Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Tài liệu ôn thi môn Lịch sử đảng có đáp án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (366.23 KB, 26 trang )

1
Vấn đề 1 : Phân tích và chứng minh tính đúng đắn của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng
sản Việt Nam
Bài làm
Ngay từ khi Đảng cộng sản Việt Nam mới thành lập, trong cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng tháng 2 năm 1930 đã khẳng định con đường, mục tiêu, nhiệm vụ của cách
mạng nước ta. Cương lĩnh đâu tiên trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết các lực lượng
và lãnh đạo phong trào cách mạng từ khi Đảng được thành lập, nội dung của cương lĩnh
nhìn chung luôn được thể hiện nhất quán trong suốt toàn bộ đường lối cách mạng nước
ta qua từng thời kỳ. Việc tìm hiểu để nêu những luận điểm của Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng là điều cần thiết để khẳng định giá trị khoa học và tính đúng đắn của con
đường mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.
Những năm trước 1930, nước ta dưới sự thống trị của thực dân Pháp, hàng ngàn
cuộc đấu tranh yêu nước nổi dậy nhưng rồi lần lượt đều bị đàn áp và đi đến thất bại. Giữa
lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc đã ra đi tìm con đường cứu nước. Năm 1920, Người đến với chủ nghĩa Mác LêNin và
sau đó bắt đầu truyền bá tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam. Đến năm 1929,
nhu cầu phải thành lập Đảng Cộng sản đã chín muồi. Từ tháng 3/1929 đến tháng 01/1930
có 3 tổ chức Đảng Cộng Sản lần lượt ra đời ở 3 miền Bắc, Trung, Nam, tuy chứng tỏ sự
thắng thế của tư tưởng cách mạng vô sản, song trong một nước có 3 tổ chức đảng cộng
sản hoạt động riêng rẽ cũng là một trở ngại cho phong trào cách mạng. Trước tình hình đó,
nhận chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập Hội nghị hợp nhất
các tổ chức cộng sản từ ngày 3 đến ngày 7/2/1930 tại Cửu Long, Hương cảng, Trung Quốc.
Hội nghị đã thống nhất các nhóm cộng sản thành một đảng và lấy tên đảng là Đảng cộng
sản Việt Nam; đồng thời đã thông qua Chính cương, sách lược, Điều lệ tóm tắt của Đảng và
điều lệ tóm tắt của các đoàn thể quần chúng. Chính cương, sách lược tóm tắt đã trở thành
cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng xác định đường lối cách mạng Việt Nam với những
nội dung cơ bản sau đây:
Một là cách mạng Việt Nam phải là cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách
mạng để tiến lên xã hội cộng sản. Thực chất đó là một cuộc cách mạng có 2 giai đoạn :
giai đoạn thứ nhất đó là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, giai đoạn thứ hai là sau khi


giành được thắng lợi sẽ chuyển sang làm cách mạng xã hội chủ nghĩa để tiến tới xã hội
cộng sản.
Hai là trong cách mạng tư sản dân quyền có hai nhiệm vụ chiến lược là chống
đế quốc và chống phong kiến (phản đế, phản phong). Hai nhiệm vụ này có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau, phải được tiến hành khắng khít không tách rời nhau nhưng trong đó
nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai (phản đế) phải đặt lên hàng đầu.
Ba là xác định lực lượng cách mạng, Đảng phải vận động, thu phục giai cấp mình
để lãnh đạo dân chúng, dựa hẳn vào dân cày nghèo, liên lạc với trung nông. Lực lượng
cách mạng bao gồm : thứ nhất là giai cấp công - nông là gốc, là động lực của cách mạng,
thứ hai là những người yêu nước trong các giai cấp khác là đồng minh của cách mạng.
Bốn là lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong của giai
cấp là Đảng cộng sản Việt Nam.
Năm là về phương pháp cách mạng, Đảng chủ trương phải giành chính quyền bằng
bạo lực cách mạng.
Sáu là cách mạng Việt Nam đoàn kết với giai cấp vô sản và các dân tộc thuộc địa trên thế
giới để chống chủ nghĩa đế quốc. Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới.
Từ những nội dung cơ bản trên, Đảng đã thể hiện trình độ tư duy sâu sắc và sáng
tạo : vừa vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác-Lênin vào cách mạng Việt Nam, vừa đáp ứng
chính xác những yêu cầu khách quan của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.
2
Trước nhất, tính đúng đắn và khoa học của Cương lĩnh thể hiện ở việc xác định đúng
mục tiêu và con đường của cách mạng Việt Nam, đó là “làm cách mạng tư sản dân quyền
và thổ địa cách mạng để tiến lên chủ nghĩa cộng sản chính”. Sự lựa chọn xuất phát từ việc
xác định đúng đắn các mâu thuẩn cơ bản của xã hội Việt Nam và nhận thức đúng xu thế
phát triển của thời đại.
1. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng xác định rõ nước ta là một xứ thuộc địa, nửa phong
kiến và phân tích những chính sách kìm hãm sự phát triển kinh tế và thủ đoạn độc quyền
khai thác thuộc địa của tư bản Pháp, gây nên những hậu quả tai hại, cản trở sự phát triển
độc lập của kinh tế Việt Nam. Nông dân bị tước đoạt ruộng đất, nhiều người bị lâm vào nạn
thất nghiệp. Tình hình đó đưa đến mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa một bên là dân tộc ta

(trong đó có công nhân, nông dân và toàn thể dân tộc) với một bên là đế quốc Pháp và tay
sai của chúng. Bên cạnh đó, còn nổi lên mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam - mà đa số là
nông dân - với bọn địa chủ phong kiến chung quanh vấn đề ruộng đất, người dân cày hoàn
toàn phụ thuộc vào địa chủ, bị trói chặt vào mảnh ruộng của giai cấp địa chủ và bị bóc lột
với tô thuế nặng nề.
Từ hai mâu thuẫn cơ bản trên cho thấy rằng nguyện vọng tha thiết và cấp bách của
dân tộc lúc này chính là đánh đổ đế quốc để giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do và
đánh đổ phong kiến để giành dân chủ, giành ruộng đất cho người cày. Chỉ có giải quyết 02
mâu thuẫn này thì xã hội Việt Nam mới thoát khỏi áp bức, bóc lột, phát triển đi lên. Muốn
giải quyết mâu thuẫn đó, nhân dân Việt Nam phải làm "tư sản dân quyền cách mạng và thổ
địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản".
Như vậy, cương lĩnh cũng đã xác định rõ mục tiêu cuối cùng của cách mạng Việt Nam
không chỉ dừng lại ở giai đoạn hoàn thành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mà phải thực
hiện tiếp cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, đưa cả nước đi lên CNXH, CNCS – mà thắng
lợi của Cách mạng tháng 10 Nga năm 1917 là sự mở đường cho thời kỳ quá độ lên CNXH
trên toàn thế giới. Về thực chất, đó là con đường cách mạng giành độc lập dân tộc, thực
hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng” và các quyền dân chủ chính trị, kinh tế, văn hóa… cho
các tầng lớp nhân dân, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đi tới xã hội cộng sản mà chủ nghĩa
xã hội là giai đoạn đầu của nó. Hai cuộc cách mạng này liên quan mật thiết với nhau, ảnh
hưởng và thúc đẩy lẫn nhau, cuộc cách mạng trước thành công tạo điều kiện cho cuộc cách
mạng sau giành thắng lợi. Vì vậy, giữa hai giai đoạn cách mạng này: giải phóng dân tộc và
xây dựng chủ nghĩa xã hội không có bức tường ngǎn cách.
Luận điểm trên đánh dấu sự phát triển vượt bậc tư duy lý luận chính trị của cách
mạng Việt Nam và chứng tỏ rằng, ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã nǎm vững nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng sáng tạo kinh nghiệm cách mạng thế giới, thấu
suốt con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam, nhận rõ mối quan hệ biện
chứng giữa cách mạng dân tộc dân chủ với cách mạng xã hội chủ nghĩa. Con đường cách
mạng Cương lĩnh chính trị đã nêu mang tính triệt để và rọi sáng một hướng phát triển mới
của Cách mạng Việt Nam và cũng là một chân lý cách mạng mà Đảng cộng sản Việt Nam
và nhân dân Việt Nam phấn đấu thực hiện : giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải

phóng con người; tự do hạnh phúc của nhân dân là giá trị chân thực của độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội.
2. Việc giải quyết mối quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc và nhiệm vụ chống
phong kiến là vấn đề phức tạp. Trong 2 nhiệm vụ chiến lược “phản đế, phản phong”, cương
lĩnh chính trị cũng đã nêu rõ mặc dù cả 2 nhiệm vụ phải được tiến hành đồng thời và khắng
khít với nhau, song về chỉ đạo chiến lược, Đảng xác định phải đặt nhiệm vụ giải phóng dân
tộc lên hàng đầu, với khẩu hiệu "Tổ quốc trên hết" . Điều này xuất phát từ hoàn cảnh xã hội
nước ta là xã hội thuộc địa, mâu thuẫn giai cấp tuy có sâu sắc nhưng mâu thuẫn chủ yếu
nhất, bức xúc nhất vẫn là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với bọn thực dân xâm lược
Pháp cùng bọn tay sai của chúng (đại địa chủ, đại tư sản phản cách mạng và vua quan
phong kiến) giành lại độc lập, tự do, dân chủ cho toàn dân tộc. Việc xác định đúng kẻ thù
chủ yếu và nhiệm vụ chủ yếu để nắm vững ngọn cờ dân tộc để tập hợp lực lượng, phát huy
cao độ sức mạnh dân tộc nhưng không coi nhẹ những nhiệm vụ giải phóng giai cấp là một
những tư tưởng đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta bắt nguồn từ việc khéo kết hợp yếu tố dân
tộc với yếu tố giai cấp để xem xét vấn đề xã hội
3
3. Cương lĩnh xác định rõ cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải dựa trên
lực lượng cách mạng là liên minh công – nông làm nòng cốt, trong đó giai cấp công nhân
giữ vai trò lãnh đạo nhưng đồng thời phải lôi kéo, tập họp cả những người yêu nước ở tầng
lớp tiểu tư sản, trí thức, trung nông và lợi dụng, trung lập phú nông, trung và tiểu địa chủ, tư
sản dân tộc. Sự phân chia giai cấp tư sản, địa chủ ra thành những nhóm đối tượng khác
nhau để có chính sách đối xử phù hợp, tranh thủ lôi kéo những người có lòng yêu nước,
trung lập những người có thể trung lập nhằm làm suy yếu kẻ thù và cương quyết trừng trị
đối với kẻ thù là thể hiện sự nhận thức và đánh giá đúng của Đảng ta đối với mỗi giai cấp,
mỗi tầng lớp trong xã hội, mỗi dân tộc trong cộng đồng, thừa nhận tính tích cực và sự đóng
góp của họ trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ đất nước.
Giai cấp công nhân Việt Nam có đầy đủ những đặc điểm của giai cấp vô sản thế giới ( như
sống tập trung, đại diện cho phương thức sản xuất hiện đại, có sứ mệnh lịch sử…) đồng thời họ lại có
những đặc điểm riêng của dân tộc như vừa bị áp bức giai cấp, vừa bị áp bức dân tộc cho nên họ có
tinh thần triệt để cách mạng và quyền lợi giai cấp, gắn bó chặt chẽ với quyền lợi của dân tộc, vì vậy

họ phải trở thành giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt Nam với điều kiện là phải giác ngộ lý luận chủ
nghĩa Mác-Lênin, tự tổ chức ra chính Đảng của mình. Tuy nhiên, muốn giữ vững và củng cố được vai
trò lãnh đạo của mình, giai cấp công nhân còn phải lôi cuốn được giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức đi theo mình, trên cơ sở ấy mới tạo ra được hậu thuẫn mạnh mẽ để mở rộng quyền lãnh đạo
của mình đến các tầng lớp nhân dân lao động khác trong toàn xã hội. Với một nước có 90% dân số là
nông dân thì thực hiện cho được liên minh công nông vì đó là sự đảm bảo chắc chắn nhất cho những
thắng lợi của cách mạng. Cùng với giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức vốn xuất thân từ nhiều giai cấp,
nhiều tầng lớp xã hội khác nhau, tuy họ không đại diện cho một phương thức sản xuất nào, không
phải là một lực lượng chính trị độc lập trước các giai cấp và tầng lớp xã hội khác, do đó họ không có
hệ tư tưởng riêng. Song đội ngũ trí thức dưới bất cứ chế độ nào cũng có vai trò và vị trí rất quan
trọng. Trong giai đoạn trước 1930, đội ngũ trí thức đa số đều có lòng yêu nước, khao khát độc lập, tự
do, dân chủ. Mặc dù vẫn có một số ít cam tâm làm tay sai như số đồng vẫn giữ được khí tiết dù ở
hoàn cảnh nào cũng không nguôi lòng cứu nước. Khi có điều kiện, những trí thức yêu nước thường
đóng vai trò truyền bá những tư tưởng mới và là ngòi pháo của các cuộc đấu tranh chống thực dân,
phong kiến, bởi lẽ họ là một lực lượng xã hội có trình độ học vấn cao, hiểu biết rộng, nắm được tri
thức khoa học - công nghệ. Giai cấp tư sản Việt Nam xuất hiện từ trong thời gian Chiến tranh thế giới
lần thứ nhất (1914-1918), vừa ra đời đã bị sự chèn ép của tư bản Pháp và phân hoá thành hai bộ
phận. Một số ít tham gia vào các cơ quan chính trị và kinh tế của đế quốc Pháp, trở thành lớp tư sản
mại bản. Một bộ phận khác tuy có tinh thần yêu nước, chống phong kiến và đế quốc, nhưng họ
không có khả nǎng lãnh đạo cách mạng và chỉ có thể tham gia cuộc đấu tranh ấy trong điều kiện nhất
định. Thực tế lịch sử cũng đã chứng minh rõ mọi khuynh hướng coi thường hoặc phủ nhận vai trò
của các lực lượng xã hội to lớn này, không quan tâm đầy đủ đến việc xây dựng, củng cố khối liên
minh công - nông và trí thức trong các giai đoạn và các thời kỳ cách mạng, có nghĩa là đặt giai cấp
công nhân vào một hoàn cảnh phải chiến đấu đơn độc và đó là một sai lầm chính trị nghiêm
trọng.chủ nghĩa Mác.
4. Cương lĩnh đầu tiên khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là
nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Sự thất bại của cuộc khởi nghĩa
Yên Bái (9-2-1930), đánh dấu sự chấm dứt ảnh hưởng của hệ tư tưởng tư sản và Đảng
cộng sản Việt Nam ra đời với vai trò lãnh đạo cách mạng đã xác lập ảnh hưởng của hệ tư
tưởng vô sản trong cách mạng Việt Nam. Đảng cộng sản Việt Nam ra đời mở đầu thời đại

mới trong lịch sử nước ta, thời đại giai cấp công nhân và đảng tiên phong của nó đứng vị trí
trung tâm, kết hợp mọi phong trào yêu nước và cách mạng, quyết định nội dung, phương
hướng phát triển của xã hội Việt Nam. Sức mạnh của Đảng cộng sản Việt Nam nằm ở chổ
4
Đảng kết nạp đảng viên không những trong công nhân tiên tiến, mà còn kết nạp những
người ưu tú, tiên tiến trong nông dân lao động, trí thức cách mạng và trong các tầng lớp
khác. Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp vô sản, lấy chủ nghĩa Mác -
Lênin làm nền tảng tư tưởng. Đảng là một khối thống nhất ý chí và hành động. Đảng viên
phải "tin theo chủ nghĩa cộng sản, chương trình Đảng và Quốc tế cộng sản, hǎng hái tranh
đấu và dám hy sinh, phục tùng mệnh lệnh Đảng và đóng kinh phí, chịu phấn đấu trong một
bộ phận Đảng".
5. Cương lĩnh khẳng định cách mạng Việt Nam phải tiến hành bằng bạo lực cách
mạng của quần chúng, để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, rồi dựng ra
chính phủ công nông binh chứ không phải bằng con đường cải lương. Đây là kinh nghiệm
được rút ra từ các cuộc đấu tranh cách mạng của các dân tộc trên thế giới đã khẳng định
rằng bản chất của CNĐQ và giai cấp vô sản với hai bản chất giai cấp hoàn toàn đối lập, là
một cuộc chiến đấu không khoan nhượng; phải dùng bạo lực cách mạng đánh đổ bạo lực
phản cách mạng mới giành được thắng lợi hoàn toàn. Chiến thắng của cách mạng tháng 8
1945, Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 và Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975 cho thấy
sự chọn lựa phương pháp sủ dụng bạo lực cách mạng là hoàn toàn đúng đắn để đánh đổ
bọn đế quốc và tay sai, giành độc lập dân tộc.
6. Cương lĩnh khẳng định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng vô sản
thế giới, đứng trong mặt trận cách mạng của các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân
thế giới mà đội quân tiên phong của mặt trận này là Liên Xô. Sách lược vắn tắt ghi rõ:
"Trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực
hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp
Pháp" . Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng : “Những tư tưởng dân tộc chân chính đồng thời
cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính”. Sự bóc lột thuộc địa không chỉ là một nguồn
sống của bọn tư bản mà còn là cái “nền móng” của chủ nghĩa đế quốc. Do đó, cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc không những phải trở thành bộ phận khắng khít của cuộc cách

