Tải bản đầy đủ (.doc) (124 trang)

giáo dục đạo đức cho sinh viên trường cao đẳng tài chính – kế toán quảng ngãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.5 MB, 124 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................5

Chương 1. ĐẠO ĐỨC VÀ VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH
VIÊN...........................................................................................10
1.1. Đạo đức và chức năng của đạo đức................................................................10
1.1.1. Đạo đức................................................................................................10
1.1.2. Chức năng của đạo đức trong đời sống xã hội....................................15
1.2. Giáo dục đạo đức và vai trò của giáo dục đạo đức cho sinh viên..................19
1.2.1. Giáo dục đạo đức.................................................................................19
1.2.2. Vai trò của giáo dục đạo đức...............................................................20
1.2.3. Giáo dục đạo đức cho sinh viên..........................................................21

Chương 2. THỰC TRẠNG ĐẠO ĐỨC VÀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH
VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG TÀI CHÍNH - KẾ TỐN HIỆN NAY..33
2.1. Vài nét về Quảng Ngãi và Trường Cao đẳng Tài chính - Kế tốn Quảng Ngãi
hiện nay...............................................................................................33
2.1.1. Vài nét về Quảng Ngãi........................................................................33
2.1.2. Vài nét về Trường và sinh viên Trường Cao đẳng Tài chính - Kế tốn
............................................................................................................35
2.2. Thực trạng và tình hình giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường Cao đẳng
Tài chính - Kế tốn hiện nay..............................................................39
2.2.1. Quan niệm về đạo đức của sinh viên Trường Cao đẳng Tài chính - Kế tốn
............................................................................................................39
2.2.2 Tình hình giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường Cao đẳng Tài chính
- Kế toán.............................................................................................67

Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG TÀI CHÍNH KẾ TỐN QUẢNG NGÃI HIỆN NAY.......................................... 77

3.1. Nâng cao hiệu quả công tác, phương pháp giảng dạy các mơn khoa học MácLênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh...........................................................77




3.2. Thiết kế, xây dựng nội dung chương trình đảm bảo các yếu tố của giáo dục
đạo đức................................................................................................80
3.2.1. Xây dựng nội dung giáo dục đạo đức phù hợp, bảo đảm sự kết hợp
giữa giáo dục đạo đức truyền thống với giáo dục đạo đức chuyên
môn nghiệp vụ, quản lý doanh nghiệp...............................................80
3.2.2. Gắn chặt hơn nữa việc giáo dục đạo đức với thực hành đạo đức trong
công tác hướng dẫn sinh viên thực tập, thực tế................................84
3.3. Xây dựng môi trường kinh tế - xã hội lành mạnh, “trường học thân thiện,
học sinh tích cực”...............................................................................86
3.3.1. Xây dựng mơi trường kinh tế - xã hội lành mạnh...............................86
3.3.2. Xây dựng “trường học thân thiện, học sinh tích cực”........................94
3.4. Đổi mới cơng tác quản lý giáo dục đạo đức...................................................99
KẾT LUẬN ................................................................................................. 103
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................... 105
PHỤ LỤC

........................................................................................................109

DANH MỤC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN TỚI
LUẬN VĂN....................................................................................124

2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tồn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và trong
nền kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc

gia, các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ văn hố, kinh tế, v.v… trên quy mơ tồn
cầu. Đặc biệt là tồn cầu hóa về kinh tế. Một mặt, tạo cơ hội cho những tổ chức, cá
nhân có năng lực phát huy được tiềm năng của mình, đem lại lợi ích cho cá nhân và
cho cả xã hội. Mặt khác, tồn cầu hóa kinh tế cũng đem đến tác động tiêu cực trong
phát triển ổn định, bền vững nhất là đối với những nước đang phát triển như Việt
Nam. Đó là việc đặt mục tiêu kinh tế và lợi nhuận lên trên hết, làm giàu bất chính
bằng bất cứ giá nào. Điều đó, góp phần làm băng hoại nền đạo đức xã hội, làm cho
quan hệ giữa người với người trở nên lạnh lùng, xa lạ, "khơng tình, khơng nghĩa" và
đây thực sự là một nguy cơ của sự suy thoái đạo đức, lối sống con người Việt Nam
hiện nay. Biểu hiện thông qua, lối sống sùng bái vật chất, cá nhân, vị kỷ, thực dụng,
đua địi, ăn chơi xa hoa, lãng phí, sống truỵ lạc, thác loạn, ưa dùng bạo lực... Lối
sống đó đang phần nào tác động đến một bộ phận tầng lớp thanh niên, sinh viên.
Chính vì thế, tại Đại hội IX, Đảng ta nhấn mạnh: “Đối với thế hệ trẻ, chăm lo
giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng đạo đức, lối
sống, văn hố, sức khoẻ, nghề nghiệp, giải quyết việc làm, phát triển tài năng, sức
sáng tạo, phát huy vai trị xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”
[16, tr.50] đang là một yêu cầu cấp bách
Là một giảng viên của Trường Cao đẳng Tài chính - Kế tốn Quảng Ngãi,
nhận thấy sự cần thiết và tầm quan trọng của vấn đề giáo dục đạo đức cho sinh viên
khi còn đang ngồi trên ghế nhà trường là lý do để tôi chọn đề tài “Giáo dục đạo
đức cho sinh viên trường Cao đẳng Tài chính Kế - tốn Quảng Ngãi hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Có thể thấy rằng vấn đề về giáo dục đạo đức nói chung và giáo dục đạo đức
cho sinh viên nói riêng từ rất lâu đã có sự quan tâm sâu sắc và chặt chẽ của các nhà
nghiên cứu, các học giả, của Đảng, Nhà nước cũng như của các tổ chức xã hội, tổ

3


chức nghề nghiệp... thơng qua các cơng trình nghiên cứu và cơng bố dưới những

góc soi chiếu giá trị khác nhau về con người, nhân cách con người, về đạo đức, lối
sống, lý tưởng, niềm tin... đã có một số các tác phẩm chung nhất sau đây nghiên cứu
về vấn đề này:
Trần Văn Giàu (1980),“Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt
Nam”, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội; Thành Duy (1996), “Tư tưởng Hồ Chí Minh
về đạo đức”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Trần Hậu Kiêm (1997), “Đạo đức
học”, Nxb Giáo dục; Phạm Minh Hạc (2002), “Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa
của thế kỷ XXI”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; GS. La Quốc Kiệt (2003), “Tu
dưỡng đạo đức tư tưởng”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Vladimir Soloviev,
Karol Vojtyla, Albert Schweitzer (2004), “Triết học đạo đức”, Nxb Văn hóa thơng
tin, Hà Nội; GS.TS Nguyễn Ngọc Long, PGS.TS Nguyễn Thế Kiệt (chủ biên, 2004)
“Giáo trình đạo đức học Mác-Lênin”, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội; Phan Thanh
Long (chủ biên, 2006), “Lý luận giáo dục”, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
Một số tác giả, tác phẩm với nhiều đề tài khác nhau nghiên cứu chuyên sâu
về vấn đề giáo dục đạo đức như:
Phan Huy Lê - Vũ Minh Giang (1996), Các giá trị truyền thống và con người
Việt Nam hiện nay, Đề tài KX 07-02, T1, Hà Nội; Hồng Chí Bảo (2001), Nhân cách và
giáo dục văn hoá nhân cách, Tạp chí Triết học T1; Nguyễn Trọng Chuẩn (2001) Kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay và những biến động trọng
lĩnh vực đạo đức, Tạp chí Triết học (số 09); PGS.TS Nguyễn Thế Kiệt (2001) Quan hệ
giữa đạo đức và kinh tế trong việc định hướng các giá trị đạo đức hiện nay, Tạp chí Triết
học (số 06); Đỗ Lan Hiền (2002), “Vấn đề giáo dục đạo đức trong bối cảnh phát triển
kinh tế thị trường”, Tạp chí Triết học (số 04);Vũ Trọng Dung (2004), Tác động của kinh
tế thị trường đến đạo đức người cán bộ quản lý, Tạp chí Triết học, (số 05)...
Tuy nhiên, trong vấn đề về đạo đức và giáo dục đạo đức thì đối tượng được
quan tâm soi chiếu nhiều nhất cả về những điểm chung và những điểm đặc thù đó
chính là của những học sinh, sinh viên và thanh niên - những con người gánh vác
trên vai mình trọng trách xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
với một số các công trình tiêu biểu như:


