Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Ôn thi quan hệ quốc tế có đáp án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.99 KB, 28 trang )

1
Vấn đề 1 : THỜI ĐẠI NGÀY NAY.
Bài làm
Tổng kết thực tiễn hơn 60 năm phát triển của cách mạng nước ta (1930-1991), Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng ta đã rút ra những bài học lớn, trong đó bài học đầu tiên
là: nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Sự chọn lựa con đường phát triển đất
nước theo chủ nghĩa xã hội chính là sự chọn lựa phù hợp với thời đại, cho dù những biến động
chính trị diễn ra trong vài thập kỷ gần đây, những thất bại của chủ nghĩa xã hội hiện nay không
thể là căn cứ để chúng ta đi đến những kết luận vội vàng mà phải căn cứ vào giá trị tư tưởng xã
hội chủ nghĩa đối với vận mệnh của toàn nhân loại cả trong quá khứ, hiện tại và cả tương lai để
xem xét. Trong văn kiện Đại hội VIII, Đảng ta đã khẳng định “thời đại ngày nay và mối quan hệ
giữa các quốc gia dân tộc là vấn đề cơ bản, cần thiết đối với một Đảng cách mạng. Việc nhận
thức đúng đắn về thời đại có ý nghĩa quyết định tới việc xác định đường lối chiến lược của cách
mạng. Do vậy, việc xem xét thời đại một cách khoa học, khẳng định thời đại một cách đúng đắn
là sự cần thiết và là đòi hỏi bức xúc hiện nay. Mỗi một thời đại đều mang trong mình những nội
dung, tính chất và đặc điểm khác nhau, bên cạnh đó nó còn chứa đựng những mâu thuẩn với
những hình thức và mức độ biểu hiện cũng khác nhau. Khi nghiên cứu, đánh giá về thời đại ngày
nay để đưa ra một đường lối cách mạng đúng đắn, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã nhận định “ ”
I. Đặc điểm tình hình thế giới tác động đến nhận thức của con người về thời đại
Đánh giá tình hình thế giới, Đại hội VIII đã khẳng định “tình hình thế giới diễn biến nhanh
chóng, phức tạp và chứa đựng những yếu tố khó lường” (VKĐH 8, trang 76) tác động đến nhận
thức về thời đại. Cụ thể đại hội nêu 5 đặc điểm về tình hình thế giới như sau :
1. Chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ khiến cho chủ nghĩa XH thế giới tạm
thời lâm vào thoái trào, song điều đó không làm thay đổi tính chất của thời đại, loài người vẫn
đang trong thời đại quá độ từ CNTB lên chủ nghĩa XH, những mâu thuẫn cơ bản trên thế giới
vẫn tồn tại, có mặt phát triển sâu sắc hơn, nội dung và hình thức biểu hiện có nhiều nét mới. Đấu
tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp tiếp tục diễn ra với nhiều hình thức.
2. Nguy cơ chiến tranh thế giới hủy diệt bị đẩy lùi nhưng xung đột vũ trang, chiến tranh cục
bộ, xung đột về dân tộc, sắc tộc và tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp lật đổ, khủng
bố vẫn xảy ra ở nhiều nơi.
3. Cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao,


tăng nhanh lực lượng SX, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, tạo ra
xu thế quốc tế hóa nền kinh tế toàn cầu và đời sống xã hội. Quá trình toàn cầu hóa đặt ra cho
các đang phát triển những thời cơ và thách thức.
4. Cộng đồng thế giới xuất hiện những vấn đề có tính chất toàn cầu (bảo vệ môi trường, hạn
chế sự bùng nổ dân số, phòng ngừa và đẩy lùi những bệnh tật hiểm nghèo). Đó là những mâu
thuẫn đang đặt ra có liên quan trực tiếp đến toàn bộ nhân loại, mà không một quốc gia riêng lẻ
nào có thể giải quyết được nếu không có sự hợp tác đa phương. Điều đó phải có sự xích lại gần
nhau giữa các quốc gia để cùng nhau giải quyết. Những mâu thuẫn đó là: bùng nổ dân số, bệnh
dịch, nợ, y tế, ô nhiễm môi trường, phân công lao động XH, phát triển lực lượng SX …
5. Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương đang phát triển năng động với tốc độ cao nhưng cũng
tiềm ẩn những nhân tố bất ổn định. Xét trên tổng thể Khu vực Châu Á Thái Bình Dương là khu
vực tập trung một số nước có tiềm năng nhất thế giới về tài nguyên, kinh tế, khoa học và lao
động, đây là thị trường lớn của thế giới. song, là khu vực bị các nước lớn trách nhiệm giành
quyền lực, sự không đồng nhất về chính trị, những mâu thuẫn tôn giáo dân tộc và sắc tộc đậm
nét, một số vấn đề biên giới chưa được giải quyết…
2. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác Lênin và Đảng ta về thời đại ngày nay
a. Khái niệm thời đại, thời đại ngày nay:
Thời đại là một khái niệm dùng để chỉ sự phân kỳ lịch sử XH để phổ biến những nấc thang
trong quá trình phát triển của lịch sử XH loài người theo những tiêu chuẩn nhất định do những
đặc trưng khách quan của thời đại đó qui định. Nói cách khác, thời đại là thời kỳ lịch sử tương
đối dài có nét riêng biệt về chất, được tách ra trên cơ sở những đặc trưng khách quan nhất định.
Khái niệm thời đại còn được thay thế bởi các từ: giai đoạn, thời kỳ, nền văn minh
Thời đại ngày nay là thời đại chúng ta đang sống, là thời đại mới, bắt đầu bằng sự thắng lợi
của cách mạnh XHCN tháng 10 Nga 1917 ở Nga. Theo Lênin: nội dung của thời đại mới là xóa
bỏ CNTB đồng thời phải thiết lập những cơ sở của XH mới XH XHCN và CSCN
a.1 Quan điểm của Lênin về thời đại ngày nay:
2
Mác khẳng định loài người đã trãi qua 4 hình thái KT – XH: Cộng sản nguyên thủy, Chiếm
hữu nô lệ, phong kiến, TBCN. Mỗi hình thái KT - XH là một thời đại lịch sử nhất định có phát sinh,
phát triển và diệt vong. Lịch sử cũng đã chứng minh rằng từ hình thái KT - XH này lên hình thái

KT - XH khác phải có thời kỳ tích lũy dần về lượng để biến đổi về chất. Do vậy thời kỳ quá độ có
thời gian dài chia thành nhiều bước đi, giai đoạn. Nó chứa đựng sự đan xen giữa các nhân tố
của các hình thái KT - XH, giữa cái cuộc và cái mới, giữa các quốc gia có các chế độ chính trị
khác nhau.
Chính thắng lợi của cuộc CM tháng 10 Nga mở ra một thời đại mới trong lịch sử thế giới : đó
chính là thời đại quá độ lên chủ nghĩa XH, nó tạo ra hai xu thế chính trị XH đối lập với CNTB; mở
đầu một hình thái KT - XH mới mà về chất nó khác hẳn hình thái KT - XH trước đó (nó xóa bỏ
mọi hình thức áp bức bóc lột, nó đưa lại sự bình đẳng cho các dân tộc). Lê nin nhấn mạnh
”chúng ta có quyền tự hào và quả thật chúng ta tự hào là đã có cái hân hạnh được bắt đầu xây
dựng nhà nước Xô viết và do đó mở đầu một thời đại mới trong lịch sử thế giới, thời đại thống trị
của một giai cấp mới, giai cấp bị áp bức trong tất cả các nước tư bản và ở các nơi đang tiến tới
một cuộc đổi mới, tới chổ chiến thắng giai cấp tư sản, tới chổ giải phóng khỏi ách tư bản, khỏi
những cuộc chiến tranh đế quốc chủ nghĩa. ”
Như vậy, rõ ràng nội dung cơ bản của thời đại ngày nay là thời đại quá độ mà loài người đang
loại bỏ CNTB, tiến lên chế độ tốt đẹp hơn, giải phóng lao động, tránh khỏi những cuộc chiến
tranh đế quốc, mọi người đều sống trong hòa bình. Lênin cũng chỉ rõ thời đại ngày nay, giai cấp
vô sản trở thành giai cấp thống trị đứng ở vị trí trung tâm của thời đại quyết định sự vận động của
lịch sử.
Hội nghị của Đảng Cộng sản và công nhân 1957-1960 họp ở Mátxcơva nhận định : thời đại
ngày nay là thời đại quá độ từ CNTB lên chủ nghĩa XH trên phạm vi toàn thế giới, là thời đại đấu
tranh giữa hai hệ thống XH đối lập, là thời đại gỉai phóng dân tộc và CM XHCN, là thời đại chủ
nghĩa đế quốc bị sụp đổ, chủ nghĩa thực dân bị thủ tiêu, là thời đại có nhiều nước đi lên chủ
nghĩa XH, là thời đại của chủ nghĩa XH, Chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới.
a.2 Quan điểm của Đảng ta về thời đại ngày nay :
Dựa trên cơ sở của chủ nghĩa Mác - Lê nin và sự vận động đầy phức tạp của nền chính trị thế
giới và nhất là những biểu hiện có tính chất đặc thù trong mỗi giai đoạn cụ thể nhất, đặc biệt là
sau năm 1991 khi tình hình thế giới thay đổi lớn, Đảng ta đã nhận định :
“Thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ CNTB lên chủ nghĩa XH trên phạm vi toàn thế giới,
mở đầu bằng cuộc CM tháng 10 Nga vĩ đại năm 1917, là thời đại đấu tranh cho thắng lợi của hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa XH, gắn liền với cuộc CM khoa học kỹ thuật và công

nghệ hiện đại tạo ra những tiền đề vật chất kỹ thuật XH ngày càng đầy đủ cho việc chuyển lên
chủ nghĩa XH” (báo cáo của đ/c Đặng Xuân Kỳ tại Hội nghị tập huấn toàn quốc 1994 – Hà Nội).
Chính cuộc CM khoa học công nghệ hiện đại tạo ra những tiền đề vật chất kỹ thuật ngày càng
đầy đủ cho việc tiến lên chủ nghĩa XH. Nó tác động đến nên KT thế giới và mọi quốc gia. Đây là
những thuận lợi nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức, do vậy nó đòi hỏi các nước đi từ một nền
KT kém phát triển phải tận dụng lợi thế này để đẩy nhanh phát triển lực lượng SX, để rút ngắn
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa XH
Đồng thời Đảng cũng chỉ rõ : “Thời đại quá độ lên CNXH là thời đại đan xen giữa CNXH và
CNTB. CNXH sẽ ngày càng mạnh hơn và mở rộng từ một nước ra nhiều nước. Còn CNTB thì
ngày càng suy yếu và thu hẹp. Đó là xu thế chung có tính quy luật xuyên suốt trong thời đại”
c. Sự sụp đổ của hệ thống XHCN ở Liên Xô và các nước Đông âu khiến cho CNXH lâm
vào thoái trào song sức sống của nó vẫn mạnh mẽ. Đại hội VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam
khẳng định: “chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ khiến cho chủ nghĩa XH tạm
thời lâm vào thoái trào, nhưng điều đó không làm thay đổi tính chất của thời đại; loài người vẫn
đang trong thời đại quá độ từ CNTB lên chủ nghĩa XH.” (VKĐH 8, trang 76). Sự sụp đổ chế độ
XHCN ở Liên Xô và Đông Âu không phải là từ bản chất chế độ, cũng hoàn toàn không phải là
cách lựa chọn sai lầm một sự “đẻ non”, Cách mạng tháng 10 Nga như những kẻ thù tư tưởng
của CNXH, những kẻ cơ hội rêu rao, mà thực chất - như Đảng ta đã chỉ rõ - là do sai lầm về
đường lối chính trị, tư tưởng, tổ chức của Ban lãnh đạo Đảng cộng sản các nước đó, duy trì quá
lâu cơ chế cũ đã tỏ ra bất cập trước thực tiễn mới, đưa đến khủng hoảng kinh tế, xã hội. Bên
cạnh đó là sự chống phá điên cuồng, tinh vi, thâm độc và toàn diện của các thế lực đế quốc chủ
nghĩa. CNXH hiện thực tạm thời lâm vào thoái trào, song chủ nghĩa xã hội vẫn tỏ rõ sức sống
của nó như ở Việt Nam, Trung Quốc và ở giá trị đích thực của CN Mác – Lênin.
1-3
3
3. Làm rõ những nội dung và biểu hiện mới của những mâu thuẩn thời đại
Thời đại ngày nay có những đặc điểm chủ yếu bao gồm : Một là sự phát triển mạnh
của cuộc CM khoa học công nghệ hiện đại nó tác động mạnh mẽ và trực tiếp đến đời sống nhân
dân các nước, nó đẩy mạnh xu thế toàn cầu hóa nó đưa đến những thuận lợi đồng thời đặt ra
những thách thức nhiều nước,nhất là các nước chậm phát triển và đang phát triển. Hai là CNXH,

phong trào cộng sản và công nhân lâm vào khủng hoảng thoái trào làm thay đổi so sánh lực
lượng trên trường quốc tế, có tác động đến sự vận động của thời đại, nhưng điều đó không làm
thay đổi tính chất thời đại. Ba là nguy cơ chiến tranh thế giới hủy diệt bị đẩy lùi. Những xung đột
vũ trang, chiến tranh cục bộ, những xung đột về sắc tộc, tôn giáo vẫn xảy ra ở nhiều nơi. Bốn là
cộng đồng thế giới đứng trước những vấn đề toàn cầu cấp bách đòi hỏi các nước phải có sự
hợp tác đa phương để giải quyết. Năm là cùng với sự phân cực tính chỉnh thể của thế giới ngày
càng tăng, các nước có chế độ chính trị khác nhau vừa hợp tác vừa đấu tranh cũng tồn tại hòa
bình, hình thành nên các khu vực tập trung cho sự phát triển.
* Thời đại ngày nay chứa đựng rất nhiều mâu thuẩn sâu sắc hơn và biểu hiện nhiều
nét mới hơn. Nó bao gồm :
- Mâu thuẫn giữa CNXH với CNTB : đây là mâu thuẫn cơ bản nhất, bao trùm nhất và
xuyên suốt nhất trong thời đại ngày nay. Cu ba vẫn còn bị cấm vận, đối với Việt Nam và Trung
Quốc thì các thế lực thù địch không bao giờ muốn Đảng Cộng sản lãnh đạo, không bao giờ
muốn ta xây dựng thành công CNXH. Cuộc đấu tranh ý thức hệ tư tưởng XHCN – hệ tư tưởng
tư sản vẫn sôi động trước sự mất uy tín của CNTB và trước mưu đồ của CN đế quốc không
muốn để CNXH ở Liên Xô và Đông Âu phục hồi và ngăn các nước khác đi vào CNXH, trước hết
là các nước XHCN đang tồn tại. Tuy nhiên, mâu thuẫn này về nội dung và hình thức biểu hiện có
nhiều nét mới. Thể hiện trước đây từ đối đầu nay chuyển sang đối thoại, vừa hợp tác vừa đấu
tranh cùng tồn tại hòa bình, sẵn sàng chuyển đối đầu, bất đồng sang thứ yếu để cùng hợp tác
phát triển. Sự chuyển hóa ấy thể hiện dưới 3 dạng cụ thể :
+ Tiến hành diễn biến hòa bình và đấu tranh chống diễn biến hòa bình. Hiện nay Mỹ
đang thực hiện chiến lược toàn cầu “vượt lên ngăn chặn” để thay thế cho chiến lược trước đây,
đây thực chất là chiến lược mạnh bạo hơn nhưng biện pháp sử dụng một cách tòan diện hơn,
sâu sắc hơn và tế nhị hơn. Ví dụ như : đối với khu vực Châu á – Thái bình dương. Trong quan
hệ với Trung quốc thì một mặt Mỹ ủng hộ và quan hệ hợp tác với Trung quốc nhưng mặt khác Mỹ
tìm cách kiềm chế không muốn cho Trung quốc mạnh lên, trong quan hệ với Việt Nam, Mỹ tìm
cách xóa bỏ chế độ chính trị nhưng mặt khác vì lợi ích chiến lược lâu dài, Mỹ phải đầu tư vào
Việt Nam nhưng Mỹ lại gây sức ép với Việt Nam về vấn đề nhân quyền, tôn giáo bởi vì Mỹ co
rằng chính sách đối đầu về kinh tế dần dần sẽ làm thay đổi được tư tưởng chính trị của tầng lớp
thanh niên thích hưởng thụ và khi đó mới tiến hành âm mưu lật đổ