mạng vô sản mang tính toàn cầu mà còn có vai trò là một trào lưu lớn của cách mạng trong
thế kỷ này. Tư tưởng này là cơ sở cho sự phát triển chính sách đoàn kết quốc tế của Đảng
ta. Chính sách đó luôn được bổ sung, hoàn thiện và là một nguồn tǎng thêm sức mạnh lớn
hơn sức mạnh vốn có của ta, là một nhân tố thắng lợi của cách mạng Việt Nam
Ngoài ra, do sớm nhận thức được sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc với giải
phóng giai cấp, giải phóng xã hội trong cách mạng vô sản ở nước thuộc địa, coi trọng độc
lập tự chủ, tự lực tự cường của từng quốc gia, việc đặt tên Đảng là Đảng cộng sản Việt
Nam (chứ không phải là Đảng Cộng sản Đông dương theo hướng chỉ đạo của Quốc tế
Cộng sản) là hoàn toàn đúng đắn xuất phát từ sự hiểu biết đúng đắn về tình hình, đặc điểm,
tâm lý dân tộc của ba nước Đông Dương (Việt Nam, Cao Miên, Lào) và theo quan điểm
LêNin: các dân tộc bị lệ thuộc sau khi độc lập được tách ra để xây dựng độc lập dân tộc và
có quyền tự quyết.
Đối với công cuộc đổi mới hiện nay cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng có ý nghĩa
rất quan trọng: một là đổi mới phải kiên định mục tiêu xã hội chủ nghĩa, hai là đổi mới phải
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, ba là đổi mới phải động viên được đông đảo quần chúng
tham gia. Bốn là đổi mới phải mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, đa phương, đa dạng quan
hệ ngoại giao.
Tóm lại, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời ở một nước thuộc địa, giai cấp công nhân
chỉ chiếm 1,2% dân số, đã có Cương lĩnh chính trị đầu tiên đúng đắn ngay từ đâu. Điều
đó chứng minh rằng, Đảng đã nắm vững bản chất khoa học và cách mang của chủ nghĩa
Mác - Lênin, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa yếu tố dân tộc và yếu tố giai cấp, sớm
kết hợp yếu tố giai cấp với yếu tố dân tộc một cách sáng tạo, gắn chủ nghĩa yêu nước
chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản, phát huy được truyền thống yêu nước, đánh
giá đúng vị trí của từng giai cấp cách mạng, đoàn kết được các lực lương yêu nước, nhờ
đó mà Đảng đã nắm được quyền lãnh đạo cách mang. Chúng ta cũng không thể phủ
nhận được rằng những chủ trương, mục tiêu, nhiệm vụ mà Cương lĩnh đã nêu thời gian
qua đã chứng tỏ sự đúng đắn, khoa học và như một thứ động lực tinh thần hợp lòng
người nhất, để trên nền móng đó phát huy sức mạnh của lòng yêu nước của dân tộc Việt
Nam, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới xây dựng CNXH ngày nay.
5

Vấn đề 2 : Trong bản Chỉ thị kháng chiến kiến quốc của thường vụ Trung ương Đảng ngày 25/11/1945 có khẳng
định : “Giành chính quyền càng dễ bao nhiêu thì giữ chính quyền lại càng khó bấy nhiêu”. Bằng kiến thức lịch
sử Đảng, đồng chí hãy phân tích làm rõ nhận định trên. Trình bày những chủ trương biện pháp của đảng để giữ
chính quyền trong thời kỳ 1945-1946? Liên hệ với việc xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân hiện nay.
Bài làm
Vấn đề chính quyền như Lênin đã nhiều lần chỉ rõ là vấn đề cơ bản và quyết
định sự phát triển của cách mạng. Người nhấn mạnh: "Chính quyền nhà nước
nhất định là vấn đề chủ yếu nhất của mọi cuộc cách mạng. Giai cấp nào giữ
chính quyền? Điều đó quyết định tất cả". Vì vậy, Đảng cộng sản khi lãnh đạo cách
mạng nhất thiết đặt lên hàng đầu mục tiêu giành lấy chính quyền về tay giai cấp
công nhân và nhân dân lao động. Trong lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm
của dân tộc Việt Nam, đánh đuổi giặc ngoại xâm để giành lấy chính quyền đã
khó, thì việc giữ vững chính quyền về tay nhân dân lại càng khó khăn hơn, lâu dài
và gian khổ hơn. Lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh điều đó, đặc biệt là
trong giai đoạn sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, việc giữ vững một chính
quyền còn non trẻ trong thời kỳ 1945-1946 với vô vàn những khó khăn, thù trong,
giặc ngoài.
Các giai cấp và thế lực thống trị cũ không bao giờ tự rời bỏ địa vị thống trị của chúng. Vì thế, cuộc đấu
tranh giành chính quyền phải trải qua nhiều hy sinh, gian khổ và cuối cùng bằng bạo lực cách mạng của quần
chúng mới có thể giành được thắng lợi. Tuy nhiên, việc giành được chính quyền mới chỉ là nhiệm vụ bước đầu
và cũng chưa phải là nhiệm vụ khó nhất. Nhiệm vụ nặng nề, khó khǎn và phức tạp nhất chính là xây dựng và
bảo vệ chính quyền mới, làm cho nó thật sự là công cụ có hiệu lực để cải tạo xã hội cũ, xây dựng thành công xã
hội mới, vì hạnh phúc của nhân dân. Thực tiễn của tất cả các cuộc cách mạng từ trước tới nay ngày càng cho
thấy: "Giữ vững chính quyền thì khó hơn là giành lấy chính quyền".
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám nǎm 1945 dẫn tới sự ra đời Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên
ở Việt Nam và ở vùng Đông Nam á. Đó là thành quả của 15 nǎm đấu tranh giành chính quyền của nhân dân ta
dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc
lập, tự do và tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, trong giai đoạn này, nước ta còn gặp rất nhiều khó khăn trên tất
cả phương diện kinh tế, xã hội, chính trị, ngoạo giao. Về kinh tế : nền kinh tế vốn

đã nghèo nàn lạc hậu, bị chiến tranh và thiên tai tàn phá nặng nề làm cho xơ xác,
kiệt quệ. Nạn đói đầu năm 1945 do Pháp, Nhật gây ra làm 2 triệu người chết
chưa được khắc phục, thì tháng 8/1945 lại xảy ra lụt lớn ở Miền Bắc, sau đó thì bị
hạn kéo dài. Sản xuất nông nghiệp bị đình đốn, hàng vạn công nhân không có
việc làm, hàng hóa khan hiếm, giá cả tăng vọt. Tài chính cạn kiệt, ngân sách
trống rỗng, Ngân hàng Đông dương còn nằm trong tay tư bản Pháp. Quân Tưởng
tung tiền Quan kim mất giá ra thị trường gây rối loạn nền tài chính, kinh tế của ta.
Đã vậy, ta còn phải cung cấp lương thực cho 20 vạn quân Tưởng. Về mặt xã hội,
dưới chính sách ngu dân của Pháp, 95% dân số mù chữ, tệ nạn xã hội phát triển
mạnh mẽ. Về ngoại giao : Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa chưa được
thế giới công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với ta. Chính quyền non trẻ chưa
được lực lượng tiến bộ trên thế giới giúp đỡ.
Nhưng nghiêm trọng hơn vẫn là tình hình an ninh, chính trị. Ngay sau cách
mạng thành công, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động đã bao vây, chống
phá hòng tiêu diệt chính quyền cách mạng non trẻ. Gần 20 vạn quân Tưởng,
đồng minh của đế quốc Mỹ cùng bọn tay sai kéo vào miền Bắc nước ta với ý đồ
tiêu diệt Đảng ta, lật đổ chính quyền cách mạng, lập nên chính quyền tay sai của
6
chúng. Ở miền Nam, quân đội Pháp được đế quốc Anh che chở đã đánh chiếm
Nam Bộ hòng lập lại chế độ thực dân của chúng. Nhiều đảng phái phản động
(Việt Quốc, Việt Cách, Đại Việt ) công khai hoạt động chống chính quyền. Chính
quyền cách mạng tiếp thu một đất nước đổ nát với nạn đói và sự kiệt quệ về kinh
tế, tài chính và biết bao hậu quả khác mà chế độ phong kiến, thực dân để lại. Với
những thử thách nặng nề đó, sự mất - còn của chính quyền đặt trong thế "ngàn
cân treo sợi tóc". Chính quyền nhân dân có thể bị lật đổ, nền độc lập mới giành
được có nguy cơ bị mất. Tình hình đó đòi hỏi đảng và chính quyền cách mạng
phải có đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn mới có thể bảo vệ và phát
triển thành quả cách mạng. Đảng đã chủ trương bất kể tình hình như thế nào
cũng phải "củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội
phản, cải thiện đời sống cho nhân dân".

Củng cố chính quyền trước hết là tǎng cường sức mạnh, hiệu lực và cơ sở pháp lý về cả đối nội cũng
như đối ngoại. Chính quyền mới ra đời trong hoàn cảnh đất nước đã bị chế độ phong kiến thống trị hàng ngàn
nǎm và chế độ thực dân cai trị gần một thế kỷ nên nước ta không có hiến pháp, nhân dân ta không được
hưởng quyền tự do dân chủ. Vấn đề cấp bách đặt ra là "chúng ta phải có ngay một hiến pháp dân chủ". Đảng
chủ trương phải xúc tiến nhanh việc bầu cử Quốc hội, lập chính phủ chính thức và soạn thảo Hiến pháp. Ngày
6-1-1946, lần đầu tiên ở nước ta tổ chức tổng tuyển cử bầu Quốc hội của một nhà nước dân chủ. Ngày 2-3-
1946, Quốc hội họp, cử ra chính phủ tiêu biểu cho ý chí, lợi ích của toàn dân. Hiến pháp đầu tiên của nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà được công bố ngày 9-11-1946 và sau đó Nhà nước ban hành hàng loạt sắc lệnh và
những quy định cần thiết
Xây dựng và củng cố bộ máy chính quyền các cấp là một nhiệm vụ bức bách. Chính phủ đã xem xét
các vǎn bản của Uỷ ban nhân dân các xứ và có kế hoạch "cải cách chính quyền nhân dân ở các địa phương và
thanh trừng những phần tử xấu trong Uỷ ban nhân dân địa phương và cải tiến cách làm việc của những Uỷ ban
ấy". Chính quyền nhân dân cũng đã kiên quyết "trừng trị bọn phản quốc đã nhân những khó khǎn về nội trị,
ngoại giao và dựa vào thế lực bên ngoài mà ngóc đầu dậy; trừng trị bọn chia rẽ, bọn đầu cơ, tích trữ và bọn
lạm quyền, nhiễu dân". Đảng chủ trương trong mọi tình thế phải bảo đảm sự thống nhất của chính quyền nhân
dân từ trung ương đến cơ sở, xử trí kịp thời "bọn đối lập".
Với tinh thần “Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng có không nghĩa lý
gì”, Đảng ta nhận thức rằng chính quyền cách mạng trước mắt phải chǎm lo đời sống nhân dân, đưa đất nước
nhanh chóng thoát khỏi nạn đói. Do vậy, việc cứu đói thật sự cần kíp như đánh giặc ngoài mặt trận. Chính phủ
quyết định phát động phong trào tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, cứu đói cho nhân dân. Chỉ trong một
thời gian ngắn, nhân dân ta đã quyên góp được hàng vạn tấn gạo, hoa màu được trồng nhiều ở các địa
phương, sản lượng lương thực đã tăng đáng kể, nhiều diện tích đất đai đã được khôi phục sử dụng, nhờ đó mà
nạn đói đã được khắc phục nhanh chóng. Cùng với những biện pháp khẩn cấp trước mắt, chính quyền mới
cũng đã bước đầu thực thi nhiều cải cách dân chủ, đáp ứng nguyện vọng thiết tha của nhân dân, đặc biệt là
nông dân : tịch thu ruộng đất của ruộng công, giảm tô 25% cho nông dân. Quy định ngày làm việc 8 giờ, bảo vệ
quyền lợi của công dân. Công tác y tế, văn hóa, giáo dục mà nổi bật là vấn đề thanh toán nạn mù chữ rất được
quan tâm chú ý. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” đã có tác dụng kích
thích lòng tự hào dân tộc, tạo nên một phong trào bình dân học vụ trong cả nước với khí thế sôi nổi người
người đi học, nhà nhà đi học, nâng cao dân trí góp phần xây dựng biết viết, đó là một thành tích nổi bật trong
điều kiện đất nước vừa mới được độc lập còn biết bao khó khăn cần giải quyết

Song song với việc khôi phục, phát triển kinh tế để ổn định đời sống nhân dân, Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh còn đặc biệt quan tâm chỉnh đốn bộ máy và đội ngũ cán bộ chính quyền, ngǎn chặn nguy cơ quan
liêu hoá, cán bộ chính quyền trở thành những "quan cách mạng". Trong Thư gửi Uỷ ban nhân dân các cấp,
tháng 10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra những cǎn bệnh xuất hiện trong bộ máy chính quyền mới như:
trái phép, cậy thế, hủ hoá, tư túi, chia rẽ, kiêu ngạo. Những hành vi đó là trái với bản chất của chính quyền
7
nhân dân, làm giảm uy tín, làm suy yếu chính quyền. Người vạch rõ: Các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc
cho đến các làng đều là đầy tớ của nhân dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân.
Trong hoàn cảnh cùng một lúc chính quyền phải đương đầu với nhiều kẻ thù (quân Pháp - Tưởng) và
nhà nước ta lúc bấy giờ chưa có sự giúp đỡ trực tiếp của các nước anh em, bầu bạn trên thế giới, đòi hỏi Đảng
và Chính phủ phải thực hiện một chính sách ngoại giao đúng đắn, khôn khéo thì mới có thể củng cố và giữ
vững chính quyền cách mạng non trẻ. Quán triệt tư tưởng “thêm bạn bớt thù”, Đảng và chính quyền cách
mạng đã thực hiện chính sách nhân nhượng có nguyên tắc, khéo léo “hòa để tiến” đồng thời ttriệt để lợi dụng
mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, phân hoá chúng . Với sách lược mềm dẻo nhưng có nguyên tắc : khi thì hoà
với Tưởng để tập trung đánh thực dân Pháp, khi thì hoà với Pháp để đuổi Tưởng, chẳng những bảo vệ được sự
tồn tại của chính quyền mà còn đưa sự nghiệp cách mạng phát triển một cách vững chắc.Đó cũng là nét nổi
bật về và là một mẫu mực về khả nǎng tự bảo vệ của chính quyền cách mạng Việt Nam trong hoàn cảnh khó
khǎn điển hình.
Nhà nước và nhân dân ta muốn hoà bình nên đã nhân nhượng với thực dân Pháp. Nhưng dã tâm xâm
lược của thực dân Pháp ngày càng trắng trợn. Khi không thể nhân nhượng được nữa, chính quyền cách mạng
đã chủ động phát động nhân dân cả nước đứng lên kháng chiến. Kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp
và can thiệp Mỹ (từ 12-1946 đến 7-1954) là tiếp tục sự nghiệp của Cách mạng tháng Tám, là tiếp tục công cuộc
bảo vệ chính quyền bằng một cuộc chiến tranh cách mạng. Cuộc kháng chiến được tiến hành trong điều kiện
đã có chính quyền cách mạng. Chính quyền là công cụ mạnh mẽ và hiệu lực để tổ chức, động viên nhân dân
tham gia kháng chiến.
Tóm lại, trong khoảng thời gian 16 tháng (9-1945 đến 12-1946), trước bao tình thế khó khăn, hiểm
nghèo, trước những thử thách cực kỳ nghiêm trọng tưởng chừng không thể vượt qua, nhưng nhờ có sự lãnh
đạo Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính quyền mới vẫn phát huy hiệu lực và bản chất của mình, từng bước
đưa đất nước vượt qua những khó khăn, thử thách. Từ những thành công của Đảng trong việc xây dựng, bảo
vệ chính quyền giai đoạn 1945-1946, có thể rút ra một số kinh nghiệm trong quá trình xây dựng nhà nước ta