4


“Giáo dục đạo đức trong điều kiện phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
vận động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay”
(Phạm Duy Chư, Luận văn thạc sĩ, Hà Nội 1996) góp phần làm sáng tỏ một số nội
dung của khái niệm đạo đức và các chuẩn mực về đạo đức trong điều kiện nền kinh
tế thị trường ở nước ta hiện nay. Đồng thời tác giả đề xuất một số phương hướng và
biện pháp cơ bản để giáo dục đạo đức.
“Giáo dục đạo đức cho sinh viên trường cao đẳng sư phạm Bến Tre - thực
trạng và giải pháp” (Huỳnh Thị Hoàng Nâu, Luận văn thạc sĩ, Hà Nội 2004). Hệ
thống hố vai trị giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách
sinh viên. Phân tích thực trạng đạo đức và cơng tác giáo dục đạo đức cho sinh viên
ở Trường Cao đẳng Sư phạm Bến Tre. Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng và hiệu quả giáo dục đạo đức cho sinh viên.
“Vấn đề giáo dục đạo đức cho sinh viên ngân hàng ở Việt Nam hiện nay”
(Lê Thị Chung, Luận văn thạc sĩ, Hà Nội 2004) làm rõ tầm quan trọng của việc giáo
dục đạo đức cho sinh viên ngân hàng và đánh giá thực trạng của công tác này ở Việt
Nam. Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho sinh
viên Ngân hàng hiện nay.
“Quan điểm của Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cho thanh niên và vận
dụng vào điều kiện hiện nay” (Nguyễn Thu Trang, Luận văn thạc sĩ, Hà Nội 2008)
phân tích nội dung quan điểm của Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cho thanh niên
thơng qua các bài nói, bài viết, việc làm và tấm gương đạo đức của Người. Trình
bày sự vận dụng và phát triển quan điểm của Người về giáo dục đạo đức cho thanh
niên ở nước ta hiện nay xuất phát từ thực tiễn tình hình giáo dục trong nước và thế
giới. Đề xuất một số giải pháp: tăng cường công tác giáo dục đạo đức cho thanh
niên; giáo dục đạo đức cho thanh niên theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; kết
hợp chặt chẽ giữa gia đình với nhà trường và xã hội; tăng cường vai trị của các tổ
chức đồn thể xã hội; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước

nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho thanh niên ở nước ta hiện nay.
Có thể thấy rằng vấn đề nghiên cứu các giá trị đạo đức và giáo dục đạo đức
cho sinh viên, cho thế hệ trẻ cách mạng của nước ta ngày hôm nay và mai sau

5


không bao giờ là đủ. Vậy nên, thông qua hàng loạt các bài viết, bài nói, cơng trình
nghiên cứu về đạo đức, các giá trị đạo đức, giáo dục đạo đức như tác giả đã đề cập ở
trên nhưng chưa đề tài nào nghiên cứu, nhấn mạnh về vấn đề “giáo dục đạo đức
cho sinh viên Tài chính - Kế tốn”. Vậy nên, tơi đi sâu nghiên cứu đề tài luận văn
của mình là: “Giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường Cao đẳng Tài chính Kế
tốn Quảng Ngãi hiện nay” với mong muốn sẽ làm rõ hơn và nổi bật lên vấn đề về
giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên góp phần vào sự phát triển ổn định, bền
vững của nền kinh tế nước nhà.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Luận văn làm sáng tỏ, vai trò, nội dung, thực trạng của công tác giáo dục đạo
đức cho sinh viên Trường Cao đẳng Tài chính - Kế tốn Quảng Ngãi, từ đó đề xuất
một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng công tác giáo dục đạo đức
cho sinh viên Trường Cao đẳng Tài chính - Kế tốn Quảng Ngãi.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích trên thì luận văn có nhiệm vụ làm rõ:
- Đạo đức và vai trò của giáo dục đạo đức cho sinh viên.
- Thực trạng, nội dung đạo đức và giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường
Cao đẳng Tài chính - Kế tốn Quảng Ngãi.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho sinh
viên Trường Cao đẳng Tài chính - Kế tốn Quảng Ngãi.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng:

Sinh viên đang học tập tại Trường Cao đẳng Tài chính - Kế toán Quảng
Ngãi.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu đạo đức và giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường Cao đẳng Tài
chính - Kế tốn Quảng Ngãi hiện nay.

6


5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về giáo dục và giáo dục đạo đức cho sinh viên
Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp một số phương pháp cụ thể
như: phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống, so sánh, phỏng vấn, điều tra xã hội
học… để trình bày những vấn đề đặt ra trong luận văn.
6. Đóng góp mới về khoa học và ý nghĩa của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ vai trị, nội dung, tầm quan trọng của giáo
dục đạo đức cho sinh viên Trường Cao đẳng Tài chính - Kế tốn Quảng Ngãi hiện
nay.
- Trên cơ sở đó đề ra các giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng và hiệu
quả công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường Cao đẳng Tài chính - Kế tốn
hiện nay.
- Luận văn có thể làm tài liệu nghiên cứu để giáo dục đạo đức cho sinh viên
ở các trường Đại học, Cao đẳng hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận

văn gồm 3 chương, 8 tiết:
Chương 1: Đạo đức và vai trò của giáo dục đạo đức cho sinh viên.
Chương 2: Thực trạng đạo đức và giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường
Cao đẳng Tài chính - Kế toán hiện nay
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho sinh
viên Trường Cao đẳng Tài chính - Kế tốn Quảng Ngãi hiện nay

7


Chương 1
ĐẠO ĐỨC VÀ VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN

1.1. Đạo đức và chức năng của đạo đức
1.1.1. Đạo đức
Theo nghiên cứu của một số các tác giả như: Trần Hậu Kiêm (1997) “Đạo
đức học”, Nxb Giáo dục, Hà Nội; GS.TS Nguyễn Ngọc Long, PGS.TS Nguyễn Thế
Kiệt (chủ biên), “Giáo trình đạo đức học Mác - Lênin”, Nxb Lý luận Chính trị, Hà
Nội, 2004; Vladimir Soloviev, Karol Vojtyla, Albert Schweitzer (2004) “Triết học
đạo đức”, Nxb Văn hóa thơng tin, Hà Nội; PGS.TS Nguyễn Mạnh Qn (2007)
“Đạo đức kinh doanh và văn hóa cơng ty”, Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân, thì từ
“đạo đức” có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp cổ “Ethos” - đạo lý và tiếng Latinh là
“Moralital” - luân lý, có nghĩa là “phong tục, tập qn, thói quen, cách ứng xử, đặc
tính, loại hình tư tưởng”.Từ này xuất hiện lần đầu tiên trong tiếng Pháp vào năm
1265. Cicéron sau đó đã dịch từ “đạo đức” (éthique) qua từ “luân lý” (morale) trong
tiếng La tinh, chính từ luân lý cũng bắt nguồn từ từ mores có nghĩa là “phong tục tập
quán”. Sau đó tiếng Pháp đã dùng từ này lần đầu tiên vào năm 1530. Hai từ “luân lý”
và “đạo đức” ban đầu có chung một định nghĩa “cách hành xử được ấn định bởi
phong tục, tập quán của một nước”. Muốn phân biệt hai từ trên cần tìm hiểu lịch sử
của các ý tưởng. Ngay từ thời thượng cổ, người Hy Lạp đã coi đạo đức như suy nghĩ

về những nguyên tắc chỉ đạo cuộc sống con người trong khi đó thì người La Mã gán
cho từ luân lý một hàm ý về luật, cả hai đều chứa đựng tập quán của hai dân tộc. Lịch
sử đạo đức cho đến nay có rất nhiều những quan điểm khác nhau:
Trước C.Mác, các nhà triết học phương Tây, do duy tâm trong quan niệm về
lịch sử, nên mặc dù có những tư tưởng hợp lý nhất định về đạo đức, nhưng nhìn
chung, họ khơng giải quyết được một cách thật sự khoa học những vấn đề căn bản
của đạo đức học.
Vấn đề căn bản nhất của đạo đức học là vấn đề bản chất của đạo đức. Các
tôn giáo cũng như các nhà triết học trước Mác thường quy đạo đức về một cội
nguồn, một bản nguyên phi lịch sử. Bản nguyên đó hoặc là Thượng đế (tôn giáo),