+ Thứ hai là hành động lật đổ và đấu tranh, chống lật đổ
+ Thứ ba là áp đặt, can thiệp và đấu tranh chống áp đặt và can thiệp từ bên ngoài. Ví dụ
như : dự luật HR 2431 được hạ viện Mỹ thông qua, trong đó đưa ra 36 nước để trừng phạt (trong
đó có Việt Nam), chúng ta đã kịch liệt phản đối buộc Mỹ không thể tiến hành dự luật này
- Mâu thuẫn giữa CNTB với giai cấp công nhân, nhân dân lao động trong các nước
tư bản. Đây vẫn là mâu thuẫn cơ bản của thời đại. Nó có biểu hiện mới, về hình thức có vẻ như
dịu đi do giai cấp tư sản tìm mọi cách để xoa dịu cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân như :
chăm lo chính sách xã hội hơn; mua chuộc một bộ phận công nhân, trí thức; gắn lợi ích công
nhân với lợi ích của các công ty thông qua việc bán cổ phần hoặc sử dụng mọi hình thức tuyên
truyền tính ưu việt của xã hội tư bản nhưng về căn bản giai cấp tư sản không thể giải quyết
được mâu thuẫn vốn có của nó giữa tư bản và lao động, giữa tính chất xã hội hóa rất cao của
LLSX và chế độ sở hữu tư nhân TBCN.
- Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc với các dân tộc và các nước đang phát triển
vẫn là mâu thuẫn cơ bản và đang phát triển sâu sắc. Thế giới đang lên án gay gắt các nước tư
bản phát triển bóc lột các nước nghèo, đòi phải xóa nợ cho các nước nghèo. Cuộc chiến tranh ở
CôXôVô với vũ khí công nghệ cao, có sức tàn phá lớn, làm thiệt hại của Nam tư 132 tỷ USD,
riêng việc cấm vận đã làm thiệt hại 132 tỷ. Đối với IRắc, 10 năm sân bay Bátđa khôngmở cửa,
hàng triệu người chết đói vì chính sách cấm vận. Các dân tộc hiện nay một số nước đã gây thiệt
hại lớn cho nền kinh tế của các quốc gia, dân tộc này, buộc họ tập hợp lại trong cuộc đấu tranh
chống cường quyền áp đặt, đây là xu thế rất lớn với nhiều hình thức phong phú. Các cuộc tập
họp lực lượng ở Hội nghị Nam – Nam ở Cuba ở Seatll, Washington (Mỹ), trong UNCTAD (Thái
4
Lan) là những biểu hiện mới. Các nước, các dân tộc tập họp lại đấu tranh chống cường quyền và
áp đặt. Một cuộc đấu tranh rất quyết liệt. Biểu hiện ở độc lập dân tộc không chỉ dừng lại ở độc
lập về chính trị, các nước đấu tranh giành độc lập về kinh tế để thiết lập một trật tự về kinh tế thế
giới mới, đấu tranh đòi công bằng dân chủ trong kinh tế.
- Mâu thuẫn giữa các nước tư bản, đế quốc với nhau còn rất phức tạp, trong quan
hệ giữa các nước đế quốc vừa thống nhất với nhau về chống CNXH – CN cộng sản, nhưng cũng
vừa có những mâu thuẫn với nhau về quyền lợi, ảnh hưởng thị trường. Mâu thuẫn này còn hết
sức phức tạp, thể hiện ở chiến tranh thương mại, chống sự áp đặt của Mỹ về nhiều lĩnh vực

Trong cuốn sách xuất bản tháng 5/2000, Hubert Vedrin, Bộ trưởng Ngoại giao Pháp viết “là bạn,
là đồng minh, nhưng Pháp không chấp nhận phải đứng sau Mỹ”. Trong khi Mỹ lợi dụng “dân chủ,
nhân quyền” để can thiệp vào các quốc gia độc lập thì ông Hubert Vedrin lại nói “nhiều nơi khát
vọng dân chủ nhưng không nhất thiết là dân chủ giống hệt chúng ta” và “đừng quên là trong quá
khứ, những nhà truyền giáo, quan chức và lính tráng của CN thực dân đã rao giảng rất nhiều về
dân chủ, nhân quyền, những điều mà chính họ ít khi áp dụng.
Đây là 4 mâu thuẫn cơ bản của thời đại ngày nay hiện đang tồn tại, có mặt phát triển sâu sắc
hơn, nội dung và hình thức biểu hiện đã có nhiều nét mới. Chính sự vận động của các mâu
thuẫn đó cùng với sự đấu tranh không mệt mỏi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
trên toàn thế giới sẽ quyết định số phận của CNTB, của giai cấp tư sản. .
4. Kết hợp đấu tranh phê phán những tư tưởng không đúng của bọn cơ hội xét lại
Vì thế, trong hoàn cảnh phức tạp của tình hình thế giới hiện nay, việc nhận thức đúng
đắn về vấn đề thời đại là rất quan trọng và cần thiết, nó giúp thoát ra khỏi tình trạng hoang mang
dao động, mất phương hướng và phát hiện kịp thời và đấu tranh kiên quyết với mọi hình thức và
biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội và xét lại. Nhận diện những biểu hiện của nguy cơ chệnh hướng
XHCN là vấn đề không phải đơn giản bởi tính phức tạp của sự nhận diện này bắt nguồn từ tính
chất phức tạp của thời kỳ quá độ. Thời gian qua ở Việt Nam cũng đã xuất hiện nhiều những biểu
hiện cơ hội, xét lại, cụ thể như :
- Xu hướng đòi “đa nguyên chính trị” : trong quá trình đổi mới, đặc biệt vào những thời
điểm có tính bước ngoặt, Đảng ta có những quyết sách rất quan trọng, trong đó có sự bác bỏ
kiên quyết những mầm mống đầu tiên về đa nguyên chính trị chớm xuất hiện trong Đảng. Đây là
một quan điểm đúng đắn bởi xuất phát từ bài học kinh nghiệm ở Liên Xô và các nước Đông Âu.
Sự thực hiện “đa nguyên” “đa đảng”, dân chủ theo kiểu tư sản ở Liên Xô và Đông âu vừa qua, là
một bài học đắt giá đối với các nước XHCN, đã làm cho CNXH bị khủng hoảng và lâm vào thoái
trào. Đồng thời, thực tế cũng chứng minh rằng, các nước thực hiện sự cải cách hay đổi mới thu
được những thắng lợi căn bản và vững bước đi theo con đường CNXH đều đã kiên trì nguyên
tắc: nhất nguyên chính trị, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo duy nhất, đúng đắn của Đảng CS
đối với hệ thống chính trị và toàn XH
- Tìm mọi cách hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản : Hạ viện Mỹ thông qua Nghị
quyết đòi Việt Nam phải xóa bỏ điều 4 trong Hiến pháp năm 1992 (tức bỏ điều Đảng Cộng sản

lãnh đạo toàn XH) ngay trong giai đoạn Việt - Mỹ đang chuẩn bị Hiệp định thương mại, tư tưởng
này cũng đã xuất hiện ở Việt Nam. Tuy nhiên, ngược lại với quan điểm trên, Tổng thống Italia nói
“chúng tôi hoàn toàn ủng hộ hệ thống chính trị Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo”
- Đấu tranh với xu hướng đòi dân chủ hóa vô giới hạn ở Việt Nam (dân chủ phi giai cấp).
- Đấu tranh với xu hướng đòi tách văn hóa văn nghệ ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng, quản
lý của nhà nước : một trong những âm mưu diễn biến hòa bình của CNTB đối với các nước
XHCN trong đó có Việt Nam chính là việc kích động một số bộ phận văn nghệ sỹ đòi tách văn
hóa, văn nghệ ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng bởi họ cho rằng nếu văn hóa, văn nghệ đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng thì bản thân nó sẽ không mang tính sáng tạo mà chỉ là công cụ tuyên truyền
của Đảng. Chính bằng hình thức này cộng với sự tuyên truyền của Đài Châu Âu tự do cũng là 1
trong những nguyên nhân làm sụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Thực tế
thời gian qua công tác quản lý báo chí, văn hóa xuất bản của nước ta cũng còn nhiều mặt buông
lỏng, để nảy sinh những khuynh hướng không lành mạnh làm suy giảm giá trị văn hóa, đạo đức
xã hội và ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, nhà nước. Để khắc phục những khuyết điểm trên,
Đảng ta đã khẳng định : văn hóa văn nghệ có vai trò rất quan trọng trong quá trình xây dựng
CNXH, quan hệ của nó trong quá trình biến đổi và cải biến to lớn này không thể trở thành cái
đứng ngoài; mà phải là một sức mạnh trực tiếp góp phần vào quá trình phát triển. Do đó, văn
hóa, văn nghệ không thể không đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước nhưng
1-6
5
đồng thời nhà nước cũng phải đảm bảo tự do, dân chủ cho mọi sáng tạo văn hóa, văn học nghệ
thuật, tạo điều kiện làm việc thuận lợi để phát huy hiệu quả của lao động nghệ thuật. Văn nghệ
sỹ phải nêu cao trách nhiệm trước nhân dân, trước tổ quốc và CNXH.
- Đấu tranh với xu hướng đòi tư nhân hóa nền kinh tế theo kiểu TBCN
- Đấu tranh với bọn cơ hội tìm cách tác động để sửa đổi luật pháp Việt Nam theo xu
hướng TBCN
- Đấu tranh với xu hướng đòi xét lại những thành quả cách mạng của dân tộc và của
nhân dân
5. Kết luận :
Do nhận thức đúng đắn về thời đại nên trong những năm qua Đảng ta đã xác định đúng

đắn đường lối chiến lược và sách lược, đưa đất nước Việt Nam đạt được từ thắng lợi này sang
thắng lợi khác, giữ vững ổn định chính trị để phát triển kinh tế. Nền kinh tế Việt Nam đã từng
bước đi lên vượt qua được khủng hoảng. Cuộc sống của nhân dân ngày càng cải thiện, uy tín
của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được củng cố. Các nước ngày càng tăng cường
quan hệ hợp tác làm ăn với Việt Nam. Sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam đã cổ vũ động viên
các nước trong đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc, góp phần vào kho tàng lý luận của CN
Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Việc nhận thức và xác định đúng đắn vấn đề thời đại hiện
nay cùng với xác định đúng hướng đi của đất nước, trong đó có đường lối chính sách đối ngoại.
Đảng và nhân dân ta đã góp phần tích cực vào việc làm rõ xu hướng phát triển tất yếu của xã hội
loài người. Cho dù khúc quanh hiện nay của lịch sử đang là sự quá độ từ CNTB lên CNXH trên
thế giới kép dài thêm nhưng nó không thể làm đảo ngược được tính chất và xu thế của thời đại.
CNXH vẫn đang tồn tại thoát khỏi những khó khăn, đang tiếp tục phát triển và khẳng định vị thế
của mình. Loài người vẫn đang trong thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH
Câu 1a: VK ĐH VIII nêu rõ: “Sau những biến cố chính trị ở Liên Xô và các nước Đông Âu, CNXH
tạm thời lâm vào thoái trào, nhưng điều đó không làm thay đổi tính chất của thời đại, loài người
vẫn đang trong thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới vẫn tồn tại
và phát triển, có mặt sâu sắc hơn, nội dung vào hình thức biểu hiện có nhiều nét mới” (VKĐH VIII,
trang 16). Đồng chí hãy phân tích luận điểm trên.
Bài làm
Tổng kết thực tiễn hơn 60 năm phát triển của cách mạng nước ta (1930-1991), Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng ta đã rút ra những bài học lớn, trong đó bài học đầu tiên là :
nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Sự chọn lựa con đường phát triển đất
nước theo chủ nghĩa xã hội của Đảng ta chính là sự chọn lựa phù hợp với thời đại, bởi vì những
biến động chính trị diễn ra trong vài thập kỷ gần đây, những thất bại của chủ nghĩa xã hội hiện
nay không thể là căn cứ để chúng ta đi đến những kết luận vội vàng mà phải căn cứ vào giá trị tư
tưởng xã hội chủ nghĩa đối với vận mệnh của toàn nhân loại cả trong quá khứ, hiện tại và cả
tương lai để xem xét.
Trong văn kiện Đại hội VIII, Đảng ta đã khẳng định ““Sau những biến cố chính trị ở Liên Xô
và các nước Đông Âu, CNXH tạm thời lâm vào thoái trào, nhưng điều đó không làm thay đổi tính
chất của thời đại, loài người vẫn đang trong thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH. Các mâu thuẫn

cơ bản trên thế giới vẫn tồn tại và phát triển, có mặt sâu sắc hơn, nội dung vào hình thức biểu
hiện có nhiều nét mới” (VKĐH VIII, trang 16)
I. Đi lên Chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan:
Trước hết, cần phải khẳng định rằng sự ra đời của CNXH hiện thực là phù hợp với sự phát triển
của xã hội loài người, bởi vì lịch sử xã hội loài người luôn phát triển từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện
đến hoàn thiện, chế độ xã hội ra đời sau bao giờ cũng cao hơn xã hội ra đời trước. Ra đời sau CNTB,
CNXH có nhiều tính ưu việt hơn chế độ XH trước đó. Đó là một xã hội mà trong đó mọi sự bóc lột, áp
bức, bất công đều bị xoá bỏ, con người được hoàn toàn tự do, bình đẳng và có cuộc sống văn minh và
hạnh phúc. Trong tác phẩm tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản, Mác chỉ rõ : “ Sự diệt vong của chủ nghĩa tư
bản và sự thắng lợi của chủ nghĩa Cộng Sản đều là tất yếu như nhau”. Thật vậy, đi lên CNXH là một tất
yếu khách quan. Sự lựa chọn ấy dựa trên ba căn cứ chủ yếu: một là, nhân dân lao động nước ta cũng
như trên thế giới đã từng chiến đấu, hy sinh không chỉ nhằm mục đích giành lại độc lập dân tộc, mà
còn vì muốn có được cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc. Những yêu cầu đó chỉ có CNXH mới đáp
ứng được, chỉ có CNXH mới giải phóng được nhân dân lao động khỏi mọi áp bức bất công, mới đem lại
6
cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc cho nhân dân, hai là thắng lợi của Cách Mạng Xã Hội Chủ Nghĩa
Tháng 10 Nga 1917 đã mở ra thời đại mới, tạo ra khả năng hiện thực cho các dân tộc lạc hậu tiến lên con
đường XHCN.
Lịch sử phát triển của CNXH cho thấy CNXH đã đạt được những thành tựu lớn về chính
trị : đã xác lập được xã hội do dân làm chủ. Về kinh tế trong quá trình phát triển, mặc dù gặp
nhiều khó khăn thử thách nhưng CNXH cũng đạt được những thành tựu đáng kể. Liên Xô đi lên
CNXH từ nền kinh tế thấp và đã trở thành một cường quốc về về kinh tế và quân sự, tạo điều
kiện thuận lợi cho hàng loạt nước đi lên CNXH. Trên thực tế, CNXH đã xác lập được chế độ xã
hội của những người lao động, mà bản chất của nó là vì con người, phục vụ con người. Nhân
dân lao động là người trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất và quản lý xã hội. CNXH không
ngừng tạo điều kiện cho người lao động cống hiến trí tuệ, năng lực của mình vào công cuộc xây
dựng và bảo vệ chế độ XHCN.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, CNXH vẫn mắc phải sai lầm thiếu sót làm biến dạng. Sau
một thời gian dài mô hình CNXH đã được vận dụng và xây dựng rập khuôn ở nhiều nước, đến
đầu những năm 80 nó đã bộc lộ rõ nét những thiếu sót, nhược điểm là nhip độ tăng trưởng kinh

tế chậm lại, sản xuất ngưng trệ, nền dân chủ bị vi phạm nghiêm trọng, các vấn đề XH trở nên
căng thẳng xuống cấp, các giá trị XH bị xáo trộn, kỷ luật không nghiêm đó là những biểu hiện
hoàn toàn xa lạ với bản chất CNXH khoa học. Hậu quả của các sai lầm trong chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội đã dẫn đến lòng tin của nhân dân đối với Đảng cộng sản, đối với Nhà nước
và chế độ XHCN bị giảm sút; nạn chuyên quyền độc đoán, tham nhũng đã làm tổn thương
nghiêm trọng đối với hình ảnh của CNXH, dẫn đến sự tan rã của hệ thống XHCN ở Đông Âu và
Liên Xô. Tuy nhiên, chúng ta nhận thức rõ rằng sự sụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu
không phải là từ bản chất chế độ, cũng hoàn toàn không phải là cách lựa chọn sai lầm một sự
“đẻ non”, Cách mạng tháng 10 Nga như những kẻ thù tư tưởng của CNXH, những kẻ cơ hội rêu
rao, mà thực chất - như Đảng ta đã chỉ rõ - là do sai lầm về đường lối chính trị, tư tưởng, tổ chức
của Ban lãnh đạo Đảng cộng sản các nước đó, duy trì quá lâu cơ chế cũ đã tỏ ra bất cập trước
thực tiễn mới, đưa đến khủng hoảng kinh tế, xã hội. Bên cạnh đó là sự chống phá điên cuồng,
tinh vi, thâm độc và toàn diện của các thế lực đế quốc chủ nghĩa. CNXH hiện thực tạm thời lâm
vào thoái trào, song chủ nghĩa xã hội vẫn tỏ rõ sức sống của nó như ở Việt Nam, Trung Quốc,
Cu ba và ở giá trị đích thực của CN Mác – Lênin.
II. Đặc điểm tình hình thế giới :
Đánh giá tình hình thế giới, Đại hội VIII đã khẳng định “tình hình thế giới diễn biến nhanh
chóng, phức tạp và chứa đựng những yếu tố khó lường” (VKĐH 8, trang 76) tác động đến nhận
thức về thời đại. Cụ thể đại hội nêu 5 đặc điểm về tình hình thế giới như sau :
1. Chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ khiến cho chủ nghĩa XH thế giới tạm
thời lâm vào thoái trào, song điều đó không làm thay đổi tính chất của thời đại, loài người vẫn
đang trong thời đại quá độ từ CNTB lên chủ nghĩa XH, những mâu thuẫn cơ bản trên thế giới
vẫn tồn tại, có mặt phát triển sâu sắc hơn, nội dung và hình thức biểu hiện có nhiều nét mới. Đấu
tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp tiếp tục diễn ra với nhiều hình thức.
2. Nguy cơ chiến tranh thế giới hủy diệt bị đẩy lùi nhưng xung đột vũ trang, chiến tranh cục
bộ, xung đột về dân tộc, sắc tộc và tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp lật đổ, khủng
bố vẫn xảy ra ở nhiều nơi.
3. Cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao,
tăng nhanh lực lượng SX, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, tạo ra
xu thế quốc tế hóa nền kinh tế toàn cầu và đời sống xã hội. Quá trình toàn cấu hóa đặt ra cho