giai đoạn hiện nay như sau :
Một là, phải gắn bó mật thiết với nhân dân, dựa hẳn vào dân, vì lợi ích của nhân dân, đó là nguồn
gốc sức mạnh của chính quyền trong các giai đoạn cách mạng. Là chính quyền nhân dân, chính quyền với
nhân dân "phải kết thành một khối", chính quyền phải gắn bó với dân, dựa vào sức mạnh của nhân dân và phải
trở thành công cụ làm chủ thật sự của nhân dân. Quyền làm chủ của dân, những yêu cầu dân chủ cơ bản phải
được thể chế hoá bằng hiến pháp và hệ thống pháp luật, quy chế, quy tắc trong đời sống xã hội, được ghi nhận
và thực hiện qua các chính sách kinh tế, xã hội. Hệ thống pháp luật và chính sách kết tinh ý chí, nguyện vọng và
lợi ích của nhân dân, nó càng đúng đắn và hoàn chỉnh bao nhiêu, càng thể hiện quyền làm chủ của nhân dân
bấy nhiêu. Đó cũng là thước đo trình độ của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa của nước ta hiện nay. Xây dựng và
củng cố chính quyền thực sự của dân, do dân và vì dân là một quá trình đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, giữa ý
thức và nǎng lực làm chủ của nhân dân với thói quen an phận của người bị trị dưới chế độ cũ cùng lề thói hủ
lậu của kẻ có chức quyền. Quá trình đó đòi hỏi phải có nhận thức và quan điểm đúng đắn, phải đổi mới, hoàn
thiện cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý, phương thức hoạt động và cả sự lựa chọn con người vào bộ máy chính
quyền sao cho thể hiện đúng bản chất của chính quyền nhân dân
Hai là, phải thường xuyên củng cố bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, chống nguy cơ quan
liêu hoá, bảo đảm khả nǎng tự bảo vệ. Sức mạnh của nhà nước biểu hiện trước hết ở sự trong sạch, vững
mạnh trong bộ máy của nó, ở nǎng lực tổ chức, quản lý mọi hoạt động kinh tế - xã hội theo pháp luật. Vì vậy,
tǎng cường sức mạnh của nhà nước là tǎng cường bộ máy nhà nước sao cho gọn nhẹ, hiệu quả vững mạnh.
Hoạt động của các cơ quan quyền lực đã đi vào thực chất, khắc phục chủ nghĩa hình thức, mang lại hiệu quả
thiết thực. Quốc hội đã từng bước làm được chức nǎng của cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước. Chính
phủ và các cấp chính quyền với chức nǎng hành pháp, quản lý, điều hành theo cơ chế quản lý mới và nắm chắc
8
công cụ pháp luật. Các cơ quan bảo vệ luật pháp đã phát huy vai trò độc lập của mình. Chính sự chuyển động
tích cực và đúng hướng đó đã làm cho bộ máy có hiệu lực hơn và sức mạnh của Nhà nước được tǎng cường.
Ba là không ngừng chǎm lo xây dựng, củng cố cơ sở kinh tế và cơ sở xã hội là sự bảo đảm cho chính
quyền nhân dân vững mạnh . Cơ sở kinh tế, xã hội quyết định sức mạnh của nhà nước, ngược lại nhà nước có
vai trò quan trọng, thậm chí là nhân tố quyết định làm cho cơ sở kinh tế và xã hội ngày càng lớn mạnh. Vì vậy,
phát triển kinh tế, xã hội là một trong những chính sách hàng đầu của Nhà nước ta trong mọi giai đoạn cách
mạng, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay. Điều đó không chỉ nhằm củng cố sức mạnh của Nhà nước, mà còn
là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.

Bốn là phải có sách lược mềm dẻo, khôn khéo, lợi dụng mâu thuẩn trong hàng ngũ địch, cô lập cao
độ kẻ thù chính, trung lập những người có thể trung lập, tranh thủ những người có thể tranh thủ, nhằm làm
suy yếu vị trí và thế lực của chúng, làm tăng thêm sức mạnh và tạo điều kiện đưa cách mạng tiến lên
Năm là sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định bản chất, sức mạnh và sự tồn tại của chính
quyền nhân dân . Giữ vững và nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước không chỉ có ý nghĩa
quyết định sự sống còn của chính quyền cách mạng, mà còn là sự tồn tại của bản thân Đảng và chế độ xã hội
chủ nghĩa. Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, phải
thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, nǎng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền
thống đoàn kết thống nhất trong Đảng, bảo đảm đầy đủ dân chủ và kỷ luật trong sinh hoạt Đảng.
Tóm lại, xây dựng và bảo vệ chính quyền nhân dân là một bài học lớn của quá
trình đấu tranh cách mạng của nhân dân ta từ khi Đảng lãnh đạo chính quyền. Diễn
biến phức tạp của tình hình quốc tế, nhiệm vụ nặng nề của thời kỳ quá độ ở nước ta
đòi hỏi Đảng và nhân dân ta nâng cao cảnh giác, nỗ lực phấn đấu xây dựng chính
quyền nhân dân thật sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là công cụ có hiệu lực
nhất tổ chức thắng lợi sự nghiệp đổi mới và xây dựng đất nước theo con đường xã
hội chủ nghĩa.
Vấn đề 3 : Nghiên cứu vị trí lãnh đạo của Đảng trong bước chuyển cách mạng Miền Nam
Bài làm
Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là nhân tố quyết định sự
thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là cuộc đụng
đầu lịch sử, một thử thách lớn đối với Đảng và dân tộc Việt Nam. Với đường lối chính trị,
quân sự đúng đắn và phương pháp cách mạng sáng tạo do Đảng đề ra thể hiện trong
từng chiến dịch, từng trận đánh đã đưa cách mạng dân tộc giành thắng lợi vẻ vang,
thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi trong cách mạng
miền Nam giai đoạn 1954-1975 chính là sự khẳng định vị trí, vai trò lãnh đạo quan trọng
của Đảng trong công cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc.
1. Đánh bại chiến lược “chiến tranh đơn phương” :
Sau Hiệp định Giơnevơ (7-1954), đế quốc Mỹ lấn dần thực dân Pháp, độc chiếm miền Nam nước
ta, chúng thiết lập chế độ thực dân mới và dựng nên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm. Chế độ Mỹ
- Diệm đàn áp dã man phong trào đấu tranh của nhân dân ta ở miền . Tình hình của đất nước sau

Hiệp định Genève “bế tắc tưởng chừng như không có đường ra" (Lê Duẩn).
Đảng ta đã ra Nghị quyết 15 (tháng 1-1959) về cách mạng miền Nam xác định nhiệm vụ chiến
lược là hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, trước mắt lật đổ chế độ Diệm và tay sai, hoà hợp
dân tộc, cải thiện đời sống nhân dân. Chỉ đạo quan trọng nhất của Nghị quyết lần này là đã đề cập
đến các vấn đề: đấu tranh vũ trang; xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa, kết hợp đấu tranh
3-1
9
chính trị với đấu tranh vũ trang. Những đường lối, chủ trương của Đảng đưa ra đã đáp ứng yêu cầu
bức thiết của nhân dân, dấy lên phong trào đồng khởi lan rộng mà đỉnh cao là phong trào Đồng Khởi
mùa Xuân 1960, đập tan từng mảng chính quyền ngụy Sài Gòn ở nhiều vùng nông thôn miền Nam
rộng lớn. Ngày 20-12-1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam ra đời, tập hợp đông đảo lực
lượng yêu nước, nặng lòng với dân tộc, không phân biệt giai tầng, địa vị xã hội, quá khứ, sắc tộc, tín
ngưỡng nhằm mục tiêu chung giải phóng miền Nam. Thắng lợi của Phong trào Đồng Khởi phản ánh
đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng và sự sáng tạo cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam
(đánh địch từ 3 mũi giáp công : chính trị, quân sự và binh vận) và đã kiềm chế được đế quốc Mỹ sớm
đưa quân vào miền Nam, làm thất bại “chiến tranh đơn phương” của Mỹ, một hình thức thống trị
điển hình của chủ nghĩa thực dân kiểu mới mà đế quốc Mỹ thiết lập tại miền Nam Việt Nam, đưa
cách mạng miền Nam chuyển từ thế bị động “giữ gìn lực lượng” sang thế tiến công.
2. Đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” :
Bước vào những nǎm 60, để thích ứng với tình hình, đế quốc Mỹ cho ra đời chiến lược quân sự
mới vừa có tính chất tiến công, vừa có tính chất phòng ngự. Đó là chiến lược "phản ứng linh hoạt"
với ba loại chiến tranh: "chiến tranh thế giới", "chiến tranh cục bộ", và "chiến tranh đặc biệt". ở
miền Nam nước ta từ khi có Phong trào Đồng khởi, đế quốc Mỹ đã thực hiện "chiến tranh đặc biệt",
đây là cuộc chiên tranh không giới tuyến, đánh bằng mọi phương tiên, vũ khí nhằm ba mục đích: đàn
áp phong trào giải phóng dân tộc, thực hiện chính sách thực dân mới; xây dựng cǎn cứ quân sự,
chuẩn bị tiến công phe xã hội chủ nghĩa và ngǎn chặn CNXH lan xuống Đông Nam á. Mỹ đã ra sức
tăng cường lực lượng chiến tranh : quân Ngụy tăng 16 vạn lên 50 vạn, lực lượng cố vấn tăng từ 200
lên 2500 và viện trợ kinh tế tăng cấp số nhân và thực hiện chiến lược bình định miền Nam trong
vòng 18 tháng : gom 10 triệu dân vào 16.000 ấp chiến lược.
Từ tháng 1-1961 đến tháng 9/1961 và tháng 12/1963, Bộ Chính trị họp và ra nghị

quyết chỉ rõ hướng phát triển của cách mạng miền Nam là chuyển từ khởi nghĩa từng
phần sang chiến tranh cách mạng, kết hợp khởi nghĩa quần chúng với chiến tranh cách
mạng để đưa cách mạng tiến lên, đẩy mạnh hơn nữa đẩy mạnh đấu tranh vũ trang lên
song song với đấu tranh chính trị, tấn công địch bằng cả hai mặt quân sự và chính trị. Tổ
chức đánh địch bằng 3 mũi giáp công : chính trị - quân sự - binh vận, trên 3 vùng chiến
lược : thành thị, nông thôn và miền núi, bằng 3 thứ quân : du kích, chủ lực và dân địa
phương. Dưới sự chỉ đạo của Nghị quyết Bộ Chính trị, cách mạng miền Nam đã phát
triển và trưởng thành nhanh chóng. Một lực lượng lớn được đưa từ miền Bắc vào cùng
lực lượng tại chỗ tạo cho cách mạng miền Nam vững vàng cả về thế và lực. Với thế và
lực đó, với phương hướng tiến lên bằng cả lực lượng chính trị và quân sự, bằng sự kết
hợp cả hai hình thức đấu tranh chính trị và quân sự, nhân dân ta ở miền Nam đã liên tục
tiến công địch, làm phá sản kế hoạch Xtalây Taylơ nhằm bình định miền Nam trong vòng
18 tháng (1961-1962) và kế hoạch Giônxơn - Mắcnamara cùng mục đích trên thực hiện
trong hai nǎm (1964-1965). Những chiến thắng vang dội và có ý nghĩa bước ngoặt như
chiến thắng ấp Bắc (2-1-1963), chiến thắng Bình Giã (12-1964), Ba Gia, Đồng Xoài
(5/1965) chứng tỏ sự trưởng thành toàn diện của lực lượng cách mạng, khẳng định thế
tất thắng của nhân dân ta, mở ra phong trào thi đua diệt nguy, diệt Mỹ khắp miền Nam.
90 triệu lượt người đấu tranh chính trị, trong đó nổi bậc là đấu tranh của các phật tử ở
Huế (8/5/1963), 70 vạn người Sài Gòn xuống đường bắt đầu bằng vụ tự thiêu của Hòa
Thượng Thích Quảng Đức (16/6/1963). Đến giữa nǎm 1965, quân nguỵ bị đánh tan vỡ
từng mảng, chính quyền Sái gòn khủng hoảng triển miên (tháng 1/11/1963, đảo chính
chính quyền Diệm và tháng 2/1965 Nguyễn Văn Thiệu lên nắm chính quyền), quốc sách
"ấp chiến lược" bị phá sản (85% ấp chiến lược bị phá), "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ -
ngụy bị thất bại. .
10
3. Đánh bại chiến lược "chiến tranh cục bộ"
Giữa nǎm 1965, với bản chất hiếu chiến và ngoan cố theo đuổi chiến lược toàn cầu
phản cách mạng, đế quốc Mỹ đã leo thang chiến tranh, đưa quân viễn chinh Mỹ và quân
các nước chư hầu (50 vạn) vào trực tiếp tham chiến ở miền Nam, gia tăng lực lượng quân
Ngụy lên 70 vạn, thực hiện "chiến tranh cục bộ" với nội dung tiêu diệt và bình định nhằm

cứu nguy cho sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn, giành thế chủ động, tǎng cường đánh
phá miền Bắc bằng không quân và hải quân, để cắt viện trợ miền Nam, mở chiến dịch ngoại
giao để cô lập cách mạng miền Nam dự kiến 2 năm sẽ đè bẹp cách mạng miền Nam. Đây là
một thử thách quyết liệt có tính chất quyết định thắng bại với cả hai bên tham chiến.
Trước tình hình đó, tháng 9-1965, Bộ Chính trị họp và tháng 12-1965, Trung ương
Đảng họp Hội nghị lần thứ 12 bàn về cách mạng miền Nam đã nhận định : so sánh lực
lượng giữa ta và địch không có gì thay đổi lớn, thế mạnh của địch là vũ khí nhưng ta cũng
có thế mạnh là chính nghĩa và việc Mỹ đưa quân vào Việt Nam là ở thế bị động chiến lược.
Từ đó Đảng đề ra phương châm chiến lược của chiến tranh giải phóng miền Nam và những
hình thức, biện pháp cụ thể như : tư tưởng chiến lược là “tiến công kiên quyết tiến công và
liên tục tiến công”, chủ trương : đánh lâu dài dựa vào sức mình là chính, đồng thời dựa vào
mở tiến công để giành thắng lợi trong thời gian ngắn; phương pháp đấu tranh kết hợp giữa
quân sự, chính trị và ngoại giao, đánh địch bằng 3 mũi giáp công, 3 vùng chiến lược và 3
thứ quân, kết hợp các kiểu đánh lớn, vừa, nhỏ, đánh du kích kết hợp với hiện đại, thực hiện
khởi nghĩa quần chúng, đấu tranh cách mạng để giành thắng lợi từng bước tiến tới giành
thắng lợi hoàn toàn.
Dưới sự chỉ đạo của Đảng, phong trào đấu tranh mở rông, trong đó nổi bậc về đấu tranh chính trị
có vụ sinh viên Quách Thị Trang Nhất Chi Mai tự thiêu.Tháng 5-1965, chiến thắng tại cǎn cứ Núi
Thành tập kích tiêu diệt gọn một đại đội lính thủy đánh bộ Mỹ, 180 tên chết và bị thương. Tiếp theo
là chiến thắng Vạn Tường, Plâyme, đánh bại hai cuộc phản công chiến lược của Mỹ vào hai mùa khô
1965-1966 và 1966-1967. Với cuộc phản công chiến lược mùa khô 1966-1967 thì sự cố gắng cùng sự
thất bại của Mỹ đã đến độ cao, cho phép ta chuyển cuộc chiến tranh cách mạng sang một thời kỳ
mới. Quân và dân ta ở miền Nam đã thực hiện bước chuyển đó bằng cuộc tổng tiến công và nổi dậy
đồng loạt khắp nông thôn và thành thị miền Nam vào đầu Xuân 1968. Đây là đòn quyết định đánh
bại "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ xuống thang chiến tranh ngừng ném bom miền
Bắc, ngồi vào bàn đàm phán với ta và phá sản chiến tranh cục bộ. Tuy vậy, trong chiến dịch mùa
Xuân 1968, do sai lầm chủ quan nên ta cũng bị tổn thất nặng nề về lực lượng.
4. Đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”
Phải xuống thang chiến tranh, nhưng đế quốc Mỹ lại thực hiện chiến lược "Việt Nam
hoá chiến tranh" hòng kéo dài chiến tranh, duy trì chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam. Mỹ

