phương tiện để phát triển tư duy, óc tưởng tượng,
tính độc lập trong việc suy luận mà nó còn là phương tiện rất tốt để kiểm

tra kiến thức và kỹ năng của học sinh. Vì vậy, bài tập vật lý có ý nghĩa
hết sức quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ dạy học vật lý ở trường
phổ thông. Ngoài ra, bài tập vật lý còn giúp học sinh vận dụng được
những kiến thức vật lý đã học vào việc giải quyết những tình huống cụ
thể trong đời sống, kỹ thuật làm cho bộ môn trở nên lôi cuốn, hấp dẫn
các em hơn.
Tuy nhiên, trong thực tế, khi đọc một bài tập Vật Lý, nhiều học
sinh không biết nên bắt đầu từ đâu để có phương án thích hợp tìm ra kết
quả. Một trong những nguyên nhân quan trọng là các tiết “Bài tập” trong
chương trình vật lý phổ thông chưa được quan tâm và đầu tư đúng mức,
thể hiện trong các tài liệu thiết kế giáo án, qua quá trình chuẩn bị và lên
lớp của giáo viên, sự chuẩn bị và thái độ học tập tiết bài tập của học sinh.
Với mong muốn tìm được một giải pháp nhằm khắc phục phần nào
những khó khăn và hạn chế của việc dạy - học tiết “Bài tập vật lý” ở
trường THPT Như Thanh, giúp giáo viên có thể định hướng học sinh học
tiết bài tập vật lý một cách tích cực, hiệu quả, lôi cuốn được nhiều học
sinh tham gia vào quá trình giải bài tập, tôi chọn đề tài: “Đổi mới

phương pháp dạy - học tiết “Bài tập vật lý” nhằm phát huy tính tích
cực hoạt động của học sinh trường THPT Như Thanh”.
II. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI
- Giúp giáo viên và học sinh thấy được tầm quan trọng của tiết “Bài
tập” trong việc dạy - học Vật lý ở trường THPT.
- Tìm giải pháp để nâng cao hiệu quả dạy - học tiết “ Bài tập” trong
chương trình Vật lý phổ thông theo hướng phát huy tính tích cực hoạt
động của học sinh.
III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- Tìm hiểu cơ sở lý luận chung của bài tập vật lý và các bước giải
bài tập vật lý ở trường phổ thông.
- Đề ra giải pháp cho việc dạy tiết “Bài tập” trong chương trình vật

lý phổ thông.
- Đưa ra ví dụ cụ thể về tiết “Bài tập” trong chương trình vật lý phổ
thông.
IV. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Các tiết bài tập của môn Vật Lý trong chương trình THPT.
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp điều tra: thực trạng dạy tiết bài tập Vật lý trong
trường THPT Như Thanh.
- Phương pháp thống kê, so sánh.


B. NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lí luận liên quan đến đề tài nghiên cứu.
1.1. Cơ sở pháp lí:
Tiết “ Bài tập” nằm trong hệ thống bài giảng được quy định trong
phân phối chương trình giảng dạy môn Vật lý của từng khối, lớp; là tiết
học mà giáo viên phải thực hiện trong quá trình giảng dạy môn Vật lý ở
trường phổ thông.
1.2. Cơ sở lí luận:
- Yêu cầu cụ thể của việc dạy học Vật lý THPT là hoàn thiện cho
học sinh kiến thức phổ thông, cơ bản về vật lý, cần thiết để đi vào các
ngành khoa học, kỹ thuật, trong đó việc rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến
thức để giải thích hiện tượng, giải bài tập vật lý phổ thông là một trong
những mục tiêu rất quan trọng.
- Một trong những yêu cầu của việc đổi mới phương pháp dạy học
phổ thông là phải chú ý đến việc phát huy tính tích cực hoạt động, nâng
cao chất lượng và hứng thú học tập các bộ môn của học sinh.
Chương 2: Các bước giải bài tập vật lý.
Bài tập vật lý rất đa dạng và phong phú nhưng chúng ta có thể nêu
khái quát chung về các bước giải như sau:


-Bước 1: Tìm hiểu đề bài: Nghiên cứu kỹ đề bài, tóm tắt đề bằng
các ký hiệu toán học (đổi các đơn vị cần thiết).
-Bước 2: Xác lập các mối liên hệ: Phân tích dữ liệu và tìm thêm dữ
liệu trong kho tri thức liên quan, xây dựng các bài toán trung gian theo
hệ thống, dẫn đến việc đáp ứng yêu cầu chung của bài. Cụ thể là phân
tích từ những đại lượng phải tìm, đi ngược lại xem xét những kiến thức
nào liên quan đến nó, trong những kiến thức này tìm con đường nào gần
nhất đến dữ kiện đã cho. Kết quả là xây dựng được sơ đồ định hướng tư
duy cho mỗi bài tập và trình bày lời giải.
-Bước 3: Giải bài tập, tìm ra kết quả.
-Bước 4: Kiểm tra xác nhận kết quả: Kiểm tra kết quả tính toán đã
chính xác chưa, đã giải quyết hết yêu cầu bài toán đặt ra chưa, kết quả
thu được có phù hợp thực tế không và kiểm tra thứ nguyên của các đại
lượng vật lý đã tìm.
Ghi chú: Đối với bài tập vật lý trắc nghiệm khách quan thì các
bước thực hiện vẫn như trên, riêng bước thực hiện lời giải thì được làm ở
giấy nháp, còn kết quả lời giải là việc chọn ra câu đúng và đánh dấu vào
đó.
Trên đây là các bước chung để giải một bài tập vật lý, trong giờ
“Bài tập”, giáo viên phải thường xuyên và dần dần giúp học sinh nắm
được và vận dụng chúng trong quá trình làm bài tập vật lý. Tuy nhiên,
đây chỉ là sự hướng dẫn rất khái quát và trong nhiều trường hợp học sinh
vẫn không thể giải được bài tập. Do vậy, người giáo viên cần hướng dẫn

học sinh phân tích phương pháp giải bài tập đó, chỉ ra được cấu trúc các
thao tác, hành động cần thiết vừa có tác dụng phát huy tính tích cực hoạt
động nhận thức của học sinh, vừa giúp học sinh dễ dàng tìm ra cách giải
bài tập, tức là, giáo viên phải hướng dẫn học sinh lập được một bản chỉ
dẫn việc thực hiện các hành động, các thao tác cần thiết để giải bài tập đó

có nghĩa là giúp học sinh lập được sơ đồ định hướng tư duy. Tùy thuộc
vào đặc điểm, khả năng tiếp thu của học sinh, mục tiêu của tiết học, điều
kiện thời gian mà giáo viên lựa chọn phương pháp hướng dẫn học sinh
và tăng giảm mức độ cụ thể của sơ đồ định hướng tư duy một cách phù
hợp nhất.
Ngoài bốn bước chung để giải một bài tập vật lý, học sinh còn phải
biết cách giải các bài tập đặc trưng cho các phần kiến thức khác nhau
như: Các bài tập động học, các bài tập vận dụng định luật Niutơn, các bài
tập vận dụng các định luật bảo toàn, …Các bài tập này đều có các bước
đặc trưng riêng của nó.
Các phương pháp hướng dẫn học sinh có thể là:
a. Hướng dẫn theo mẫu.
Hướng dẫn theo mẫu là sự hướng dẫn chỉ rõ cho học sinh những
hành động cụ thể cần thực hiện và trình tự thực hiện các hành động đó để
đạt kết quả mong muốn. Đây được coi là những hành động sơ cấp, đơn
giản học sinh phải nắm vững. Kiểu hướng dẫn này không đòi hỏi học
sinh phải tự mình tìm tòi xác định các hành động cần thực hiện để giải
quyết vấn đề đặt ra mà chỉ đòi hỏi học sinh chấp hành các hành động đã

được giáo viên chỉ ra, cứ theo đó học sinh sẽ đạt được kết quả, sẽ giải
được bài tập đã cho.
Kiểu hướng dẫn này thường được áp dụng khi cần dạy cho học sinh
phương pháp giải một loại bài tập điển hình nào đó ở đầu mỗi bài, mỗi
phần, nhằm luyện cho học sinh nắm vững một đơn vị kiến thức mới hay
kỹ năng giải một loại bài toán đặc trưng nào đó.
Ví dụ: Để rèn luyện cho học sinh kỹ năng giải bài toán thuận trong
phương pháp động lực học (Vật lý 10), ta có thể hướng dẫn cho học sinh
thực hiện giải theo trình tự sau:
1, Chọn hệ trục toạ độ đề các Oxy( Ox trùng với đường thẳng
chuyển động).