các đang phát triển những thời cơ và thách thức.
4. Cộng đồng thế giới xuất hiện những vấn đề có tính chất toàn cầu (bảo vệ môi trường, hạn
chế sự bùng nổ dân số, phòng ngừa và đẩy lùi những bệnh tật hiểm nghèo). Đó là những mâu
thuẫn đang đặt ra có liên quan trực tiếp đến toàn bộ nhân loại, mà không một quốc gia riêng lẻ
nào có thể giải quyết được nếu không có sự hợp tác đa phương.
5. Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương đang phát triển năng động với tốc độ cao nhưng cũng
tiềm ẩn những nhân tố bất ổn định. Xét trên tổng thể Khu vực Châu Á Thái Bình Dương là khu
vực tập trung một số nước có tiềm năng nhất thế giới về tài nguyên, kinh tế, khoa học và lao
động, đây là thị trường lớn của thế giới. song, là khu vực bị các nước lớn trách nhiệm giành
quyền lực, sự không đồng nhất về chính trị, những mâu thuẫn tôn giáo dân tộc và sắc tộc đậm
nét, một số vấn đề biên giới chưa được giải quyết…
7
Những biến chuyển phức tạp của tình hình thế giới đã có nhiều ảnh hưởng đến nhận thức về
thời đại ngày nay, đòi hỏi chúng ta phải có nhận thức đúng đắn và khoa học.
2. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác Lênin và Đảng ta về thời đại ngày nay
Thời đại ngày nay là thời đại chúng ta đang sống, là thời đại mới, bắt đầu bằng sự thắng lợi
của cách mạnh XHCN tháng 10 Nga 1917 ở Nga. Theo Lênin: nội dung của thời đại mới là xóa
bỏ CNTB đồng thời phải thiết lập những cơ sở của XH mới XH XHCN và CSCN. Lênin cũng chỉ
rõ thời đại ngày nay, giai cấp vô sản trở thành giai cấp thống trị đứng ở vị trí trung tâm của thời
đại quyết định sự vận động của lịch sử.
Dựa trên cơ sở của chủ nghĩa Mác - Lê nin và sự vận động đầy phức tạp của nền chính trị thế
giới và nhất là những biểu hiện có tính chất đặc thù trong mỗi giai đoạn cụ thể nhất, đặc biệt là
sau năm 1991 khi tình hình thế giới thay đổi lớn, Đảng ta đã nhận định :
“Thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ CNTB lên chủ nghĩa XH trên phạm vi toàn thế giới,
mở đầu bằng cuộc CM tháng 10 Nga vĩ đại năm 1917, là thời đại đấu tranh cho thắng lợi của hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa XH, gắn liền với cuộc CM khoa học kỹ thuật và công
nghệ hiện đại tạo ra những tiền đề vật chất kỹ thuật XH ngày càng đầy đủ cho việc chuyển lên
chủ nghĩa XH” (báo cáo của đ/c Đặng Xuân Kỳ tại Hội nghị tập huấn toàn quốc 1994 – Hà Nội).
Chính cuộc CM khoa học công nghệ hiện đại tạo ra những tiền đề vật chất kỹ thuật ngày càng
đầy đủ cho việc tiến lên chủ nghĩa XH. Nó tác động đến nên KT thế giới và mọi quốc gia. Đây là

những thuận lợi nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức, do vậy nó đòi hỏi các nước đi từ một nền
KT kém phát triển phải tận dụng lợi thế này để đẩy nhanh phát triển lực lượng SX, để rút ngắn
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa XH
Đồng thời Đảng cũng chỉ rõ : “Thời đại quá độ lên CNXH là thời đại đan xen giữa CNXH và
CNTB. CNXH sẽ ngày càng mạnh hơn và mở rộng từ một nước ra nhiều nước. Còn CNTB thì
ngày càng suy yếu và thu hẹp. Đó là xu thế chung có tính quy luật xuyên suốt trong thời đại”
3. Làm rõ những nội dung và biểu hiện mới của những mâu thuẩn thời đại
Trong thời đại ngày nay, tồn tài rất nhiều các mâu thuẫn khác nhau, sâu sắc hơn và biểu
hiện nhiều nét mới. Bao gồm :
- Mâu thuẫn giữa CNXH với CNTB : đây là mâu thuẫn cơ bản nhất, bao trùm nhất và
xuyên suốt nhất trong thời đại ngày nay. Cu ba vẫn còn bị cấm vận, đối với Việt Nam và Trung
Quốc thì các thế lực thù địch không bao giờ muốn Đảng Cộng sản lãnh đạo, không bao giờ
muốn ta xây dựng thành công CNXH. Cuộc đấu tranh ý thức hệ tư tưởng XHCN – hệ tư tưởng
tư sản vẫn sôi động trước sự mất uy tín của CNTB và trước mưu đồ của CN đế quốc không
muốn để CNXH ở Liên Xô và Đông Âu phục hồi và ngăn các nước khác đi vào CNXH, trước hết
là các nước XHCN đang tồn tại. Tuy nhiên, mâu thuẫn này về nội dung và hình thức biểu hiện có
nhiều nét mới. Thể hiện trước đây từ đối đầu nay chuyển sang đối thoại, vừa hợp tác vừa đấu
tranh cùng tồn tại hòa bình, sẵn sàng chuyển đối đầu, bất đồng sang thứ yếu để cùng hợp tác
phát triển. Sự chuyển hóa ấy thể hiện dưới 3 dạng cụ thể :
+ Tiến hành diễn biến hòa bình và đấu tranh chống diễn biến hòa bình. Hiện nay Mỹ
đang thực hiện chiến lược toàn cầu “vượt lên ngăn chặn” để thay thế cho chiến lược trước đây,
đây thực chất là chiến lược mạnh bạo hơn nhưng biện pháp sử dụng một cách tòan diện hơn,
sâu sắc hơn và tế nhị hơn. Ví dụ như : đối với khu vực Châu á – Thái bình dương. Trong quan
hệ với Trung quốc thì một mặt Mỹ ủng hộ và quan hệ hợp tác với Trung quốc nhưng mặt khác Mỹ
tìm cách kiềm chế không muốn cho Trung quốc mạnh lên, trong quan hệ với Việt Nam, Mỹ tìm
cách xóa bỏ chế độ chính trị nhưng mặt khác vì lợi ích chiến lược lâu dài, Mỹ phải đầu tư vào
Việt Nam nhưng Mỹ lại gây sức ép với Việt Nam về vấn đề nhân quyền, tôn giáo bởi vì Mỹ co
rằng chính sách đối đầu về kinh tế dần dần sẽ làm thay đổi được tư tưởng chính trị của tầng lớp
thanh niên thích hưởng thụ và khi đó mới tiến hành âm mưu lật đổ
+ Thứ hai là hành động lật đổ và đấu tranh, chống lật đổ

+ Thứ ba là áp đặt, can thiệp và đấu tranh chống áp đặt và can thiệp từ bên ngoài. Ví dụ
như : dự luật HR 2431 được hạ viện Mỹ thông qua, trong đó đưa ra 36 nước để trừng phạt (trong
đó có Việt Nam), chúng ta đã kịch liệt phản đối buộc Mỹ không thể tiến hành dự luật này
- Mâu thuẫn giữa CNTB với giai cấp công nhân, nhân dân lao động trong các nước
tư bản. Đây vẫn là mâu thuẫn cơ bản của thời đại. Nó có biểu hiện mới, về hình thức có vẻ như
dịu đi do giai cấp tư sản tìm mọi cách để xoa dịu cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân như :
chăm lo chính sách xã hội hơn; mua chuộc một bộ phận công nhân, trí thức; gắn lợi ích công
nhân với lợi ích của các công ty thông qua việc bán cổ phần hoặc sử dụng mọi hình thức tuyên
8
truyền tính ưu việt của xã hội tư bản nhưng về căn bản giai cấp tư sản không thể giải quyết
được mâu thuẫn vốn có của nó giữa tư bản và lao động, giữa tính chất xã hội hóa rất cao của
LLSX và chế độ sở hữu tư nhân TBCN.
- Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc với các dân tộc và các nước đang phát triển
vẫn là mâu thuẫn cơ bản và đang phát triển sâu sắc. Thế giới đang lên án gay gắt các nước tư
bản phát triển bóc lột các nước nghèo, đòi phải xóa nợ cho các nước nghèo. Cuộc chiến tranh ở
CôXôVô với vũ khí công nghệ cao, có sức tàn phá lớn, làm thiệt hại của Nam tư 132 tỷ USD,
riêng việc cấm vận đã làm thiệt hại 132 tỷ. Đối với IRắc, 10 năm sân bay Bátđa khôngmở cửa,
hàng triệu người chết đói vì chính sách cấm vận. Các dân tộc hiện nay một số nước đã gây thiệt
hại lớn cho nền kinh tế của các quốc gia, dân tộc này, buộc họ tập hợp lại trong cuộc đấu tranh
chống cường quyền áp đặt, đây là xu thế rất lớn với nhiều hình thức phong phú. Các cuộc tập
họp lực lượng ở Hội nghị Nam – Nam ở Cuba ở Seatll, Washington (Mỹ), trong UNCTAD (Thái
Lan) là những biểu hiện mới. Các nước, các dân tộc tập họp lại đấu tranh chống cường quyền và
áp đặt. Một cuộc đấu tranh rất quyết liệt. Biểu hiện ở độc lập dân tộc không chỉ dừng lại ở độc
lập về chính trị, các nước đấu tranh giành độc lập về kinh tế để thiết lập một trật tự về kinh tế thế
giới mới, đấu tranh đòi công bằng dân chủ trong kinh tế.
- Mâu thuẫn giữa các nước tư bản, đế quốc với nhau còn rất phức tạp, trong quan
hệ giữa các nước đế quốc vừa thống nhất với nhau về chống CNXH – CN cộng sản, nhưng cũng
vừa có những mâu thuẫn với nhau về quyền lợi, ảnh hưởng thị trường. Mâu thuẫn này còn hết
sức phức tạp, thể hiện ở chiến tranh thương mại, chống sự áp đặt của Mỹ về nhiều lĩnh vực
Trong cuốn sách xuất bản tháng 5/2000, Hubert Vedrin, Bộ trưởng Ngoại giao Pháp viết “là bạn,

là đồng minh, nhưng Pháp không chấp nhận phải đứng sau Mỹ”. Trong khi Mỹ lợi dụng “dân chủ,
nhân quyền” để can thiệp vào các quốc gia độc lập thì ông Hubert Vedrin lại nói “nhiều nơi khát
vọng dân chủ nhưng không nhất thiết là dân chủ giống hệt chúng ta” và “đừng quên là trong quá
khứ, những nhà truyền giáo, quan chức và lính tráng của CN thực dân đã rao giảng rất nhiều về
dân chủ, nhân quyền, những điều mà chính họ ít khi áp dụng.
Đây là 4 mâu thuẫn cơ bản của thời đại ngày nay hiện đang tồn tại, có mặt phát triển sâu sắc
hơn, nội dung và hình thức biểu hiện đã có nhiều nét mới. Chính sự vận động của các mâu
thuẫn đó cùng với sự đấu tranh không mệt mỏi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
trên toàn thế giới sẽ quyết định số phận của CNTB, của giai cấp tư sản.
4. Kết hợp đấu tranh phê phán những tư tưởng không đúng của bọn cơ hội xét lại (ở thế
giới, ở Việt Nam)
Vì thế, trong hoàn cảnh phức tạp của tình hình thế giới hiện nay, việc nhận thức đúng
đắn về vấn đề thời đại là rất quan trọng và cần thiết, nó giúp chúng ta kiên định mục tiêu lý tưởng
ccon đường mà Đảng và nhân dân ta đã chọn lực, đồng thời phát hiện kịp thời và đấu tranh kiên
quyết với mọi hình thức và biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội và xét lại. Nhận diện những biểu hiện
của nguy cơ chệnh hướng XHCN là vấn đề không phải đơn giản bởi tính phức tạp của sự nhận
diện này bắt nguồn từ tính chất phức tạp của thời kỳ quá độ. Thời gian qua ở Việt Nam cũng đã
xuất hiện nhiều những biểu hiện cơ hội, xét lại, cụ thể như :
- Xu hướng đòi “đa nguyên chính trị” : trong quá trình đổi mới, đặc biệt vào những thời
điểm có tính bước ngoặt, Đảng ta có những quyết sách rất quan trọng, trong đó có sự bác bỏ
kiên quyết những mầm mống đầu tiên về đa nguyên chính trị chớm xuất hiện trong Đảng. Đây là
một quan điểm đúng đắn bởi xuất phát từ bài học kinh nghiệm ở Liên Xô và các nước Đông Âu.
Sự thực hiện “đa nguyên” “đa đảng”, dân chủ theo kiểu tư sản ở Liên Xô và Đông âu vừa qua, là
một bài học đắt giá đối với các nước XHCN, đã làm cho CNXH bị khủng hoảng và lâm vào thoái
trào. Đồng thời, thực tế cũng chứng minh rằng, các nước thực hiện sự cải cách hay đổi mới thu
được những thắng lợi căn bản và vững bước đi theo con đường CNXH đều đã kiên trì nguyên
tắc: nhất nguyên chính trị, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo duy nhất, đúng đắn của Đảng CS
đối với hệ thống chính trị và toàn XH
- Tìm mọi cách hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản : Hạ viện Mỹ thông qua Nghị
quyết đòi Việt Nam phải xóa bỏ điều 4 trong Hiến pháp năm 1992 (tức bỏ điều Đảng Cộng sản

lãnh đạo toàn XH) ngay trong giai đoạn Việt - Mỹ đang chuẩn bị Hiệp định thương mại, tư tưởng
này cũng đã xuất hiện ở Việt Nam. Tuy nhiên, ngược lại với quan điểm trên, Tổng thống Italia
nói “chúng tôi hoàn toàn ủng hộ hệ thống chính trị Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo”
- Đấu tranh với xu hướng đòi dân chủ hóa vô giới hạn ở Việt Nam (dân chủ phi giai cấp).
9
- Đấu tranh với xu hướng đòi tách văn hóa văn nghệ ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng, quản
lý của nhà nước : một trong những âm mưu diễn biến hòa bình của CNTB đối với các nước
XHCN trong đó có Việt Nam chính là việc kích động một số bộ phận văn nghệ sỹ đòi tách văn
hóa, văn nghệ ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng bởi họ cho rằng nếu văn hóa, văn nghệ đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng thì bản thân nó sẽ không mang tính sáng tạo mà chỉ là công cụ tuyên truyền
của Đảng. Chính bằng hình thức này cộng với sự tuyên truyền của Đài Châu Âu tự do cũng là 1
trong những nguyên nhân làm sụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Thực tế
thời gian qua công tác quản lý báo chí, văn hóa xuất bản của nước ta cũng còn nhiều mặt buông
lỏng, để nảy sinh những khuynh hướng không lành mạnh làm suy giảm giá trị văn hóa, đạo đức
xã hội và ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, nhà nước. Để khắc phục những khuyết điểm trên,
Đảng ta đã khẳng định : văn hóa văn nghệ có vai trò rất quan trọng trong quá trình xây dựng
CNXH, quan hệ của nó trong quá trình biến đổi và cải biến to lớn này không thể trở thành cái
đứng ngoài; mà phải là một sức mạnh trực tiếp góp phần vào quá trình phát triển. Do đó, văn
hóa, văn nghệ không thể không đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước nhưng
đồng thời nhà nước cũng phải đảm bảo tự do, dân chủ cho mọi sáng tạo văn hóa, văn học nghệ
thuật, tạo điều kiện làm việc thuận lợi để phát huy hiệu quả của lao động nghệ thuật. Văn nghệ
sỹ phải nêu cao trách nhiệm trước nhân dân, trước tổ quốc và CNXH.
- Đấu tranh với xu hướng đòi tư nhân hóa nền kinh tế theo kiểu TBCN
- Đấu tranh với bọn cơ hội tìm cách tác động để sửa đổi luật pháp Việt Nam theo xu
hướng TBCN
- Đấu tranh với xu hướng đòi xét lại những thành quả cách mạng của dân tộc và của
nhân dân
5. Kết luận :
Do nhận thức đúng đắn về thời đại nên trong những năm qua Đảng ta đã xác định đúng
đắn đường lối chiến lược và sách lược, đưa đất nước Việt Nam đạt được từ thắng lợi này sang

thắng lợi khác, giữ vững ổn định chính trị để phát triển kinh tế. Nền kinh tế Việt Nam đã từng
bước đi lên vượt qua được khủng hoảng. Cuộc sống của nhân dân ngày càng cải thiện, uy tín
của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được củng cố. Các nước ngày càng tăng cường
quan hệ hợp tác làm ăn với Việt Nam. Sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam đã cổ vũ động viên
các nước trong đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc, góp phần vào kho tàng lý luận của CN
Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Việc nhận thức và xác định đúng đắn vấn đề thời đại hiện
nay cùng với xác định đúng hướng đi của đất nước, trong đó có đường lối chính sách đối ngoại.
Đảng và nhân dân ta đã góp phần tích cực vào việc làm rõ xu hướng phát triển tất yếu của xã hội
loài người. Cho dù khúc quanh hiện nay của lịch sử đang là sự quá độ từ CNTB lên CNXH trên
thế giới kép dài thêm nhưng nó không thể làm đảo ngược được tính chất và xu thế của thời đại.
CNXH vẫn đang tồn tại thoát khỏi những khó khăn, đang tiếp tục phát triển và khẳng định vị thế
của mình. Loài người vẫn đang trong thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH
Câu 1b: Đồng chí hãy làm rõ nội dung, đặc điểm xu thế và những mâu thuẫn của thời đại trong giai
đoạn hiện nay
Bài làm
Thời đại ngày nay và mối quan hệ giữa các quốc gia dân tộc là vấn đề cơ bản, cần thiết đối
với một Đảng cách mạng. Việc nhận thức đúng đắn về thời đại có ý nghĩa quyết định tới việc xác
định đường lối chiến lược của cách mạng. Do vậy, việc xem xét thời đại một cách khoa học,
khẳng định thời đại một cách đúng đắn là sự cần thiết và là đòi hỏi bức xúc hiện nay. Mỗi một
thời đại đều mang trong mình những nội dung, tính chất và đặc điểm khác nhau, bên cạnh đó nó
còn chứa đựng những mâu thuẩn với những hình thức và mức độ biểu hiện cũng khác nhau. Khi
nghiên cứu, đánh giá về thời đại ngày nay để đưa ra một đường lối cách mạng đúng đắn, Đảng
Cộng Sản Việt Nam đã nhận định “ ”
I. Đặc điểm tình hình thế giới tác động đến nhận thức của con người về thời đại
Đánh giá tình hình thế giới, Đại hội VIII đã khẳng định “tình hình thế giới diễn biến nhanh
chóng, phức tạp và chứa đựng những yếu tố khó lường” (VKĐH 8, trang 76) tác động đến nhận
thức về thời đại. Cụ thể đại hội nêu 5 đặc điểm về tình hình thế giới như sau :
1. Chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ khiến cho chủ nghĩa XH thế giới tạm
thời lâm vào thoái trào, song điều đó không làm thay đổi tính chất của thời đại, loài người vẫn
đang trong thời đại quá độ từ CNTB lên chủ nghĩa XH, những mâu thuẫn cơ bản trên thế giới