tiếp tục đổ tiền của vào cố xây dựng cho được ngụy quyền và ngụy quân làm xương sống
cho kế hoạch và ở miền Nam một lúc ba loại chiến tranh: giành dân, bóp nghẹt và huỷ diệt
tàn khốc hơn bất kỳ thời kỳ nào trước đó, đồng thời thực hiện chiến lược quét và giữ, ổn
định khu vực đô thị, vì vậy từ 1969-1971 ta bị đánh bật ra khỏi đồng bằng. Chúng tăng
cường đánh phá Trường Sơn, huy động không quân Anh Pháp Đức bỏ bom phá hoại miền
Bắc lần 2 (tháng 4/1972); thực hiện Đông Dương hóa chiến tranh đưa 10 vạn quân ngụy
đánh Campuchia. Về ngoại giao, Mỹ thực hiện chiến lược lôi kéo Trung Quốc, hòa hoãn
Liên Xô nhằm cắt đứt viện trợ cho Việt Nam. Vì vậy, sau năm 1972 Liên Xô và Trung Quốc
cắt dần viện trợ cho nước ta.
Tháng 1/1970, Trung ng ng ta h p H i ngh l n th 18, H i ngh đã phân tích sâu s c tínhươ Đả ọ ộ ị ầ ứ ộ ị ắ
ch t thâm đ c c a chi n l c "Vi t Nam hoá" và nh ng mâu thu n không th kh c ph c đ c c a nó.ấ ộ ủ ế ượ ệ ữ ẫ ể ắ ụ ượ ủ
Trên c s đó, H i ngh đ ra nhi m v cho cách m ng mi n Nam là : tr v bám đ t, bám dân phá kơ ở ộ ị ề ệ ụ ạ ề ở ề ấ ế
ho ch bình đ nh, ra s c xây d ng l c l ng quân s và chính tr , phát tri n chi n tranh nhân dân và t ngạ ị ứ ự ự ượ ự ị ể ế ă
11
c ng l c l ng 3 th quân, đ y m nh ti n công quân s , chính tr l y nông thôn làm h ng chính,ườ ự ượ ứ ẩ ạ ế ự ị ấ ướ
l p h i đ ng chi vi n ti n tuy n c a Trung ng và t ng c ng liên minh 3 n c ông D ng đậ ộ ồ ệ ề ế ủ ươ ă ườ ướ Đ ươ ể
phá ông D ng hóa chi n tranh, t ng c ng ngo i giao làm th t b i âm m u "Vi t Nam hoá chi nĐ ươ ế ă ườ ạ ấ ạ ư ệ ế
tranh" c a đ qu c M . ủ ế ố ỹ
Quân và dân ta đã thực hiện xuất sắc những nhiệm vụ trên và đã giành những thắng lợi
quyết định. Tận dụng sai lầm của Mỹ mở rộng chiến tranh sang Campuchia, tháng 4-1970,
Hội nghị cấp cao Đông Dương đã họp, hình thành mặt trận thống nhất nhân dân Đông
Dương đoàn kết chống Mỹ. Mặt trận ngoại giao đã chủ động và phối hợp chặt chẽ với đấu
tranh quân sự và chính trị, liên tục tiến công đế quốc Mỹ tại Hội nghị Pari và trước dư luận
toàn thế giới. Mũi tiến công quân sự đã giành thắng lợi rực rỡ, thực sự làm đòn xeo cho mũi
tiến công chính trị và ngoại giao. Nǎm 1969-1971, ta phối hợp với quân dân Lào và
Campuchia giành thắng lợi lớn ở XǎmThông - Loong Chẹng, Cánh Đồng Chum trên chiến
trường Lào và giải phóng phần lớn đất đai cùng 4,5 triệu dân ở Campuchia, chiến thắng
đường số 9 - Nam Lào đã mở ra khả nǎng thực tế làm thất bại chiến lược "Việt Nam hoá
chiến tranh" của Níchxơn. Ngày 30-3-1972, ta mở cuộc tiến công chiến lược ở miền Nam
với quy mô lớn, cường độ mạnh, với đủ các binh chủng tác chiến hợp đồng và kéo dài suốt

nǎm 1972. Bị thất bại nặng, Mỹ đã "Mỹ hoá" trở lại cuộc chiến tranh, thả mìn các cửa sông,
cửa biển và ném bom trở lại miền Bắc, đồng thời thực hiện chính sách ngoại giao xảo quyệt
hòng ngǎn cản thắng lợi của ta. Mỹ lật lọng tại Hội nghị Pari và tháng 12-1972, chúng mở
cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B.52 vào Hà Nội, Hải Phòng suốt 12 ngày đêm.
Nhưng cũng như ở miền Nam, cuộc tập kích này của Mỹ đã thất bại nặng nề. Thắng lợi to
lớn của cuộc tiến công chiến lược nǎm 1972 và chiến công xuất sắc của quân và dân ta đập
tan cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B. 52 vào Hà Nội, Hải Phòng, cuối cùng đã buộc
đế quốc Mỹ phải ký kết Hiệp định Pari về Việt Nam, rút hết quân Mỹ và quân chư hầu ra
khỏi nước ta từ 27/1/1973 đến 29/3/1973 .
Ph i ký Hi p đ nh Pari, rút quân v n c nh ng đ qu c M v n ngoan c ti p t c dùng ng yả ệ ị ề ướ ư ế ố ỹ ẫ ố ế ụ ụ
quy n Sài Gòn làm công c th c hi n ch ngh a th c dân m i c a chúng mi n Nam. Sau Hi p đ nhề ụ ự ệ ủ ĩ ự ớ ủ ở ề ệ ị
Pari, mi n Nam ch a có ng ng b n hoàn toàn, ch a có hoà bình th t s , M - ng y v n ti n hànhở ề ư ừ ắ ư ậ ự ỹ ụ ẫ ế
bình đ nh và l n chi m kh p mi n Nam. Tháng 7-1973, Trung ng ng đã k p th i h p H i nghị ấ ế ắ ề ươ Đả ị ờ ọ ộ ị
l n th 21, phân tích rõ tình hình trên, âm m u và hành đ ng phá ho i Hi p đ nh Pari c a M - ngu . H iầ ứ ư ộ ạ ệ ị ủ ỹ ỵ ộ
ngh c ng ch ra đi m m nh, đi m y u c a đ ch. H i ngh nh n đ nh th và l c c a cách m ng mi nị ũ ỉ ể ạ ể ế ủ ị ộ ị ậ ị ế ự ủ ạ ề
Nam hi n m nh h n b t c th i k nào k t n m 1954 đ n đó. Nh ng ta c ng còn nhi u m t c nệ ạ ơ ấ ứ ờ ỳ ể ừ ǎ ế ư ũ ề ặ ầ
nhanh chóng kh c ph c, nh t là đ u tranh quân s , chính tr , binh v n và xây d ng l c l ng phát tri nắ ụ ấ ấ ự ị ậ ự ự ượ ể
ch a đ u t sau Hi p đ nh Pari. H i ngh kh ng đ nh nhi m v c b n c a cách m ng mi n Nam lúcư ề ừ ệ ị ộ ị ẳ ị ệ ụ ơ ả ủ ạ ề
này là: ti p t c th c hi n chi n l c cách m ng dân t c dân ch nhân dân, đánh đ ng y quy n, làm th tế ụ ự ệ ế ượ ạ ộ ủ ổ ụ ề ấ
b i hoàn toàn ch ngh a th c dân m i c a M . Ph ng pháp cách m ng b o l c là nh t quán c quá trìnhạ ủ ĩ ự ớ ủ ỹ ươ ạ ạ ự ấ ả
cách m ng mi n Nam đi t i giành th ng l i hoàn toàn. ạ ề ớ ắ ợ
Nghị quyết 21 của Trung ương giúp các đảng bộ miền Nam kịp thời nhận thức và khắc phục
những thiếu sót, lệch lạc từ sau Hiệp định Pari. Nhờ vậy, tình hình chiến trường miền Nam có những
chuyển biến tích cực và nhanh chóng. Đầu nǎm 1974, về cơ bản ta đã thu hồi được các vùng giải
phóng và vùng tranh chấp bị địch lấn chiếm từ sau Hiệp định Pari và giải phóng thêm được gần nửa
triệu dân. Từ giữa nǎm 1974, những điều kiện cho việc giải phóng hoàn toàn miền Nam đang chín
muồi.
Tháng 10 - 1974, Bộ Chính trị họp đề ra kế hoạch giải phóng miền Nam trong 2 nǎm (1975-1976).
Sau đó Bộ Chính trị làm việc với các đồng chí lãnh đạo và chỉ huy các chiến trường miền Nam. Tháng
1-1975, Bộ Chính trị nhận định: "Chưa bao giờ ta có điều kiện đầy đủ về quân sự, chính trị như hiện

nay, có thời cơ chiến lược to lớn, thuận lợi như hiện nay để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân ở miền Nam, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc".
3-5
12
Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương quyết định lấy chiến trường Tây Nguyên và Buôn Ma Thuột
làm chiến trường và điểm mở đầu cho kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam. Bộ Chính trị theo
dõi chặt chẽ và chỉ đạo kịp thời các bước tiến quân giành thắng lợi ở các chiến trường miền Nam.
Chiến dịch giải phóng Tây Nguyên (từ ngày 10 đến 20-3-1975) đã điểm trúng huyệt vào Buôn Ma
Thuột, làm rung chuyển hệ thống bố trí chiến lược của quân ngụy Sài Gòn, ngụy quyền hốt hoảng
cho rút quân chiến lược khỏi Tây Nguyên, làm rối loạn quân ngụy. Ta giải phóng hoàn toàn Tây
Nguyên.
Chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng (từ ngày 21 đến 29-3-1975) đã phá tan âm mưu co cụm về
giữ đồng bằng ven biển miền Trung của địch, đẩy địch lún sâu hơn nữa vào thế suy sụp, tan vỡ
không sao cứu vãn nổi, làm xuất hiện thời cơ tổng tiến công và nổi dậy vào sào huyệt cuối cùng của
địch: Chiến dịch giải phóng Sài Gòn và Nam Bộ - Chiến dịch Hồ Chí Minh (từ ngày 26 đến 30-4-1975).
17 giờ ngày 26-4-1975, nǎm quân đoàn của ta mở cuộc tổng tiến công vào Sài Gòn - Gia Định, 11 giờ
ngày 30-4-1975, quân ta chiếm dinh tổng thống ngy, buộc ngụy quyền Sài Gòn đầu hàng vô điều
kiện. Sự nghiệp giải phóng hoàn toàn miền Nam của nhân dân ta toàn thắng.
Tóm lại, qua kết quả thắng lợi của cách mạng Miền Nam cho thấy bên cạnh lòng
dũng cảm, sự bền bỉ của ý chí thì nguyên nhân quan trọng nhất đưa đến chiến thắng là
do Đảng ta đã đề ra và vận dụng một cách linh hoạt nghệ thuật biết thắng từng bước. Với
kẻ thù mạnh hơn ta rất nhiều về tiềm năng kinh tế, quân sự, Đảng ta đã áp dụng chủ
trương, sách lược đúng đắn ở từng thời kỳ để kiềm chế đế quốc Mỹ, giành thắng lợi từng
bước để đi đến thắng lợi hoàn toàn. Nổi bật trong đường lối, chủ trương, sách lược đó
là :biết sáng tạo ra nhiều cách đánh, cách thắng Đế quốc Mỹ, biết tổ chức và chỉ đạo phối
hợp chặt chẽ cách mạng hai miền Nam - Bắc trên nhiều mặt từ chiến lược, sách lược,
biết đoàn kết và tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế cao nhất. Với những phân tích trên, chúng
ta có thể tin tưởng và khẳng định rằng vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng trong cách mạng
Miền Nam là nhân tố quyết định cho thắng lợi của cách mạng Miền Nam nói chung và
cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc ngày nay nói riêng.

Vấn đề 4 : Phân tích bài học kinh nghiệm, bài học xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc qua các giai đoạn từ
1930 đến nay. Liên hệ Nghị quyết Trung Ương 7 Khoá IX
Bài làm
Ngay khi Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời, chủ trương đoàn kết toàn dân trong Mặt trận dân
tộc thống nhất là một chính sách lớn của Đảng ta trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Sức mạnh đoàn kết đã được phát huy trong đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng, bảo vệ Tổ
quốc. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định : Đại đoàn kết trong Mặt trận dân tộc thống
nhất là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Nhìn lại lịch sử Việt Nam, ngay từ thời xa xưa, các nhà lãnh đạo triều đại Lý, Trần, Lê… cũng
đã nhìn thấy sức mạnh của dân, để chủ trương dựa vào dân chống ngoại xâm. Trần Quốc Tuấn đã
rút ra bài học: "phải khoan thư sức dân, làm kế rễ sâu gốc vững, ấy là thượng sách để giữ nước".
Nguyễn Trãi cũng đã nói: "Đỡ thuyền cũng là dân mà lật thuyền cũng là dân"… Kế thừa di sản quý
báu của dân tộc, vận dụng di sản đó và kinh nghiệm của thế giới vào cách mạng Việt Nam, Chủ tịch
Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định "dân là gốc của nước", "có dân là có tất cả" và thực hiện chủ
trương: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, Thành công, thành công, đại thành công". Trong tác phẩm
"Đường kách mệnh", Người cũng đã nhấn mạnh “Kách mệnh là việc chung của dân chúng, chứ
không phải là việc của một hai người.
Với tư tưởng cối lõi ấy, ngay từ ngày thành lập, Đảng ta đã coi Mặt trận dân tộc thống nhất là
vấn đề có ý nghĩa chiến lược và đã phê phán mọi biểu hiện coi nhẹ công tác mặt trận, hạ thấp vai trò
của quần chúng, coi thường nhân tố dân tộc trong cách mạng.
Để hình thành được mặt trận, tập hợp được hết thảy các lực lượng cách mạng và tiến bộ trong
mỗi thời kỳ cách mạng, Đảng ta đã đề ra những chủ trương, chính sách thích hợp nhằm đoàn kết
toàn dân, phấn đấu cho một mục tiêu nhất định xem đó là chương trình hành động thống nhất của tất
13
cả các giai cấp, các đảng phái, các lực lượng tham gia Mặt trận dân tộc thống nhất. Thể hiện tính
chất quần chúng rộng rãi trong công tác mặt trận và căn cứ vào từng thời kỳ, Đảng ta đã linh hoạt
trong việc chỉ ra cách thức đấu tranh, lựa chọn hình thức đấu tranh và tên gọi Mặt trận cho phù hợp
với hoàn cảnh cụ thể và mục tiêu, nhiệm vụ từng thời kỳ cách mạng như: Mặt trận dân chủ, Mặt trận
Việt Minh, Mặt trận Liên Việt, Mặt trận Tổ quốc, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam . v.v
Có mặt trận được tổ chức chặt chẽ theo hệ thống từ trung ương đến cơ sở; có mặt trận chỉ mang tính

