MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1. TƯ TƯỞNG VÀ TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
1.1. Lý luận chung về đạo đức
1.1.1. Khái niệm đạo đức
1.1.2. Vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội
1.2. Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
cách mạng
1.2.1. Đạo đức mới (đạo đức cộng sản)
1.2.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng
1.2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về những phẩm chất đạo đức cơ bản của
con người Việt Nam trong thời đại mới
1.2.4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới
1.3. Hồ Chí Minh - tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng
1.3.1. Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương trọn đời phấn đấu, hy sinh
vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng
con người và nhân loại
1.3.2. Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương của ý chí và nghị lực tinh thần
to lớn vượt qua mọi khó khăn thử thách để đạt được mục đích cách
mạng
1.3.3. Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương tuyệt đối tin tưởng vào sức
mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân, hết lòng hết sức phục
vụ nhân dân
1.3.4. Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương của một con người nhân ái,
vị tha, khoan dung nhân hậu hết mực vì con người
1.3.5. Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương cần kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư, đời riêng trong sáng, nếp sống giản dị và đức khiêm
Chương 2. GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG CAO
ĐẲNG Ở HẢI PHÒNG HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG VÀ TẤM
GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI
PHÁP
2.1.
Sự cần thiết giáo dục đạo đức cho sinh viên theo tư tưởng và
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
2.1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về vai trò của thanh niên và việc
giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên
2.1.2. Tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức cho sinh viên theo tư
tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đọan hiện
nay
2.2. Thực trạng của công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên các
trường cao đẳng ở Hải Phòng theo tư tưởng và tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh
2.2.1. Thực trạng đạo đức của sinh viên các trường cao đẳng ở Hải
Phòng hiện nay
2.2.2. Thực trạng công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên các trường
cao đẳng ở Hải Phòng hiện nay theo tư tưởng và tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh
2.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho sinh
viên các trường cao đẳng ở Hải Phòng hiện nay theo tư tưởng
và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
2.3.1. Đẩy mạnh công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên
theo những chuẩn mực đạo đức mới của Hồ Chí Minh
2.3.2. Phát triển đội ngũ giáo viên giỏi về chuyên môn nghiệp vụ,
vững vàng về phẩm chất chính trị, có đạo đức, lối sống lành
mạnh, là tấm gương sáng cho sinh viên noi theo
2.3.3. Tạo lập môi trường học đường lành mạnh để giáo dục sinh viên,
kiên quyết đấu tranh đẩy lui, loại bỏ các hiện tượng tiêu cực và
các tệ nạn xã hội trong nhà trường
2.3.4. Kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường, xã hội trong việc
giáo dục đạo đức cho sinh viên
2.3.5. Xây dựng tổ chức Đoàn, Hội thực sự vững mạnh, nâng cao chất
lượng hoạt động của Đoàn thanh niên, Hội sinh viên trong công
tác giáo dục giá trị đạo đức cho sinh viên bằng các hình thức
sinh hoạt mang ý nghĩa chính trị - xã hội - thực tiễn
2.3.6. Nhà trường phải tích cực tiến hành các giải pháp hỗ trợ việc làm
cho sinh viên
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Nhận thức của sinh viên về giá trị đạo đức truyền thống
của dân tộc
Bảng 2.2: Xung kích, tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng năm 2011
Bảng 2.3: Đoàn tham gia xây dựng Đảng
Bảng 2.4: Tổng hợp số lượng sinh viên được nhận học bổng khuyến khích
học tập của các trường trong những năm gần đây
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ thiên tài, người thầy vĩ đại của cách
mạng Việt Nam, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa kiệt xuất
của thế giới. Mặc dù đã đi xa, nhưng những tư tưởng mà Người đã để lại cho
Đảng, cho dân tộc ta là một tài sản tinh thần vô giá. Văn kiện Đại hội VII của
Đảng ta năm 1991 đã khẳng định: cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh đã trở thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động
của Đảng. Trong di sản phong phú mà Người để lại thì tư tưởng về đạo đức
cách mạng là một tư tưởng có giá trị nhân văn sâu sắc. Chẳng những đó là sự
tiếp nối và phát huy cao độ những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp nhất
của dân tộc Việt Nam, mà còn là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta.