10
vẫn tồn tại, có mặt phát triển sâu sắc hơn, nội dung và hình thức biểu hiện có nhiều nét mới. Đấu
tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp tiếp tục diễn ra với nhiều hình thức.
2. Nguy cơ chiến tranh thế giới hủy diệt bị đẩy lùi nhưng xung đột vũ trang, chiến tranh cục
bộ, xung đột về dân tộc, sắc tộc và tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp lật đổ, khủng
bố vẫn xảy ra ở nhiều nơi.
3. Cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao,
tăng nhanh lực lượng SX, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, tạo ra
xu thế quốc tế hóa nền kinh tế toàn cầu và đời sống xã hội. Quá trình toàn cấu hóa đặt ra cho
các đang phát triển những thời cơ và thách thức. Thời cơ do sự phát triển của cách mạng khoa
học và công nghệ tạo ra là nó đã tác động đến nền tảng kinh tế của tất cả các quốc gia, tạo ra xu
thế đổi mới, cải cách cả về kinh tế và chính trị xã hội. Nó đã tạo ra những điều kiện để phân loại
phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất mà các nước nghèo và chậm phát triển có thể tranh thủ
ngay những thành tựu và điều kiện đó để phát triển đất nước. Thách thức do cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ tạo ra là vì những thành tựu của nó một phần đã bị con người sử dụng
vào mục đích chiến tranh để sản xuất ra những loại vũ khí giết người hàng loạt có thể hủy diệt
nền văn minh nhân loại. Mặt khác nó cũng còn tạo ra những thách thức về khoảng cách giàu
nghèo và về vận tốc phát triển đối với các nước nghèo và chậm phát triển về kinh tế
4. Cộng đồng thế giới xuất hiện những vấn đề có tính chất toàn cầu (bảo vệ môi trường, hạn
chế sự bùng nổ dân số, phòng ngừa và đẩy lùi những bệnh tật hiểm nghèo). đó là những mâu
thuẫn đang đặt ra có liên quan trực tiếp đến toàn bộ nhân loại, mà không một quốc gia riêng lẻ
nào có thể giải quyết được nếu không có sự hợp tác đa phương. Điều đó phải có sự xích lại gần
nhau giữa các quốc gia để cùng nhau giải quyết. Những mâu thuẫn đó là: bùng nổ dân số, bệnh
dịch, nợ, y tế, ô nhiễm môi trường, phân công lao động XH, phát triển lực lượng SX …
5. Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương đang phát triển năng động với tốc độ cao nhưng cũng
tiềm ẩn những nhân tố bất ổn định. Xét trên tổng thể Khu vực Châu Á Thái Bình Dương là khu
vực tập trung một số nước có tiềm năng nhất thế giới về tài nguyên, kinh tế, khoa học và lao
động, đây là thị trường lớn của thế giới. song, là khu vực bị các nước lớn trách nhiệm giành
quyền lực, sự không đồng nhất về chính trị, những mâu thuẫn tôn giáo dân tộc và sắc tộc đậm
nét, một số vấn đề biên giới chưa được giải quyết…

* Đánh giá triển vọng của tình hình thế giới trong thế kỷ XXI, văn kiện Đại hội IX
nêu rõ :
- Thế kỷ XXI sẽ có nhiều biến đổi sâu sắc hơn. Khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến
nhảy vọt chưa từng thấy. Kinh tế tri thức sẽ có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển
LLSX của loài người.
- Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham
gia; xu thế này đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia chi
phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa
có đấu tranh.
- Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới, biểu hiện dưới những hình thức và mức độ khác
nhau vẫn tồn tại và phát triển, có mặt sâu sắc hơn. Đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp tiếp
tục diễn ra một cách gay gắt. Thế giới đứng trước nhiều vấn đề toàn cầu mà không một quốc gia
riêng lẻ nào có thể tự giải quyết nếu không có sự hợp tác đa phương như các vấn đề : bảo vệ
môi trường, hạn chế sự bùng nổ về dân số, đẩy lùi những bệnh tật hiểm nghèo, chống tội phạm
quốc tế
- CNTB hiện đại đang nắm ưu thế về vốn, khoa học – công nghệ cao, thị trường, song
không thể khắc phục được nổi những mâu thuẫn vốn có, đặc biệt là mâu thuẫn giữa tính chất xã
hội hóa ngày càng cao của LLSX với chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về TLSX, mâu thuẫn giữa
các nước tư bản phát triển và các nước đang phát triển. Các quốc gia độc lập sẽ ngày càng tăng
cường cuộc đấu tranh để lựa chọn để quyết định con đường phát triển của mình, chống lại chính
sách cường quyền và áp đặt, can thiệp và xâm lược của nước ngoài bảo vệ độc lập chủ quyền
và nền văn hóa dân tộc.
- CNXH thế giới, từ những bài học thành công và thất bại cũng như từ khát vọng và thức
tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và khả năng vượt qua thời kỳ thoái trào, tạo ra bước phát triển
mới. Lịch sử thế giới đã, đang và sẽ còn trải qua những bước quanh co, song loài người cuối
cùng nhất định sẽ tiến tới CNXH vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử.
11
- Trong một vài thập kỷ tới, ít có khả năng xảy ra chiến tranh thế giới, chiến tranh tổng lực
dùng vũ khí hạt nhân và các vũ khí giết người hàng loạt khác nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột
vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp lật đổ, khủng bố còn

xảy ra ở nhiều nơi với tính chất phức tạp ngày càng tăng. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là
xu thế lớn, phản ánh đòi hỏi bức xúc của các quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của các dân tộc
cho hòa bình và phát triển vì độc lập dân tộc, dân chủ, dân sinh, tiến bộ và công bằng xã hội sẽ
có những bước tiến mới. Khu vực Đông Nam Á, châu Á – Thái Bình Dương sau khủng hoảng tài
chính - tiền tệ, có khả năng phát triển năng động mặc dù vẫn còn tiềm ẩn những nhân tố gây mất
ổn định.
Những biến chuyển phức tạp của tình hình thế giới đã có nhiều ảnh hưởng đến nhận
thức về thời đại ngày nay, đòi hỏi chúng ta phải có nhận thức đúng đắn và khoa học.
2. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác Lênin và Đảng ta về thời đại ngày nay
a. Khái niệm thời đại, thời đại ngày nay:
Thời đại là một khái niệm dùng để chỉ sự phân kỳ lịch sử XH để phổ biến những nấc thang
trong quá trình phát triển của lịch sử XH loài người theo những tiêu chuẩn nhất định do những
đặc trưng khách quan của thời đại đó qui định. Nói cách khác, thời đại là thời kỳ lịch sử tương
đối dài có nét riêng biệt về chất, được tách ra trên cơ sở những đặc trưng khách quan nhất định.
Khái niệm thời đại còn được thay thế bởi các từ: giai đoạn, thời kỳ, nền văn minh
Thời đại ngày nay là thời đại chúng ta đang sống, là thời đại mới, bắt đầu bằng sự thắng lợi
của cách mạnh XHCN tháng 10 Nga 1917 ở Nga. Theo Lênin: nội dung của thời đại mới là xóa
bỏ CNTB đồng thời phải thiết lập những cơ sở của XH mới XH XHCN và CSCN
a.1 Quan điểm của Lênin về thời đại ngày nay:
Mác khẳng định loài người đã trãi qua 4 hình thái KT – XH: Cộng sản nguyên thủy, Chiếm
hữu nô lệ, phong kiến, TBCN. Mỗi hình thái KT - XH là một thời đại lịch sử nhất định có phát sinh,
phát triển và diệt vong. Lịch sử cũng đã chứng minh rằng từ hình thái KT - XH này lên hình thái
KT - XH khác phải có thời kỳ tích lũy dần về lượng để biến đổi về chất. Do vậy thời kỳ quá độ có
thời gian dài chia thành nhiều bước đi, giai đoạn. Nó chứa đựng sự đan xen giữa các nhân tố
của các hình thái KT - XH, giữa cái cuộc và cái mới, giữa các quốc gia có các chế độ chính trị
khác nhau.
Chính thắng lợi của cuộc CM tháng 10 Nga mở ra một thời đại mới trong lịch sử thế giới : đó
chính là thời đại quá độ lên chủ nghĩa XH, nó tạo ra hai xu thế chính trị XH đối lập với CNTB; mở
đầu một hình thái KT - XH mới mà về chất nó khác hẳn hình thái KT - XH trước đó (nó xóa bỏ
mọi hình thức áp bức bóc lột, nó đưa lại sự bình đẳng cho các dân tộc). Lê nin nhấn mạnh

”chúng ta có quyền tự hào và quả thật chúng ta tự hào là đã có cái hân hạnh được bắt đầu xây
dựng nhà nước Xô viết và do đó mở đầu một thời đại mới trong lịch sử thế giới, thời đại thống trị
của một giai cấp mới, giai cấp bị áp bức trong tất cả các nước tư bản và ở các nơi đang tiến tới
một cuộc đổi mới, tới chổ chiến thắng giai cấp tư sản, tới chổ giải phóng khỏi ách tư bản, khỏi
những cuộc chiến tranh đế quốc chủ nghĩa. ”
Như vậy, rõ ràng nội dung cơ bản của thời đại ngày nay là thời đại quá độ mà loài người đang
loại bỏ CNTB, tiến lên chế độ tốt đẹp hơn, giải phóng lao động, tránh khỏi những cuộc chiến
tranh đế quốc, mọi người đều sống trong hòa bình. Lênin cũng chỉ rõ thời đại ngày nay, giai cấp
vô sản trở thành giai cấp thống trị đứng ở vị trí trung tâm của thời đại quyết định sự vận động của
lịch sử.
Hội nghị của Đảng Cộng sản và công nhân 1957-1960 họp ở Mátxcơva nhận định : thời đại
ngày nay là thời đại quá độ từ CNTB lên chủ nghĩa XH trên phạm vi toàn thế giới, là thời đại đấu
tranh giữa hai hệ thống XH đối lập, là thời đại gỉai phóng dân tộc và CM XHCN, là thời đại chủ
nghĩa đế quốc bị sụp đổ, chủ nghĩa thực dân bị thủ tiêu, là thời đại có nhiều nước đi lên chủ
nghĩa XH, là thời đại của chủ nghĩa XH, Chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới.
a.2 Quan điểm của Đảng ta về thời đại ngày nay :
Dựa trên cơ sở của chủ nghĩa Mác - Lê nin và sự vận động đầy phức tạp của nền chính trị thế
giới và nhất là những biểu hiện có tính chất đặc thù trong mỗi giai đoạn cụ thể nhất, đặc biệt là
sau năm 1991 khi tình hình thế giới thay đổi lớn, Đảng ta đã nhận định :
“Thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ CNTB lên chủ nghĩa XH trên phạm vi toàn thế giới,
mở đầu bằng cuộc CM tháng 10 Nga vĩ đại năm 1917, là thời đại đấu tranh cho thắng lợi của hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa XH, gắn liền với cuộc CM khoa học kỹ thuật và công
nghệ hiện đại tạo ra những tiền đề vật chất kỹ thuật XH ngày càng đầy đủ cho việc chuyển lên
12
chủ nghĩa XH” (báo cáo của đ/c Đặng Xuân Kỳ tại Hội nghị tập huấn toàn quốc 1994 – Hà Nội).
Chính cuộc CM khoa học công nghệ hiện đại tạo ra những tiền đề vật chất kỹ thuật ngày càng
đầy đủ cho việc tiến lên chủ nghĩa XH. Nó tác động đến nên KT thế giới và mọi quốc gia. Đây là
những thuận lợi nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức, do vậy nó đòi hỏi các nước đi từ một nền
KT kém phát triển phải tận dụng lợi thế này để đẩy nhanh phát triển lực lượng SX, để rút ngắn
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa XH

Đồng thời Đảng cũng chỉ rõ : “Thời đại quá độ lên CNXH là thời đại đan xen giữa CNXH và
CNTB. CNXH sẽ ngày càng mạnh hơn và mở rộng từ một nước ra nhiều nước. Còn CNTB thì
ngày càng suy yếu và thu hẹp. Đó là xu thế chung có tính quy luật xuyên suốt trong thời đại”
c. Sự sụp đổ của hệ thống XHCN ở Liên Xô và các nước Đông âu khiến cho CNXH lâm vào
thoái trào song sức sống của nó vẫn mạnh mẽ. Đại hội VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng
định: “chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ khiến cho chủ nghĩa XH tạm thời
lâm vào thoái trào, nhưng điều đó không làm thay đổi tính chất của thời đại; loài người vẫn đang
trong thời đại quá độ từ CNTB lên chủ nghĩa XH.” (VKĐH 8, trang 76).
Sau những biến động chính trị cuối những năm 80, đầu những năm 90, với sự tan rã của hệ
thống XHCN ở Đông Âu và Liên Xô, chúng ta nhận thức rõ rằng
Thời đại ngày nay cũng là thời đại phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào hòa
bình, dân chủ phát triển mạnh mẽ đã tác động sâu sắc đến chiều hướng phát triển của thế giới.
Sự sụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu không phải là từ bản chất chế độ, cũng hoàn
toàn không phải là cách lựa chọn sai lầm một sự “đẻ non”, Cách mạng tháng 10 Nga như những
kẻ thù tư tưởng của CNXH, những kẻ cơ hội rêu rao, mà thực chất - như Đảng ta đã chỉ rõ - là
do sai lầm về đường lối chính trị, tư tưởng, tổ chức của Ban lãnh đạo Đảng cộng sản các nước
đó, duy trì quá lâu cơ chế cũ đã tỏ ra bất cập trước thực tiễn mới, đưa đến khủng hoảng kinh tế,
xã hội. Bên cạnh đó là sự chống phá điên cuồng, tinh vi, thâm độc và toàn diện của các thế lực
đế quốc chủ nghĩa. CNXH hiện thực tạm thời lâm vào thoái trào, song chủ nghĩa xã hội vẫn tỏ rõ
sức sống của nó như ở Việt Nam, Trung Quốc và ở giá trị đích thực của CN Mác – Lênin.
3. Làm rõ những nội dung và biểu hiện mới của những mâu thuẩn thời đại
Những đặc điểm chủ yếu của thời đại ngày nay:
Sự phát triển mạnh của cuộc CM khoa học công nghệ hiện đại nó tác động mạnh mẽ và
trực tiếp đến đời sống nhân dân các nước, nó đẩy mạnh xu thế toàn cầu hóa nó đưa đến những
thuận lợi đồng thời đặt ra những thách thức nhiều nước,nhất là các nước chậm phát triển và
đang phát triển.
Chủ nghĩa XH, phong trào cộng sản và công nhân lâm vào khủng hoảng thoái trào làm
thay đổi so sánh lực lượng trên trường quốc tế, có tác động đến sự vận động của thời đại,
nhưng điều đó không làm thay đổi tính chất thời đại.
Nguy cơ chiến tranh thế giới hủy diệt bị đẩy lùi. Những xung đột vũ trang, chiến tranh cục