2, Phân tích các lực tác dụng lên vật: Chỉ rõ các lực và biểu diễn
các lực tác dụng lên vật trên hình vẽ.
3, Viết phương trình định luật II Niutơn cho vật:
amF
hl
=
(*)
4, Chiếu phương trình (*) lên trục Ox: F
hl/Ox
= ma (1).
5, Chiếu phương trình (*) lên phương Oy: Tìm được N (2).
6, Lực ma sát F
ms
= µN (3).
7, Thay (2), (3) vào (1), tính được a và tìm được tính chất của
chuyển động.
Kiểu hướng dẫn theo mẫu có ưu điểm là nó đảm bảo cho học sinh
giải được bài toán đã cho một cách chắc chắn, giúp cho việc rèn luyện kỹ
năng giải bài toán của học sinh có hiệu quả. Tuy nhiên, nếu việc hướng
dẫn học sinh giải bài toán luôn chỉ áp dụng kiểu hướng dẫn này thì học

sinh chỉ quen chấp hành những hành động đã được chỉ dẫn theo một mẫu
có sẵn. Do đó, ít có tác dụng rèn luyện khả năng tìm tòi, sáng tạo, sự
phát triển tư duy sáng tạo của học sinh bị hạn chế. Để hạn chế yếu điểm
này, giáo viên có thể hướng dẫn cho học sinh trình tự giải một loại bài
toán xác định có thể theo các cách sau đây:
* Chỉ dẫn cho học sinh trình tự giải dưới dạng có sẵn qua việc giải
một bài toán mẫu, giáo viên phân tích các phương pháp giải và chỉ dẫn
cho học sinh trình tự giải loại bài toán đó rồi cho học sinh tập áp dụng để
giải các bài toán tiếp theo.

* Đối với những học sinh khá, giỏi để tăng cường rèn luyện tư duy
trong quá trình giải bài toán, người giáo viên có thể lôi cuốn học sinh
tham gia vào quá trình xây dựng trình tự chung để giải loại bài toán đã
cho. Thông qua việc phân tích những bài toán đầu tiên, giáo viên có thể
yêu cầu học sinh tự vạch ra trình tự giải loại bài toán này rồi áp dụng vào
việc giải những bài toán tiếp theo.
Trong trường hợp học sinh yếu, học sinh chưa thể áp dụng được
ngay mẫu đã được giáo viên đưa ra thì giáo viên cần đưa thêm những bài
luyện tập riêng nhằm đảm bảo cho học sinh thực hiện được những chỉ
dẫn riêng lẻ trong trình tự giải này, tạo điều kiện cho học sinh có thể áp
dụng được mẫu đã cho.
b. Hướng dẫn tìm tòi.

Hướng dẫn tìm tòi là hướng dẫn mang tính gợi ý cho học sinh suy
nghĩ, tìm tòi, phát hiện cách giải quyết, giáo viên gợi mở để học sinh tự
xác định các hành động cần thực hiện để đạt được kết quả.
Kiểu hướng dẫn này được áp dụng khi cần giúp đỡ học sinh vượt
qua khó khăn để giải được bài toán, đồng thời vẫn đảm bảo yêu cầu phát
triển tư duy học sinh, tạo điều kiện cho học sinh tự lực tìm cách giải
quyết bài toán.
Ưu điểm của kiểu hướng dẫn này là tránh được tình trạng giáo viên
làm thay học sinh trong việc giải bài toán nhưng đòi hỏi học sinh phải tự
lực tìm cách giải quyết nên không phải bao giờ cũng có thể đảm bảo cho
học sinh giải được bài toán một cách chắc chắn. Khó khăn của kiểu
hướng dẫn này là ở chỗ giáo viên phải hướng dẫn sao cho không được
đưa học sinh đến chỗ chỉ việc thừa hành các hành động theo mẫu, nhưng
đồng thời lại không thể là một sự hướng dẫn quá khái quát khó giúp học
sinh tìm được hướng giải. Nó phải có tác dụng hướng tư duy của học
sinh vào phạm vi cần nghiên cứu, cần phát hiện cách giải quyết nhưng
học sinh vẫn phải tự tìm tòi chứ không phải chỉ ghi nhận, tái tạo cái có