Hồ Chí Minh là bậc “đại nhân, đại trí, đại dũng”, cả cuộc đời và sự
nghiệp của người là một tấm gương sáng về đạo đức để toàn Đảng, toàn dân
ta noi theo. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, lãnh tụ Hồ Chí Minh đặc biệt
quan tâm tới giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và
nhân dân. Thống kê trong di sản Hồ Chí Minh để lại có tới gần 50 bài và tác
phẩm bàn về vấn đề đạo đức. Có thể nói, đạo đức là một trong những vấn đề
quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng. Việc nghiên
cứu, giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho nhân dân nói chung và cho sinh viên
nói riêng, không chỉ cần thiết về mặt lý luận, mà còn nhằm làm cho mọi
người hiểu và tiếp thu tư tưởng đạo đức của Người. Trên cơ sở đó, noi theo
tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh, phấn đấu vươn lên, hoàn thiện bản thân
mình, góp phần vào sự phát triển của đất nước.
Hiện nay, đất nước ta đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới, tích cực chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế, đưa nước ta phát triển vững chắc theo định
1
hướng xã hội chủ nghĩa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
công cuộc đổi mới ở nước ta trong 26 năm qua đã đạt được những thành tựu
hết sức to lớn và toàn diện. Đây là một quá trình chứa đựng những vận hội,
thời cơ mới và những khó khăn, thách thức mới. Các nguy cơ đan xen nhau
cùng tác động đã gây ra những tiêu cực, làm suy thoái tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, thanh niên, sinh
viên. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, thanh niên, sinh viên là “mùa xuân” của
đất nước, “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước
nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên” [39,
tr.185]. Người căn dặn trong di chúc “Đảng phải có kế hoạch đào tạo bồi
dưỡng họ thành những người kế tục sự nghiệp cách mạng vừa hồng vừa
chuyên. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc làm rất quan
trọng và rất cần thiết” [46, tr.510]. Đảng ta đã kế thừa, vận dụng sáng tạo tư
tưởng Hồ Chí Minh và khẳng định “Thanh niên là rường cột của nước nhà,
chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng xung kích trong xây dựng và
bảo vệ tổ quốc, một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế và xây dựng
chủ nghĩa xã hội” [11, tr.41]. Nhưng thật đáng tiếc là trong xã hội hiện nay,
do tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường và những âm mưu thâm hiểm
của các thế lực thù địch nên một số thanh niên, sinh viên đã có những biểu
hiện của lối sống thực dụng, xa hoa, hưởng thụ, vị kỷ, tôn thờ chủ nghĩa cá
nhân, chạy theo lợi ích vật chất, coi đồng tiền là trên hết; xa rời các truyền
thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, có thái độ bàng quan trước các sự kiện
kinh tế, chính trị của đất nước. Một số lượng không nhỏ sinh viên vấp phải
những tiêu cực trong thi cử, có thái độ ứng xử giao tiếp không tốt, “lệch
chuẩn” với gia đình, xã hội, biểu hiện sự vô cảm trước cuộc sống; và đặc biệt
là sa vào các tệ nạn xã hội như cờ bạc, lô đề, nghiện hút, trộm cắp, mại dâm…
ảnh hưởng đến tương lai sự nghiệp của của mình nói riêng và sự nghiệp xây
dựng và phát triển đất nước nói chung. Thanh niên Hải Phòng, (trong đó có
2
rất nhiều học sinh, sinh viên) cũng không nằm ngoài tình trạng chung đó.