8


hoặc là một nguyên lý tiên thiên (I.Cantơ), một ý niệm tuyệt đối tự phát triển
(G.Hêghen), một bản tính người trừu tượng (L.Phoiơbắc)... tiêu biểu với một số
quan điểm về đạo đức:
Theo Socrates (khoảng năm 469-399 tr.CN), một mặt đức hạnh là tri thức,
bất cứ ai biết điều gì là đúng đắn tất sẽ thực hiện điều đó. Hành vi sai trái chỉ xuất
phát từ sự vô minh. Một người có hành động khơng đúng bởi vì, và chỉ vì, anh ta
khơng biết cái gì là đúng đắn. Khơng có một người tỉnh táo và lành mạnh nào lại
chủ tâm làm tổn hại bản thân mình. Nếu anh ta thực sự làm một điều như vậy, đơn
giản chỉ vì phạm phải sai lầm nào đó trong q trình hành động, hồn tồn khơng
phải do cố ý. Khơng ai chủ định chọn lựa điều sai trái, bởi lẽ hành vi tội lỗi luôn
mang đến tai hoạ cho bản thân họ và người khác; mặt khác đức hạnh không chỉ là
tri thức, bản thân nó cũng đồng nghĩa với hạnh phúc. Bởi lẽ, hành vi đạo đức cũng
chính là hành vi mang đến những điều tốt đẹp cho người thực hiện nó. Hạnh phúc
kết thành quả từ đó.
Theo Aristote (384-322 tr.CN), con người được sinh ra, không chỉ sống để
tồn tại, mà để sống một cuộc đời tốt đẹp - tuân thủ những ngun tắc do lý trí của

chính mình tạo ra, tuân theo bản chất tối thượng của mình. Hành vi cá nhân cần
được kiểm soát bởi các nguyên tắc đạo đức, sự tiết độ và né tránh mọi hình thức
thái quá hay bất cập. Điều này đòi hỏi anh ta phải xác định hành vi đúng đắn cho
từng tình huống cụ thể. Đó khơng phải là một cơng việc dễ dàng, bởi lẽ mực thước
và đức độ có nghĩa là làm đúng việc, liên hệ đúng người, đúng nơi, đúng lúc, đúng
mức, đúng cách và phục vụ cho mục đích đúng đắn, đối tượng của đạo đức là “lĩnh
vực hoạt động của con người, với tư cách là một hành vi xuất phát từ một quyết
định”. Theo bản năng, con người đi tìm “cái lợi ích tối cao” của riêng mình và điều
đó thể hiện sự thành đạt của anh ta. Đó là hạnh phúc, (thuyết duy hạnh phúc), mục
đích tối thượng của hoạt động của con người, nó khơng chỉ đơn thuần là khoái lạc,
danh dự hay giàu sang, mà cũng khơng phải là cái gì tuyệt đối bởi vì của cải của con
người là ở sự hồ hợp hoạt động của tâm hồn với đạo đức. Trong số các đức tính do
Aristote đề nghị, sự thận trọng có tính chất quyết định để đảm bảo cho hành động
có đạo đức: ...không thể làm người lương thiện theo đúng nghĩa, nếu khơng có đức
tính thận trọng, và cũng khơng thể là người thận trọng nếu khơng có đạo đức luân

9


lý... Đức tính này đảm bảo việc đánh giá đúng hành động của chúng ta và giúp
chúng ta thoát khỏi những dục vọng. Thái độ có đạo đức khơng xuất phát từ việc
đánh giá, nó được hình thành trong thực tế: luyện tập, thói quen, học hỏi.
Kant (1724 - 1804), cho rằng thế giới vốn được hình thành trên cơ sở các quy
luật đạo đức. Vì thế, nếu theo đuổi một cuộc sống trái đạo đức, cá nhân sẽ phát hiện
ra rằng cuối cùng các quy luật ấy cuốn phăng mọi nỗ lực đi ngược lại với dòng chảy
của cuộc đời. Một xã hội, tổ chức hay doanh nghiệp nào đó được vận hành trên nền
tảng phi đạo đức chẳng bao giờ có được sự thành cơng lâu bền. Một thương gia chỉ
quan tâm đến mục đích tạo ra lợi nhuận, bất chấp mọi phương tiện và thủ đoạn, sẽ
nhận ra rằng lừa đảo và gian trá chỉ mang đến sự bất tín nhiệm và tai hoạ về mặt
luật pháp. Giới doanh nhân và các nhà đầu từ thời hiện đại đánh giá tiếng tăm và uy

tín như một thứ tài sản thiết yếu; họ ln đón chào và mong đợi khách hàng tìm đến
với sản phẩm của mình trên tinh thần thiện ý.
Ở phương Đông, đạo đức không phụ thuộc vào tôn giáo mà thường xuất phát
từ quan hệ giữa người với người và thường được giáo dục qua lăng kính của Nho
giáo, đó là quan điểm đức trị độc đáo của phương Đơng trong đó Khổng Tử là một
đại biểu tiêu biểu cho “Thuyết đức trị”. “Thuyết đức trị” có vai trị to lớn trong việc
bảo vệ tơn ti, trật tự đẳng cấp xã hội phong kiến phương Đơng, giữ cho đất nước thái
bình, thịnh trị theo quan điểm thống trị của xã hội phong kiến lúc bấy giờ. Ý nghĩa
chính của Thuyết Đức trị là: Nếu mọi người trong cộng đồng đều tốt lành, lương
thiện cả thì xã hội tất yếu có trật tự, khơng cần phải có luật pháp. Như vậy tất cả
mọi người trong xã hội đều quy vào việc tu thân, giáo hoá con người.
Với việc phát hiện chủ nghĩa duy vật lịch sử, C.Mác (1818-1883) không chỉ tạo
ra bước ngoặt cách mạng trong quan niệm về sự phát triển xã hội nói chung mà còn
đặt cơ sở khoa học cho tất cả các lĩnh vực khoa học xã hội, trong đó có đạo đức học.
Xuất phát từ vai trò của lao động sản xuất đối với sự hình thành, tồn tại và
phát triển con người, C.Mác đi đến quan niệm về tính quy định của phương thức
sản xuất đối với toàn bộ hoạt động của con người, xã hội loài người.
Ngay từ trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, ý thức đạo đức của những người
mông muội trong các khu rừng và các hang động đã đặt ra yêu cầu là con người

10


phải thiết lập được mối quan hệ với nhau, phải hợp tác với nhau trong công việc săn
bắt, hái lượm… hàng ngày. Từ đó đã làm nảy sinh khát vọng tự nguyện, tự giác,
bình đẳng, cơng bằng trong xã hội và đây chính là những biểu hiện đầu tiên của giá
trị, chuẩn mực, nguyên tắc đạo đức trong hình thức phát triển của nó.
Trong Lời tựa viết cho Góp phần phê phán khoa kinh tế - chính trị, C.Mác đã
viết: “Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định q trình sinh hoạt xã hội,
chính trị và tinh thần nói chung. Khơng phải ý thức của con người quyết định sự tồn

tại của họ; trái lại, sự tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ” [34, tr.15].
Mỗi hệ thống đạo đức ấy phản ánh và bảo vệ lợi ích của một giai cấp xã hội tương
ứng. Từ đó, Ăngghen (1820-1895) khẳng định: “Con người, dù tự giác hay không
tự giác, rút cuộc đều rút những quan niệm đạo đức của mình từ những quan hệ thực
tiễn đang làm cơ sở cho vị trí giai cấp của mình, tức là những quan hệ kinh tế trong
đó người ta sản xuất và trao đổi” [34, tr.136].
Trong Chống Đuyrinh, cùng với việc phê phán quan niệm của Đuyrinh về
những chân lý đạo đức vĩnh cửu, Ph.Ăngghen đã khẳng định rằng, về thực chất và
xét đến cùng, các nguyên tắc, các chuẩn mực, các quan niệm đạo đức chẳng qua chỉ
là sản phẩm của các chế độ kinh tế, các thời đại kinh tế. Ph.Ăngghen viết: “Từ dân
tộc này sang dân tộc khác, từ thời đại này sang thời đại khác, những quan niệm về
Thiện -Ác đã biến đổi nhiều đến mức chúng thường trái ngược hẳn nhau” [34,
tr.135]. “Người da đỏ châu Mỹ xem việc lột da đầu người thật nhiều là công trạng,
anh ta quan niệm việc làm này là lương thiện và anh hùng không chỉ hơm nay, mà
mãi mãi, khơng chỉ cho một mình anh ta, mà còn cho mọi con người tử tế... Người
Gottentot nổi tiếng tuyên bố rằng thiện - đó là khi anh ta đánh cắp được thật nhiều
bò của người khác, còn ác - khi người khác đánh cắp bò của anh ta, thì dĩ nhiên anh
ta khơng xem cái ngun tắc đạo đức ấy là của riêng mình, mà cho rằng đối với mọi
người đánh cắp được thật nhiều của cải của người khác là thiện, cịn để mất của
mình là ác” [47, tr.32].
Ph.Ăngghen đặc biệt chú ý đến tính giai cấp của đạo đức. Ông cho rằng,
trong xã hội có phân chia giai cấp, mỗi hệ thống đạo đức đều biểu hiện lợi ích của
một giai cấp nhất định. Khơng có đạo đức chung chung, đứng trên mọi sự phân biệt