sẵn. Việc hướng dẫn này tạo điều kiện cho học sinh tư duy tích cực, đáp
ứng đòi hỏi phát triển tư duy và phát huy tính tích cực hoạt động cho học
sinh trong quá trình giải bài tập.
c. Định hướng khái quát chương trình hóa.
Định hướng khái quát chương trình hóa cũng là sự hướng dẫn
mang tính chất gợi ý cho học sinh tự tìm cách giải quyết nhưng giúp học

sinh ý thức được đường lối khái quát của việc tìm tòi giải quyết vấn đề
và định hướng được theo các bước dự định hợp lý. Sự định hướng ban
đầu đòi hỏi sự tự lực tìm cách giải quyết của học sinh. Nếu học sinh
không đáp ứng được thì sự giúp đỡ tiếp theo của giáo viên là sự phát
triển định hướng khái quát ban đầu, cụ thể hóa thêm một bước bằng cách
gợi ý thêm cho học sinh để thu hẹp hơn phạm vi tìm tòi, giải quyết cho
vừa sức học sinh. Nếu học sinh vẫn không đủ sức tìm tòi, giải quyết thì
sự hướng dẫn của giáo viên chuyển dần thành hướng dẫn theo mẫu để
đảm bảo cho học sinh hoàn thành được một bước, sau đó tiếp tục yêu cầu
học sinh tự lực tìm cách giải quyết bước tiếp theo. Cứ như vậy cho đến
khi giải quyết được vấn đề đặt ra.
Kiểu hướng dẫn này được áp dụng khi có điều kiện hướng dẫn tiến
trình giải bài toán của học sinh, giúp cho học sinh tự giải được bài toán
đã cho, đồng thời dạy cho học sinh cách suy nghĩ để giải một bài toán.
Kiểu hướng dẫn này có ưu điểm là thực hiện được đồng thời các yêu
cầu:
- Rèn luyện được tư duy của học sinh trong quá trình giải bài toán.
- Đảm bảo cho học sinh giải được bài toán đã cho.
Tuy nhiên kiểu hướng dẫn này đòi hỏi giáo viên phải theo sát tiến
trình hoạt động giải bài tập của học sinh, giáo viên không chỉ đưa ra
những lời hướng dẫn có sẵn mà cần kết hợp được việc định hướng với
việc kiểm tra kết quả hoạt động của học sinh để điều chỉnh sự giúp đỡ
phù hợp với trình độ của học sinh.


Tóm lại: Để người học tích cực, tự lực suy nghĩ, hành động tiến
tới giải quyết được bài tập và phát triển tư duy vật lý, cách định hướng
hữu hiệu là phối hợp sử dụng linh hoạt kiểu định hướng khái quát
chương trình hóa, hướng dẫn tìm tòi và hướng dẫn theo mẫu trong việc
hướng dẫn học sinh giải bài tập.
Chương 3: Thực trạng của đề tài nghiên cứu.
3.1.Thực trạng của đề tài nghiên cứu.
- Thống kê chất lượng học môn Vật lý của học sinh trường THPT
Như Thanh còn thấp so với nhiều môn học khác.
- Học sinh trường THPT Như Thanh có chất lượng thi tuyển đầu
vào thấp và không đều đặc biệt là chất lượng và năng lực học môn Vật
lý.
- Cách tổ chức dạy học tiết “Bài tập” của nhiều giáo viên chưa
chú trọng đến việc phát huy tính tích cực cho học sinh: Trong giờ bài
tập, giáo viên gọi một vài học sinh lên bảng làm bài tập, số còn lại theo
dõi quá trình làm bài tập của các học sinh trên. Việc học sinh không hiểu
bản chất của vấn đề, tiếp thu kiến thức một cách máy móc và thụ động,
sau khi học xong các em không thấy được mối liên hệ giữa lí thuyết với
thực tế và các tình huống trong các bài tập, do đó kiến thức cũng bị quên
đi nhanh chóng, khả năng giải bài tập vật lý của học sinh bị hạn hẹp và