chất liên hiệp hành động; nhưng tất cả đều nhằm tập hợp, động viên được hết thảy mọi người tích
cực tham gia vào sự nghiệp chung giải phóng dân tộc và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Song song đó, Đảng luôn coi đoàn kết dân tộc luôn là nguồn sức mạnh của cách mạng và là
một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Chính vì vậy, Đảng ta đã chủ
trương xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở liên minh công - nông – trí thức. Đảng đã
Ngay từ khi mới thành lập, trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã chỉ rõ giai cấp vô sản phải tranh thủ
được nhiều bạn đồng minh, phải tập hợp các lực lượng cách mạng trong Mặt trận dân tộc thống nhất. Hình
thức Mặt trận dân tộc thống nhất đầu tiên lấy tên là Hội phản đế đồng minh. Trong chỉ thị lập Mặt trận, Đảng
đã nhấn mạnh: Nếu không tổ chức được lực lượng thật rộng, thật kín thì cách mạng cũng khó thành công.
Sau cao trào cách mạng 1930-1931, đế quốc Pháp khủng bố ác liệt, phong trào cách mạng tạm thời lắng
xuống, Đảng chuyển hướng tổ chức quần chúng đấu tranh và quần chúng vẫn hướng về Đảng. Khi điều kiện và
thời cơ thuận lợi xuất hiện, Đảng đã kịp thời đề ra chủ trương, chính sách đúng nên đã nhanh chóng tập hợp
lực lượng, liên hiệp hành động với các giai cấp, các tầng lớp yêu nước, các đảng phái dân chủ, hình thành Mặt
trận dân chủ Đông dương trong thời kỳ 1936-1939. Vì vậy, Đảng đã phát động được một cao trào đấu tranh
cách mạng đòi cải thiện dân sinh, dân chủ, cơm áo, hòa bình, chống phản động thuộc địa, chống chủ nghĩa
phát xít, chống chiến tranh.
Tháng 9/1939, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, Đảng đặt nhiệm vụ
giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Đồng chí Hồ Chí Minh về nước, cùng Ban Chấp
hành Trung ương Đảng hoàn chỉnh chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược.
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 khoá I (tháng 5-1941), dưới sự lãnh đạo trực
tiếp của đồng chí Hồ Chí Minh đã chủ trương tạm gác khẩu hiệu tịch thu ruộng
đất của địa chủ, thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Mặt
trận Việt Minh) để mở rộng khối đoàn kết dân tộc không chỉ bao gồm giai cấp
công – nông mà còn cả những người Việt Nam yêu nước, tập trung mũi nhọn đấu
tranh vào nhiệm vụ chống đế quốc, giành độc lập dân tộc. Dưới ngọn cờ đại đoàn
kết của Mặt trận Việt Minh, nhân dân ta đã dấy lên một cao trào kháng Nhật cứu
nước sôi nổi và đều khắp, nắm vững thời cơ Đảng đã chỉ đạo Mặt trận khởi nghĩa
từng phần, khởi nghĩa vũ trang dẫn đến tổng khởi nghĩa đưa Cách mạng Tháng
Tám 1945 đến thắng lợi.
Chính quyền cách mạng vừa mới thành lập, thì quân Pháp núp sau quân đội

Anh trở lại xâm lược nước ta từ phía Nam, còn quân Tưởng kéo vào phía Bắc.
Trước tình thế hiểm nguy ấy, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương mở
rộng hơn nữa Mặt trận dân tộc thống nhất. Tháng 5-1946, Mặt trận Liên Việt ra
đời, khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố, làm hậu thuẫn vững chắc cho chính
quyền cách mạng. Với mục tiêu giai đoạn này là đặt nhiệm vụ đánh đổ đế quốc
hàng đầu, Đảng đã huy động lực lượng toàn dân tham gia và áp dụng nhiều biện
pháp linh hoạt để thêm bạn, bớt thù, do đó đã đẩy lùi được mọi âm mưu thâm độc
của thù trong, giặc ngoài.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, ở miền Nam, đế quốc Mỹ biến
miền Nam nước ta thành thuộc địa kiểu mới và Mỹ trở thành kẻ thù chính của dân tộc ta. Trong hoàn cảnh
mới, Đảng chủ trương thành lập ở mỗi miền một mặt trận dân tộc thống nhất nhằm mở rộng và tǎng cường
khối đoàn kết dân tộc để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước và đưa miền Bắc tiến
lên chủ nghĩa xã hội
4-2
14
Tháng 9-1955, ở miền Bắc, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ra đời với mục tiêu xây dựng CNXH. Tháng 12-
1960, ở miền Nam, sau cao trào "đồng khởi", Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập
với mục tiêu giải phóng Miền Nam.
Nhân dân ta còn đoàn kết với nhân dân các dân tộc Lào và Campuchia anh em, hình thành Mặt trận
đoàn kết ba nước, các lực lượng hoà bình, tiến bộ trên thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ, ủng hộ sự nghiệp
chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Trong cuộc kháng chiến Mỹ, cứu nước đã hình thành trên thực tế ba
tầng mặt trận : ở trong nước, trên bán đảo Đông Dương và trên thế giới, đoàn kết mọi lực lượng có thể đoàn
kết, tranh thủ mọi lực lượng có thể tranh thủ để lên án và cô lập đế quốc Mỹ xâm lược.
Sau đại thắng mùa Xuân nǎm 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất
nước thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng chủ nghĩa đế quốc và
các thế lực phản động vẫn còn âm mưu và hành động phá hoại sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Đảng ta vẫn chủ trương tiếp tục coi
trọng vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nơi tập họp đông đảo nhân dân cả
nước ra sức thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Nhân dân ta tiếp tục tǎng cường đoàn kết với

nhân dân hai nước Lào và Campuchia, đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa
và các nước, các dân tộc tiến bộ trên thế giới, đấu tranh cho hoà bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Từ những kết quả xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất qua các giai đoạn trên, ta có thể rút ra một
số kinh nghiệm như sau :
M t là ộ ph i xác nh úng k thù, s p x p úng b n ng minh. ả đị đ ẻ ắ ế đ ạ đồ Mu n có chính sách m t tr n đúng đ n, tr c h t ph i xác đ nh đúng k thùố ặ ậ ắ ướ ế ả ị ẻ
c th , ph i ch rõ k thù c n ph i đánh đ trong t ng giai đo n chi n l c, trong t ng th i k c a m t giai đo n. Có nh v y m i t pụ ể ả ỉ ẻ ầ ả ổ ừ ạ ế ượ ừ ờ ỳ ủ ộ ạ ư ậ ớ ậ
trung đ c toàn b l c l ng cách m ng đánh đ k thù c ng nh m i l i d ng đ c nh ng mâu thu n trong n i b k thù và v n d ng sáchượ ộ ự ượ ạ ổ ẻ ũ ư ớ ợ ụ ượ ữ ẫ ộ ộ ẻ ậ ụ
l c m m d o đ cô l p cao đ k thù nguy hi m nh t. ng ta đã có nhi u thành công n i b t trong vi c xác đ nh k thù c th và chính sáchượ ề ẻ ể ậ ộ ẻ ể ấ Đả ề ổ ậ ệ ị ẻ ụ ể
m t tr n trong các th i k cách m ng. c bi t là trong th i k 1945-1946, công tác m t tr n lúc này h t s c ph c t p, nh ng phong phú vàặ ậ ờ ỳ ạ Đặ ệ ờ ỳ ặ ậ ế ứ ứ ạ ư
sáng t o. Tình hình lúc b y gi thay đ i t ng ngày, t ng tháng. Cùng m t lúc cách m ng n c ta ph i đ i phó v i nhi u k thù, nh ng ng đãạ ấ ờ ổ ừ ừ ộ ạ ướ ả ố ớ ề ẻ ư Đả
đánh giá đúng các lo i k thù, xác đ nh đúng k thù chính, đ có sách l c và ph ng pháp đ u tranh phù h p : khi thì hòa v i T ng đ ch ng Pháp, khiạ ẻ ị ẻ ể ượ ươ ấ ợ ớ ưở ể ố
thì t m th i hoà v i Pháp đ đu i T ng nh m phân hoá, cô l p k thù, tránh th b t l i ph i ch ng v i nhi u k thù cùng m t lúc, đ t ng thêmạ ờ ớ ể ổ ưở ằ ậ ẻ ế ấ ợ ả ố ớ ề ẻ ộ ể ǎ
s c m nh giành th ng l i. Trong kháng chi n ch ng M , ng ta đã sáng su t ch rõ k thù nguy hi m nh t không ch c a dân t c ta mà c aứ ạ ắ ợ ế ố ỹ Đả ố ỉ ẻ ể ấ ỉ ủ ộ ủ
c loài ng i ti n b là đ qu c M , nên đã hình thành đ c ba t ng m t tr n: trong n c, ông D ng và trên th gi i, t o ra s c m nhả ườ ế ộ ế ố ỹ ượ ầ ặ ậ ở ướ ở Đ ươ ế ớ ạ ứ ạ
đ giành th ng l i trong s nghi p ch ng M , c u n c. ể ắ ợ ự ệ ố ỹ ứ ướ
Trong công tác mặt trận, vì trong dân tộc có nhiều giai cấp, nên Đảng phải
đánh giá đúng thái độ chính trị của các giai cấp và tầng lớp xã hội khác nhau để
sắp xếp đúng đắn vị trí các lực lượng trong Mặt trận dân tộc thống nhất: vai trò
lãnh đạo, lực lượng nòng cốt, bạn đồng minh lâu dài và gần gũi, bạn đồng minh
tạm thời, v.v Ngay từ khi thành lập, Đảng ta đã đánh giá đầy đủ vị trí của giai
cấp nông dân Việt Nam, giai cấp đông đảo nhất, chiếm 95% số dân, là bạn đồng
minh cách mạng và trung thành nhất của giai cấp công nhân Việt Nam. Hai giai
cấp công nhân và nông dân và tầng lớp trí thức có liên minh chặt chẽ mới phát
huy đầy đủ sức mạnh, thực hiện triệt để nhiệm vụ giải phóng dân tộc và giai cấp,
trong đó giai cấp công nhân phải đóng vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân.
Bên cạnh đó, Đảng ra sức tập hợp đông đảo lực lượng về phía cách mạng trên
cơ sở đánh giá cao truyền thống yêu nước của mọi tầng lớp nhân dân. Đảng đã
lôi cuốn giai cấp tư sản dân tộc, một bộ phận hoặc từng cá nhân xuất thân từ giai
cấp phong kiến địa chủ có tinh thần yêu nước tham gia cách mạng giải phóng dân

tộc. Trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng hết sức chú ý phân tích
thái độ chính trị của các giai cấp, các tầng lớp, nhất là các tầng lớp trên để tranh
thủ mọi khả nǎng có thể tranh thủ nhằm tǎng cường mặt trận dân tộc rộng rãi để
chống đế quốc và tay sai. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta tiếp tục
lắng nghe, tìm hiểu quan điểm, tư tưởng và thái độ chính trị của các giai cấp, các
15
tầng lớp để kịp thời đề ra những chủ trương chính sách đúng đắn, những hình
thức tổ chức sát hợp để tập hợp lực lượng đông đảo, nhằm củng cố khối đoàn
kết dân tộc, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Hai là giải quyết đúng đắn các mối quan hệ trong nội bộ mặt trận. Để tránh tả và hữu khuynh trong việc
thực hiện chính sách đoàn kết dân tộc, Đảng ta đã giải quyết đúng đắn các mối quan hệ trong nội bộ mặt trận.
- Đối với mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, mặt trận là tổ chức tập hợp
lực lượng dân tộc bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp được tập hợp, đoàn kết trên
cơ sở chương trình hành động chung. Vì vậy, cương lĩnh chung của mặt trận thể
hiện đúng mối quan hệ giữa lợi ích chung toàn dân tộc với lợi ích riêng từng giai
cấp. Nếu vượt ra khỏi giới hạn mục tiêu đó là phạm sai lầm tả khuynh. Trái lại,
không đấu tranh để thực hiện những mục tiêu chung đã xác định là phạm sai lầm
hữu khuynh. Trong thời kỳ 1936-1939, Đảng nêu ra mục tiêu đấu tranh đòi cải
thiện dân sinh, dân chủ, chống chủ nghĩa phátxít, chống chiến tranh; trong thời kỳ
1939-1945 là đấu tranh chống Nhật, Pháp, giành độc lập dân tộc; trong thời kỳ
chống Mỹ, cứu nước đã có lúc Đảng nêu ra mục tiêu trước mắt tranh đấu cho
miền Nam Việt Nam, hoà bình, trung lập, v.v .
- Đối với mối quan hệ giữa liên minh công nông và mặt trận, đây là mối quan hệ lớn nhất trong công tác
mặt trận. Chỉ nhấn mạnh liên minh công nông mà không chú ý tranh thủ các giai cấp, tầng lớp khác là hẹp hòi,
tả khuynh. Ngược lại, chỉ chú ý vận động các giai cấp, tầng lớp khác mà không chú ý củng cố liên minh công
nông là phạm sai lầm hữu khuynh. Đảng ta đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ trên bằng việc thường xuyên
nắm vững mục tiêu lâu dài và mục tiêu chủ yếu trong từng thời kỳ cách mạng, phân tích được mâu thuẫn chủ
yếu để vạch rõ kẻ thù trực tiếp, nguy hiểm nhất. Khi cần tập trung lực lượng để giải quyết những nhiệm vụ cấp
bách nhất của cách mạng, Đảng đã giải quyết đúng mức quyền lợi của công nông và của các giai cấp, các tầng
lớp tham gia mặt trận.

- Đối với mối quan hệ giữa tranh thủ tầng lớp trên (tiểu tư sản, địa chủ ) đi đôi với phát động quần
chúng cơ bản. Đảng chủ trương “có thể và cần phải” tranh thủ tầng lớp trên, nhất là những cá nhân có uy tín
trong quần chúng, đó là điều cần thiết và có lợi cho việc phát động quần chúng cơ bản. Nhưng phong trào
vững chắc phải là phong trào cách mạng của quần chúng cơ bản. Chỉ khi nào phong trào đó mạnh mới bảo
đảm tranh thủ được tầng lớp trên. Vận động các dân tộc ít người là một trong những công tác quan trọng bậc
nhất của mặt trận, của chính quyền cách mạng. Để đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo, Đảng đưa ra chính
sách tự do tín ngưỡng và giáo dục quần chúng, nâng cao trình độ giác ngộ chính trị của giáo dân, làm cho họ
phân biệt rõ địch - ta, ra sức đẩy mạnh sản xuất, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần. Đối với tầng lớp trên
trong tôn giáo, Đảng chủ trương đoàn kết với họ trên tinh thần yêu nước chân chính và giúp đỡ họ hiểu biết
đường lối, chính sách của cách mạng, vận động họ cùng với đồng bào theo các tôn giáo làm những việc có ích
cho Tổ quốc, chống lại mọi âm mưu chia rẽ dân tộc và phá hoại của kẻ thù. Trong việc xây dựng mặt trận, Đảng
giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa đoàn kết và đấu tranh. Đoàn kết một chiều, thiếu đấu tranh trong thực
tế dẫn đến phá vỡ khối đoàn kết, thủ tiêu mặt trận. Đấu tranh vượt quá cương lĩnh là phạm sai lầm tả khuynh,
trái lại, thiếu đấu tranh để thực hiện cương lĩnh là hữu khuynh, dẫn đến mất đoàn kết.
Ba là nâng cao sự lãnh đạo của Đảng trong mặt trận. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc nhằm giữ vững
đường lối chính trị, mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng của Đảng, chống mọi khuynh hướng hạ thấp vai trò của
Đảng, đòi chia quyền lãnh đạo trong mặt trận, xa rời phương hướng, mục tiêu chiến lược của cách mạng. Để
bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong mặt trận, phải luôn luôn tránh hai khuynh hướng lệch lạc là: cô độc, hẹp
hòi, coi nhẹ tranh thủ các lực lượng có thể tranh thủ; hoặc đoàn kết một chiều, đoàn kết mà không đấu tranh
đúng mức với những tư tưởng và việc làm sai trái của các thành viên trong mặt trận. Về phần mình, Đảng
không ngừng phấn đấu nâng cao nǎng lực lãnh đạo bằng sự hoàn thiện đường lối chiến lược, đổi mới chủ
trương, sách lược cho phù hợp với tình hình, nhiệm vụ và cải tiến phong cách, phương thức làm việc trong mặt
trận, chống tác phong quan liêu, mệnh lệnh, thiếu kiên trì giáo dục, thuyết phục.
4-6
16
Tóm lại, bài học thành công của Đảng ta về xây dựng khối đoàn kết thống nhất dân tộc thông qua hình
thức tổ chức các mặt trận là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, xuyên suốt quá trình cách mạng nước ta từ trước
đến nay, tạo nên một sức mạnh không gì có thể phá vỡ nổi. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, vai trò của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam cần phải tiếp tục được coi trọng và ngày càng mở rộng để tập hợp mọi thành phần, lực
lượng của đất nước, tạo thành sức mạnh tổng hợp làm nên sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng

và vǎn minh tiến lên chủ nghĩa xã hội
Câu 5: Quá trình nhận thức của Đảng để đi đến đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ
năm 1975 - 2000.
BÀI LÀM
Nắm vững ngọn cờ Ðộc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội là bài học kinh nghiệm xuyên suốt quá trình
cách mạng nước ta từ khi có Ðảng, là nguồn gốc thắng lợi của Cách mạng Việt Nam. Trên cơ sở nhận
thức và vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tổng kết kinh nghiệm
thành công và cả những kinh nghiệm chưa thành công trong thực tiễn xây dựng CNXH ở nước ta và các
nước khác, đặc biệt là những kinh nghiệm của những năm đổi mới, Ðảng ta đã nêu ra những phương
hướng cơ bản xây dựng CNXH ở nước ta ngày càng rõ ràng hơn thông qua Nghị quyết qua các kỳ đại hội
đặc biệt giai đọan từ năm 1976 đến nay. Trong chặng đường này, nhận thức của Đảng có thể khái quát
hóa qua hai giai đọan :
Giai đọan thứ nhất từ năm 1975 đến năm 1985 đây là quá trình Đảng ta tìm tòi thực nghiệm, tích lũy về
lượng để đi đến biến đổi về chất trong tư duy nhận thức của Đảng ta.
Khởi đầu từ ĐH IV năm 1976, Đảng ta đã thiết kế mô hình CNXH ở Việt Nam theo mô hình bốn mục
tiêu của thời kỳ quá độ, đó là: xây dựng chế độ làm chủ của nhân dân lao động, xây dựng nền sản xuất
lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa và xây dựng con người mới xã hội chủ
nghĩa. Biện pháp để thực hiện mô hình trên thông qua việc : Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy
quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động; Tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng : cách mạng quan
hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỷ thuật, cách mạng về tư tưởng văn hóa, trong đó cách mạng khoa học
kỹ thuật là then chốt; Đẩy mạnh CNH XHCN là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên CNXH, chú
trọng phát triển CN nặng hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ; xây dựng kinh tế
trung ương với kinh tế địa phương trong cơ cấu nền kinh tế thống nhất; kết hợp kinh tế đối nội, kinh tế đối
ngoại dựa trên cơ sở hợp tác cùng có lợi; kết hợp xây dựng và phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh, quốc
phòng. Tất cả nội dung đường lối trên nhằm xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xóa bỏ nghèo nàn lạc
hậu, xác lập quyền làm chủ của nhân dân lao động, củng cố an ninh quốc phòng, đẩy mạnh phát triển kinh
tế nhằm xây dựng nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, góp phần cùng nhân dân thế giới đấu
tranh vì hòa bình độc lập dân tộc dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, ĐH IV đã phát họa những nét lớn về CNXH Việt Nam với mô hình bốn “cái mới”. Mô hình này
về cơ bản giống mô hình XHCN củ Liên Xô và Trung Quốc, được thực thi trong phe XHCN những năm

1950 – 1970. Trong đó nhấn mạnh tính thuần khiết lý tưởng của CNXH ngay trong thời kỳ quá độ. Từ nhận
thức đó chúng ta đã nôn nóng cải tạo XHCN các thành phần kinh tế, nôn nóng xóa bỏ kinh tế thị trường,
nóng vội phát triển CN nặng trong những năm 1976 – 1986 đưa đất nước rơi vào tình trạng khủng hoảng
nghiêm trọng.
Trước tình hình đó, Đảng ta đã sớm nhận thức và có những chỉ đạo kịp thời. Đó là Nghị quyết TW 6
khóa IV (8/1979) đánh dấu sự biến đổi sâu sắc về chất trong tư duy của Đảng ta, đánh dấu bước mở đầu
cho quá trình tìm con đường mới đi lên CNXH ở Việt Nam. Lần đầu tiên Đảng đã thừa nhận những khó
khăn nghiêm trọng về KT-XH của đất nước : Đời sống nhân dân khó khăn, kinh tế không tăng trưởng, lạm
phát phi mã, nhân dân mất niềm tin ở Đảng, chính quyền từ đó đưa ra những quyết sách mới là đẩy
mạnh phát triển hàng tiêu dùng, xuất khẩu, công nghiệp địa phương, đặc biệt là thừa nhận việc tồn tại
nhiều thành phần kinh tế là khách quan, quan tâm đến yếu tố thị trường, sản xuất hàng hóa. Đồng thời giải
quyết đúng đắn các mối quan hệ lợi ích, đặc biệt quan tâm lợi ích chính đáng của người lao động Trên
cơ sở đó, Chính phủ đã có Quyết định 279/CP cho phép các xí nghiệp, đơn vị kinh doanh, khai thác các
mặt hàng không do nhà nước quản lý tạo điều kiện mở đường cho sản xuất kinh doanh, giải quyết việc
làm, tăng thu nhập, tạo nhiều sản phẩm cho xã hội.
Đến năm 1981 chỉ thị 100 của Ban Bí thư về khoán sản phẩm đến nhóm người lao động, đây thực sự
là một bước đột phá, tạo động lực mạnh mẽ cho sản xuất phát triển. Tiếp đến Chính phủ có quyết định 25-
26/CP (tháng 01/1981) cho phép các công ty, các xí nghiệp lập hai kế hoạch: kế hoạch của nhà nước hoạt
động theo cơ chế bao cấp, kế hoạch của xí nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường. Đây được xem là
bước chuyển chuyển mình tìm hướng đi thích hợp để chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường.
Những nhân tố mới nêu trên tạo điều kiện để Đảng tiếp tục nhận thức con đường lên CNXH ở Việt
Nam
Đại hội V (1982) của Đảng một mặt khẳng định tiếp tục phương hướng, mục tiêu do đại hội IV đề ra.
Mặt khác căn cứ vào tình hình thực tiễn của đất nước, đại hội có những bổ sung và cụ thể hóa một số nội
dung quan trọng trong đường lối cơ bản : Một là khẳng định thời kỳ quá độ là thời kỳ tương đối dài là quá
trình đấu tranh xóa bỏ những trì trệ, hậu quả chiến tranh, sản xuất hàng hóa tìm con đường hay mô hình đi
5-2
5-2
17
lên CNXH phù hợp với điều kiện cụ thể thể của Việt Nam, do đó những vấp váp, những sai lầm là không

tránh khỏi. Tuy nhiên, thời kỳ quá độ được Đảng ta xác định dài nhưng không trừu tượng, mà phải trải qua
nhiều chặn đường, nhiều giai đọan ta đang ở chặn đường đầu tiên của thời kỳ quá độ. Đây là bước phát
triển về chất trong tư duy nhận thức của Đảng ta trong định lượng nhiệm vụ chiến lược. Hai là, khi đặt lên
hàng đầu nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải đồng thời thực hiện nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc xã hội
chủ nghĩa. Đây là hai nhiệm vụ có mối quan hệ mật thiết và đảm bảo cho nhau trong quá trình phát triển và
ổn định đất nước.
Về đường lối kinh tế, đại hội V đã cụ thể hóa nội dung công nghiệp hóa của chặng đường trước mắt
của thời kỳ quá độ: Tập trung sức phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đồng thời
đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng; kết hợp
nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng, công nghiệp nặng trong một cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm tạo ra
lực lượng sản xuất mới, chuẩn bị tiền đề và lực lượng cho việc đẩy mạnh CNH trong chặng đường tiếp
theo.
Trong quá trình chi đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội V, Đảng và Nhà nước đã đưa ra nhiều quyết định
rất quan trọng, giải quyết những vấn đề cấp bách về lưu thông, phân phối, về quản lý kinh tế đặc biệt tổng
điều chỉnh giá tiền lương năm 1985.
Như vậy, Đại hội V của Đảng đã dựa trên thực tiển đất nước, đã có bước phát triển trong việc tìm tòi
con đường quá độ lên CNXH, bước đầu đã xây dựng được cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH, dđã đánh
bại hai cuộc chiến tranh xâm lược ở biên giới Tây Nam và phía bắc. Tuy nhiên trong tư duy lý luận vẫn còn
lạc hậu giáo điều chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ của
LLSX; chính sách lớn ở tầm vĩ mô còn nhiều khiếm khuyết mà theo nhận định của Đại hội VI là “những sai
lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực
hiện”. Bên cạnh đó, thiên tai và hai cuộc chiến tranh biến giới phía bắc và Tây Nam làm cho tình hình kinh
tế – xã hội của đất nước rơi vào khủng hỏang trầm trọng, đặt ra vấn đề bức xúc đòi hỏi phải đổi mới tòan
diện để tồn tại.
Tóm lại, có thể nói giai đọan 1975-1985 là một chặn đường đầy thử thách. Bên cạnh những thắng lợi
giành được, chúng ta đã mắc một số khuyết điểm và sai lầm. Cách mạng nước ta có những nhân tố thuận
lợi mới nhưng cũng đang đứng trước nhiều khó khó khăn gay gắt nhưng cốt lõi là mô hình kinh tế mới về
cơ bản đã hình thành.
Đại hội VI (12-1986) của Đảng, đây là đại hội đổi mới toàn diện, Đại hội dựa trên cơ sở phân tích sâu
sắc cụ thể tình hình quốc tế và trong nước và tổng kết quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội từ 1975 đến

1985 bằng việc nhìn thẳng và nói đúng sự thật. Đảng ta đã rút ra bốn bài học lớn về lãnh đạo cách mạng
xã hội chủ nghĩa :
Một là, trong tòan bộ họat động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc” xây dựng và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động.
Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.
Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng.
Ba là, phải biết kết hợp với sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới.
Bốn là, phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của Đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến
hành cuộc cách mạng XHCN.
ĐH VI đã xác định nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặn đường đầu
tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế – xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy
mạnh CNH XHCN trong chặn đường tiếp theo.
Khẳng định là ĐH đổi mới tòan diện, nhận thức mới của Đảng đã thể hiện xuyên suốt trong tòan bộ
Nghị quyết. Đó là :
Nguyên tắc tiến hành đổi mới là đổi mới toàn diện, sâu sắc bắt đầu từ đổi mới tư duy, đặc biệt là tư duy
về kinh tế, đổi mới công tác tổ chức và cán bộ. Tập trung phát triển kinh tế, cải cách chính trị thực hiện
từng bước nhằm bảo đảm giữ vững trật tự an ninh, an toàn xã hội phục vụ phát triển kinh tế.
Về kinh tế là: Sử dụng các thành phần kinh tế nhằm giải phóng mọi tiềm năng tồn đọng trong xã hội.
Xây dựng kinh tế thị trường với cơ chế một giá. Tập trung đầu tư để thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn:
sản xuất lương thực, thực phẩm; sản xuất hàng tiêu dùng và sản xuất hàng xuất khẩu. Cải tạo quan hệ
sản xuất phải được thực hiện thường xuyên và đảm bảo đúng quy luật.
Về chính trị là cải cách dân chủ phải được thực hiện từng bước và phù hợp với trình độ dân trí dưới sự
lãnh đạo của đảng đảm bảo giữ vững trật tự an toàn xã hội. Tiến hành cải cách hệ thống chính trị cả nước
trên 3 lĩnh vực trọng tâm: đổi mới phương thức, phong cách lãnh đạo của đảng; cải cách hành chính công
để giảm phiền hà đối với dân chúng; đổi mới phương thức hoạt động của các tổ chức dân cử để đảm bảo
quyền lợi của người dân.
Trên lĩnh vực ngoại giao chủ trương thực hiện chính sách mở cửa làm bạn với tất cả các quốc gia trên
thế giới, không phân biệt chế độ chính trị.
Tóm lại, tư tưởng chỉ đạo cốt lỏi của ĐH VI là giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi
tiềm năng của đất nước và sử dụng hiệu quả sự giúp đở của quốc tế, phát triển lực lượng sản xuất đi đôi

với xây dựng và cũng cố quan hệ sản xuất XHCN.
Trong tổ chức thực hiện Nghị quyết đại hội VI của Đảng. Đảng và Nhà nước vừa tập trung đề ra các
chính sách mới, vừa giải quyết những vấn đề kinh tế cấp bách đặc biệt là Nghị quyết 10 năm 1988 của Bộ
5-4
18
chính trị về hoàn thiện cơ chế khoán, trong đó lần đầu tiên hộ gia đình được xem là đơn vị kinh tế. Nghị
quyết Trung ương 6 khóa 6 năm 1989 đã đề ra những quan điểm và phương hướng chỉ đạo công cuộc đổi
mới với những nguyên tắc cơ bản về đổi mới như sau :
Một là, đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu XHCN mà làm cho mục tiêu ấy thực hiện tốt hơn bằng
quan niệm đúng đắn, hình thức, biện pháp và bước đi thích hợp.
Hai là, Đổi mới không phải là xa rời Chủ nghĩa Mác –Lênin mà là vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác –
Lênin và khắc phục những quan niệm không đúng về học thuyết đó.
Ba là, Đổi mới tổ chức và phương thức họat động của hệ thống chính trị phải nhằm tăng cường chứ
không phải là làm suy yếu sức mạnh và hiệu lực của chuyên chính vô sản.
Bốn là, Xây dựng nền dân chủ XHCN vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng CNXH,
song dân chủ phải có lãnh đạo, lãnh đạo phải trên cơ sở dân chủ, dân chủ với nhân dân nhưng phải
chuyên chính với kẻ địch.
Năm là, kết hợp Chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế XHCN, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh của thời đại.
Qua thực tiễn 5 năm đổi mới kể từ sau đại hội VI, đại hội VII năm 1991 của Đảng đã có điều kiện xem
xét, khẳng định rõ hơn những vấn đề đã được đặt ra từ đại hội VI tiếp tục bổ sung và hoàn thiện nhận
thức. Đại hội VII khẳng định quyết tâm không gì lay chuyển nổi của Đảng và nhân dân Việt Nam kiên trì
định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới.
Đại hội VII đã thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”.
Cương lĩnh vạch rõ : Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa; Cuộc cách
mạng khoa học - công nghệ cùng xu hướng quốc tế nền kinh tế thế giới là thời cơ để các nước phát triển
có thể phát triển nhanh hơn. Do đó, phải coi trọng sự nghiệp giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực và phát
triển khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu; trong quá trình xây dựng CNXH phải phát huy ý chí tự
lực tự cường, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại.
Đồng thời Cương lĩnh cũng đã xác định mô hình chủ nghĩa xã hội gồm 6 đặc trưng cơ bản là: Xây dựng