11


giai cấp. Do đó, bất cứ thời đại nào cũng đều có mối quan hệ giữa cá nhân và xã
hội. Tùy theo trình độ phát triển của xã hội mà những lợi ích của cá nhân phù hợp ít
hay nhiều với lợi ích xã hội. Trong những xã hội có giai cấp, nhưng khơng đối

kháng, thì lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội cơ bản là thống nhất. Tuy nhiên trong xã
hội ấy, lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội khơng phải là đã hồn tồn phù hợp, khơng
có mâu thuẫn. Cho nên vấn đề đặt ra là phải điều chỉnh sao cho lợi ích cá nhân phù
hợp với lợi ích xã hội, phụ thuộc vào lợi ích xã hội.
Để thực hiện việc điều chỉnh hành vi của con người trong xã hội có giai cấp
thì giai cấp thống trị nêu ra những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực làm tiêu chuẩn
cho hoạt động của cá nhân và của các cộng đồng người trong xã hội ấy. Các nguyên
tắc, quy tắc, chuẩn mực ấy dựa trên lợi ích kinh tế, chính trị của giai cấp thống trị
không phải được đặt ra một cách tùy tiện mà thể hiện những quan hệ kinh tế của
phương thức sản xuất trong xã hội đó. Nó được biểu hiện như yêu cầu tự nhiên,
nhằm bảo đảm sự tồn tại và phát triển xã hội.
Để những hoạt động của cá nhân không vượt ra khỏi những giới hạn xã hội,
xã hội dùng các biện pháp điều chỉnh, trong đó có những quan hệ đạo đức. Sự phản
ánh những yêu cầu chung, tất yếu của xã hội được biểu hiện ra như ý chí, nhà nước,
pháp luật. Yêu cầu của xã hội đối với cá nhân hay nhóm người trong xã hội nhất
định có thể mang hình thức cơng khai, trực tiếp thông qua hệ thống pháp luật và để
đảm bảo những luật lệ đã được ban hành, Nhà nước áp dụng một hệ thống các biện
pháp trừng phạt theo mức độ vi phạm. Trách nhiệm cá nhân về mặt đạo đức được
biểu hiện trước hết là gánh chịu sự đánh giá của dư luận xã hội về sự tự lựa chọn
các hành vi đạo đức của mình. Sau nữa nó cịn được phán xử bởi chính lương tâm
con người về những động cơ, mục đích thầm kín của bản thân mình. Trên cơ sở đó
mà nó nhận thức được những giá trị đạo đức chân thực và định hướng được hoạt
động của mình phù hợp với lợi ích của xã hội và người khác.
Đạo đức trong quan niệm của Hồ Chí Minh chính là tồn bộ những chuẩn
mực xã hội nhằm điều chỉnh hành vi của con người trong quan hệ với người khác
và với cộng đồng. Dựa vào những chuẩn mực đó người ta đánh giá hành vi của mỗi

12



người theo các quan niệm về thiện và ác, về cái được làm và cái không được làm
trong đời sống...
Vậy là, đạo đức không phải là một hiện tượng siêu nhiên, thần bí, khơng phải
là một lực lượng áp đặt từ bên ngồi vào xã hội, đạo đức khơng phải là sản phẩm
chủ quan của con người mà sự ra đời và phát triển của đời sống đạo đức là do nhu
cầu cuộc sống của con người, của xã hội đặt ra. Đạo đức là sự phản ánh những quan
hệ xã hội hiện thực được hình thành trên cơ sở kinh tế. Vì vậy đạo đức học khơng
chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu hình thái tư tưởng tinh thần của đạo đức, mà còn chú
ý nghiên cứu nội dung khách quan của nó là những quan hệ đạo đức hiện thực.
Trong đời sống đạo đức, những giá trị đạo đức được sáng tạo ra không chỉ tồn tại
trong ý thức, mà điều quan trọng là phải được thể hiện trong đời sống hiện thực ở
tất cả các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
Với tư cách là những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực nhằm để điều chỉnh
hành vi con người, nhân loại bao giờ cũng cần đến đạo đức. Từ cổ đại đến hiện đại,
từ phương Đơng đến phương Tây, khơng lúc nào vắng bóng hay thiếu sự hiện diện
của đạo đức. Khoa học - kỹ thuật càng phát triển, xã hội càng tiến bộ... nhân loại
càng cần đến đạo đức. Do vậy, “Đạo đức là tổng hợp những nguyên tắc, qui tắc,
chuẩn mực xã hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình vì lợi ích xã
hội, hạnh phúc của con người trong mối quan hệ giữa con người và con người, giữa cá
nhân và tập thể hay toàn xã hội” [29, tr.7].
1.1.2. Chức năng của đạo đức trong đời sống xã hội
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội góp phần quan trọng xây dựng mối
quan hệ giữa người và người, giữa cá nhân và xã hội. Chức năng của đạo đức là
giúp con người nhận thức, giáo dục và điều chỉnh suy nghĩ, hành động phù hợp với
những yêu cầu xã hội. Nhờ vậy con người tự giác tuân theo những quy tắc, chuẩn
mực trong xã hội. Đạo đức cịn có vai trị to lớn giúp con người sáng tạo hạnh phúc
và giữ gìn, bảo vệ cuộc sống tốt đẹp của xã hội và phẩm giá con người. Những giá
trị đạo đức cao cả có sức rung cảm sâu sắc làm thức tỉnh những tình cảm cao đẹp và
lâu bền trong tâm hồn con người. Đạo đức xã hội chủ nghĩa chẳng những có ý nghĩa
nâng cao lòng tin của con người vào cuộc sống, nâng cao tính tích cực của họ, mà


13


bản thân nó cũng là sự biểu hiện lịng tin của con người và xã hội. Vì vậy trong
quản lý xã hội cần có sự quan tâm đúng mức của chức năng đạo đức. Dưới đây là
những chức năng cơ bản của đạo đức.
Chức năng giáo dục: Chức năng giáo dục của đạo đức nhằm hình thành cho
con người những quan điểm cơ bản nhất, những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực
đạo đức cơ bản; nhờ đó con người có thể có khả năng lựa chọn, đánh giá đúng đắn
các hiện tượng đạo đức xã hội cũng như tự đánh giá những suy nghĩ, hành vi của
bản thân mình. Vì thế cơng tác giáo dục đạo đức góp phần quan trọng vào việc hình
thành, phát triển nhân cách con người mới. Cùng với q trình giáo dục nhờ hoạt
động tích cực, con người càng hiểu rõ vai trò to lớn của lương tâm, ý thức, danh dự
và các phẩm chất đạo đức của cá nhân đối với bản thân mình trong đời sống cộng
đồng. Những tấm gương đạo đức cao cả có sức lơi cuốn con người, giúp họ học tập,
rèn luyện hướng theo cái tốt đẹp, cái thiện.
Những người cộng sản là những người sáng tạo nên các giá trị đạo đức cao cả.
Đó là tinh thần chiến đấu dũng cảm, sự quên mình vì tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc
của nhân dân trong cuộc đấu tranh vĩ đại và lâu dài của dân tộc. Những tấm gương ấy
có sức thuyết phục và cổ vũ con người học tập, tu dưỡng để xứng đáng hơn nữa và
đáp ứng những nhu cầu của sự tiến bộ xã hội. Bác Hồ - vị lãnh tụ vĩ đại của nhân dân
Việt Nam đã nêu một tấm gương sáng chói về đạo đức cách mạng. Người coi đạo đức
là cái gốc của cán bộ, đảng viên. Thực hiện lời dạy của người, nhiều cán bộ, chiến sĩ
đã lao động, chiến đấu quên mình, sẵn sàng hy sinh vì hạnh phúc của nhân dân, vì
độc lập tự do của Tổ quốc, vì lý tưởng cao đẹp của con người.
Chức năng điều chỉnh hành vi: Sự tự điều chỉnh theo chuẩn mực đạo đức
biểu hiện thành những khái niệm về nhân phẩm, danh dự, đúng sai, thiện ác... là các
yêu cầu của xã hội cho hành vi của mỗi cá nhân mà nếu khơng tn theo có thể sẽ bị
xã hội lên án hoặc bị lương tâm cắn rứt. Chuẩn mực đạo đức xã hội như một mệnh

lệnh bản thân định hướng cho hoạt động của con người luôn biết hướng tới điều
“thiện” tránh điều “ác”. Chuẩn mực đạo đức là phương thức tự điều chỉnh ưu việt
và đặc thù của xã hội lồi người giúp con người có khả năng tự hồn thiện và phát
triển ngày một văn minh, tiến bộ hơn.