khó khăn cho việc hình thành phương pháp giải các dạng bài tập vậy lý ở
học sinh.
- Thiết kế tiết dạy “Bài tập” trong các tài liệu thường không có
hoặc nếu có cũng không có sự khái quát về từng vấn đề nên học sinh khó
có thể nêu lên được phương pháp giải bài tập liên quan.
- Đa số bài tập ở sách giáo khoa chỉ dừng lại ở mức độ củng cố và
còn thiếu so với lượng kiến thức đã nêu trong lý thuyết. Do đó, học sinh
khá, giỏi không thể phát huy được hết khả năng; học sinh ở mức độ

trung bình trở xuống thì bế tắc khi gặp dạng bài tập khác.
- Nhiều giáo viên trẻ còn thiếu kinh nghiệm trong lựa chọn và phân
loại bài tập.
3.2 Nguyên nhân, khó khăn chung của thực trạng.
- Tiết bài tập rất khó dạy ở chỗ không có một thiết kế nào cụ thể,
phải tuỳ thuộc vào khả năng tiếp thu của học sinh, của chương trình. Nếu
không xác định đúng mục tiêu rất dễ đi vào sự đơn điệu.
- Về khả năng tư duy của học sinh: một số học sinh quen lối tư duy
cụ thể, ít tư duy lôgic, trình độ tư duy trừu tượng chậm; khi gặp một sự
vật, hiện tượng nào đó thường chỉ chú ý đến bề ngoài. Các em chưa có
thói quen lao động trí óc, ngại suy nghĩ, gặp những tình huống khó
thường trông chờ sự hướng dẫn của giáo viên.
- Hệ thống sách tham khảo tràn lan khiến các em không biết chọn
lựa tài liệu phù hợp.


Chương 4: Biện pháp, giải pháp để thực hiện đề tài.
Theo quan điểm của tôi, tiết bài tập vật lý không phải là tiết học để
giáo viên gọi học sinh lên bảng làm bài tập lấy điểm mà là tiết dạy để
giáo viên hướng dẫn học sinh phương pháp giải các dạng bài tập vật lý
có liên quan đến phần kiến thức đã học ở các tiết lý thuyết trước đó.
Muốn phát huy tính tích cực hoạt động nhận thức của học sinh trong dạy
- học tiết bài tập, giáo viên vật lý cần phải căn cứ vào nội dung, mục
đích, phương tiện dạy học và trình độ của học sinh mà lựa chọn loại bài
tập, cách hướng dẫn, giúp đỡ để học sinh giải bài tập thành công và tạo
điều kiện cho họ nắm được các phương pháp giải. Vì vậy, giáo viên cần
thực hiện tốt và chú ý phát huy tính tích cực hoạt động của học sinh ở tất
cả các công đoạn sau đây:
a. Chuẩn bị bài tập:
Để có một tiết dạy tốt cần có sự chuẩn bị bài tập thật chu đáo.

Trước mỗi tiết bài tập có nhiều tiết lý thuyết, trong mỗi đơn vị kiến thức
của lý thuyết cần nêu bật được nội dung chính, đưa ví dụ minh họa để từ
đó hình thành phương pháp giải bài tập về loại vấn đề đó.
Ví dụ: Trong bài Cấu tạo của hạt nhân nguyên tử, sách Vật lý 12 Nâng
cao có trình bày: hạt nhân có năng lượng liên kết riêng càng lớn thì càng
bền vững.