bộ, những xung đột về sắc tộc, tôn giáo vẫn xảy ra ở nhiều nơi.
Cộng đồng thế giới đứng trước những vấn đề toàn cầu cấp bách đòi hỏi các nước phải có
sự hợp tác đa phương để giải quyết.
Cùng với sự phân cực tính chỉnh thể của thế giới ngày càng tăng, các nước có chế độ
chính trị khác nhau vừa hợp tác vừa đấu tranh cũng tồn tại hòa bình, hình thành nên các khu vực
tập trung cho sự phát triển.
* Những mâu thuẫn cơ bản của thời đại ngày nay:
- Mâu thuẫn giữa CNXH với CNTB : đây là mâu thuẫn cơ bản nhất, bao trùm nhất và
xuyên suốt nhất trong thời đại ngày nay. Cu ba vẫn còn bị cấm vận, đối với Việt Nam và Trung
Quốc thì các thế lực thù địch không bao giờ muốn Đảng Cộng sản lãnh đạo, không bao giờ
muốn ta xây dựng thành công CNXH. Cuộc đấu tranh ý thức hệ tư tưởng XHCN – hệ tư tưởng
tư sản vẫn sôi động trước sự mất uy tín của CNTB và trước mưu đồ của CN đế quốc không
muốn để CNXH ở Liên Xô và Đông Âu phục hồi và ngăn các nước khác đi vào CNXH, trước hết
là các nước XHCN đang tồn tại. Tuy nhiên, mâu thuẫn này về nội dung và hình thức biểu hiện có
nhiều nét mới. Thể hiện trước đây từ đối đầu nay chuyển sang đối thoại, vừa hợp tác vừa đấu
tranh cùng tồn tại hòa bình, sẵn sàng chuyển đối đầu, bất đồng sang thứ yếu để cùng hợp tác
phát triển. Sự chuyển hóa ấy thể hiện dưới 3 dạng cụ thể :
+ Tiến hành diễn biến hòa bình và đấu tranh chống diễn biến hòa bình. Hiện nay Mỹ
đang thực hiện chiến lược toàn cầu “vượt lên ngăn chặn” để thay thế cho chiến lược trước đây,
đây thực chất là chiến lược mạnh bạo hơn nhưng biện pháp sử dụng một cách tòan diện hơn,
13
sâu sắc hơn và tế nhị hơn. Ví dụ như : đối với khu vực Châu á – Thái bình dương. Trong quan
hệ với Trung quốc thì một mặt Mỹ ủng hộ và quan hệ hợp tác với Trung quốc nhưng mặt khác Mỹ
tìm cách kiềm chế không muốn cho Trung quốc mạnh lên, trong quan hệ với Việt Nam, Mỹ tìm
cách xóa bỏ chế độ chính trị nhưng mặt khác vì lợi ích chiến lược lâu dài, Mỹ phải đầu tư vào
Việt Nam nhưng Mỹ lại gây sức ép với Việt Nam về vấn đề nhân quyền, tôn giáo bởi vì Mỹ co
rằng chính sách đối đầu về kinh tế dần dần sẽ làm thay đổi được tư tưởng chính trị của tầng lớp
thanh niên thích hưởng thụ và khi đó mới tiến hành âm mưu lật đổ
+ Thứ hai là hành động lật đổ và đấu tranh, chống lật đổ
+ Thứ ba là áp đặt, can thiệp và đấu tranh chống áp đặt và can thiệp từ bên ngoài. Ví dụ

như : dự luật HR 2431 được hạ viện Mỹ thông qua, trong đó đưa ra 36 nước để trừng phạt (trong
đó có Việt Nam), chúng ta đã kịch liệt phản đối buộc Mỹ không thể tiến hành dự luật này
- Mâu thuẫn giữa CNTB với giai cấp công nhân, nhân dân lao động trong các nước
tư bản. Đây vẫn là mâu thuẫn cơ bản của thời đại. Nó có biểu hiện mới, về hình thức có vẻ như
dịu đi do giai cấp tư sản tìm mọi cách để xoa dịu cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân như :
chăm lo chính sách xã hội hơn; mua chuộc một bộ phận công nhân, trí thức; gắn lợi ích công
nhân với lợi ích của các công ty thông qua việc bán cổ phần hoặc sử dụng mọi hình thức tuyên
truyền tính ưu việt của xã hội tư bản nhưng về căn bản giai cấp tư sản không thể giải quyết
được mâu thuẫn vốn có của nó giữa tư bản và lao động, giữa tính chất xã hội hóa rất cao của
LLSX và chế độ sở hữu tư nhân TBCN.
- Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc với các dân tộc và các nước đang phát triển
vẫn là mâu thuẫn cơ bản và đang phát triển sâu sắc. Thế giới đang lên án gay gắt các nước tư
bản phát triển bóc lột các nước nghèo, đòi phải xóa nợ cho các nước nghèo. Cuộc chiến tranh ở
CôXôVô với vũ khí công nghệ cao, có sức tàn phá lớn, làm thiệt hại của Nam tư 132 tỷ USD,
riêng việc cấm vận đã làm thiệt hại 132 tỷ. Đối với IRắc, 10 năm sân bay Bátđa khôngmở cửa,
hàng triệu người chết đói vì chính sách cấm vận. Các dân tộc hiện nay một số nước đã gây thiệt
hại lớn cho nền kinh tế của các quốc gia, dân tộc này, buộc họ tập hợp lại trong cuộc đấu tranh
chống cường quyền áp đặt, đây là xu thế rất lớn với nhiều hình thức phong phú. Các cuộc tập
họp lực lượng ở Hội nghị Nam – Nam ở Cuba ở Seatll, Washington (Mỹ), trong UNCTAD (Thái
Lan) là những biểu hiện mới. Các nước, các dân tộc tập họp lại đấu tranh chống cường quyền và
áp đặt. Một cuộc đấu tranh rất quyết liệt. Biểu hiện ở độc lập dân tộc không chỉ dừng lại ở độc
lập về chính trị, các nước đấu tranh giành độc lập về kinh tế để thiết lập một trật tự về kinh tế thế
giới mới, đấu tranh đòi công bằng dân chủ trong kinh tế.
- Mâu thuẫn giữa các nước tư bản, đế quốc với nhau còn rất phức tạp, trong quan
hệ giữa các nước đế quốc vừa thống nhất với nhau về chống CNXH – CN cộng sản, nhưng cũng
vừa có những mâu thuẫn với nhau về quyền lợi, ảnh hưởng thị trường. Mâu thuẫn này còn hết
sức phức tạp, thể hiện ở chiến tranh thương mại, chống sự áp đặt của Mỹ về nhiều lĩnh vực
Trong cuốn sách xuất bản tháng 5/2000, Hubert Vedrin, Bộ trưởng Ngoại giao Pháp viết “là bạn,
là đồng minh, nhưng Pháp không chấp nhận phải đứng sau Mỹ”. Trong khi Mỹ lợi dụng “dân chủ,
nhân quyền” để can thiệp vào các quốc gia độc lập thì ông Hubert Vedrin lại nói “nhiều nơi khát

vọng dân chủ nhưng không nhất thiết là dân chủ giống hệt chúng ta” và “đừng quên là trong quá
khứ, những nhà truyền giáo, quan chức và lính tráng của CN thực dân đã rao giảng rất nhiều về
dân chủ, nhân quyền, những điều mà chính họ ít khi áp dụng.
Đây là 4 mâu thuẫn cơ bản của thời đại ngày nay hiện đang tồn tại, có mặt phát triển sâu sắc
hơn, nội dung và hình thức biểu hiện đã có nhiều nét mới. Chính sự vận động của các mâu
thuẫn đó cùng với sự đấu tranh không mệt mỏi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
trên toàn thế giới sẽ quyết định số phận của CNTB, của giai cấp tư sản. Vì thế, trong hoàn cảnh
phức tạp của tình hình thế giới hiện nay, việc nhận thức đúng đắn về vấn đề thời đại là rất quan
trọng và cần thiết, nó giúp cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động, các Đảng Cộng sản và
phong trào cách mạng trên thế giới thoát ra khỏi tình trạng hoang mang dao động, mất phương
hướng. Từ đó, có thể đề ra đường lối chiến lược, sách lược, phương pháp đấu tranh cách mạng
nhằm đem lại hòa bình dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
4. Kết hợp đấu tranh phê phán những tư tưởng không đúng của bọn cơ hội xét lại (ở thế
giới, ở Việt Nam)
Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta cần phát hiện kịp thời và đấu tranh kiên quyết với mọi
hình thức và biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội và xét lại. Nhận diện những biểu hiện của nguy cơ
chệnh hướng XHCN là vấn đề không phải đơn giản bởi tính phức tạp của sự nhận diện này bắt
14
nguồn từ tính chất phức tạp của thời kỳ quá độ. Thời gian qua ở Việt Nam cũng đã xuất hiện
nhiều những biểu hiện cơ hội, xét lại, cụ thể như :
- Xu hướng đòi “đa nguyên chính trị” : trong quá trình đổi mới, đặc biệt vào những thời
điểm có tính bước ngoặt, Đảng ta có những quyết sách rất quan trọng, trong đó có sự bác bỏ
kiên quyết những mầm mống đầu tiên về đa nguyên chính trị chớm xuất hiện trong Đảng. Đây là
một quan điểm đúng đắn bởi xuất phát từ bài học kinh nghiệm ở Liên Xô và các nước Đông Âu.
Sự thực hiện “đa nguyên” “đa đảng”, dân chủ theo kiểu tư sản ở Liên Xô và Đông âu vừa qua, là
một bài học đắt giá đối với các nước XHCN, đã làm cho CNXH bị khủng hoảng và lâm vào thoái
trào. Đồng thời, thực tế cũng chứng minh rằng, các nước thực hiện sự cải cách hay đổi mới thu
được những thắng lợi căn bản và vững bước đi theo con đường CNXH đều đã kiên trì nguyên
tắc: nhất nguyên chính trị, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo duy nhất, đúng đắn của Đảng CS
đối với hệ thống chính trị và toàn XH

- Tìm mọi cách hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản : Hạ viện Mỹ thông qua Nghị
quyết đòi Việt Nam phải xóa bỏ điều 4 trong Hiến pháp năm 1992 (tức bỏ điều Đảng Cộng sản
lãnh đạo toàn XH) ngay trong giai đoạn Việt - Mỹ đang chuẩn bị Hiệp định thương mại, tư tưởng
này cũng đã xuất hiện ở Việt Nam. Tuy nhiên, ngược lại với quan điểm trên, Tổng thống Italia nói
“chúng tôi hoàn toàn ủng hộ hệ thống chính trị Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo”
- Đấu tranh với xu hướng đòi dân chủ hóa vô giới hạn ở Việt Nam (dân chủ phi giai cấp).
- Đấu tranh với xu hướng đòi tách văn hóa văn nghệ ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng, quản
lý của nhà nước : một trong những âm mưu diễn biến hòa bình của CNTB đối với các nước
XHCN trong đó có Việt Nam chính là việc kích động một số bộ phận văn nghệ sỹ đòi tách văn
hóa, văn nghệ ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng bởi họ cho rằng nếu văn hóa, văn nghệ đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng thì bản thân nó sẽ không mang tính sáng tạo mà chỉ là công cụ tuyên truyền
của Đảng. Chính bằng hình thức này cộng với sự tuyên truyền của Đài Châu Âu tự do cũng là 1
trong những nguyên nhân làm sụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Thực tế
thời gian qua công tác quản lý báo chí, văn hóa xuất bản của nước ta cũng còn nhiều mặt buông
lỏng, để nảy sinh những khuynh hướng không lành mạnh làm suy giảm giá trị văn hóa, đạo đức
xã hội và ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, nhà nước. Để khắc phục những khuyết điểm trên,
Đảng ta đã khẳng định : văn hóa văn nghệ có vai trò rất quan trọng trong quá trình xây dựng
CNXH, quan hệ của nó trong quá trình biến đổi và cải biến to lớn này không thể trở thành cái
đứng ngoài; mà phải là một sức mạnh trực tiếp góp phần vào quá trình phát triển. Do đó, văn
hóa, văn nghệ không thể không đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước nhưng
đồng thời nhà nước cũng phải đảm bảo tự do, dân chủ cho mọi sáng tạo văn hóa, văn học nghệ
thuật, tạo điều kiện làm việc thuận lợi để phát huy hiệu quả của lao động nghệ thuật. Văn nghệ
sỹ phải nêu cao trách nhiệm trước nhân dân, trước tổ quốc và CNXH.
- Đấu tranh với xu hướng đòi tư nhân hóa nền kinh tế theo kiểu TBCN
- Đấu tranh với bọn cơ hội tìm cách tác động để sửa đổi luật pháp Việt Nam theo xu
hướng TBCN
- Đấu tranh với xu hướng đòi xét lại những thành quả cách mạng của dân tộc và của
nhân dân
5. Kết luận :
Do nhận thức đúng đắn về thời đại nên trong những năm qua Đảng ta đã xác định đúng

đắn đường lối chiến lược và sách lược, đưa đất nước Việt Nam đạt được từ thắng lợi này sang
thắng lợi khác, giữ vững ổn định chính trị để phát triển kinh tế. Nền kinh tế Việt Nam đã từng
bước đi lên vượt qua được khủng hoảng. Cuộc sống của nhân dân ngày càng cải thiện, uy tín
của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được củng cố. Các nước ngày càng tăng cường
quan hệ hợp tác làm ăn với Việt Nam. Sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam đã cổ vũ động viên
các nước trong đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc, góp phần vào kho tàng lý luận của CN
Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Việc nhận thức và xác định đúng đắn vấn đề thời đại hiện nay cùng với xác định đúng
hướng đi của đất nước, trong đó có đường lối chính sách đối ngoại. Đảng và nhân dân ta đã góp
phần tích cực vào việc làm rõ xu hướng phát triển tất yếu của xã hội loài người. Cho dù khúc
quanh hiện nay của lịch sử đang là sự quá độ từ CNTB lên CNXH trên thế giới kép dài thêm
nhưng nó không thể làm đảo ngược được tính chất và xu thế của thời đại. CNXH vẫn đang tồn
15
tại thoát khỏi những khó khăn, đang tiếp tục phát triển và khẳng định vị thế của mình. Loài người
vẫn đang trong thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH
Vấn đề 2 : CNXH hiện thực - công cuộc đổi mới XHCN là con đường phát triển tất yếu của
cách mạng VN giai đoạn hiện nay
Bài làm
Quá trình phát triển của lịch sử XH loài người mang bản chất luôn luôn vận động và biến
đổi không ngừng theo khuynh hướng tiến lên cải tổ. Do đó, công cuộc đổi mới hoàn thiện CNXH
dưới sự lãnh đạo của chính đảng CS là đòi hỏi tất yếu của quá trình phát triển lịch sử. Và hơn
thế nữa còn là sự đòi hỏi tất yếu của bản thân CNXH trên thế giới nói chung và CNXH ở nước ta
nói riêng. Bằng lý luận quan hệ quốc tế, chúng ta phân tích làm rõ luận điểm trên
1. Thành tựu và vai trò, vị trí của CNXH
a. Vị trí, vai trò của CNXH :
CNXH hiện thực ra đời là một tất yếu trong quá trình phát triển của lịch sử XH loài người.
Đây là biểu hiện sự vận động không ngừng tiến lên của lịch sử. CN Mác-Lênin chỉ ra rằng: CNXH
là sản phẩm trực tiếp của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, bởi CNXH là mục đích, là
lý tưởng của giai cấp vô sản cần đạt tới, do vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản qui định;
CNXH cũng là ước mơ, nguyện vọng của đông đảo nhân dân lao động. Trong tác phẩm Tuyên

ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác đã chỉ rõ: “Sự diệt vong của CNTB và sự thắng lợi của CNCS
đều là tất yếu như nhau”. Các nhà kinh điển CN Mác-Lênin còn dự đoán thiên tài về một XH
tương lai, XH CSCN. Đó là một XH mà trong đó mọi sự áp bức, bóc lột, bất công đều bị xóa bỏ,
con người được hoàn toàn tự do và bình đẳng, có cuộc sống văn minh và hạnh phúc. Và chỉ có
CNXH, CNCS mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân toàn thế giới.
Thắng lợi cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 đã đưa đến việc thiết lập một nhà nước
XHCN đầu tiên trong lịch sử XH loài người, đánh dấu sự ra đời của CNXH hiện thực, mở ra thời
đại mới cho lịch sử nhân loại. Đó cũng là thành quả vĩ đại, là sản phẩm trực tiếp của phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế.
Cách mạng VN là một bộ phận không thể tách rời phong trào cách mạng thế giới. Đảng
Cộng sản VN là một bộ phận của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, là sản phẩm của
của sự kết hợp CN Mác-Lênin với phong trào công nhân và CN yêu nước VN. Ngay từ khi mới ra
đời, Đảng ta đã xác định con đường đi lên của cách mạng VN là tiến tới CNXH.
b. Những thành tựu của CNXH :
Tuy mới ở giai đoạn đầu của quá trình phát triển nhưng trước những năm 1980, các nước XHCN
đã tạo ra được những thành tựu không thể phủ nhận trên các lĩnh vực của đời sống XH bằng sức mạnh
tự thân, CNXH đã và đang vượt qua những khó khăn thử thách để trở thành đối trọng trước CNTB trong
thời đại ngày nay. Trên thực tế, CNXH đã xác lập được chế độ xã hội của những người lao động,
mà bản chất của nó là vì con người, phục vụ con người. Nhân dân lao động là người trực tiếp
tham gia vào quá trình sản xuất và quản lý xã hội. CNXH không ngừng tạo điều kiện cho người
lao động cống hiến trí tuệ, năng lực của mình vào công cuộc xây dựng và bảo vệ chế độ XHCN.
Tuy các nước XHCN đều xuất phát từ một nền kinh tế có trình độ phát triển trung bình và
lạc hậu, nhưng chỉ sau một thời gian ngắn Liên Xô đã trở thành một cường quốc về kinh tế và
quân sự đủ sức đánh bại CN phát xít trong chiến tranh thế giới lần thứ 2, tạo điều kiện thuận lợi
cho hàng loạt nước đi lên CNXH. Sau chiến tranh thế giới thứ 2, chỉ sau thời gian không dài các
nước XHCN đã xây dựng được một nền kinh tế khá phát triển. Nếu chỉ đơn giản so với hai nước
Liên Xô và Mỹ, đứng đầu hai khối trong cùng một thời gian nhất định (đến năm 1985) về tổng sản
lượng công nghiệp thì Liên Xô có tốc độ tăng trưởng cao hơn. (năm 1913 nước Nga sa hoàng
chỉ đạt 12,5% so với Mỹ, đến năm 1949 Liên Xô đạt đến 40%, năm 1980 Liên Xô đạt 80%, đến
năm 1985 đạt 85% so với Mỹ). Ngoài các nước XHCN cũng đạt những thành tựu rực rỡ trong