14


Chức năng điều chỉnh hành vi của đạo đức cần có một hệ thống quy tắc,
chuẩn mực trong đời sống thực tiễn xã hội. Thông qua đời sống của xã hội hiện
thực, bằng cách này hay cách khác sự kết hợp nhu cầu về lợi ích giữa cá nhân và tập
thể với lợi ích tồn xã hội làm cho xã hội phát triển bền vững hơn sẽ nâng giá trị
mang đậm tính nhân bản, tính người của con người, của cá nhân, tập thể tham gia
vào hoạt động xã hội của cộng đồng người và xã hội loài người. Do đó sự tự điều
chỉnh có vai trị hết sức quan trọng để mỗi cá nhân trong khi thỏa mãn những nhu
cầu đạo đức và lợi ích chính đáng của mình thì cũng lưu tâm, băn khoăn, và tìm
cách giải quyết một cách hài hồ nhất với lợi ích của xã hội mà khơng phải tìm cách
lách luật và “lách lương tâm”.
Muốn có được sự điều chỉnh hợp lý, mỗi con người khơng phải chỉ biết dừng
lại ở chỗ hài lịng với những cái đã có, với những mong muốn, mà điều quan trọng
là phải biết biến những mong muốn tốt đẹp ấy thành hành động thực tiễn và với
những hành động thực tiễn, trong quan hệ với xã hội, con người hiểu rõ mình, hiểu
sâu sắc thêm những giá trị đạo đức của thế giới mình đang sống, nâng mình lên một
thang bậc giá trị mới. Vì thế chức năng giáo dục và chức năng điều chỉnh của đạo
đức gắn bó mật thiết với chức năng nhận thức.
Chức năng nhận thức: Các quan điểm, tư tưởng đạo đức là kết quả của sự
phản ánh đời sống xã hội. Nhưng lại là cơng cụ nhờ đó con người nhận thức xã hội.
Những quan điểm đạo đức tiến bộ, khoa học giúp con người nhận thức, đánh giá
đúng đắn các quá trình vận động, phát triển đạo đức. Nhờ những nguyên tắc, chuẩn
mực đạo đức đã được nhận thức, con người phân biệt được cái đúng, cái sai, cái tốt,

cái xấu, cái thiện cái ác trong đời sống. Trên cơ sở đó mà định hướng một cách
đúng đắn hành vi của mình trong thực tiễn. Trong quá trình tham gia vào đời sống
đạo đức thực tiễn, mỗi người nhờ nỗ lực của mình mà lại làm cho nhận thức đạo
đức của bản thân thêm sâu sắc và phong phú.
Chức năng nhận thức có vai trị tác động vơ cùng to lớn đến hành vi, cách
ứng xử của con người với con người và môi trường: “Bấy giờ, (vào thời điểm sa
ngã) mắt hai người mở ra, và họ thấy mình trần truồng; họ mới kết lá vả làm khố
che thân. Nghe tiếng Đức Chúa Trời Vĩnh Hằng,... con người và vợ mình trốn vào

15


giữa cây cối trong vườn để khỏi giáp mặt Đức Chúa. Và Đức Chúa Trời Vĩnh Hằng
gọi con người và hỏi: “Ngươi ở đâu?”. Con người thưa: “Con nghe thấy tiếng Ngài
trong vườn và hoảng sợ, vì con trần truồng nên con lẩn trốn”. Đức Chúa Trời hỏi:
“Ai cho ngươi biết là ngươi trần truồng?”. Trong giây phút sa ngã từ thâm tâm con
người vang lên tiếng nói tối cao hỏi: Ngươi ở đâu? Ở đâu phẩm giá đạo đức của
ngươi? Con người vị chúa tể của thiên nhiên và hình ảnh của Chúa Trời, ngươi cịn
tồn tại hay khơng? - Và ngay lập tức vang lên câu trả lời: Tơi nghe thấy tiếng nói
của thần thánh, tơi hoảng sợ sự phấn kích và sự lộ hiện cái bản chất tự nhiên hạ
đẳng của tôi: Tôi xấu hổ tức là tôi tồn tại, không chỉ tồn tại bằng vật chất, cịn cả
bằng tinh thần nữa, - tơi xấu hổ tính con vật của mình, tức là tơi cịn tồn tại như là
con người” [47, tr.32].
Bằng hành động của chính mình và thử thách bản chất của mình, con người
đạt đến sự tự ý thức về sự tồn tại và về hành vi đạo đức của mình, khai phá ra
những giá trị đạo đức mới, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của xã hội đương thời.
Những quan điểm đạo đức sai lầm không giúp con người nhận thức đúng sự phát
triển xã hội. Điều đó làm cho hành động mắc sai lầm, không đạt được điều mà chủ
thể mong muốn. Cho nên, những quan điểm đạo đức như vậy đưa lại nỗi thất vọng,
không tin tưởng vào cuộc sống và làm giảm sút ý chí cũng như khả năng nhận thức

hoạt động của con người.
Trong các chức năng nêu trên thì chức năng giáo dục giữ vai trị hết sức quan
trọng. Nhờ có chức năng này mà con người đã tự giác điều chỉnh hành vi của mình
làm cho cá nhân và xã hội cùng tồn tại và phát triển, bảo đảm được quan hệ lợi ích
giữa cá nhân và cộng đồng, giúp cho con người nhận thức và hành động theo cái
chân, thiện, mỹ, đẩy lùi cái ác, thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển của xã hội… Tuy
nhiên hiệu lực của sự tác động trở lại đó lại phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố sau: Ý
thức đạo đức đó là tiến bộ hoặc lạc hậu: Nếu tiến bộ nó sẽ có tác dụng thúc đẩy sự
phát triển của xã hội. Ngược lại nếu ý thức đạo đức lạc hậu, bảo thủ thì sẽ kìm hãm,
cản trở sự phát triển của xã hội; mức độ thâm nhập của ý thức đạo đức đó trong quần
chúng nhân dân; phụ thuộc vào khả năng, năng lực của giai cấp cầm quyền.