chế độ làm chủ tập thể của nhân dân lao động; kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại
với chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu; xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, bất công, làm theo năng lực và hưởng theo lao
động, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc sống trong quốc gia
Việt Nam bình đẳng, đoàn kết giúp đỡ nhau tiến bộ. Thực hiện chính sách làm bạn với nhân dân tất cả các
nước trên thế giới. Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Để đạt được mục tiêu trên đảng chủ trương phát triển kinh tế, cải cách xã hội đẩy lùi 4 nguy cơ: Tụt
hậu xa hơn nữa về kinh tế so với các nước trong khu vực. Chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Tệ tham nhũng,
quan liêu, lãng phí. Nguy cơ diễn biến hòa bình.
Cương lĩnh cũng đã nêu 7 biện pháp chiến lược để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: Xây dựng
nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân do dân và vì dân và quản lý mọi mặt của xã hội một cách hữu hiệu dựa
trên cơ sở luật pháp; Phát triển lực lượng sản xuất, thông qua công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
thông qua cách mạng khoa học công nghệ; Xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất; Đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa làm cho thế
giới quan Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho mọi hành
động; Thực hiện chiến lược đại đoàn kết dân tộc và chính sách đối ngoại hòa bình hữu nghị hợp tác với tất
cả các nước; Tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng : xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc
tổ quốc xã hội chủ nghĩa; Xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức nhằm nâng cao sức
chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng ngang tầm với nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
ĐH VIII : 6-1996
Sau 10 năm đổi mới, Đại hội VIII của Đảng đã tổng kết, đánh giá thành công cũng như thất bại và rút ra
những bài học kinh nghiệm. Điểm nổi bật là Đại hội VIII đã khẳng định một số nhận thức về xây dựng cơ
chế quản lý mới : Sản xuất hàng hóa không đối lập với CNXH, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc
XD CNXH; Trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta, thị trường theo định hướng XHCN là
thể thống nhất với nhiều lực lượng tham gia sản xuất và lưu thông. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo, thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế họach, kế họach chủ yếu mang tính định
hướng còn thị trường trực tiếp hướng dẫn, lựa chọn lĩnh vực họat động, tổ chức sản xuất và kinh doanh.
Do vậy, cơ chế thị trường phải có sự điều tiết ủa Nhà nước, vì thế cần nâng cao quản lý vĩ mô của Nhà
nước, đồng thời xác lập đầy đủ chế độ tự chủ của các đơn vị sản xuất kinh doanh.
Trên cơ sở đó, Đại hội VIII đã xác định mục tiêu của cách mạng Việt Nam đến năm 2020:” tiếp tục nắm

vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước từ nay
đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp”.
Đến Đại hội IX (4-2001) nhận thức con đường đi lên CNXH được Đảng ta bổ sung và hoàn thiện. Đó
là :
Thứ nhất, về mục tiêu lý tưởng của Đảng “Độc lập dân tộc gắn liền CNXH” là nguyên tắc, là sự chỉ đạo
xuyên suốt tòan bộ đường lối cách mạng nước ta.
Thứ hai, về thời kỳ quá độ báo cáo chính trị đã chỉ ra con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá
độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến
19
trúc thượng tầng XHCN nhưng tiếp thu kế thừa những thành tựu của nhân lạoi đặc biệt là khoa học & công
nghệ.
Thứ ba, Về mô hình kinh tế tổng quát vẫn xác định “kinh tế thị trường định hướng XHCN” có bổ sung
thêm thành phần kinh tế thứ 6 có vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ tư, về đấu tranh gia cấp là động lực phát triển đất nước. Trong đó động lực chủ yếu để phát triển
đất nước là đại đòan kết tòan dân dựa trên cơ sở liên minh giữa giai cấp CN, ND và trí thức do Đảng lãnh
đạo.
Thứ năm, về nền tảng tư tưởng : Đại hội đã làm rõ khái niệm và nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Tóm lại, từ những bài học của cách mạng Việt Nam trong mấy chục năm qua, nhất là những kinh
nghiệm thu được trong những năm đổi mới, chúng ta có cơ sở khoa học để tin tưởng rằng: Với chủ nghĩa
yêu nước, truyền thống quý báu của dân tộc ta, với tinh thần chủ động sáng tạo, ý chí tự lực tự cường của
nhân dân ta, lại có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng cách mạng kiên cường, với sự giúp đỡ và hợp tác của
bạn bè quốc tế, nhân dân ta có đủ khả năng xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta, góp
phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội
Câu 6 : Phân tích cao trào cách mạng chống đế quốc, chống phong kiến giai đoạn 1930-
1945 ?
BÀI LÀM
Trong thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, lực lượng chính của dân tộc là nông dân
đã bị mòn mỏi sau các cuộc chiến tranh Nam Bắc Triều, rồi Trịnh Nguyễn phân tranh; triều đình nhà
Nguyễn lại thối nát, đầu hàng, nên đế quốc Pháp đã đặt được ách thống trị lên đầu lên cổ nhân dân

Việt Nam. Nhiều cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta đã nổ ra rất mãnh liệt, song đều thất bại vì không
có đường lối đúng. Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời năm 1930 đánh dấu bước chuyển biến quyết
định của cách mạng Việt Nam, mở đường thắng lợi cho cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam. Bắt
đầu từ đó một đường lối, chiến lược cách mạng rõ ràng, đúng đắn được xác định và đưa hoạt động
cách mạng của nhân dân VN đi đến thành công, đặc biệt là trong cao trào cách mạng chống đế quốc
Pháp và phong kiến 1930-1945.
Ngay sau khi ra đời, trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, tiếp đó là Luận cương chính trị,
Đảng đã xác định đường lối cách mạng Việt Nam là phải trải qua hai giai đoạn: trước hết là cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân, sau đó tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển của
chế độ tư bản chủ nghĩa, mục đích cuối cùng của Đảng là thực hiện chủ nghĩa cộng sản ở nước ta.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn luôn nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, vì vậy đã giải quyết đúng đắn hàng loạt vấn đề lớn của cách mạng Việt Nam và đã giành
được những thắng lợi vĩ đại.
Cương lĩnh chính trị (tháng 2/1930) và Luận cương chính trị (tháng 10/1930) đều khẳng định :
dưới thời Pháp thuộc, xã hội Việt Nam có hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa dân tộc ta với chủ
nghĩa đế quốc và mâu thuẫn giữa nhân dân ta, chủ yếu là nông dân, với giai cấp địa chủ phong kiến.
Cụ thể hơn, Đảng nhận định nước ta là nước nông nghiệp, nông dân chiếm hơn 90% số dân, chủ
nghĩa đế quốc dựa vào chế độ phong kiến để bóc lột nhân dân, chủ yếu là bóc lột nông dân. Nguyện
vọng tha thiết và trực tiếp của nông dân là dân tộc độc lập, người cày có ruộng. Từ đó chỉ ra con
đường cách mạng VN là “tư sản dân quyền CM và thổ địa CM để đi tới XH cộng sản”; bằng bạo lực
cách mạng đánh đuổi đế quốc Pháp và xóa bỏ chế độ phong kiến VN, tiến đến cách mạng XHCN bỏ
qua phát triển TBCN.
Tuy nhiên, việc giải quyết mối quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc và nhiệm vụ chống phong
kiến để có thể phát huy cao độ yếu tố dân tộc là vấn đề phức tạp, Đảng ta đã phải mất một thời gian
tương đối dài mới đạt được sự nhất trí cao. Luận cương chính trị có hạn chế là chưa vạch ra được
6-1
20
mâu thuẫn chủ yếu của xã hội thuộc địa nửa phong kiến; đặt nhiệm vụ chống phong kiến lên hàng
đầu, chống đế quốc là hàng thứ yếu, cho việc phân loại địa chủ là một sai lầm. Ngược lại với chính
cương vắn tắt cho rằng: Mâu thuẩn giữa dân tộc và đế quốc là mâu thuẩn cơ bản của xã hội nhưng

đồng thời là mâu thuẩn chủ yếu của xã hội, thì phải giải quyết nó trước hết; từ đó Đảng phải đặt
nhiệm vụ chống đế quốc - giải phóng dân tộc lên hàng đầu, với khẩu hiệu "Tổ quốc trên hết" để phát
huy cao độ sức mạnh dân tộc nhưng không coi nhẹ những nhiệm vụ dân chủ; chống phong kiến
được rải ra từng bước, chia ra 3 loại địa chủ: tiểu địa chủ, trung địa chủ và đại địa chủ để có sách
lược phù hợp với từng đối tượng, nhằm lôi kéo tranh thủ tập hợp lực lượng CM. Hai nhiệm vụ chiến
lược trên phải được tiến hành khǎng khít với nhau, không được tách rời. Đó là tư tưởng đúng đắn về
chỉ đạo chiến lược, sách lược của Đảng ta.
Đảng lãnh đạo phong trào đấu tranh dân tộc, dân chủ tạo nên cao trào CM 1930-1931, xây dựng
lực lượng ctrị với nòng cốt là công – nông… với đỉnh cao là phong trào Xô viết - Nghệ tĩnh, đây là
cuộc tổng diễn tập đầu tiên của CM VN dưới sự lãnh đạo của Đảng, đem lại cho Đảng một số kinh
nghiệm về xác định mục tiêu đấu tranh, lựa chọn phương pháp CM phù hợp với giai đoạn CM và về
tập hợp lực lượng CM.
T gi a n m 1935, ng t p trung c ng c và phát tri n ng trong các xí nghi p, h m m vàừ ữ ă Đả ậ ủ ố ể Đả ệ ầ ỏ
nông thôn…; đ y m nh công tác v n đ ng, thu ph c qu n chúng và m r ng tuyên truy n ch ng đẩ ạ ậ ộ ụ ầ ở ộ ề ố ế
qu c, ch ng chi n tranh.ố ố ế
Suốt giai đoạn thực hiện phong trào vận động dân chủ (1936 - 1939), vận dụng nghị quyết của
quốc tế cộng sản vào đông dương, hai nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến của CM VN là không
hề thay đổi. Tháng 7/1936, CM VN chuyển hướng chỉ đạo chiến lược; đề ra nghị quyết đấu tranh
chống phát xít và bọn phản động nội địa, đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình. Thành lập Mặt trận
nhân dân phản đế rộng rãi bao gồm các giai cấp, các đảng phái, các đoàn thể chính trị, tôn giáo và
dân tộc. Chuyển hướng hình thức tổ chức từ bí mật, bất hợp pháp là chủ yếu chuyển sang đấu tranh
công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp là chủ yếu như: hội cày, hội cấy, hội đá banh…để đấu tranh.
Cao trào CM dân chủ phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi Đảng phải tiếp tục bổ sung chủ trương và biện
pháp để chỉ đạo phong trào, tháng 3-1938, TW họp quyết định tổ chức thực hiện Mặt trận thống
nhất dân chủ và coi đó là nhiệm vụ trọng tâm của Đảng trong giai đoạn hiện tại. Thời gian này, Đảng
còn sử dụng báo chí công khai làm vũ khí đấu tranh CM; xuất bản nhiều sách giới thiệu về đấu tranh
giai cấp, về CNXH, CNCS.
Cao trào dân chủ 1936-1939 là thắng lợi to lớn, đánh dấu bước phát triển mới của phong trào CM
VN. Qua phong trào, Đảng và các lực lượng CM VN trưởng thành nhanh chóng. Cao trào 36-39 là
cuộc tổng diễn tập lần thứ 2 cho tổng khởi nghĩa sau này. Để lại cho Đảng ta nhiều bài học kinh

nghiệm quý giá về: xác định kẻ thù và mục tiêu đấu tranh trước mắt; tập hợp lực lượng rộng rãi trên
cơ sở động viên sự tham gia của mọi tầng lớp XH; để lãnh đạo được mặt trận, Đảng phải vững mạnh
về chính trị và tổ chức, phải xây dựng khối liên minh công – nông làm nòng cốt; phải biết sử dụng
linh hoạt nhiều hình thức đấu tranh.
Giai đoạn 1939 – 1945 trước những biến động to lớn của tình hình thế giới và trong nước, Đảng
quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, tiếp tục hoàn chỉnh mối quan hệ 2 nhiệm vụ chống đế
quốc và phong kiến. Thể hiện qua Nghị quyết TW 6 (11/1939); NQ TW 7 (11/1940); NQ TW 8
(5/1941). Các nghị quyết đều khẳng định những nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến của CM
nước ta là không thay đổi, nhưng mục tiêu trước mắt là đánh đổ đế quốc và tay sai, làm cho nước
6-2
21
nhà hoàn toàn độc lập; tạm gác khẩu hiệu CM ruộng đất, thay vào đó là khẩu hiệu tịch thu ruộng đất
của đế quốc và tai sai chia cho dân cày.
Lợi dụng Pháp thua Đức trong chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật vào chiếm nước ta, buộc Pháp
thỏa hiệp với Nhật cùng cai trị VN. Nhân dân ta chịu một cổ hai tròng. Xu hướng đấu tranh vũ trang
phát triển mạnh trong nhân dân, mở đầu là cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, tiếp theo là khởi nghĩa Nam Kỳ
(11/1940), khởi nghĩa Đô Lương (1/1941) đã thức tỉnh nhân dân cả nước vùng lên tranh đấu.
Hội nghị lần thứ tám BCH TW (5/1941), Đảng chủ trương thành lập Mặt trận VN độc lập đồng
minh (gọi tắt là Việt Minh), đánh đuổi đế quốc Pháp - Nhật, thành lập Chính phủ nhân dân của nước
VN dân chủ cộng hòa. Trên cơ sở lực lượng chính trị được xây dựng, Đảng chỉ đạo tổ chức lực lượng
vũ trang CM gồm Hội cứu quốc quân, Đội VN tuyên truyền giải phóng quân; thành lập các khu căn cứ
địa CM; xác định khởi nghĩa từng phần tiến đến tổng khởi nghĩa, xác định kẽ thù của CM là Phát Xít
Nhật và thực dân Pháp. Đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động trên mặt trận văn hóa tư tưởng,
xây dựng Đảng…chờ đợi thời cơ tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Đêm 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương; cũng đêm đó BTV TW Đảng họp tại Đình
Bảng (Bắc Ninh) quyết định và Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”; chỉ rõ phát
xít Nhật giờ đây là kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương và nêu các khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít
Nhật”, “Thành lập chính quyền CM của nhân dân” để chống lại chính phủ bù nhìn tay sai của Nhật,
phát động cao trào kháng Nhật, làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa.
Giữa tháng 8-1945, tình thế trực tiếp CM đã xuất hiện, khi chính phủ Nhật đầu hàng Liên Xô và

quân đồng minh vô điều kiện, quân đội Nhật ở Đông Dương bị tê liệt hoàn toàn. Cơ hội ngàn năm
cho dân tộc ta vùng lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền đã tới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân
dân ta tiến hành cuộc cách mạng tháng Tám thành công. Và ngày 2/9/1945 tại Quảng Trường Ba
Đình Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã đọc bảng Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa- mở đầu một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập tự do, dân chủ nhân dân, tiến lên CNXH cho
dân tộc VN.
Thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 là kết quả của quá trình đấu tranh lâu
dài, gian khổ của nhân dân ta; là bước nhảy vọt vĩ đại đánh dấu sự biến đổi cực kỳ to lớn trong lịch
sử tiến hóa của dân tộc Việt Nam, từng cống hiến to lớn về lý luận và thực tiễn đối với CM thế giới,
đặt biệt là CM giải phóng dân tộc. Nói lên sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và tinh thần quật khởi
mạnh mẽ của toàn dân.
Nhưng với dã tâm đế quốc, thực dân pháp đã không từ mọi thủ đoạn, đã quay lại tái xâm lược
nước ta một lần nữa. Nhưng với bản lĩnh chính trị của Đảng cầm quyền đã trãi qua thử thách trong
thực tiễn đấu tranh trên mọi lĩnh vực để giải phóng dân tộc, một lần nữa Đảng ta lãnh đạo nhân dân
đi vào đấu tranh ở giai đoạn mới với hình thức, tính chất và quy mô ác liệt hơn.
Chủ tịch HCM ra “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”. Đảng ta khẳng định đường lối kháng chiến
chống thực dân Pháp của ta là: toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính; tuy lâu dài,
gian khổ nhưng nhất định thắng lợi.
Đại hội Đảng lần thứ II (2/1951), Đảng đổi tên là Đảng lao động Việt Nam (được tách ra từ ĐCS
Đông Dương) và ra hoạt động công khai. Đảng đã xác định đối tượng của CM Việt Nam lúc là chủ
nghĩa đế quốc xâm lược cụ thể là thực dân Pháp can thiệp Mỹ, phong kiến phản động làm tay sai cho
6-4
22
đế quốc là đối tượng thứ 2 của CM. Vạch ra 3 nhiệm vụ cơ bản của CM Việt Nam là đánh đuổi đế
quốc giành độc lập dân tộc; xóa bỏ di tích phong kiến, làm cho người cày có ruộng phát triển chế độ
dân chủ nhân dân; xây dựng cơ sở vật chất CNXH. Nhiệm vụ chính vẫn là hoàn thành giải phóng dân
tộc. Động lực của cuộc kháng chiến CM dân tộc dân chủ nhân dân là giai cấp công nhân, nông dân,
tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản tri thức và tư sản dân tộc. Ngoài ra còn có những nhân sĩ yêu nước
và tiến bộ. Người lãnh đạo CM là giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong của giai cấp công nhân
là Đảng Lao Động Việt Nam.