một số ngành khoa học, đặc biệt là trong ngành nghiên cứu và chinh phục vũ trụ.
Sức mạnh và sự tác động hệ thống các nước XHCN thế giới đã làm thay đổi bộ mặt của
hành tinh. CNXH là lực lượng chủ yếu, là mũi tiến công quan trọng nhất trong công cuộc đấu
tranh chống CN đế quốc. CNXH thực sự là hậu thuẫn, là chỗ dựa của phong trào giải phóng dân
tộc và độc lập dân tộc.
Hệ thống XHCN đã là thành trì của hòa bình thế giới, là chỗ dựa tinh thần của giai cấp
công nhân của các nước tư bản trong cuộc đấu tranh vì dân sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội.
16
CNXH (cụ thể là Liên Xô) đã giành được thế cân bằng chắc chắn về vũ khí chiến lược, buộc CN
đế quốc phải chấp nhận cùng tồn tại hòa bình, nhờ đó mà nhân loại bước vào giai đoạn mới, giai
đoạn của hòa bình, hợp tác và phát triển.
c. Những sai lầm của CNXH :
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu cơ bản đã đạt được trong quá trình phát triển của
mình, các nước XHCN đã phạm phải những sai lầm nghiêm trọng, những sai lầm đó đã đẩy
CNXH thế giới lâm vào cuộc khủng hoảng sâu sắc và toàn diện.
+ Về chính trị: Vấn đề dân chủ trong thời gian dài, không được thực hiện đúng và đầy đủ
bản chất nền dân chủ theo quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, mà là một nền dân chủ hình thức,
cắt xén thậm chí có lúc là giả dối. Các Đảng Cộng sản chưa làm tròn vai trò của người chiến sĩ
tiên phong, trong tư duy thể hiện sự giáo điều; về lý luận, biểu hiện sự lạc hậu, yếu kém chưa
theo kịp sự phát triển thực tiễn và yêu cầu cách mạng; việc tổ chức thực hiện các nghị quyết của
Đảng nhiều nơi còn quá yếu, năng lực, trách nhiệm ở một số tổ chức cơ sở Đảng, cán bộ lãnh
đạo chưa cao. Tổ chức bộ máy cồng kềnh hoạt động kém hiệu quả, chế độ trách nhiệm không rõ
ràng, nghị quyết ra nhiều nhưng làm ít, công tác kiểm tra thiếu kịp thời, xử lý chưa nghiêm minh,
thậm chí cấp trên nói, cấp dưới không nghe. Nhà nước ở các nước XHCN vừa qua chưa thể
hiện đúng là nhà nước của dân, do dân, vì dân; không coi trọng việc điều hành và quản lý XH
bằng luật pháp; chồng chéo chức năng giữa các cơ quan hành pháp và lập pháp; lẫn lộn giữa
chức năng quản lý nhà nước với quản lý sản xuất kinh doanh, chưa phát huy hết quyền tự chủ
trong sản xuất kinh doanh, tệ tham nhũng, nạn mất dân chủ còn diễn ra ở nhiều nơi, nhiều vấn
đề gây phiền hà cho nhân dân.
+ Về kinh tế: sai lầm trong chế độ sở hữu, trong một thời gian dài không thực hiện đúng và

đầy đủ những bản chất, những nguyên lý của chủ nghĩa Mác–Lênin về chế độ sở hữu mà dùng
biện pháp hành chính, mệnh lệnh ép buộc, cưỡng bức chạy theo chỉ tiêu pháp lệnh. Không để
cho nhân dân tự quyết định. Chính nguyên nhân này làm ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống
nhân dân, từ đó dẫn đến mất niềm tin với Đảng và nhà nước.
Về sản xuất hàng hoá: Thời gian qua chưa nhận thức đầy đủ về nền sản xuất hàng hoá,
cho rằng CNXH phải được xây dựng trên nền kinh tế sản xuất phi hàng hoá. Từ đó đã triệt tiêu
động lực sản xuất, dẫn đến nền kinh tế chậm phát triển.
Về chế độ phân phối nhiều nước XHCN mắc phải sai lầm, khuyết điểm là không thực hiện
phân phối theo lao động mà thực hiện theo phân phối cấp bậc và kèm theo chủ nghĩa bình quân.
Về quan hệ kinh tế đối ngoại: Thì chỉ quan hệ một chiều dựa vào sự giúp đỡ một bên chứ
không phải quan hệ đôi bên cùng có lợi, từ đó làm nảy sinh sự trông chờ, ỷ lại và thực hiện nền
kinh tế khép kín, cách biệt với nền kinh tế thế giới, chỉ biết quan hệ trong các nước XHCN mà
thôi, chứ không cần quan hệ với các nước TBCN tức là CNXH đã ngủ quên trên những biến
động của xã hội, say sưa với chiến thắng, thoả mãn với chế độ XHCN. CNXH đã mắc sai lầm
biệt lập, đóng cửa với nền kinh tế thế giới. Do vậy, không tiếp thu được những thành tựu mới
nhất của cuộc cách mạng khoa học công nghiệp hiện đại. Mặt khác, sự đóng khung các quan hệ
kinh tế giữa các nước XHCN với nhau, đi ngược lại xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá của nền
kinh tế thế giới, làm cho nền kinh tế của các nước XHCN không thể phát triển được.
CNXH, trong thời gian dài đã không chú trọng đúng mức tới các ngành khoa học ứng
dụng, chưa sử dụng đúng mức đội ngũ trí thức. Từ đó dẫn đến hậu quả chưa sử dụng hết tài
năng, dẫn đến tình trạng chảy máu chất xám từ các quốc gia XHCN sang các nước TBCN.
Những sai lầm đó tích tụ lâu ngày, chậm được phát hiện, chậm được sửa chữa đã đưa đến hậu
quả nghiêm trọng chưa từng có trong lịch sử phát triển của CNXH, dẫn đến lòng tin của nhân dân
đối với Đảng cộng sản, đối với Nhà nước và chế độ XHCN bị giảm sút; nạn chuyên quyền độc đoán, tham
nhũng đã làm tổn thương nghiêm trọng đối với hình ảnh của CNXH. Mặt khác, CN đế quốc lợi dụng
sai lầm đó để phản công lại CNXH, chủ nghĩa Mác-Lênin, phủ nhận sự phát triển tất yếu của lịch
sử xã hội loài người dẫn đến sự tam rã của hệ thống XHCN ở Liên Xô và Đông Âu
Tuy nhiên, chúng ta nhận thức rõ rằng sự sụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu
cũng như những hậu quả suy giảm KT-XH ở nước ta không phải là từ bản chất chế độ, cũng
hoàn toàn không phải là cách lựa chọn sai lầm một sự “đẻ non”, Cách mạng tháng 10 Nga như

những kẻ thù tư tưởng của CNXH, những kẻ cơ hội rêu rao, mà thực chất - như Đảng ta đã chỉ
rõ - là do sai lầm về đường lối chính trị, tư tưởng, tổ chức của Ban lãnh đạo Đảng cộng sản các
17
nước đó, duy trì quá lâu cơ chế cũ đã tỏ ra bất cập trước thực tiễn mới, đưa đến khủng hoảng
kinh tế, xã hội, bên cạnh đó là sự chống phá điên cuồng, tinh vi, thâm độc và toàn diện của các
thế lực đế quốc chủ nghĩa. CNXH hiện thực tạm thời lâm vào thoái trào, song chủ nghĩa xã hội
vẫn tỏ rõ sức sống của nó như ở Việt Nam, Trung Quốc, Cu ba và ở giá trị đích thực của CN
Mác – Lênin
Việt Nam - nằm trong hệ thống các nước XHCN - cũng vấp phải những sai lầm trong việc
đề ra đường lối chính sách kinh tế xã hội trong giai đoạn từ trước năm 1986. Chúng ta một thời
gian khá dài đã duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã dẫn đến sự kiềm hãm sự
phát triển kinh tế và dẫn đến khủng hoảng trầm trọng, hành động trái với các quy luật khách
quan, đẩy mạnh cải tạo quan hệ sản xuất trong khi lực lượng SX chưa phù hợp từ đó nảy sinh ra
mâu thuẩn chủ yếu giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất, nhiệm vụ công nghiệp hóa
được đẩy lên một cách duy ý chí trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết. Bộ máy Đảng, nhà
nước cồng kềnh, phân tán, cửa quyền. Từ những sai lầm về đường lối chỉ đạo này, dẫn đến nền
kinh tế chậm phát triển, xã hội rơi vào khủng hoảng.
Nhận thức được những sai lầm trên, các nước XHCN tiến hành cải tổ và đổi mới CNXH (từ
những năm 1980).
2. Tính tất yếu và nội dung cải tổ, đổi mới CNXH nói chung và ở Việt Nam nói riêng.
a. Tính tất yếu:
Chính những thất bại và sai lầm trên đòi hỏi để tồn tại chế độ XHCN, Đảng ta phải thực
hiện công cuộc đổi mới, linh động, sáng tạo phù hợp với tình hình hiện nay. Hơn nữa, cho dù
không mắc phải những sai lầm, việc cải tổ, đổi mới XHCN cũng phải được tiến hành để phù hợp
với quy luật vận động tất yếu của lịch sử xã hội loài người. Nói cách khác, tính tất yếu của đổi
mới là một tất yếu lịch sử khách quan do quá trình phát triển của lịch sử xã hội loài người, đòi hỏi
CNXH phải tiến hành đổi mới vì đó là con đường tồn tại và phát triển của một xã hội tương lai.
Đổi mới không chỉ là sự đòi hỏi tất yếu của bản thân CNXH mà còn là biểu hiện lành mạnh của nhận thức
đánh giá chính mình để khắc phục những sai lầm và tìm ra những con đường phát triển đúng đắn của
CNXH. Cải tổ, đối mới không có nghĩa là bắt đầu một cuộc cách mạng khác mà là sự tiếp tục của cuộc

cách mạng XHCN. Quá trình đó phù hợp với sự đòi hỏi của thời đại trong giai đoạn hiện nay, khi mà loài
người tiến đến một giai đoạn mà sự tồn tại của các quốc gia tùy thuộc nhiều hơn vào những nhân tố KT-
XH, và mối quan hệ quốc tế. Việc đổi mới này, đòi hỏi phải có những hình thức và bước đi phù hợp
với hoàn cảnh và điều kiện cụ thể trong từng giai đoạn lịch sử, hướng tới mục tiêu phát triển của
CNXH. Phải thực hiện một cách đầy đủ những bản chất nhân đạo, dân chủ và văn minh. Đổi mới
là quá trình tìm tòi sáng tạo để vươn lên, đổi mới phải tiến hành trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Việc đổi mới này, đòi hỏi phải có những hình thức và bước đi phù hợp với hoàn
cảnh và điều kiện cụ thể trong từng giai đoạn lịch sử, hướng tới mục tiêu phát triển của CNXH.
Phải thực hiện một cách đầy đủ những bản chất nhân đạo, dân chủ và văn minh.
b. Nội dung: Đổi mới là quá trình tìm tòi sáng tạo để vươn tới là một XH thật sự tốt đẹp,
thì phải được tiến hành trên tất cả các lĩnh vực của đời sống XH.
Về chính trị: Yêu cầu nhiệm vụ đặt ra cho các Đảng CS cầm quyền và nhà nước XHCN là
phải mở rộng và phát huy dân chủ, tạo điều kiện cho nhân dân lao động phát huy trí sáng tạo
trong công cuộc xây dựng CNXH. Muốn vậy, phải cương quyết khắc phục những quan hệ chính
trị đã kiềm hãm sự phát triển KT-XH, xây dựng mối quan hệ mới trong hệ thống chính trị; tăng
cường giáo dục lối sống theo phương châm: Sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, giữ
gìn kỷ cương và trật tự xã hội.
Về kinh tế: Vấn đề hàng đầu của công cuộc đổi mới là sự thay đổi cơ chế quản lý bằng
mệnh lệnh, tập trung, hành chánh bao cấp sang cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhiệm vụ này phải tiến hành ở tất cả các
khâu của nền kinh tế, đa dạng hoá hình thức sở hữu. Trong đó sở hữu nhà nước và tập thể giữ
vai trò nền tảng. Đổi mới quan hệ kinh tế đối ngoại trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, giữ
vững độc lập, tự chủ.v.v
Về vấn đề xã hội, phải thật sự quan tâm đến vấn đề con người, con người vừa là mục
đích, vừa là động lực thực hiện công cuộc đổi mới đảm bảo công bằng và tiến bộ xã hội.
Tuy nhiên, sau nhiều năm tiến hành cải tổ, đổi mới ở các nước XHCN đưa đến kết quả
không giống nhau. Một số nước càng lún sâu vào khủng hoảng và đi đến tan rã CNXH như Liên
Xô và các nước Đông Âu, do nhiều nguyên nhân trong đó nguyên nhân xa rời các nguyên tắc
18
mácxít Lêninnít về định hướng, mục tiêu và bước đi. Một số nước khác đã tiến hành công cuộc

cải tổ, đổi mới giành được những thành tựu bước đầu quan trọng như: Trung Quốc, Việt Nam.
c. Đổi mới ở Việt Nam:
Năm 1986, Đại hội Đảng lần VI đã khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước
nhằm nhận thức đúng hơn và thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng CNXH. Đại hội
đã đưa ra những nhận thức mới về cơ cấu kinh tế, về công nghiệp hóa XHCN trong chặng
đường đầu tiên, thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hóa và thị trường, phê
phán triệt để cơ chế tập trung quan liêu bao cấp và khẳng định chuyển hẳn sang hạch toán
kinh doanh. Đại hội chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với những hình thức
kinh doanh phù hợp, coi trọng lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, chăm lo toàn diện và phát huy
nhân tố con người, có nhận thức mới về chính sách xã hội. Đường lối đối ngoại mở rộng với
chủ trương thêm bạn bớt thù, sau đó phát triển từ “muốn là bạn với tất cả các nước” chuyển
sang “sẳn sàng muốn là bạn với tất cả các nước”
Chính những đổi mới đó trong đường lối chính sách kinh tế - xã hội - đối ngoại qua 2 kỳ
Đại hội, có thể khẳng định rằng đường lối đối ngoại đổi mới của Đảng ta là hoàn toàn đúng
đắn. Điều đó đã được kiểm nghiệm qua thực tiễn hơn 15 năm thực hiện đường lối đổi mới
toàn diện : đất nước ta đã vượt qua một giai đoạn thử thách gay go trong hoàn cảnh hết sức
phức tạp khó khăn, nhân dân ta không những đứng vững mà còn vươn lên đạt được những
thắng lợi nổi bật, đẩy lùi âm mưu bao vây cấm vận, bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc
và Mỹ, gia nhập khối ASEAN, quan hệ tốt với các nước Đông - Tây âu. Kinh tế đất nước tiếp
tục tăng trưởng, chúng ta tiếp tục duy trì được tốc độ tăng trưởng GDP trên 7%/năm, thu hút
được khoảng trên dưới 2 tỷ USD đầu tư/năm, số lượng khách du lịch tăng trên dưới 8%/năm,
đời sống mọi mặt của người dân được ổn định và phát triển, phá được thế bao vây, cấm vận,
chính trị xã hội ổn định, trật tự an toàn xã hội luôn được nâng cao, đảm bảo. GDP bình quân
đầu người từ 200 USD/năm (trước năm 1986) tăng lên 482 USD/năm, gấp 2,5 lần. Điều quan
trọng là nền kinh tế thực, hoạt động theo tín hiệu của thị trường.
3. Những bài học kinh nghiệm trong quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam (6 bài học kinh
nghiệm ĐH VIII và 4 bài học kinh nghiệm ĐH IX)
Tổng kết sau 10 năm đổi mới toàn diện, sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực, Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VIII đã đánh giá: nước ta đã ra khỏi khủng hoảng KT-XH, cơ bản hoàn thành
nhiệm vụ của chặng đường đầu của thời kỳ quá độ, đất nước chuyển sang thời kỳ phát triển mới

- thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Và rút ra 6 bài học kinh nghiệm chủ yếu, để tiếp tục công cuộc
đổi mới CNXH ở nước ta giành được thắng lợi. Đó là:
Một là, giữ vững mục tiêu dân tộc và CNXH trong quá trình đổi mới; nắm vững hai nhiệm
vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, kiên trì chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Hai là, kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh
tế làm trọng tâm đồng thời từng bước đổi mới chính trị.
Ba là, xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường,
đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của nhà nước theo hướng XHCN. Tăng trưởng kinh tế gắn
liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi
trường sinh thái.
Bốn là, mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh của cả dân
tộc.
Năm là, mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân
thế giới, kết hợp với sức mạnh của cả dân tộc với sức mạnh của thời đại.
Sáu là, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt.
Tổng kết chặng đường 15 năm đổi mới, từ những thành tựu và thiếu sót, đồng thời bám
sát thực tiễn, Đại hội IX, Đảng ta tiếp tục khẳng định những bài học, kinh nghiệm về đổi mới
do các đại hội VI, VII, VIII của Đảng nêu lên đến nay vẫn còn giá trị lớn, nhất là những bài học
sau đây:
Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trên nền
tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Vận dụng sáng tạo CN Mác-Lênin và tư
19
tưởng HCM, luôn luôn kiên định con đường độc lập dân tộc gắn với CNXH, từ những thành tựu
và kinh nghiệm lịch sử đã được tích lũy và từ tình hình thực tế của đất nước để xây dựng đường
lối, chủ trương, chính sách đổi mới đúng đắn, Đảng ta đang đưa đất nước ta, dân tộc ta ngày
càng đến gần mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đây là bài
học quan trọng hàng đầu của cách mạng VN.
Hai là, đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn
luôn sáng tạo. Đổi mới là sự nghiệp của nhân dân, do dân và vì dân. Để công cuộc đổi mới thành

công phải động viên được mọi tầng lớp nhân dân và các thành phần kinh tế khác tham gia; phải
phát huy được tính chủ động, sáng tạo, tham gia một cách tích cực, tự giác của nhân nhân. Chủ
tịch HCM đã dạy: Dễ mười lần không dân cũng chịu; Khó trăm lần dân liệu cũng xong. Quá trình
hình thành đường lối đổi mới cũng như trong suốt quá trình triển khai thực hiện đường lối đó,
Đảng ta luôn quán triệt tư tưởng dựa vào dân, lấy dân làm gốc, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng
của nhân dân để không ngừng hoàn thiện đường lối, chính sách. Sự nghiệp cách mạng, đổi mới
đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn sáng tạo; tiến hành đổi mới xuất phát từ thực tiễn và cuộc sống
của xã hội VN, có tham khảo kinh nghiệm tốt của thế giới nhưng không sao chép bất cứ một mô
hình có sẵn nào.
Ba là, đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại. Công cuộc đổi
mới diễn ra vào lúc cách mạng khoa học công nghệ trên thế giới phát triển như vũ bão, toàn cầu
hoá kinh tế ảnh hưởng đến cuộc sống các dân tộc, cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà
bình độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội diễn ra sôi nổi. Tiến hành đổi mới nhân dân ta ra sức tranh
thủ tối đa cơ hội tốt do những xu thế nói trên tạo ra.
Bốn là, đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi
mới. Đảng khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới, tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận,
hoàn thiện đường lối đổi mới, thường xuyên xây dựng, chỉnh đốn Đảng tạo ra sự thống nhất về
quan điểm ý chí và hành động trong toàn Đảng, lãnh đạo tổ chức thực hiện xây dựng và kiện
toàn bộ máy nhà nước trong sạch vững mạnh.
Trên cơ sở những quan điểm, đường lối đổi mới CNXH, nội dung cơ bản của con
đường đi lên CNXH ở nước ta hiện nay là.
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN VN là nhà nước của dân, do dân, vì dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Bộ máy Nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là
thống nhất nhưng có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Xây dựng, cải cách và hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, XH công bằng, dân chủ, văn minh.
- Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trở thành mô hình kinh tế tổng quát,
là bộ phận hợp thành chủ yếu của con đường đi lên CNXH ở nước ta, là nền kinh tế có kết cấu
nhiều thành phần, là hình thức kinh tế quá độ lên CNXH không qua chế độ TBCN.
- Thực hiện CNH, HĐH rút ngắn theo định hướng XHCN là hoàn toàn cần thiết và có thể.