16


1.2. Giáo dục đạo đức và vai trò của giáo dục đạo đức cho sinh viên
1.2.1. Giáo dục đạo đức
Giáo dục là q trình tác động có mục đích, có tổ chức của nhà giáo dục đến
đối tượng giáo dục nhằm thỏa mãn nhu cầu phát triển nhân cách riêng của mỗi đối
tượng giáo dục và đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực của xã hội. Sự tác động
của nhà giáo dục đến đối tượng giáo dục là sự tác động có mục đích, có tổ chức. Đó
là sự tác động có nội dung, có chương trình, có kế hoạch, có phương pháp, có sự
kiểm tra, đánh giá, có sự điều chỉnh, điều khiển cho phù hợp… Tất cả những điều
ấy là muốn nói hoạt động giáo dục là hoạt động có mục đích, có tổ chức của con
người chứ không phải là một hoạt động tự phát, tùy tiện.
Giáo dục đạo đức - một phạm vi khái quát rộng lớn với tư cách quá trình
hình thành và phát triển những năng lực, những phẩm chất đạo đức của con người.
Theo C.Mác, giáo dục đạo đức, nghĩa rộng đó là sự hình thành đạo đức, khơng quy
giản chỉ về việc truyền đạt, dạy dỗ những nguyên tắc, những chuẩn mực xã hội,
những cách thức ứng xử giữa người và người theo những yêu cầu nhất định. C.Mác

đặc biệt chú ý đến việc tạo ra “hồn cảnh có tính người”, “những điều kiện xứng
đáng nhất, hợp với bản chất người nhất”, coi đó là cơ sở, đồng thời là một phương
diện hữu cơ của giáo dục đạo đức, là điều kiện tối hậu quyết định sự phát triển đạo
đức con người.
Giáo dục đạo đức là sự chuyển hóa ý thức xã hội có liên quan thành phẩm
chất đạo đức, tư tưởng cá nhân, nội dung phẩm chất đạo đức, tư tưởng của con
người bao gồm lập trường chính trị, thế giới quan và phẩm chất đạo đức. Do đó:
“giáo dục đạo đức là những tác động sư phạm một cách có mục đích, có hệ thống và
kế hoạch của nhà giáo dục tới người được giáo dục để bồi dưỡng cho họ những
phẩm chất đạo đức (chuẩn mực, hành vi đạo đức) phù hợp với yêu cầu của xã hội”
[31, tr.94].
Giáo dục đạo đức căn cứ vào yêu cầu của xã hội nhất định, căn cứ vào quy
luật hình thành phẩm chất tư tưởng, đạo đức để tiến hành chuyển tải các chuẩn mực
xã hội đến người được giáo dục một cách có mục đích, có kế hoạch thơng qua việc
phát huy tính năng động chủ quan của người được giáo dục để hình thành những

17


phẩm chất tư tưởng đạo đức mà nhà giáo dục mong muốn. Thầy giáo khi yêu cầu
học sinh, sinh viên của mình thực hiện một nhiệm vụ giáo dục theo đúng chỉ dẫn
của thầy chính là thực hiện những yêu cầu, quy định của xã hội. Con người dưới
ảnh hưởng của nhà trường, gia đình và xã hội, thơng qua hoạt động tích cực của chủ
thể sẽ tiếp thu tư tưởng chính trị, quy phạm đạo đức xã hội rồi chuyển hóa thành
đặc trưng cá tính ổn định của bản thân.
1.2.2. Vai trò của giáo dục đạo đức
Thứ nhất, giáo dục đạo đức có vai trị đặc biệt quan trọng trong hình thành
nhân cách của mỗi một con người cụ thể, bởi thơng qua giáo dục đạo đức nó thể
hiện tập trung tính chất và phương hướng của “xây dựng văn minh tinh thần xã hội
chủ nghĩa” [28, tr.12]. Vì về cơ bản xây dựng văn minh tinh thần là để nâng cao tố

chất của con người, mà trong đó tố chất của con người như: sức khoẻ, tâm lý, tố
chất khoa học, văn hoá, tố chất đạo đức tư tưởng thì tố chất đạo đức tư tưởng có tác
dụng chỉ đạo. Tố chất đạo đức tư tưởng bao gồm: thế giới quan, nhân sinh quan, giá
trị quan, khuynh hướng chính trị, lý tưởng, đạo đức, tình cảm... nó như linh hồn của
con người, nó lãnh đạo tất cả mọi hành động, quyết định mục đích và khuynh
hướng hành động của con người. Trong q trình thực hiện cơng cuộc đổi mới, mở
cửa nhiệm vụ cao cả của giáo dục đạo đức đó là giáo dục chủ nghĩa yêu nước, chủ
nghĩa tập thể, ý thức đạo đức cộng đồng, đạo đức nghề nghiệp, mỹ đức gia đình...
giúp con người có được những lý tưởng chung nhất về các giá trị trong công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, tiến lên chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa cộng sản.
Thứ hai, giáo dục đạo đức có vai trị góp phần chuyển các quan niệm đạo
đức từ tự phát sang tự giác, từ bị động sang chủ động, khơng ngừng nâng cao trình
độ nhận thức các giá trị đạo đức cho mỗi người từ trình độ nhận thức thơng thường
lên trình độ nhận thức khoa học. Để đạt trình độ cao, trình độ ý thức lý luận, địi hỏi
phải có q trình giáo dục đạo đức, phải nhờ đến vai trị của đạo đức học. Bởi vì,
nhận thức khoa học phản ánh các giá trị đạo đức một cách gián tiếp, khái quát, cả
những giá trị đạo đức hiện tại và cả những giá trị đạo đức của tương lai. Qua giáo dục
đạo đức, nội dung các phạm trù, các quy tắc,… đạo đức được nhận thức một cách đầy

18


đủ, đúng đắn hơn và niềm tin của đối tượng được giáo dục là niềm tin khoa học. Từ
niềm tin khoa học sẽ giúp cho chủ thể đạo đức điều chỉnh được hành vi của mình theo
yêu cầu xã hội đặt ra.
Thứ ba, giáo dục đạo đức có vai trị khơng chỉ nâng cao trình độ nhận thức
đạo đức, giữ gìn những giá trị, chuẩn mực đạo đức đã được các thế hệ trước tạo nên,
nó cịn góp phần tạo ra những giá trị đạo đức mới; xây dựng những quan điểm,
phẩm chất đạo đức mới, quan niệm sống tích cực cho mỗi đối tượng giáo dục, đồng

thời, giáo dục đạo đức cũng góp phần tích cực vào việc khắc phục những quan điểm
đạo đức lạc hậu, sự lệch chuẩn các giá trị nhân cách, chống lại các hiện tượng phi
đạo đức đang đầu độc bầu khơng khí xã hội, tạo ra cơ chế phòng ngừa các phản giá
trị đạo đức, phản giá trị văn hoá trong mỗi một nhân cách. Ở đây có sự kết hợp chặt
chẽ giữa cái “xây” với cái “chống”. Đó là biện chứng giữa cái “xây” với cái
“chống”. Vì trong cái “xây” có cái “chống” và ngược lại. Trong mối quan hệ biện
chứng này, Hồ Chí Minh đã đạt đến trình độ mẫu mực của công tác giáo dục đạo
đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên.
1.2.3. Giáo dục đạo đức cho sinh viên
1.2.3.1. Sinh viên và đặc điểm tâm sinh lý của sinh viên
Sinh viên là những người mang đầy đủ những đặc điểm chung của con người
và xã hội loài người. Nhưng bên cạnh đó, họ cịn mang những đặc điểm riêng: trẻ,
có tri thức, dễ tiếp thu cái mới, nhạy cảm với các vấn đề chính trị xã hội, vì thế họ
có mối quan hệ sinh hoạt cộng đồng khá gần gũi với những người cùng và khác thế
hệ với họ. Với những đặc điểm nêu trên họ có khả năng tiếp nhận cái mới nhanh và
linh hoạt, thích nghi kịp thời với sự thay đổi nhanh chóng của xã hội hiện đại, vì thế
theo tơi, trong khn khổ luận văn thì Khái niệm sinh viên là: Sinh viên (chính quy)
là những người trong độ tuổi 18 đến 25, đang theo học tập trung chuyên nghiệp tại
các trường Đại học và Cao Đẳng trong phạm vi cả nước, có sự phát triển hoàn
chỉnh về mặt sinh lý, và sự thành thục mang tính tương đối về mặt tâm lý.
Sinh viên ngày nay là những người sinh ra và lớn lên trong thời kỳ đất nước
đổi mới, phần lớn họ ra đời vào những năm cuối và đầu của thập kỷ 80 - 90 của thế
kỷ XX mà chúng ta quen gọi họ là thế hệ 8X, 9X. Phần đơng họ có tuổi đời từ 18 đến