Theo thống kê từ Bộ Công an, tính đến hết tháng 6 năm 2011, cả nước đã có
150.000 người nghiện, trong đó số người nghiện ma túy ở Hải Phòng là 9.295
người, chủ yếu là nghiện Heroin ở lứa tuổi từ 18 - 45. Hiện tượng làm "gái
bao", mắc vào tệ nạn mại dâm, "sống thử", quan hệ tình dục trước hôn nhân
đã tạo hình ảnh không tích cực về sinh viên. Một trong những nguyên nhân
của thực trạng trên là do trong những năm vừa qua chúng ta chưa thực sự
quan tâm giáo dục đạo đức lối sống, và trách nhiệm của thanh niên, sinh viên
trước những biến động của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh quá trình hội
nhập quốc tế. Nội dung giáo dục còn sơ sài, thiếu chiều sâu. Hình thức,
phương pháp giáo dục còn khiên cưỡng, chưa thực sự hấp dẫn, lôi cuốn sinh
viên. Tất cả điều đó đặt ra yêu cầu bức thiết phải nhận thức đúng đắn vai trò
của giáo dục đạo đức và giá trị đạo đức mới cho sinh viên trong giai đoạn
hiện nay.
Từ nhận thức sâu sắc về giá trị to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh, thực
trạng đạo đức của sinh viên và tầm quan trọng của việc đấu tranh khắc phục
sự suy thoái về đạo đức, lối sống của sinh viên trong xã hội, tôi quyết định
chọn đề tài “Giáo dục đạo đức cho sinh viên các trường cao đẳng ở Hải
Phòng hiện nay theo tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” làm đề
tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Ngày 07 tháng 11 năm 2006 Bộ Chính trị (khoá X) đã ban hành Chỉ thị
số 06-CT/TW về phát động Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh”, nhằm “làm cho toàn Đảng, toàn dân nhận thức sâu
sắc về những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng đạo đức và tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tu
dưỡng, rèn luyện và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh sâu rộng trong
toàn xã hội, đặc biệt trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn
3
viên, thanh niên, học sinh; nâng cao đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư; đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống và các tệ nạn xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X
của Đảng” [5]. Sau hơn 5 năm thực hiện, với sự chỉ đạo thường xuyên, chặt
chẽ của các cấp ủy và tổ chức đảng; sự tham gia tích cực của cán bộ, đảng
viên và nhân dân, cuộc vận động đã đạt được kết quả bước đầu, góp phần vào
công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Kết quả triển khai cuộc vận động đã
khẳng định việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là rất
quan trọng và cần thiết, chẳng những đáp ứng yêu cầu cấp bách trước mắt mà
còn có ý nghĩa cơ bản, lâu dài đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân
dân ta. Ngày 14/5/2011, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 03 - CT/TW về tiếp
tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
nhằm “phát huy kết quả đã đạt được, khắc phục những hạn chế trong việc
thực hiện cuộc vận động trong thời gian qua, tiếp tục làm cho toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân nhận thức sâu sắc những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của
tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh; tạo chuyển biến mạnh mẽ và
sâu rộng hơn nữa về ý thức tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng,
đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội thực dụng, đẩy lùi sự suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và các tệ nạn tham nhũng, tiêu cực; góp
phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI của Đảng” [6].
Hai cuộc vận động trên của Đảng ta đã cho thấy giá trị to lớn của tư
tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đối với đời sống đạo đức và tinh
thần của toàn xã hội. Tuy nhiên, không phải bây giờ vấn đề này mới được
quan tâm tìm hiểu, nghiên cứu. Thực tế là từ trước khi Bộ Chính trị ban hành
Chỉ thị số 06 - CT/TW ngày 07 tháng 11 năm 2006 về phát động Cuộc vận
động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, vấn đề tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh đã là một đề tài thu hút các nhà nhà khoa học đi
sâu nghiên cứu:
4
- Giáo sư Vũ Khiêu (chủ biên), “Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh -
Truyền thống dân tộc và nhân loại”, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội,
năm 1993.
- Phó giáo sư Thành Duy (chủ biên), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 1996.
Các công trình nghiên cứu nói trên đã nghiên cứu sâu sắc và có hệ
thống về tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, khẳng định vai trò và giá trị to lớn
của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng của đất nước.
Mặc dù nghiên cứu từ những góc độ khác nhau, song các tác giả đều đi đến
thống nhất trong cách khái quát những nội dung đạo đức cách mạng và vai trò
của đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Cho đến nay, vấn đề giáo dục đạo đức nói chung, đạo đức Hồ Chí Minh
nói riêng cho thanh niên - sinh viên đã trở thành một nhiệm vụ quan trọng
trong công tác tư tưởng của Đảng và Nhà nước. Có nhiều công trình nghiên
cứu về vấn đề giáo dục đạo đức và đạo đức Hồ Chí Minh trong sinh viên như:
- Trần Sĩ Phán: “Giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển
nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”, Luận án Tiến sĩ triết
học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1999.