Giáo viên cho học sinh tính năng lượng liên kết riêng của hai hạt
nhân
D
2
1

T
3
1
, sau đó so sánh mức độ bền vững của các hạt nhân thông
qua việc so sánh năng lượng liên kết riêng của chúng .
Cuối mỗi tiết lý thuyết nên dành một thời lượng vừa phải để rút ra
dạng bài tập của bài học hôm đó, chỉ ra bài tập tương ứng để học sinh về
làm.
Khi đến tiết bài tập, giáo viên nên lựa chọn loại và số lượng bài tập
phù hợp (không nhất thiết phải là các bài tập ở sách giáo khoa). Hệ
thống bài tập phù hợp với trình độ học sinh sẽ phát huy tốt tính tích cực
nhận thức cho học sinh, lôi cuốn được nhiều học sinh tham gia quá trình
giải bài tập, giờ học sẽ không nhàm chán và đơn điệu. Sau tiết học, học
sinh tối thiểu giải được các bài tập cơ bản trong sách giáo khoa.
Hệ thống bài tập được lựa chọn phải thoả mãn các yêu cầu sau:
- Để kích thích hứng thú của học sinh, các bài tập phải đi từ dễ đến
khó, từ đơn giản đến phức tạp về phạm vi và số lượng các kiến thức, kỹ

năng cần vận dụng, số lượng các đại lượng cho biết và các đại lượng cần
phải tìm… các bài tập này phải vừa sức và phù hợp với từng đối tượng
các lớp.
- Mỗi bài tập phải là một mắt xích trong hệ thống bài tập, đóng góp
vào việc củng cố, hoàn thiện và mở rộng kiến thức cho học sinh. Giúp
học sinh nắm được phương pháp giải các bài tập điển hình.
- Hệ thống bài tập được chọn giải giúp học sinh nắm được phương
pháp giải từng loại bài tập cụ thể và “bao” được phương pháp giải nhiều

bài tập trong sách giáo khoa để sau khi giải bài tập này học sinh có thể
giải được các bài tập trong sách mà trước đó các em còn lúng túng hoặc
chưa giải được. Nếu hệ thống bài tập trong sách giáo khoa đã tốt thì lấy
ngay bài tập trong sách.
- Để kích thích hứng thú, một điều quan trọng của tính tích cực
của học sinh nên chọn những bài tập có những nội dung thực tế, đó là
những bài tập liên quan trực tiếp đến đời sống, kỹ thuật sản xuất và lao
động của học sinh.
- Cũng cần chọn những bài tập nâng cao, mở rộng một vấn đề,
khía cạnh nào đó trong phạm vi kiến thức đã học, những bài tập mang
yếu tố nghiên cứu, nhằm giúp học sinh khá, giỏi phát triển tư duy đồng
thời phát huy tính tích cực, sáng tạo. Đó là những bài tập muốn giải được
học sinh phải suy nghĩ, phân tích tỉ mỉ, cẩn thận chứ không thể áp dụng
một cách máy móc các công thức vật lý.
- Chuẩn bị phiếu học tập (nếu cần) để kiểm tra, củng cố sự tiếp thu
của học sinh; thống kê những những thiếu sót, rút kinh nghiệm cho các
tiết sau.
Từ những yêu cầu đó, cần cho học sinh bắt đầu việc giải bài tập về
một đề tài bằng những bài tập định tính hay bài tập tính toán tập dượt các
bài tập cơ bản, tối thiểu ứng với từng kiến thức cơ bản. Sau đó mới đến
các bài tập tính toán tổng hợp, bài tập đồ thị, bài tập thí nghiệm và những

bài tập phức tạp hơn để bồi dưỡng tư duy cho học sinh khá, giỏi, trong
đó phải lưu ý đến những dạng bài tiêu biểu của kiến thức cần vận dụng.