Song, đồng thời Đảng chỉ đạo thực khẩu hiệu “Người cày có ruộng”, tiến hành cải cách ruộng đất
ở vùng tự do và phát động quần chúng triệt để giảm tô ở các vùng địch chiếm đóng. Các hội nghị TW
1 (tháng 3/1951), TW 2 (10/51), TW 3 (4/52), TW 4 (tháng 1/1953) và đặc biệt là hội nghị TW 5
(tháng 11/191953) đều trực tiếp chỉ đạo thực hiện những nhiệm vụ trên.
Quá trình thực hiện CM ruộng đất diễn ra đồng thời với cuộc tiến công chiến lược Đông – Xuân
1953 – 1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ, quân dân ta đã đánh bại hoàn toàn mọi cố giắng quân sự
của Pháp ở VN. Hiệp định Giơnevơ được ký kết (tháng 7/1954), hòa bình lập lại ở Miền Bắc.
Phản ánh đúng tư tưởng chiến lược về tính không tách rời của hai nhiệm vụ chống đế quốc và
phong kiến, phản ánh nhận thức của Đảng muốn giữ quyền lãnh đạo dân tộc phải thực hiện những
yêu cầu dân chủ đối với nông dân, Đại hội toàn quốc lần thứ II của Đảng (2-1951) đã định rõ "nhiệm
vụ giải phóng dân tộc bao gồm nhiệm vụ phản phong kiến", và thay khái niệm "cách mạng tư sản dân
quyền" bằng khái niệm "cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân". Nhận thức của Đảng đã rõ ràng. Tuy
nhiên, trong việc tổ chức thực hiện, Đảng đã phạm sai lầm hữu khuynh, có lúc quá chú trọng tranh
thủ tầng lớp trên, coi nhẹ phát triển lực lượng công nhân, và sai lầm tả khuynh trong cải cách ruộng
đất.
Từ những thành công cũng như sai lầm nghiêm trọng dù là tạm thời, Đảng đã rút ra bài học quan
trọng về mối quan hệ giữa chiến lược và sự chỉ đạo chiến lược. Đó là: "nắm vững và giương cao ngọn
cờ dân tộc và dân chủ với hai khẩu hiệu chiến lược "dân tộc độc lập" và "người cày có ruộng", Đảng
ta đã lôi cuốn được đông đảo nông dân đi theo giai cấp công nhân, động viên được các tầng lớp
nhân dân khác cùng với công, nông bước lên trận tuyến cách mạng chống đế quốc và phong kiến.
Trong quá trình cách mạng, những nhiệm vụ chiến lược đó đã được cụ thể hoá bằng những mục tiêu
thích hợp với từng thời kỳ, dựa trên sự phân tích những mối quan hệ giai cấp cụ thể và khả nǎng
phân hoá hàng ngũ kẻ thù đế quốc và phong kiến, nhằm tập trung ngọn lửa cách mạng vào kẻ thù
nguy hại nhất trong từng lúc một. Song, dù ở bất cứ thời kỳ nào, những mục tiêu và nhiệm vụ chính
trị cụ thể do Đảng đề ra, về cơ bản đều bao hàm cả hai nội dung dân tộc và dân chủ, về cơ bản đều
gắn liền hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến". Như vậy về mối quan hệ giữa hai nhiệm
vụ chiến lược, Đảng đã nhận thức đầy đủ hơn, diễn đạt rõ ràng hơn, có tính lý luận sâu sắc và bảo
đảm cho Đảng tránh mắc sai lầm tả hữu khuynh trong việc lãnh đạo hoàn thành cách mạng dân tộc
dân chủ ở miền Nam trong thời kỳ chống đế quốc Mỹ.
D i s lãnh đ o sáng su t, đúng đ n c a ng, cu c kháng chi n ch ng th c dân Pháp xâm l c vàướ ự ạ ố ắ ủ Đả ộ ế ố ự ượ

can thi p c a M đã k t thúc th ng l i, đã đi vài l ch s dân t c nh m t chi n công hi n hách. V iệ ủ ỹ ế ắ ợ ị ử ộ ư ộ ế ể ớ
th ng l i c a kháng chi n ch ng Pháp, nhi m v c a cu c cách m ng dân t c, dân ch mà ng ta đãắ ợ ủ ế ố ệ ụ ủ ộ ạ ộ ủ Đả
v ch ra trong c ng l nh chính tr đ u tiên đã c n b n hoàn thành trên m t n a n c, m đ ng choạ ươ ĩ ị ầ ă ả ộ ử ướ ở ườ
mi n B c b c lên th i k quá đ lên CNXH, xây d ng h u ph ng v ng m nh đ nhân dân ti p t cề ắ ướ ờ ỳ ộ ự ậ ươ ữ ạ ể ế ụ
6-5
6-6
23
đ u tranh hoàn thành CM dân t c, đ a ch tr ng c n c, gi i phóng mi n nam, th c hi n th ngấ ộ ư ủ ươ ả ướ ả ề ự ệ ố
nh t đ t n c đi lên xây d ng CNXH, đem l i cu c s ng t do, m no, h nh phúc cho ng i dânấ ấ ướ ự ạ ộ ố ự ấ ạ ườ
Câu 7: Đồng chí hãy phân tích quá trình nhận thức của Đảng về con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (từ 1975 đến nay).
Bài làm
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, cả nước ta được độc lập, Đảng
chủ trương mau chóng hoàn thành thống nhất nước nhà về mọi mặt và đưa cả
nước cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trải qua hơn hai mươi năm phấn đấu, Đảng ta
đã thu được nhiều thành tựu trong bước đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta. Nhất là trong tư duy nhận tức con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Một trong
những thành tựu tư duy của Đảng chính là “Quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã có thể hình thành trên những nét chủ
yếu” (Nghị quyết Đại hội Đảng CSVN lần 7) và “Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta được xác định ngày càng rõ hơn” (Dự thảo Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ
8).
Để đi đến một lần kết luận như vậy cần phải có một quá trình nhận thức của Đảng. Nhận
thức theo quy luật logic của nó là sự tiếp nối tư duy, từ những nhận thức đơn giản ban đầu đến tư
duy ngày càng sát hợp với thực tiễn, không thể tách rời từng giai đoạn hoặc đổi chiều.
Đảng cộng sản Việt Nam nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội cũng đi theo con
đường biện chứng đó. Trước hết là nhận thức về mô hình, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Đại hội lần
thứ 4 của Đảng (1976) đã xác định chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam với bốn đặc trưng cơ bản : một là
nhân dân lao động làm chủ tập thể mà nòng cốt là liên minh công nông dưới sự lãnh đạo của Đảng;
hai là chế độ công hữu dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể không có người bóc lột người,

phân phối theo nguyên tắc : “Làm theo năng lực, hưởng theo lao động” trên cơ sở của nền sản xuất
lớn XHCN, ba là con người mới xã hội chủ nghĩa, bốn là nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa.
Về cơ bản, mô hình này đã có dưới thời Liên Xô, Trung Quốc trong đó nhấn
mạnh tính chất thuần khiết đến lý tưởng của mô hình CNXH với yếu tố : Nắm vững
chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động; khẳng
định sở hữu toàn dân tập thể phủ nhận của hình thức sở hữu tư nhân, cá thể, phân
phối theo lao động. Mô hình này được xem là mục tiêu của công cuộc xây dựng
CNXH ở miền Bắc thời kỳ 1954-1975 và cả nước thời kỳ 1975-1986.
Trong hơn 10 năm (từ 1986 đến nay), trong nhận thức của Đảng ta có sự thay đổi quan niệm
về mô hình, mục tiêu CNXH bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ 6 và rõ nét hơn trong Đại hội 7. Đảng
đưa ra một mô hình mới về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam với sáu đặc trưng đó là :
• Xây dựng nền sản xuất hàng hóa phát triển cao trên cơ sở lực lượng sản xuất hiện đại và
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
• Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
• Con người được giải phóng, làm theo năng lực, hưởng theo lao động.
24
• Các dân tộc trong cả nước bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển.
• Quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước trên thế giới trên cơ sở các bên cùng có lợi.
Về cơ bản, mô hình CNXH của Đại hội 7 vẫn giữ những quan điểm của Đại hội 4 thông qua
việc khẳng định các yếu tố : Nhân dân lao động làm chủ và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, đồng
thời nêu quan điểm chấp nhận đa sở hữu, nhiều thành phần kinh tế và sản xuất hàng hóa trong chủ
nghĩa xã hội.
Về tính chất và nội dung của thời kỳ quá độ lên CNXH. Đại hội 4 của Đảng xác định thời kỳ
quá độ là thời kỳ chuyển biến từ sản xuất nhỏ, lạc hậu, cá thể lên sản xuất lớn XHCN, sản xuất tập
thể, chuyển từ các hình thức sở hữu phi XHCN sang chế độ công hữu tư liệu sản xuất. Khẳng định sự
tồn tại của hai thành phần : kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, chuyển từ thị trường tự do sang
thị trường có tổ chức theo cơ chế kế hoạch hóa.
Chính từ nhận thức trên, chúng ta đã nóng vội cải tạo xã hội chủ nghĩa : tập trung ưu tiên
phát triển công nghiệp nặng; thủ tiêu sản xuất hàng hóa và kinh tế thị trường dẫn đến nhiều khó
khăn cho kinh tế xã hội những năm sau Đại hội Đảng lần thứ tư.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 5 xác định thời kỳ quá độ là thời kỳ lâu dài, có nhiều chặng và
nước ta đang ở chặng đầu của thời kỳ quá độ. Quyết tâm tiến thêm một bước dài trong nhận thức,
Đại hội 7 của Đảng đã đưa ra khái niệm định hướng XHCN của thời kỳ quá độ : quan niệm TKQĐ chưa
phải là CNXH mà là thời kỳ chứa đựng những yếu tố tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa để cuối
cùng yếu tố XHCN hoàn toàn thắng thế, được xác lập. Với ý nghĩa đó, thời kỳ quá độ phải là thời kỳ
lâu dài, có nhiều chặng.
Đối với nhận thức về cải tạo xã hội chủ nghĩa phải hình thành quan hệ sản xuất mới xã hội
chủ nghĩa.
Đại hội 4 và Đại hội 5 của Đảng xác định cải tạo XHCN để xây dựng quan hệ sản xuất là nhiệm
vụ trọng tâm. Do đó nảy sinh tư tưởng chỉ đạo hành động sớm, hoàn thành ngay cải tạo XHCN, kiến
tạo quan hệ sản xuất mới trên hai hình thức sở hữu công hữu (toàn dân và tập thể), xem quan hệ
sản xuất mới và yếu tố đi trước mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, là cơ sở kinh tế duy
nhất để củng cố cải tạo các thành phần kinh tế phi XHCN vừa phủ nhận sự tồn tại của kinh tế thị
trường, sản xuất hàng hóa và các thành phần kinh tế. Hiện thực nền kinh tế trước Đại hội 6 đã khẳng
định nhận thức trên là chưa phù hợp, cần phải có sự thay đổi.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 đã có sự thay đổi đáng kể trong nhận thức khi xác nhận cải
tạo XHCN là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài của cả thời kỳ quá độ. Tiến hành cải tạo XHCN phải thực
hiện trên cơ sở giải quyết đúng đắn quy luật quan hệ sản xuất luôn phù hợp với tính chất, trình độ
của lực lượng sản xuất; cải tạo XHCN phải bằng nhiều hình thức đa dạng với các bước đã phù hợp,
đưa sản xuất nhỏ từng bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Trên nhận thức và chỉ đạo hành động, Đảng đã thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần,
nhiều loại hình sở hữu khác nhau cùng tồn tại, đan xen, hỗ trợ và cạnh tranh lẫn nhau trong nền kinh
tế sản xuất hàng hóa, vận hành trong cơ chế thị trường, trong đó kinh tế quốc doanh (kinh tế Nhà
nước) giữ vị trí chủ đạo.
25
Nhận thức về công nghiệp hóa XHCN, về cơ bản chúng ta đã khẳng định : công nghiệp hóa là
nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kỳ quá độ. Nhưng về nội dung thực hiện trong từng chặng
đường cần được cụ thể hóa cho phù hợp với từng giai đoạn. Nếu ở Đại hội 4 công nghiệp hóa được
quan niệm là “ưu tiên phát triển công nghiệp nặng” dẫn tới sự đầu tư lệch về công nghiệp và nông
nghiệp thì ở Đại hội 5 đã xác định rõ nội dung công nghiệp hóa ở chặng đường đầu tiên của thời kỳ

quá độ là : tập trung phát triển nông nghiệp đưa nông nghiệp lên một bước sản xuất lớn … quan
niệm này được Đại hội 6 cụ thể hóa bằng việc đề ra ba chương trình kinh tế lớn tạo nên sự chuyển
biến mạnh trong nền kinh tế. Bảy năm sau Đại hội 6, hội nghị giữa nhiệm kỳ của Đại hội 7 đã có chủ
trương mới phân định nhận thức của Đảng. Từng bước thực hiện công nghiệp hóa ở chặng đường
còn lại đến năm 2000.
Nhận thức về cơ chế vận hành nền kinh tế, từ Đại hội 4 đến Đại hội 6 trong nhận thức có sự
chuyển biến từ quan niệm : cơ chế kinh tế kế hoạch hóa (thực chất là cơ chế quan liêu, hành chính,
bao cấp) sang cơ chế quản lý mới cơ chế vận hành song song (cơ chế kế hoạch và cơ chế thị trường)
cơ chế hai giá, các nghị quyết Trung ương 3, Trung ương 6 (Đại hội 6) đã khẳng định quan điểm phát
triển kinh tế nhiều thành phần trong cơ chế thị trường kết hợp kế hoạch định hướng; từ cơ chế 2 giá
đi đến cơ chế 1 giá. Đại hội 7 của Đảng khẳng định tư tưởng đổi mới cơ chế quản lý của Đại hội 6 và
nhấn mạnh quan điểm phát triển nền sản xuất hàng hóa nhiều thành phần vận hành trong cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ chế này để sáng tạo điều
kiện để nền kinh tế nước ta phát triển, thu được nhiều thành tựu mới.
Nhận thức về thể chế chính trị và quan hệ quốc tế : trước Đại hội 6, quan niệm chuyên chính
vô sản và tăng cường hệ thống chính trị quan hệ Đảng lãnh đạo, liên minh công nông là nền tảng, xây
dựng chế độ làm chủ của nhân dân lao động, coi Liên Xô và các nước XHCN là đồng minh chiến lược.
Đại hội 6 và Đại hội 7 có bổ sung một số quan niệm mới : Hệ thống chính trị được xác lập với
mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân lao động làm chủ. Quan hệ đối ngoại mở
cửa, làm bạn với tất cả các nước trên nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng chủ quyền, hợp tác cùng có lợi
… giúp chúng ta phá thế cô lập, tạo thời cơ mới.
Đại hội lần thứ 8 của Đảng cộng sản Việt Nam đã tổng kết 10 năm đổi mới, 5 năm thực hiện
Nghị quyết Đại hội 7 và quyết định chuyển nước ta sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước : xác định mục tiêu xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất,
kỷ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, có QHSX tiến bộ phù hợp với phát triển của LLSX, có đời
sống vật chất và văn hóa cao, quốc phòng an ninh được giữ vững, thực hiện mục tiêu : dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa cần
nắm vững một số quan điểm : Độc lập tự chủ đi đôi mở rộng hợp tác quốc tế …, công nghiệp hóa
hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, của các thành phần kinh tế trong đó kinh tế Nhà nước đóng
vai trò then chốt, lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố phát triển nhanh và bền vững …

coi khoa học công nghệ là động lực của công nghiệp hóa hiện đại hóa …, lấy hiệu quả kinh tế xã hội
làm tiêu chuẩn để lựa chọn phương hướng phát triển dự án đầu tư và công nghệ…
Tóm lại, nhận thức của Đảng về “con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã được xác
định ngày càng rõ hơn” (Dự thảo báo cáo chính trị Đại hội 8) giúp chúng ta tin tưởng và có những
tiêu chuẩn cụ thể để đánh giá công việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

×