- Hoàng Anh: “Vấn đề xây dựng nhân cách đạo đức sinh viên trong
điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Triết học;
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2001.
- Doãn Thị Chín: “Vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho
sinh viên Việt Nam hiện nay” (qua thực tế một số trường đại học, cao đẳng ở
thành phố Hà Nội), Luận văn Thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2004.
- Nguyễn Thế Kiệt: “Quan hệ giữa đạo đức và kinh tế trong việc định
hướng các giá trị đạo đức hiện nay”, Tạp chí Triết học số 6/1996.
5
- Tô Thị Nhung: “Vấn đề giáo dục đạo đức cho thanh niên ở Thanh
Hóa trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2006.
- Nguyễn Hùng Oanh: “Phát triển đạo đức cách mạng ở thanh niên
quân đội nhân dân Việt Nam trong tình hình hiện nay”; Luận án Tiến sĩ Triết
học, Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội, 2002.
- Hoàng Kim Oanh: “Vấn đề giáo dục y đức cho sinh viên ngành y ở
Thành phố Hà Nội hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2007.
- Nguyễn Đình Quế: “Quan hệ kinh tế và đạo đức với việc xây dựng
đạo đức mới cho thế hệ trẻ hiện nay ở Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ Triết học,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2000.
- Nguyễn Thái Sinh: “Vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng cho học
viên đào tạo sĩ quan quân đội”, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chinh trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2003.
- Thái Duy Tuyên (chủ biên): “Tìm hiểu định hướng giá trị của thanh
niên Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường”, Đề tài KX - 07, Hà Nội, 1994.
Nhìn chung, các công trình nói trên đã nghiên cứu khá sâu sắc vấn đề
giáo dục đạo đức nói chung, đạo đức cách mạng nói riêng cho thanh niên,
sinh viên. Tuy nhiên, chưa có đề tài nào chuyên biệt nghiên cứu “Giáo dục
đạo đức cho sinh viên các trường cao đẳng ở Hải Phòng hiện nay theo tư
tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Vì vậy, tác giả quyết định lựa
chọn vấn đề này là đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình với hy vọng có
thể góp một phần nhỏ bé của mình để làm sáng tỏ hơn các vấn đề thực tiễn, lý
luận đặt ra trong quá trình xây dựng, phát triển đạo đức cho sinh viên nói
chung và cho sinh viên các trường cao đẳng ở Hải Phòng nói riêng trong giai
đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
6
Trên cơ sở phân tích, làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng và
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, lý giải sự cần thiết và đánh giá thực trạng
đạo đức và việc giáo dục đạo đức cho sinh viên các trường cao đẳng ở Hải
Phòng từ đó đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm góp phần nâng cao chất
lượng và hiệu quả giáo dục đạo đức cho sinh viên các trường cao đẳng ở
Hải Phòng trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích những giá trị cốt lõi trong di sản tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh và khái quát các đặc điểm của tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
- Đánh giá thực trạng đạo đức và công tác giáo dục tư tưởng và tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên các trường cao đẳng ở Hải Phòng
hiện nay.
- Xây dựng và luận giải các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục
đạo đức cho sinh viên các trường cao đẳng ở Hải Phòng hiện nay theo tư
tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu vấn đề giáo dục tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh cho sinh viên các trường cao đẳng ở Hải Phòng trong giai đoạn hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Sinh viên đang học tập tại 3 trường cao đẳng trên địa bàn thành phố
Hải Phòng như: Cao đẳng Hàng hải I, Cao đẳng Y tế Hải Phòng, Cao đẳng
Cộng đồng Hải Phòng.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên quan điểm triết học và đạo đức Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh; đồng thời, kế thừa những thành tựu của một số công trình
nghiên cứu khoa học đã được công bố có liên quan đến nội dung mà đề tài
luận văn đề cập.