Như vậy bước chuẩn bị đóng vai trò rất quan trọng cho tiết lên lớp
sau này.
b/ Soạn bài :
Xác định cho được mục tiêu của tiết dạy: Sau tiết học, học sinh
phải hiểu và vận dụng những kiến thức, kỹ năng và giải được dạng bài
tập nào. Tuỳ theo trình độ của từng lớp học mà có thể giảm bớt hay tăng
thêm một số yêu cầu.
c/ Thực hiện tiết lên lớp: Hướng dẫn học sinh giải bài tập theo hướng
phát huy tính tích cực hoạt động nhận thức của học sinh.
Mỗi bài tập vật lý nghiên cứu một hoặc một số vấn đề trong một
tình huống cụ thể, do đó không thể có một phương pháp chung, vạn năng
để giải quyết mọi bài tập vật lý. Tuy nhiên, tiến trình giải các bài tập vật
lý cũng có nhiều hoạt động chung và đều trải qua các bước: tìm hiểu đề
bài; phân tích hiện tượng, quá trình vật lý trong bài tập rồi dựa vào kiến
thức vật lý, toán học để tìm mối liên hệ trực tiếp giữa cái phải tìm với cái
đã cho để lập kế hoạch giải; trình bày lời giải; kiểm tra, biện luận kết
quả.
Giáo viên có thể thực hiện tiết lên lớp theo các hoạt động chính sau
đây:
Hoạt động 1: Kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh. Củng cố lý thuyết.
- Kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh về việc nắm vững lý thuyết và
giải bài tập được giao về nhà: Giáo viên giúp học sinh nhớ lại kiến thức
cơ bản mới học cần luyện tập và điều chỉnh sai lệch. Để thực hiện hoạt

động này, giáo viên nên đặt câu hỏi phát vấn về các vấn đề cần luyện tập
rồi yêu cầu cá nhân học sinh trả lời, học sinh khác bổ sung. Cuối cùng
giáo viên nhận xét và cho điểm.

- Giáo viên giải thích thêm một số vấn đề mà học sinh thắc mắc.
- Giáo viên khái quát hóa, hệ thống hóa kiến thức.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu khái quát các dạng bài tập
cơ bản.
Hoạt động 2: Hướng dẫn phương pháp giải các dạng bài tập.
Đây là hoạt động trọng tâm và chiếm nhiều thời gian nhất của tiết
học. Hoạt động này đánh giá vai trò hướng dẫn của thầy, quyết định
trong việc phát triển tư duy vật lý, việc nắm được phương pháp, kĩ năng
giải bài tập vật lý và đánh giá tính tích cực hoạt động của học sinh.
Giáo viên nêu đề bài tập và yêu cầu học sinh:
- Tìm hiểu và tóm tắt đầu bài:
* Đọc kỹ đầu bài.
* Ghi các đại lượng đã cho và cái phải tìm bằng các ký hiệu quen
dùng.
* Đổi đơn vị của các đại lượng đã cho về đơn vị phù hợp.
Tìm hiểu đầu bài không phải là đọc đi đọc lại nhiều lần mà phải
hiểu cặn kẽ và có thể phát biểu lại đầu bài một cách ngắn gọn, chính xác
từ đó học sinh có thể tóm tắt đầu bài bằng các kí hiệu hoặc bằng hình vẽ.
- Nhận diện bài tập và những kiến thức cần vận dụng để giải bài tập.

* Yêu cầu học sinh phân tích đề bài: mô tả được hiện tượng, quá
trình Vật lý xảy ra trong đề bài. Nêu được các quy tắc, các định luật chi
phối hiện tượng, quá trình đó tức là tìm ra cách giải quyết bài tập và đề
xuất phương án giải.
* Cho lớp nhận xét, bổ sung phương pháp giải khác (nếu có). Cuối
cùng giáo viên nhận xét, khẳng định lại hướng giải và lập sơ đồ định
hướng tư duy trên bảng (đối với học sinh yếu và trung bình).
Để có thể lôi cuốn cả lớp tích cực, chủ động trong hoạt động này,
giáo viên phải cho cả lớp thảo luận, phân tích đề bài, nghiên cứu các dữ
kiện, các ẩn số, xác lập các mối quan hệ cơ bản để giải bài tập và thống