Phải đồng thời thực hiện 3 nhiệm vụ: vượt qua nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, xây dựng nền
kinh tế tri thức; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; trên cơ sở đó tạo lập được những điều kiện
vật chất cần thiết cho sự phát triển định hướng XHCN, bỏ qua chế độ TBCN ở nước ta.
- Phát triển KT-XH, thực hiện tiến bộ, công bằng XH và phát triển VH. Trong đó, đặc biệt
chú trọng “Xây dựng và phát triển nền văn hóa VN tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”
- Giữ vững độc lập, tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
4. Kết luận:
Tóm lại, mặc dù CNXH hiện nay đang đứng trước nhiều khó khăn thử thách to lớn. Song
CNXH vẫn tiếp tục duy trì củng cố xây dựng ở một số nước. Qua những năm cải tổ, đổi mới, một
số nước XHCN đã có những chuyển biến tích cực đạt những thành tựu quan trọng trên các lĩnh
vực của đời sống xã hội, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các Đảng CS và công nhân ở các nước
XHCN đã đổ vỡ. Ở các nước này hiện nay đang có sự chuyển biến tích cực trên con đường
phục hồi về tổ chức và hoạt động của các Đảng CS, điều này càng chứng tỏ rằng CNXH có sức
thu hút mạnh các lực lượng tiến bộ của thời đại với tư cách là một chế độ xã hội văn minh nhất
trong lịch sử, đại diện cho lực lượng sản xuất phát triển trong tương lai của xã hội loài người
Ở nước ta, con đường đi lên CNXH và những thành quả của quá trình đổi mới, xây dựng
CNXH ở nước ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản VN đã có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng
20
đối với sự nghiệp cách mạng VN và phong trào cách mạng thế giới ngày nay. Đã khẳng định
Cương lĩnh, đường lối, quan điểm của Đảng ta về đổi mới và xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên CNXH là đúng đắn. Văn kiện Đại hội IX của Đảng chỉ rõ: “Thực tiễn phong phú và
những thành tựu thu được qua 15 năm đổi mới đã chứng minh tính đúng đắn của Cương lĩnh
được thông qua tại Đại hội VII của Đảng, đồng thời giúp chúng ta nhận thức ngày càng rõ hơn
con đường đi lên CNXH ở nước ta” và “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước VN
theo con đường XHCN trên nền tảng CN Mác-Lênin và tư tưởng HCM”. Sự khẳng định ngày là
rất cần thiết, nhất là vào thời điểm hiện nay, khi đất nước ta cùng nhân loại đang trong thời đại
mới, thời đại tiến lên hòa bình, công bằng, dân chủ, văn minh. Vì thế thế giới có những diễn biến
rất nhanh và phức tạp, trong nước cũng đứng trước nhiều nguy cơ và thách thức mới. Sự nghiệp
đổi mới ở nước ta thành công, đã chứng tỏ khả năng đứng vững trước những biến động chính trị
rất lớn của thế giới, chứng tỏ sức sống mãnh liệt của CNXH. Đã góp phần quan trọng vào sự

nghiệp cách mạng chung của phong trào cộng sản và nhân dân thế giới. Mà đồng chí
Giôdecadanêva, Trưởng đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Bồ Đào Nha, tại diễn đàn Đại hội IX của
Đảng ta đã nói: “Những thành tựu trong việc cụ thể hóa một con đường thích hợp quá độ lên
CNXH – không chỉ là tài sản vô giá của những người cộng sản VN, mà còn là nguồn cảm hứng
và tin tưởng đối với những người cộng sản và cách mạng trên toàn thế giới
Câu 3b : Đồng chí hãy làm rõ tại sao ĐH IX đặt vấn đề phải mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn cách mạng mới
Bài làm
Tình hình thế giới trong những năm gần đây vẫn diễn biến rất phức tạp. CNXH ở các nước
Đông Âu và Liên Xô sụp đổ khiến CNXH tạm lâm vào thoái trào. CNXH hiện thực đứng trước
nhiều khó khăn thử thách to lớn, song nước ta vẫn kiên trì mục tiêu tiếp tục xây dựng đất nước đi
lên CNXH. Trước những sai lầm các nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô, Đảng ta đã đề ra
đường lối đổi mới xây dựng đất nước đi lên CNXH, trong đó có sự đổi mới về đường lối đối
ngoại. Xuất phát từ tình hình thế giới, đặc điểm của đất nước và xu thế thời đại, quan điểm đổi
mới trong quan hệ đối ngoại đã được Đảng khẳng định tại Đại hội lần IX : “mở rộng quan hệ đối
ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”. Đây là quan điểm có ý nghĩa quan trọng trong sự
nghiệp CNH-HĐH đất nước trong giai đoạn hiện nay.
I. Đặc điểm tình hình thế giới và xu thế quan hệ quốc tế tác động đến chính sách, đường
lối đối ngoại của các quốc gia trong đó có Việt Nam
1. Đặc điểm tình hình thế giới
Sau những biến cố chính trị ở các nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô, tình hình thế giới diễn
biến nhanh chóng, phức tạp chứa đựng những yếu tố khó lường
- Chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ khiến cho chủ nghĩa XH thế giới tạm
thời lâm vào thoái trào, song điều đó không làm thay đổi tính chất của thời đại, loài người vẫn đang
trong thời đại quá độ từ CNTB lên chủ nghĩa XH, những mâu thuẫn cơ bản trên thế giới vẫn tồn tại,
có mặt phát triển sâu sắc hơn, nội dung và hình thức biểu hiện có nhiều nét mới. Đấu tranh dân tộc
và đấu tranh giai cấp tiếp tục diễn ra với nhiều hình thức. Cục diện quốc tế đang hình thành, các
nước có chế độ chính trị khác nhau vừa đấu tranh vừa hợp tác với nhau, mâu thuẩn giữa CNXH và
CNTB đã chuyển biến từ đối đầu trực tiếp sang đối thoại Mặt khác,. CNXH ở Liên Xô và các nước
Đông Âu sụp đổ, mối quan hệ giữa các nước XHCN anh em hạn chế, chúng ta không còn chổ dựa

nào khác ngoài việc tự nổ lực tìm con đường phát triển kinh tế xã hội cho riêng mình. Điều đó đã
tác động trực tiếp đến đường lối đối ngoại của Đảng ta, buộc Đảng ta phải đưa ra đường lối đối
ngoại đổi mới thích hợp nhằm thêm bạn bớt thù để có điều kiện ổn định tình hình chính trị, xây
dựng kinh tế xã hội.
- Cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao, tăng
nhanh lực lượng SX, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, tạo ra xu thế
quốc tế hóa nền kinh tế toàn cầu và đời sống xã hội. Quá trình toàn cấu hóa đặt ra cho các đang
phát triển những thời cơ và thách thức. Thời cơ do sự phát triển của cách mạng khoa học và công
nghệ tạo ra là nó đã tác động đến nền tảng kinh tế của tất cả các quốc gia, tạo ra xu thế đổi mới,
cải cách cả về kinh tế và chính trị xã hội. Nó đã tạo ra những điều kiện để phân loại phát triển
2-10
21
mạnh mẽ lực lượng sản xuất mà các nước nghèo và chậm phát triển có thể tranh thủ ngay
những thành tựu và điều kiện đó để phát triển đất nước. Thách thức do cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ tạo ra là vì những thành tựu của nó một phần đã bị con người sử dụng vào
mục đích chiến tranh để sản xuất ra những loại vũ khí giết người hàng loạt có thể hủy diệt nền
văn minh nhân loại. Mặt khác nó cũng còn tạo ra những thách thức về khoảng cách giàu nghèo
và về vận tốc phát triển đối với các nước nghèo và chậm phát triển về kinh tế. Chính những thời
cơ và thách thức lớn mà cuộc cách mạng KHKT và CN tạo ra buộc chúng ta phải đổi mới đường lối
đối ngoại để hợp tác với các nước trên thế giới nhằm tiếp cận nhanh chóng, tranh thủ được những
thành tựu của khoa học công nghệ hiện đại tiên tiến, tạo điều kiện đi tắt đón đầu để đẩy nhanh
công cuộc phát triển đất nước
- Nguy cơ chiến tranh thế giới hủy diệt bị đẩy lùi nhưng xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ,
xung đột về dân tộc, sắc tộc và tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp lật đổ, khủng bố
vẫn xảy ra ở nhiều nơi. Cộng đồng thế giới đang đứng trước những vấn đề có tính chất toàn cầu
(bảo vệ môi trường, hạn chế sự bùng nổ dân số, phòng ngừa và đẩy lùi những bệnh tật hiểm
nghèo). Đó là những mâu thuẫn đang đặt ra có liên quan trực tiếp đến toàn bộ nhân loại, mà không
một quốc gia riêng lẻ nào có thể giải quyết được nếu không có sự hợp tác đa phương. Điều đó đòi
hỏi để tồn tại và phát triển phải có sự xích lại gần nhau giữa các quốc gia để cùng nhau giải quyết.
- Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương đang phát triển năng động với tốc độ cao nhưng cũng

tiềm ẩn những nhân tố gây bất ổn định. Xét trên tổng thể Khu vực Châu Á Thái Bình Dương là khu
vực tập trung một số nước có tiềm năng nhất thế giới về tài nguyên, kinh tế, khoa học và lao động,
đây là thị trường lớn của thế giới, song nó cũng là khu vực bị các nước lớn trách nhiệm giành
quyền lực, sự không đồng nhất về chính trị, những mâu thuẫn tôn giáo dân tộc và sắc tộc đậm nét,
một số vấn đề biên giới chưa được giải quyết…
2. Xu thế chủ yếu trong quan hệ quốc tế hiện nay :
Trước tình hình thế giới như vậy, Đảng ta đã nhận định xu thế chủ yếu trong quan hệ quốc tế
chủ yếu hiện nay đó là :
- Hòa bình ổn định và hợp tác để phát triển là xu thế chủ đạo trong quan hệ quốc tế hiện nay.
Đây là đòi hỏi bức xúc của các dân tộc và các quốc gia trên thế giới.
- Các quốc gia lớn, nhỏ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác liên kết khu vực và
quốc tế. Hợp tác, liên kết ngày càng tăng nhưng cạnh tranh cũng rất gay gắt.
- Các dân tộc nâng cao ý thức độc lập, tự chủ, tự lực tự cường, đấu tranh chống lại sự áp đặt
và can thiệp của nước ngoài, bảo vệ độc lập chủ quyền và nền văn hóa dân tộc.
- Các nước xã hội chủ nghĩa, các Đảng cộng sản và công nhân, các lực lượng cách mạng
tiến bộ trên thế giới vẫn kiên trì đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và toàn bộ xã hội.
- Các nước có chế độ chính trị xã hội khác nhau vừa hợp tác, vừa đấu tranh trong cùng tồn tại
hòa bình. Đây là xu thế rất mới, thể hiện rõ tính chất gay go, phức tạp của cuộc đấu tranh giai
cấp không phân tuyến trong giai đoạn hiện nay.
II. Đường lối chính sách đối ngoại hiện nay của Đảng ta
Xuất phát từ tình hình trên, Đại hội Đảng lần IX đã khẳng định nhiệm vụ đối ngoại là tiếp tục
giữ vững môi trường hòa bình và tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển KT-
XH, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc bảo đảm độc lập và
chủ quyền quốc gia, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế
giới vì hòa bình độc lập dân tộc dân chủ và tiến bộ XH.
Đường lối của công tác đối ngoại giai đoạn này là: “Mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế” để tạo điều kiện phát triển đất nước đi lên trên con đường
CNH-HĐH.
* Về việc mở rộng quan hệ đối ngoại :
Việc mở rộng quan hệ đối ngoại được thể hiện bằng việc mở rộng quan hệ song phương và

đa phương với các nước và vùng lãnh thổ, các trung tâm chính trị, kinh tế quốc tế lớn, các tổ
chức quốc tế và khu vực Coi trọng và phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước XHCN
và các nước láng giềng, các nước Asian. Tiếp tục củng cố và mở rộng quan hệ với các nước bạn
bè truyền thống, các nước độc lập dân tộc, các nước đang phát triển. Thúc đẩy quan hệ đa
22
phương với các nước phát triển và các tổ chức quốc tế. Tham gia giải quyết các vấn đề toàn
cầu.
Việc mở rộng quan hệ đối ngoại được thực hiện theo nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền
và toàn vẹn lãnh thỗ, không can thiệp vào nội bộ của nhau, không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng
vũ lực; bình đẳng và cùng có lợi, giải quyết các bất đồng và tranh chấp bằng thương lượng hòa
bình; làm thất bại mọi âm mưu và hành động gây sức ép, áp đặt và cường quyền.
Trên cơ sở đó, việc mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân còn có ý nghĩa là cho phép công
dân Việt Nam hợp pháp có quyền đối ngoại nếu đảm bảo 3 điều kiện : một là đối tác mà ta quan
hệ không có những hoạt động chống đối nhà nước và nhân dân Việt Nam, hai là đối tác được
Nhà nước sở tại cho phép và ba là phải được một công dân Việt Nam hợp pháp, một cơ quan,
một tổ chức chính thức trong nước bảo lãnh. Đây cũng là 3 điều kiện để kiều dân Việt Nam trở
về tổ quốc.

* Về hội nhập kinh tế quốc tế :
Một trong những phương hướng lớn trong đường lối đối ngoại mà Đại hội lần IX của Đảng
nhấn mạnh là vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế. Chủ trương “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”
bắt nguồn từ nhận thức về quá trình toàn cầu hóa với những tác động tích cực và tiêu cực của
nó. Từ sự phát triển vượt bật của KHCN, điều kiện SX vật chất đã vượt biên giới quốc gia và
khu vực, nền đại công nghiệp tạo ra thị trường thế giới : chính những yếu tồ đòi hỏi sự hợp tác,
phân công lao động ngày càng sâu, nó quy định sự tùy thuộc lẫn nhau về kinh tế ngày càng tăng
giữa các nước trên thế giới trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập quốc tế.
Nhận thức rõ xu thế ấy, Đảng ta không chủ trương theo đuổi đường lối biệt lập mà luôn luôn
coi hội nhập kinh tế là xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia mà trong đó
Việt Nam muốn phát triển kinh tế tất yếu phải đi theo con đường ấy. Cũng có ý kiến cho rằng Việt
Nam không cần phải hội nhập hoặc từ từ hãy hội nhập kinh tế quốc tế, điều này có thể sẽ dẫn

đất nước đến cảnh “một mình một chợ”, không bán được cho ai cũng không mua được gì của ai,
điều đó chỉ gây thiệt thòi cho đất nước mà thôi. Mỗi bước đi trên con đường hội nhập kinh tế
quốc tế, sự thận trong là cần thiết nhưng không thể chậm trễ, bởi Việt Nam đã là một trong
những nước cuối cùng gia nhập WTO. Tất nhiên sẽ có những mất mát về lợi ích trước mắt, song
về lâu dài, đó chính là con đường để phát triển, là cơ chế để chúng ta giải quyết những vấn đề
khó khăn của kinh tế trong nước một cách hiệu quả.
Như vậy, mục tiêu của hội nhập kinh tế quốc tế chính là nhằm mở rộng thị trường, tranh thủ
tiếp cận, ứng dụng KH công nghệ kỹ thuật hiện đại, tranh thủ các nguồn vốn, kiến thức quản lý
để đầu tư vào sự nghiệp CNH-HĐH làm chuyển biến tích cực. Chính thông qua hội nhập kinh tế
quốc tế, chúng ta có điều kiện học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước phát triển, giúp
nước ta đi tắt đón đầu trong quá trình phát triển, tiếp nhận ngay những thành tựu KHKT của các
nước tiên tiến. Đối với Việt Nam nước ta là một nước nghèo, lại bị hậu quả nặng nề của chiến
tranh để lại nên việc đi tắt đón đầu có ý nghĩa rất quan trọng, nó giúp chúng ta vượt nhanh để
theo kịp quá trình tốc độ phát triển kinh tế thế giới.
Quán triệt chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng xác định rõ : hội nhập kinh tế quốc tế
là sự nghiệp của toàn dân, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình hợp tác vừa đấu tranh và cạnh
tranh, vừa có nhiều cơ hội, vừa không ít thách thức; do đó cần phải linh hoạt, khôn khéo, tỉnh táo
trong xử lý tính 2 mặt của hội nhập, không nên nóng vội.
Hội nhập kinh tế quốc tế là chấp nhận sự cạnh tranh đang diễn ra ngày càng gay gắt trên
phạm vi toàn cầu đồng thời phải chấp nhận những luật lệ quy định chung về quan hệ kinh tế
đang được áp dụng. Do đó, chúng ta phải đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ chế
quản lý KTXH, hoàn chỉnh hệ thống luật pháp, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp và nền kinh tế. Khẩn trương xây dựng và thực hiện kế hoạch hội nhập kinh tế với lộ trình
hợp lý và chương trình hành động cụ thể, phát huy tính chủ động của các cấp, các ngành và các
doanh nghiệp. Phải nhận thức đầy đủ đặc điểm của nền kinh tế nước ta để đề ra kế hoạch và
thời gian hợp lý, phù hợp với trình độ phát triển của đất nước, vừa đáp ứng các quy định của các
tổ chức kinh tế quốc tế. Cần đặc biệt quan tâm kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế với yêu cầu giữ vững an ninh, quốc phòng, tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia
nhằm củng cố chủ quyền và an ninh tổ quốc, cảnh giác cao với những âm mưu diễn biến hòa
bình.