7
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; các phương pháp lịch sử và lôgíc,
phân tích tổng hợp; phương pháp điều tra xã hội học….để thực hiện mục đích
và nhiệm vụ đề tài đề ra.
6. Đóng góp và ý nghĩa của luận văn
6.1. Đóng góp của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề
giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên các trường cao đẳng Hải Phòng
hiện nay.
- Đề ra các giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng và hiệu quả công
tác giáo dục đạo đức cho sinh viên Hải Phòng hiện nay.
6.2. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn có thể làm tài liệu nghiên cứu để giáo dục đạo đức cho sinh
viên thông qua các buổi sinh hoạt chính trị, sinh hoạt đoàn, các hoạt động
ngoại khoá và lồng ghép giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh trong giảng dạy môn
Chính trị, các môn khoa học Mác-Lênin ở các trường cao đẳng, trung cấp
chuyên nghiệp đóng trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương, 6 tiết:
Chương 1: Tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Chương 2: Giáo dục đạo đức cho sinh viên các trường cao đẳng ở Hải
Phòng theo tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh - Thực trạng và giải
pháp.
8
Chương 1
TƯ TƯỞNG VÀ TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
1.1. Lý luận chung về đạo đức
1.1.1. Khái niệm đạo đức
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc,
qui tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con
người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội. Chúng được thực hiện
bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống dân tộc và sức mạnh của dư luận xã
hội [23, tr.7].
Đối với mỗi cá nhân, ý thức và hành vi đạo đức mang tính tự giác, chủ
yếu xuất phát từ nhu cầu bên trong; đồng thời chịu tác động của dư luận xã
hội, sự kiểm tra của những người xung quanh.
Đạo đức xã hội bao gồm ý thức đạo đức, hành vi đạo đức và quan hệ
đạo đức. Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm về thiện, ác, tốt, xấu,
lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng… và về những quy tắc đánh
giá, điều chỉnh hành vi ứng xử của cá nhân đối với xã hội, giữa cá nhân đối
với mỗi cá nhân. Hành vi đạo đức là sự biểu hiện trong ứng xử thực tiễn của ý
thức đạo đức mà con người đã nhận thức và chọn lựa. Đó là sự ứng xử trong
các mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân; cá nhân với tự nhiên, với xã hội và
với chính mình. Quan hệ đạo đức là hệ thống những mối quan hệ giữa người
với người trong xã hội, xây dựng về mặt đạo đức. Quan hệ về mặt đạo đức thể
hiện dưới các phạm trù: bổn phận, lương tâm, nghĩa vụ, trách nhiệm, quyền
lợi… giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với tập thể, cộng đồng và toàn xã hội.
Đạo đức là một phạm trù lịch sử, kết quả của quá trình phát triển của xã
hội loài người. Đạo đức thuộc kiến trúc thượng tầng, chịu sự quy định bởi cơ
sở hạ tầng. Sự thay đổi hạ tầng kinh tế - xã hội làm thay đổi các chuẩn mực
đạo đức của xã hội. Tuy nhiên, nhiều chuẩn mực, giá trị như: nhân đạo, dũng
9
cảm, vị tha… có ý nghĩa toàn nhân loại và tồn tại phổ biến trong các xã hội
khác. Do tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội nên trong xã hội có giai cấp,
đạo đức mang tính giai cấp; chuẩn mực đạo đức của giai cấp thống trị chiếm
vị trí chi phối đạo đức xã hội.
Do hành vi đạo đức bắt nguồn từ ý thức đạo đức, cho nên nền đạo đức
thường tỉ lệ thuận với trình độ học vấn, trình độ nhận thức của mỗi cá nhân.
Nhưng không phải cứ có trình độ học vấn cao là có trình độ đạo đức cao và
ngược lại, bởi sự khác biệt giữa ý thức và hành vi đạo đức, giữa nhận thức và
hành động của mỗi người.
1.1.2. Vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội
Đạo đức có vai trò rất lớn trong đời sống của con người, là vấn đề
thường xuyên được đặt ra và giải quyết nhằm đảm bảo cho các cá nhân và
cộng đồng tồn tại, phát triển. Đạo đức đã trở thành mục tiêu, đồng thời cũng
là động lực để phát triển xã hội.