nhất tiến trình các bước giải.
- Giải bài tập trên bảng:
* Sau khi đã thống nhất tiến trình các bước giải, giáo viên gọi một
hoặc một nhóm học sinh lên bảng trình bày lời giải, các học sinh khác
làm vào vở nháp rồi đối chiếu kết quả của mình với kết quả của học sinh
trên bảng.
Với cách tổ chức giải bài tập như vậy, học sinh thực sự trở thành
người trong cuộc, phải suy nghĩ tìm tòi, đưa ra cách giải hoặc bình luận
cách giải và tiến hành các công việc cụ thể của việc giải một bài tập vật
lý. Cách tổ chức này cũng kết hợp được sức mạnh cá nhân và sức mạnh
tập thể, vì trong quá trình giải bài tập mỗi học sinh có thể gặp khó khăn ở
một số khâu nào đó, qua thảo luận, trao đổi với tập thể lớp và giáo viên
thì học sinh có thể tự vượt qua khó khăn đó, đồng thời qua thảo luận mỗi

học sinh lại có điều kiện tự kiểm tra, đánh giá sản phẩm của mình, từ đó
tự sửa chữa, hoàn chỉnh cả về kiến thức và cách thức hành động của bản
thân.
* Sau khi học sinh lên bảng đã giải xong, giáo viên cho học sinh
khác nhận xét, đánh giá bài giải theo hướng:
Kiểm tra kết quả: có đúng không? Vì sao? Có phù hợp với thực tế
không?
Kiểm tra lại các phép tính và cuối cùng đưa ra đáp số chính xác.
Nếu có điều kiện có thể tìm lời giải khác (nếu có). Kiểm tra xem
có còn con đường nào ngắn hơn không?
* Giáo viên sửa các sai sót, giải đáp thắc mắc, tổng kết phương
pháp và nhắc nhở những điểm đáng lưu ý (phương pháp giải chung và
riêng đối những bài toán có giá trị đặc biệt).
Bước phân tích hiện tượng, quá trình vật lý và lập kế hoạch giải là
bước quan trọng nhất của quá trình giải một bài tập vật lý, là then chốt
trong việc đánh giá tư duy học sinh. Trong bước này cần có sự định

hướng, hỗ trợ nhiều của giáo viên, mức độ cụ thể của bước này phải tùy
theo năng lực của từng lớp học sinh.
Sau khi đã nắm được phương pháp giải các bài tập cơ bản thì việc
giải các bài tập tương tự nên để học sinh tự giải. Việc tự lực giải bài tập
sẽ giúp học sinh rèn luyện được kỹ năng, kỹ xảo. Trong khi học sinh tự
lực giải các bài tập, giáo viên cần theo dõi, giúp đỡ từng học sinh khi gặp
khó khăn. Sự giúp đỡ này thực hiện bằng cách trao đổi trực tiếp giữa

giáo viên và học sinh nhưng không được làm mất đi tính tự chủ của học
sinh khi được giúp đỡ.
Hoạt động 3: Củng cố, đánh giá. Giao nhiệm vụ về nhà.
- Giáo viên hệ thống lại các dạng bài tập và các kiến thức cần để
giải các bài tập đó, lưu ý các câu trong bài tập vừa giải quyết cùng dạng
với bài tập nào trong sách giáo khoa và yêu cầu học sinh về nhà giải lại
nếu trước đó chưa làm được.
- Tuỳ theo nội dung của kiến thức và thời gian có thể mở rộng thêm
câu hỏi cho học sinh khá, giỏi hoặc cho phiếu học tập kiểm tra sự tiếp
thu của học sinh.
- Nhận xét tiết học, hướng dẫn bài mới.
- Giao bài tập về nhà: Các bài tập được giao về nhà cho học sinh ở
đây là những bài tập tương tự các bài tập đã giải và các bài tập phức hợp
có một vài yếu tố mới lạ, để học sinh có điều kiện giải các bài tập vật lý
một cách tích cực.
Sau đây, tôi xin trình bày ví dụ về cách tổ chức dạy - học của một
tiết “Bài tập” mà tôi đã được đánh giá cao trong kỳ thi giáo viên dạy
giỏi: “BÀI TẬP VỀ GHÉP TỤ ĐIỆN (Vật lý 11NC)” . Giáo án này được
thực hiện ở tiết 11 theo PPCT của SỞ GD và ĐT Thanh Hóa.
BÀI TẬP VỀ GHÉP TỤ ĐIỆN (Vật lý 11NC).
I.MỤC TIÊU:


×