19


25 tuổi, môi trường làm việc của họ là tại các trường Đại học, Cao đẳng trong cả
nước. Đây là khoảng thời gian mà họ sẽ đứng trước nhiều bài học quan trọng về cuộc
đời, như là tích luỹ tri thức chun nghiệp, khai phát tiềm năng trí lực, ni dưỡng

phẩm chất cá tính, trau dồi đạo đức tư tưởng...; là đối tượng nhạy cảm nhất trước
những biến đổi vô cùng nhanh chóng của bản thân và mơi trường sống quanh mình.
Trước hết là giai đoạn biến đổi sinh lý của sinh viên: Đây là giai đoạn
phát triển đỉnh cao của quá trình sinh trưởng và phát triển của con người nói chung,
giai đoạn này rơi vào khoảng từ 17 đến 20 tuổi. Đây là giai đoạn hình dạng cơ thể,
cơ bắp, xương cốt đều biến đổi nhanh chóng. Xét từ góc độ phát triển sinh lý, thì
đây chính là giai đoạn phát triển mang tính ổn định của quá trình sinh trưởng từ
hình dạng cơ thể đến các hệ thống các cơ quan nội tạng và cơ năng. Vì thế sự phát
triển sinh lý của sinh viên không chỉ đem lại cho họ tiền đề sinh lý tất yếu để họ
sinh hoạt và học tập độc lập, mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển tâm lý,
khiến họ tăng cường cảm giác đã là người lớn, nên yêu cầu độc lập tự chủ rất mạnh
mẽ, tinh thần hăng hái, muốn biểu thị năng lực của mình. Ý thức giới tính được họ
coi trọng, sự phát triển sinh lý cũng đặt cơ sở cho sự phát triển lành mạnh của quá
trình tồn tại của con người và xã hội lồi người và đây cũng chính là điểm nhấn để
mỗi cá nhân hình thành cái tơi, cái bản ngã, cái riêng có của mình để khẳng định
mình trong xã hội và hình thành nên cái nhân sinh quan của mình đối với xã hội và
thời cuộc.
Thứ hai, giai đoạn biến đổi tâm lý của sinh viên, trên cơ sở của sự phát
triển sinh lý thì sự biến đổi về mặt tâm lý của sinh viên cũng diễn ra hết sức nhanh
chóng, họ có những nhận thức nhất định về xã hội và cuộc sống, họ đưa ra những
nhận định rất “người lớn” về cuộc sống xung quanh họ và các mối quan hệ khác
bên ngoài xã hội. Điều này thể hiện:
+ Sự phát triển về trí năng của họ đã đạt đến trình độ cao, biết phán đốn,
biết phân tích, biết tổng hợp và cuối cùng là biết đưa ra nhận định, quan điểm của
riêng mình về các vấn đề trong hiện thực cuộc sống. Tình cảm của sinh viên ngày
càng phong phú và mạnh mẽ, trong nhận thức về các quan hệ xã hội, trong quan
điểm về cái đẹp cái xấu, về cái thiện, cái ác, lương tâm, nghĩa vụ, nhân phẩm, danh

20



dự, lẽ sống... Tất cả những điều ấy thể hiện trình độ học vấn và trình độ nhận thức
về xã hội của sinh viên được nâng lên về chất.
+ Sự phát triển về tình cảm, tính hai mặt trong nhận thức về tình cảm của
sinh viên cũng được thể hiện một cách rất rõ ràng trong sự lựa chọn giữa cái đúng
và cái sai bởi họ dễ bị kích động, dễ bị thuyết phục và lôi kéo, dễ bị lợi dụng, dễ
thơng cảm cho nên dễ bị mắc lừa, tình cảm không ổn định cho nên, nhiều khi ta
thấy họ rất trẻ, rất năng động, rất nhiệt tình, rất hăng hái, khí phách, cũng có lúc
chính con người đó, ta thấy họ nản chí, thất vọng, mệt mỏi, khơng muốn đấu tranh,
bằng lịng với cuộc sống, thậm chí là sa đà và đánh mất bản thân mình. Sau đây là
một vài điểm mà chúng ta có thể thấy rõ nhất “tính hai mặt về nhận thức tình cảm
trong biến đổi tâm lý của sinh viên”. Mơ hình so sánh dựa trên: “7 thói quen của
bạn trẻ thành đạt” [11, tr.53-54].
Bảng 1.1.
Tâm lý đúng
Tâm lý cần điều chỉnh
Bạn tự chịu trách nhiệm về Bạn dễ dàng bị bạn bè tác động
mình và chống lại các áp lực
Bạn luôn tự tin vào bản thân
Bạn thường đánh vật với những cảm giác thất
vọng và tự ti
Bạn không quá quan tâm tới Bạn quan tâm quá mức tới những gì người khác
việc được nhiều người biết đến nghĩ về bạn
Bạn nhìn đời lạc quan
Bạn tỏ ra ngạo mạn để che giấu sự bất an của mình
Bạn sống có mục đích
Bạn tự huỷ hoại bản thân mình bằng ma tuý,
phim khiêu dâm, sự phá phách hay tham gia các
băng nhóm xấu
Bạn hạnh phúc với thành cơng Bạn dễ ghen tức, nhất là khi ai đó thân cận với

của người khác
bạn có được thành cơng
+ Sự tự ý thức về bản thân, là sinh viên, nên phần lớn họ phải sống xa gia
đình (vì các trường Đại học và Cao đẳng thường tập trung tại các tỉnh và thành phố
lớn) và bắt đầu cuộc sống tự lập, ban đầu là kí túc xá với cuộc sống tập thể, đây là
nơi mà cái tôi và cái ta cần phải “lượng nhau mà sống”, tức là ngoài những cái của
mình họ cịn phải biết dung nạp những cái khác biệt với mình của người khác để
cùng “chung sống hồ bình” về tính cách, tâm lý, lối sống, hành vi ứng xử...; thứ
hai là trong lớp học và trong một số lĩnh vực xã hội khác họ tỏ ra thông minh, tự tin,

21


hiếu thắng, yêu cầu được tôn trọng và lắng nghe những ý kiến, những tâm tư của
họ; thứ ba là một số diễn biến tâm lý tiêu cực xảy ra với họ khi họ gặp những bất
trắc xảy ra trong học tập, trong tình yêu, trong quan hệ với bạn bè, thầy cơ... đó là
chán nản, thấy cuộc sống thật vơ nghĩa, tự ti, khơng hiểu mình và thậm chí một số
sinh viên vì khơng tìm được con đường đi tiếp theo cho mình nên tìm đến sự giải
thốt mà họ cho là tốt nhất đó chính là cái chết...
+ Ý thức giới tính phát triển, Vì được sống trong môi trường tự lập với đầy
đủ ý nghĩa của từ này sinh viên được tự do nhiều hơn, rời khỏi mơi trường gị bó,
giám sát của gia đình, nhà trường và trong các mối quan hệ chật hẹp của bạn bè thời
phổ thông trong thành phố của một tỉnh lẻ hoặc làng, xã nào đó của luỹ tre làng, của
nơng thơn Việt Nam. Sinh viên, với sự phát triển bình thường, trưởng thành về mặt
sinh lý và tâm lý thì đây là giai đoạn diễn ra nhu cầu cần có sự chia sẽ của người
khác phái về các vấn đề trong học tập, trong quan hệ với bạn bè, thầy cơ, trong các
cơng tác đồn, hội... và họ đã tự tìm đến nhau mà ta gọi đó là tình u, có rất nhiều
cuộc tình của sinh viên diễn ra rất đẹp, họ cùng nhau vươn lên tạo chỗ đứng của
mình trong xã hội và được đặt cho cái tên goi là “đơi bạn cùng tiến”, nhưng cũng có
một thiểu số trong họ đã biến cái tình yêu đẹp và thiêng liêng ấy thành tội lỗi, thành

sự huỷ diệt tương lai của bản thân, gia đình và cộng đồng.
Hiện nay đất nước ta đang trong giai đoạn đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế, q trình đó đã, đang đưa lại cho đất nước ta nói chung và cho sinh viên
nói riêng những thời cơ xen lẫn những thách thức lớn:
Những thời cơ: Cơ hội để mở rộng và tiếp cận thị trường hàng hóa, dịch vụ
trên thế giới, có điều kiện để mở rộng thị trường xuất nhập khẩu ra ngồi biên giới
quốc gia; có vị thế bình đẳng trên trường quốc tế, có điều kiện để đảm bảo lợi ích
của đất nước, của dân tộc đồng thời thúc đẩy nhanh q trình cải cách của đất nước
có hiệu quả hơn; là thành viên của tổ chức WTO nên môi trường kinh doanh của
chúng ta ngày càng được cải thiện.
Những thách thức: So với các nước trong khu vực và trên thế giới về trình
độ phát triển nước ta đang có khoảng cách tụt hậu khá xa vì vậy cịn phải chịu nhiều
thiệt thịi trong q trình cạnh tranh trên thị trường; cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt

22


hơn, với nhiều đối thủ hơn. Sự cạnh tranh ở đây thể hiện ở chất lượng sản phẩm, ở
chính sách quản lý, chiến lược phát huy nội lực và thu hút đầu tư nước ngoài, những
điều kiện này ở nước ta còn yếu và kém; sự hội nhập sâu rộng dẫn đến sự phụ thuộc
vào nhau giữa các nước tăng lên. Sự biến động của nền kinh tế các nước tác động
mạnh đến nước ta. Vì vậy, địi hỏi chúng ta phải có năng lực dự báo, phân tích tình
hình và có phản ứng chính xác để hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực tác động từ
bên ngồi.
Đứng trước tình hình đó, với vị trí, vai trị là người chủ hiện tại và tương lai
của nước nhà, sinh viên Việt Nam là lực lượng sung mãn về thể lực, giàu khát vọng,
hồi bão, có nhu cầu, có khả năng tiếp thu nhanh nhạy những thành tựu khoa học
công nghệ, kỹ thuật và quản lý hiện đại trên thế giới, năng động sáng tạo, chủ động
học hỏi những cái mới, cái tiến bộ của nhân loại. Vì vậy, cùng với sự phát triển của
đất nước, thái độ và ý thức chính trị của sinh viên đã có những chuyển biến tích

cực, sinh viên ngày càng quan tâm và có trách nhiệm hơn đối với những vấn đề của
quê hương, đất nước, những vấn đề trong khu vực và trên thế giới. Ý thức lập
nghiệp của sinh viên cũng cao hơn, tinh thần xung phong, tình nguyện, ý thức chia
sẻ, tinh thần tương thân, tương ái đã được khơi dậy với một chất lượng mới, sinh
viên đã chủ động và tự tin hơn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Những quan niệm về tốt, xấu, cơng bằng, bình đẳng... cũng đang có sự dịch
chuyển nhất định. Những dịch chuyển này đã giải phóng về mặt tư tưởng, quan
niệm trước những giá trị đạo đức lỗi thời, hướng sinh viên đến sự chuẩn bị cho
những hành động có tính hiệu quả sau này khi gia nhập vào thị trường nhân lực.
Những quy tắc ứng xử của sinh viên vì thế cũng biến đổi, các nguyên tắc thiết thực,
hiệu quả, phù hợp với yêu cầu mới của thời đại công nghiệp được họ hướng tới.
Những rào cản đạo đức nào khơng cịn phù hợp trong việc điều chỉnh hành vi sẽ bị
vượt qua, thể hiện khá rõ nét ở sinh viên.
Nhưng điều đáng chú ý là vẫn với những yếu tố tác động có tính tích cực ở
trên, thì cũng chính những yếu tố này, một bộ phận sinh viên đã đẩy lên quá cao,
đến mức lệch chuẩn, nghiêng sang khía cạnh tiêu cực. Chính ở nơi đây thể hiện sự

23


mâu thuẫn biện chứng trong ý thức đạo đức của đối tượng này tác động hai chiều
thuận và nghịch của cùng một yếu tố.
Tác động tiêu cực rõ nét nhất là biểu hiện tính thực dụng trong quan niệm
đạo đức và hành vi ứng xử ở một bộ phận không nhỏ sinh viên hơm nay. Trào lưu
dân chủ hố, làn sóng cơng nghệ thơng tin và việc nâng cao dân trí đã làm ý thức cá
nhân được tăng lên, đặc biệt trong những người trẻ có học vấn là sinh viên. Họ ý
thức cao về bản thân mình và muốn thể hiện vai trò cá nhân. Tuy nhiên, cái cá nhân
nhiều khi lấn át cái cộng đồng, họ coi lợi ích cá nhân quan trọng hơn tất cả. Một
sinh viên kinh tế trong một cuộc phỏng vấn đã cho rằng, kinh doanh là hoạt động
đem lại lợi nhuận cho mình bằng bất cứ giá nào và không cần đếm xỉa đến vấn đề

đạo đức.
Tác động tiêu cực tiếp theo là, cùng với sự du nhập lối sống và sản phẩm
công nghệ hiện đại từ các nước phát triển, đã dần dần làm khơng ít sinh viên xa rời
các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp vốn vẫn đang phù hợp với thời kỳ hiện đại.
Hình thành tư tưởng hưởng thụ, ăn chơi, đua đòi, chịu tác động của tệ nạn xã hội, dễ
bị dao động về mặt định hướng đạo đức và lối sống trong bối cảnh một nền kinh tế
-xã hội mở cửa. Các quan niệm đạo đức trong một bộ phận sinh viên đang bị lệch
chuẩn, đặc biệt có quan niệm cho rằng, đạo đức và lợi ích cá nhân là hoàn toàn đồng
nhất trong mọi lúc, ở mọi nơi. Bên cạnh đó, trong nhiều sinh viên, xuất hiện thái độ
đòi hỏi hơn là sự hy sinh, ước muốn hưởng thụ nhiều hơn đóng góp, ít chú ý đến
nghĩa vụ và trách nhiệm công dân...
Cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sinh viên đang đứng trước nhiều
khó khăn thách thức lớn đó là: trình độ học vấn, trình độ chun mơn nghiệp vụ, kiến
thức kinh tế, quản lý, kiến thức pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật của sinh viên
nhìn chung cịn thấp. Trong sinh viên nhận thức về học nghề, chọn nghề, định hướng
nghề nghiệp còn nhiều lệch lạc, việc làm và thu nhập thấp vẫn đang là những vấn đề
bức xúc đối với họ. Rồi sức khoẻ và thể chất của sinh viên nước ta còn thấp hơn các
nước trong khu vực và trên thế giới rất nhiều, bên cạnh đó một bộ phận khơng nhỏ
trong sinh viên thiếu ý thức rèn luyện để hồn thiện nhân cách của mình, non kém về
nhận thức chính trị, chưa xác định được lý tưởng sống đúng đắn…

24


Như vậy, có thể nói, tồn cầu hố là một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ kéo theo
tất cả mọi quốc gia, mọi dân tộc, mọi gia đình và cá nhân vào cuộc. Không một ai,
không một quốc gia nào có thể đứng ngồi. Sinh viên Việt Nam là một trong những
đối tượng chịu ảnh hưởng khá mạnh của xu thế tồn cầu hóa. Họ là nguồn nhân lực
đầy sức mạnh, trẻ và có tri thức, có khả năng tiếp cận nhanh chóng với cái mới và
thay đổi linh hoạt - những tố chất rất cần thiết cho một thời kỳ phát triển mới. Vì

vậy, việc phát huy tính tích cực và điều chỉnh những hành vi lệch lạc trong ý thức
đạo đức của sinh viên, có tác dụng vơ cùng to lớn trong việc phát triển và sử dụng
nguồn lực quý này. Khẳng định điều này, tại Đại hội IX, Đảng cộng sản Việt Nam
đã chỉ rõ, việc chăm lo giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo, phát triển toàn diện về chính
trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, văn hoá, sức khoẻ, nghề nghiệp cho thế hệ trẻ Việt
Nam hơm nay để đội ngũ này có điều kiện phát triển tài năng và sức sáng tạo, phát
huy vai trò xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là trách nhiệm
của cả hệ thống chính trị và tồn xã hội.
Trước những thuận lợi và khó khăn của đất nước cũng như của bản thân
mình, hơn lúc nào hết sinh viên Việt Nam phải nhận thấy rõ vị trí, vai trị của mình
đối với sự phát triển của đất nước. Phải nhận thức được khó khăn lớn nhất của mình
trong giai đoạn này là sự cạnh tranh quyết liệt về trí tuệ để đạt tới những đỉnh cao
của khoa học, kỹ thuật và công nghệ cũng như trình độ quản lý. Để vượt qua được
khó khăn đó, đòi hỏi rất cao ở sinh viên là phải tự học tập, tự rèn luyện để nâng cao
trình độ về mọi mặt, phải trau dồi bản lĩnh chính trị, giữ vững lý tưởng xã hội chủ
nghĩa, phấn đấu thực hiện mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh” [21, tr.24]
Để cùng đất nước vượt qua những khó khăn, trước mắt mỗi sinh viên phải nỗ
lực nhiều hơn, đặc biệt là phải mở rộng tầm hiểu biết của mình về tình hình thế giới
để có tư duy, hành động phù hợp hơn. Đây vừa là trách nhiệm, nghĩa vụ, vừa là
quyền lợi của sinh viên, của tổ chức đoàn để cùng đất nước gặt hái được nhiều
thành cơng trong q trình hội nhập kinh tế quốc tế.

25


×