- Đạo đức, với những chuẩn mực giá trị đúng đắn, là một bộ phận quan
trọng của nền tảng tinh thần của xã hội.
- Đạo đức góp phần giữ vững ổn định chính trị xã hội, qua đó góp phần
thúc đẩy sự phát triển của kinh tế - xã hội.
Như vậy, có thể nói: Nhân loại bao giờ cũng cần đến đạo đức vì đó là
những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực nhằm điều chỉnh hành vi của con
người. Ngày nay, khi khoa học - công nghệ càng phát triển kéo theo sự tiến
bộ của xã hội thì nhân loại càng cần đến đạo đức, bởi lẽ:
Thứ nhất: một trong những phương thức cơ bản điều chỉnh hành vi của
con người chính là đạo đức. Sự điều chỉnh đó hoàn toàn tự nguyện, tự giác,
không vụ lợi trong một phạm vi rộng lớn không giới hạn mà các phương thức
điều chỉnh hành vi khác như pháp luật, tôn giáo không làm được
Thứ hai: Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, tác động trở lại đối
với tồn tại xã hội, đến đời sống kinh tế; đạo đức sẽ góp phần thúc đẩy hoặc
10
kìm hãm sự phát triển xã hội. Sự tác động ấy nếu cùng chiều với tồn tại xã hội
sẽ thúc đẩy tồn tại xã hội nói chung, phương thức sản xuất nói riêng phát
triển. Nó sẽ phát huy tính tính tích cực của nhân cách người lao động, nó làm
cho quan hệ giữa người với người trở nên nhân ái, thân thiện, nó khiến xã hội
phát triển hài hòa hơn. Ngược lại, nó sẽ kìm hãm sự phát triển xã hội nếu sự
tác động ấy ngược chiều với sự phát triển và tiến bộ xã hội. Bên cạnh đó, sự
tác động này có thể có tác động song trùng, vừa thúc đẩy xã hội phát triển ở
góc độ, khía cạnh này, vừa kìm hãm ở góc độ, khía cạnh khác.
Đặc biệt trong chủ nghĩa xã hội, điều này càng có ý nghĩa to lớn khi mà
chúng ta muốn xây dựng một nền kinh tế phát triển bền vững; nghĩa là sự phát
triển kinh tế phải gắn liền với tiến bộ đạo đức, với công bằng xã hội, với bảo
vệ môi trường sinh thái. Muốn làm được điều đó phải có sự tham gia của đạo
đức. Đơn cử như vấn đề làm hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng, nhất
là trong những lĩnh vực liên quan trực tiếp đến sức khỏe và tính mạng con
người như thực phẩm, tân dược thì không còn dừng lại ở vấn đề kinh tế đơn
thuần mà là vấn đề đạo đức, cụ thể hơn là đạo đức trong kinh doanh. Báo chí
những ngày gần đây đồng loạt phản ánh những “chiêu”, “mánh” dùng hóa
chất độc hại phù phép lòng bò, gân bò, chân gà thối thành những món nhậu
khoái khẩu bất chấp di họa về sức khỏe cho con người. Như vậy có thể nói,
dưới góc độ đạo đức, lợi nhuận phi pháp thu được sẽ đem lại thu nhập, sự
thoả mãn nhu cầu kinh tế của người này nhưng lại làm tổn hại kinh tế, thậm
chí nỗi bất hạnh cho người khác.
Thứ ba, đạo đức có tác dụng cảm hoá con người, giúp con người nhận
thức và hành động theo lẽ phải, duy trì mối quan hệ tốt đẹp giữa người và
nguời. Đồng thời, đạo đức giúp con người sáng tạo ra hạnh phúc, gìn giữ
phẩm giá, làm thức dậy trong con người những tình cảm tốt đẹp, những phẩm
chất cao quý, đó là lòng nhân ái, vị tha, tính trung thực, thẳng thắn… Đạo đức
như một động cơ có sức mạnh thôi thúc con người đấu tranh chống lại những
11
cái ác, cái xấu, giữ gìn và phát huy những cái tốt, cái thiện. Nói cách khác,
đạo đức luôn hướng con người tới cái chân, thiện, mỹ.