23
Đồng thời chúng ta cũng cần phải thực hiện tốt một số nhiệm vụ cơ bản trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế, đó là :
- Tiến hành tuyên truyền rộng rãi nhằm nâng cao nhận thức và có sự thống nhất hành động
về hội nhập kinh tế quốc tế
- Xây dựng chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế với một lộ trình cụ thể .
- Chủ động và khẩn trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới công nghệ và trình độ quản
lý. Nâng cao chất lượng hạ giá thành sản phẩm, tạo ra những sản phẩm mủi nhọn để hàng hóa
và dịch dịch cụ của ta chiếm lĩnh thị trường thế giới và khu vực, đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp
CNH-HĐH đất nước. .
- Tích cực tạo lập đồng bộ cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
phát triển và từng bước hoàn thiện các loại hình thị trường hàng hóa, tạo môi trường kinh doanh
thông thoáng, bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế, đổi mới các công cụ, quản lý kinh tế thông
thoáng, bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế, đổi mới các công cụ quản lý kinh tế, đổi mới và
củng cố hệ thống tài chính, ngân hàng.
- Có kế hoạch cụ thể đẩy mạnh, công tác đào tạo nguồn nhân lực và vững vàng về chính trị,
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và và CNXH, có đạo đức trong sáng, tinh thông nghiệp vụ và
ngoại ngữ, có tác phong công nghiệp và tinh thần kỷ luật cao.
- Phải gắn kết chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế với nhiệm vụ củng cố an ninh quốc phòng
ngay từ khâu hình thành kế hoạch, xây dựng lộ trình cũng như trong quá trình thực hiện.
- Kết hợp chặt chẽ hoạt động chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại.
- Tích cực tiến hành đàm phán để gia nhập tổ chức thương mại thế giới theo các phương án
và lộ trình hợp lý, thích hợp với hoàn cảnh của đất nước, gắn quá trình đàm phán với quà trình
đổi mới mọi mặt hoạt động kinh tế ở trong nước.
- Kiện toàn ủy ban quốc gia và hợp tác kinh tế quốc đủ năng lực và thẩm quyền, giúp Thủ
tướng chính phủ tổ chức, chỉ đạo các hoạt động về hội nhập kinh tế quốc tế.
IV. Kết luận :
Quan điểm mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có ý nghĩa hết
sức quan trọng đối với đất nước ta trong giai đoạn hiện nay. Quan điểm ấy đã khẳng định đường
lối đối ngoại đổi mới của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn. Điều đó đã được kiểm nghiệm qua thực

tiễn trong quá trình phát triển đất nước ta thời gian qua đã chứng minh rõ nét nhất.
Hoạt động đối ngoại góp phần quan trọng cho việc duy trì và củng cố môi trường hòa bình và ổn định
cho công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa. Phương cách của Việt Nam xử lý các vấn đề mới
nảy sinh xuất phát từ lợi ích và nguyên tắc đối ngoại của chúng ta, đồng thời phù hợp với lợi ích chung
của cộng đồng quốc tế. Vai trò quốc tế của Việt Nam đã được công nhận và vị thế quốc tế của Việt nam
không ngừng được nâng cao. Một thành tích đối ngoại rất quan trọng và có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc là sự
chuyển hướng quan tâm đối ngoại vào phục vụ phát triển kinh tế đất nước. Hiệu quả phục vụ phát triển
kinh tế đã trở thành một trong những tiêu chí để đánh giá công tác đối ngoại. Những hoạt động này đã góp
phần không nhỏ để có những thành tựu trong những năm qua. Kinh tế đất nước tiếp tục tăng trưởng,
chúng ta tiếp tục duy trì được tốc độ tăng trưởng GDP trên 7%/năm, thu hút được khoảng trên dưới 2 tỷ
USD đầu tư/năm, số lượng khách du lịch tăng trên dưới 8%/năm, đời sống mọi mặt của người dân
được ổn định và phát triển, phá được thế bao vây, cấm vận, chính trị xã hội ổn định, trật tự an
toàn xã hội luôn được nâng cao, đảm bảo. Củng cố được niềm tin của nhân dân đối với sự
nghiệp đổi mới xây dựng đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội do Đảng ta khởi xướng và tổ chức
thực hiện.
Chính nhờ thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, vị trí quốc tế của Việt Nam được nâng cao, nhất là
trong ASEAN. Thông qua diễn đàn ASEAN và các hiệp ước song phương và đa phương, Việt Nam đã
góp phần tạo thế cân bằng chiến lược chung và cơ hội thuận lợi hơn cho các quốc gia Đông Nam Á trong
quan hệ các nước EU, nhất là hợp tác Á – Âu.
Phát huy những thế mạnh và thành quả đã đạt được, khắc phục những điểm yếu còn tồn tại
trong đường lối đối ngoại, chúng ta tin tưởng rằng dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, với
sự hợp tác chặt chẽ của các Bộ, ban Ngành và Tỉnh thành, với sự tham gia toàn Đảng, toàn dân
và toàn quân lại được soi sáng bằng Nghị quyết ĐH IX, trang bị bằng CN Mác Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối đối ngoại của ta đúng đắn của ta sẽ hoàn thành tốt hai nhiệm vụ vừa bảo
vệ toàn vẹn độc lập tự chủ cả về chính trị lẫn kinh tế - văn hóa vừa xây dựng được một đất nước
giàu mạnh, văn minh, dân chủ và công bằng.
24
Câu 3b : VK ĐH VIII nêu rõ phương hướng của công tác đối ngoại trong thời gian tới là :
“ Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng đa phương hoá, đa dạng hoá
quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế

giới phấn đấu vì hoà bình độc lập và phát triển” (VK ĐH VIII NXB CTQG 1996 trang 120) Đ/c hãy
phân tích nội dung trên
Bài làm
Tình hình thế giới trong những năm gần đây vẫn diễn biến rất phức tạp. CNXH ở các nước
Đông Âu và Liên Xô sụp đổ khiến CNXH tạm lâm vào thoái trào. CNXH hiện thực đứng trước
nhiều khó khăn thử thách to lớn, song nước ta vẫn kiên trì mục tiêu tiếp tục xây dựng đất nước đi
lên CNXH. Trước những sai lầm các nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô, Đảng ta đã đề ra
đường lối đổi mới xây dựng đất nước đi lên CNXH, trong đó có việc đổi mới về đường lối đối
ngoại. Trên cơ sở xác định, nhận thức đúng đắn vấn đề của thời đại hiện nay, đánh giá đặc điểm
tình hình thế giới và xu hướng chủ yếu trong quan hệ quốc tế để đề ra được đường lối phát triển
phù hợp cho đất nước, Văn kiện ĐH VIII của Đảng đã chỉ rõ : “Tiếp tục thực hiện đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng đa phương hoá, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt
Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình độc lập và
phát triển”. Quan điểm này của Đảng ta có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp CNH-HĐH đất
nước trong giai đoạn hiện nay.
I. Đặc điểm tình hình thế giới và xu thế quan hệ quốc tế tác động đến chính sách, đường
lối đối ngoại của các quốc gia trong đó có Việt Nam
1. Đặc điểm tình hình thế giới
Sau những biến cố chính trị ở các nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô, tình hình thế giới diễn
biến nhanh chóng, phức tạp chứa đựng những yếu tố khó lường
- Chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ khiến cho chủ nghĩa XH thế giới tạm
thời lâm vào thoái trào, song điều đó không làm thay đổi tính chất của thời đại, loài người vẫn
đang trong thời đại quá độ từ CNTB lên chủ nghĩa XH, những mâu thuẫn cơ bản trên thế giới
vẫn tồn tại, có mặt phát triển sâu sắc hơn, nội dung và hình thức biểu hiện có nhiều nét mới. Đấu
tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp tiếp tục diễn ra với nhiều hình thức. Cục diện quốc tế đang
hình thành, các nước có chế độ chính trị khác nhau vừa đấu tranh vừa hợp tác với nhau, mâu
thuẩn giữa CNXH và CNTB đã chuyển biến từ đối đầu trực tiếp sang đối thoại Điều đó đã tác
động trực tiếp đến đường lối đối ngoại của Đảng ta, buộc Đảng ta phải đưa ra đường lối đối
ngoại đổi mới thích hợp nhằm thêm bạn bớt thù để có điều kiện ổn định tình hình chính trị, xây
dựng kinh tế xã hội.

- Cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao,
tăng nhanh lực lượng SX, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, tạo ra
xu thế quốc tế hóa nền kinh tế toàn cầu và đời sống xã hội. Quá trình toàn cấu hóa đặt ra cho
các đang phát triển những thời cơ và thách thức. Chính những thời cơ và thách thức lớn mà
cuộc cách mạng KHKT và CN tạo ra buộc chúng ta phải đổi mới đường lối đối ngoại để hợp tác
với các nước trên thế giới nhằm tiếp cận nhanh chóng, tranh thủ được những thành tựu của
khoa học công nghệ hiện đại tiên tiến, tạo điều kiện đi tắt đón đầu để đẩy nhanh công cuộc phát
triển đất nước
- Nguy cơ chiến tranh thế giới hủy diệt bị đẩy lùi nhưng xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ,
xung đột về dân tộc, sắc tộc và tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp lật đổ, khủng bố
vẫn xảy ra ở nhiều nơi. Cộng đồng thế giới đang đứng trước những vấn đề có tính chất toàn cầu
(bảo vệ môi trường, hạn chế sự bùng nổ dân số, phòng ngừa và đẩy lùi những bệnh tật hiểm
nghèo). Đó là những mâu thuẫn đang đặt ra có liên quan trực tiếp đến toàn bộ nhân loại, mà
không một quốc gia riêng lẻ nào có thể giải quyết được nếu không có sự hợp tác đa phương.
Điều đó đòi hỏi để tồn tại và phát triển phải có sự xích lại gần nhau giữa các quốc gia để cùng
nhau giải quyết.
- Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương đang phát triển năng động với tốc độ cao nhưng cũng
tiềm ẩn những nhân tố gây bất ổn định.
2. Xu thế chủ yếu trong quan hệ quốc tế hiện nay :
Trước tình hình thế giới như vậy, Đảng ta đã nhận định xu thế chủ yếu trong quan hệ quốc tế
chủ yếu hiện nay đó là :
25
- Hòa bình ổn định và hợp tác để phát triển là xu thế chủ đạo trong quan hệ quốc tế hiện nay.
Đây là đòi hỏi bức xúc của các dân tộc và các quốc gia trên thế giới.
- Các quốc gia lớn, nhỏ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác liên kết khu vực và
quốc tế. Hợp tác, liên kết ngày càng tăng nhưng cạnh tranh cũng rất gay gắt.
- Các dân tộc nâng cao ý thức độc lập, tự chủ, tự lực tự cường, đấu tranh chống lại sự áp đặt
và can thiệp của nước ngoài, bảo vệ độc lập chủ quyền và nền văn hóa dân tộc.
- Các nước xã hội chủ nghĩa, các Đảng cộng sản và công nhân, các lực lượng cách mạng
tiến bộ trên thế giới vẫn kiên trì đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và toàn bộ xã hội.

- Các nước có chế độ chính trị xã hội khác nhau vừa hợp tác, vừa đấu tranh trong cùng tồn tại
hòa bình. Đây là xu thế rất mới, thể hiện rõ tính chất gay go, phức tạp của cuộc đấu tranh giai
cấp không phân tuyến trong giai đoạn hiện nay.
II. Quá trình hình thành đường lối chính sách đối ngoại
Từ những đặc điểm và xu hướng trên đã làm nảy sinh xu hướng đa phương, đa dạng trong
quan hệ quốc tế cũng như đã tác động đến việc hình thành đường lối chính sách đối nội, đối
ngoại của mỗi nước. Ở nước ta có thể nói việc hình thành đường lối đổi mới độc lập tự chủ đa
dạng hoá, đa phương hoá là một quá trình bắt đầu từ khi đảng ta ra đời nhưng rõ nhất là từ Đại
hội Đảng lần lần thứ VI.
1. Đại hội VI-1986:
Về hoàn cảnh quốc tế, đến thời điểm của đại hội VI của Đảng có một đặc điểm nổi bật đó là
chủ nghĩa xã hội hiện thực thế giới đã bộc lộ sự trì trệ cả về kinh tế và chính trị xã hội. Về tình
hình trong nước, ngoài những khó khăn chung của như các nước khác, nước ta còn ba khó khăn
lớn chưa được giải quyết đó là: Vấn đề Campuchia; vấn đề Mỹ cấm vận và vấn đề quan hệ với
Trung Quốc.Trong hoàn cảnh như vậy, Đại hội VI của Đảng đã xác định các chủ trương lớn trong
quan hệ quốc tế đó là: chủ trương thêm bạn bớt thù; tiến tới bình thường hóa quan hệ với Trung
Quốc và tiến tới bình thường hóa quan hệ với Mỹ. Từ cuối nhiệm kỳ Đại hội VI, Đảng ta đã có
những hoạt động đẩy mạnh quá trình hoạt động quan hệ bình thường với Trung quốc, phá thế
bao vây cấm vận của Mỹ chống Việt Nam. Cuộc gặp gỡ cấp cao giữa Việt Nam và Trung Quốc
tại Thành đô (Trung Quốc) tháng 9-1990 đã mở đầu cho quá trình khôi phục quan hệ bình
thường với Trung Quốc, thực hiện đường lối đối ngoại trong sự nghiệp đổi mới. Có thể nói đại
hội VI, ngoài việc khởi xướng công cuộc đổi mới đất nước còn là đại hội chuyển hướng và mở
cửa cho quan hệ ngoại giao của Việt Nam.
2. Đại hội VII-1991:
Về hoàn cảnh quốc tế, đến thời điểm Đại hội VII của Đảng, chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu đã
tan rã, còn chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô sau 6 năm cải tổ đã gặp rất nhiều khó khăn cả về kinh tế
và chính trị xã hội. Về tình hình trong nước, sau 6 năm đổi mới chúng ta vẫn giữ được sự ổn
định chính trị xã hội và đạt được những kết quả bước đầu đáng kể và rất quan trọng về kinh tế.
Đại hội VII của Đảng (tháng 6/1991) đã nêu rõ đường lối đối ngoại đổi mới của Việt Nam là độc
lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế đối ngoại và tuyên bố: “Việt Nam

muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu và hòa bình, độc lập và phát
triển”. Đại hội VII cũng chỉ rõ nhiệm vụ của công tác đối ngoại là: “Giữ vững hòa bình, mở rộng
quan hệ hữu nghị và hợp tác tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ
tổ quốc. Góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
3. Hội nghị trung ương lần thứ ba khóa VII-1992:
Hội nghị trung ương lần thứ khóa VII-1992 là Hội nghị tiếp tục và cụ thể hóa hơn nữa đường
lối chính sách đối ngoại của đại hội VII. Đến cuối năm 1991, chủ nghĩa xã hội đã sụp đổ hoàn
toàn cả ở Đông Âu và cả ở Liên xô. Phạm vi của chủ nghĩa xã hội thế giới bị thu hẹp lại, chủ
nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thế thoái trào và ở vào hoàn cảnh khó khăn nhất từ trước đến nay.
Hội nghị TW lần thứ ba khóa VII đã xác định tư tưởng chỉ đạo của công tác đối ngoại là: “giữ
vững nguyên tắc vì độc lập thống nhất và xã hội chủ nghĩa, đồng thời phải rất sáng tạo, năng
động, linh hoạt phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của nước ta cũng như những
diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với từng đặc điểm, từng đối tượng ta có
quan hệ”.
Hội nghị trung ương 3 cũng chỉ rõ 4 phương châm của công tác đối ngoại là:
- Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước và chủ
nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.

×