Như vậy, đạo đức có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của xã hội.
Xã hội loài người càng tiến lên thì vai trò của đạo đức cũng tăng lên, có thể
đạo đức sẽ nắm vai trò điều khiển xã hội, thay thế chức năng quản lý con
người bằng pháp luật. Khi xã hội phát triển đạt đến văn minh thì một số hình
thái ý thức xã hội sẽ mất đi, nhưng đạo đức vẫn tồn tại và phát triển cùng với
xã hội loài người.
Tuy nhiên, cần thấy rằng sự tác động của đạo đức đến đời sống xã hội
có tính hai mặt. Nếu hệ thống các nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức
tiến bộ, phù hợp với đời sống xã hội, với xu thế vận động của xã hội thì nó sẽ
có tác động tích cực, thúc đẩy xã hội phát triển; nếu ngược lại, nó sẽ gây nên
những tác động tiêu cực, cản trở sự phát triển xã hội. Vì vậy, trong quá trình
xây dựng xã hội mới, chúng ta phải biết kế thừa và phát triển những giá trị
đạo đức truyền thống phù hợp với xã hội ngày nay, loại bỏ những chuẩn mực
đạo đức cũ, không còn phù hợp. Đồng thời, xây dựng những chuẩn mực đạo
đức mới nhằm thúc đẩy xã hội phát triển.
Vai trò của đạo đức còn được biểu hiện thông qua các chức năng cơ
bản của đạo đức:
- Chức năng nhận thức: Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo
đức có chức năng nhận thức thông qua sự phản ánh tồn tại xã hội. Sự nhận
thức của đạo đức có đặc điểm: Hành động đạo đức tiếp liền sau nhận thức giá
trị đạo đức và trong đa số trường hợp, quá trình đó có sự hòa quyện ý thức
đạo đức với hành động đạo đức. Nhận thức của đạo đức còn là quá trình vừa
hướng ngoại (hướng ra ngoài), và hướng nội (tự nhận thức - hướng vào chính
mình, chính chủ thể). Nhận thức hướng ngoại lấy chuẩn mực, giá trị, đời sống
đạo đức của xã hội làm đối tượng. Đó là hệ thống giá trị thiện và ác, trách
nhiệm và nghĩa vụ, hạnh phúc và ý nghĩa cuộc sống; những cách thức và
12
phương tiện tạo ra các giá trị đạo đức. Nhờ sự nhận thức này mà chủ thể nhận
thức đã chuyển hóa được những chuẩn mực đạo đức của xã hội thành ý thức
đạo đức của cá nhân. Nhận thức hướng nội (tự nhận thức), lấy bản thân mình
- chủ thể đạo đức - là đối tượng nhận thức. Đây là quá trình đánh giá tự thẩm
định, tự nhận thức, tự đối chiếu những nhận thức, hành vi đạo đức của mình
với những chuẩn mực giá trị chung của cộng đồng. Từ cách tự nhận tức này
mà chủ thể hình thành, phát triển thành các quan điểm và nguyên tắc sống:
sáng tạo hay thụ động, hy sinh hay hưởng thụ, vị tha hay vị kỷ, hướng thiện
hay sa vào cái ác…Tự nhận thức giúp chủ thể ý thức được trách nhiệm của
mình và sẵn sàng để hoàn thành trách nhiệm đó. Nó luôn đặt ra trong quan hệ
phong phú giữa chủ thể đạo đức với xã hội, gia đình, bạn bè, đồng chí, đồng
đội, tập thể, dân tộc, giai cấp, tổ quốc.
- Chức năng giáo dục: Những chuẩn mực đạo đức được tập thể và cộng
đồng chấp nhận tác động vào ý thức và hành vi đạo đức của mỗi cá nhân, để
mỗi cá nhân tự giáo dục, rèn luyện, hoàn thiện nhân cách của mình theo
chuẩn mực chung của xã hội. Khi nhận xét, đánh giá hành vi đạo đức của
người khác, người nhận xét cũng tự điều chỉnh mình, tức là tự giáo dục và qua
đó làm chuẩn mực đạo đức chung trong xã hội ngày càng hoàn chỉnh. Đó là
sự giáo dục lẫn nhau giữa các cá nhân và cá nhân với cộng đồng.
- Chức năng điều chỉnh hành vi: Chuẩn mực đạo đức điều chỉnh hành
vi của các cá nhân, của cả cộng đồng và mối quan hệ giữa người với người
trong xã hội. Các nguyên tắc, chuẩn mực và định hướng giá trị đạo đức cùng
với sự kiểm tra, đánh giá của toàn xã hội có tác dụng điều chỉnh hành vi của
mỗi cá nhân để họ tự điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với yêu cầu
chung của cộng đồng. Những chuẩn mực đạo đức được cộng đồng và toàn xã
hội thừa nhận cùng với pháp luật và những quy định khác là công cụ quan
trọng để điều chỉnh quan hệ đạo đức của cả cộng đồng. Trong quan hệ giữa
13
người với người, quan niệm và hành vi đạo đức của người này có tác động
đến quan niệm và hành vi đạo đức của người khác và ngược lại.
1.2. Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
cách mạng
1.2.1. Đạo đức mới (đạo đức cộng sản)
Đạo đức là một hình thái đặc biệt của ý thức xã hội, xuất hiện sớm nhất
trong sự phát triển của lịch sử. Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, các chuẩn
mực và quy tắc này được củng cố trong các phong tục, tập quán khác nhau
của mỗi cộng đồng. Với sự ra đời của xã hội chiếm hữu nô lệ, ý thức đạo đức
được hình thành và phát triển với tính cách là một hình thái riêng của ý thức
xã hội. Cũng từ đây, trong lịch sử nhân loại đã xuất hiện nhiều học thuyết về
đạo đức, với nhiều quan niệm khác nhau; nhưng do hạn chế về lập trường giai
cấp và thế giới quan, các quan niệm trước Mác về đạo đức đều đi giải thích
một cách sai lầm về nguồn gốc, bản chất, vai trò cũng như quá trình hình
thành và phát triển của đạo đức trong lịch sử.
Trong dòng chảy của lịch sử nhân loại, C.Mác và Ph.Ăngghen đã thực
hiện một cuộc cách mạng trong lĩnh vực đạo đức. Trên cơ sở thế giới quan
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đánh giá lại
toàn bộ những tư tưởng đạo đức đã có từ xưa đến nay, tổng kết và đưa ra
những luận điểm khoa học của mình về đạo đức. Hai ông đã chỉ ra sự tất yếu
xuất hiện của một kiểu đạo đức mới trong lịch sử - đạo đức cách mạng của
giai cấp công nhân.
Đạo đức mới - đạo đức cách mạng của giai cấp công nhân hay còn gọi
là đạo đức cộng sản. Theo C.Mác, đạo đức cộng sản là một thứ đạo đức “thực
sự có tính người, đứng trên những đối lập giai cấp và trên mọi hồi ức về
những đối lập ấy” [27, tr.137].
Khác với các nền đạo đức trước đây, đạo đức cách mạng của giai cấp
công nhân là nền đạo đức tiêu biểu cho giai cấp công nhân và toàn thể nhân
14
dân lao động; là đạo đức hướng tới sự xóa bỏ áp bức và bóc lột, mà chỉ có
dưới chủ nghĩa xã hội mới có thể thực hiện được. Như vậy, so với các nền đạo
đức trước đây thì đạo đức mới là một bước phát triển cao về chất. Nó là kết
quả của sự kế thừa những nội dung tốt đẹp nhất của các nền đạo đức trước đó;
vì vậy, đạo đức cách mạng bao hàm rất nhiều yếu tố mang tính nhân loại và sẽ
được xây dựng thành công trong tương lai trên toàn thế giới, cùng với sự
thắng lợi của chủ nghĩa Cộng sản. Tính cách mạng và khoa học của đạo đức
mới thể hiện ở chỗ nó là sự phản ánh sáng tạo thực tiễn cách mạng của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động; ở sự kế thừa có phê phán chọn lọc
những giá trị truyền thống của dân tộc, những tinh hoa văn hóa của nhân loại.
Nội dung đạo đức mới mang tính khách quan, được quy định bởi địa vị và vai
trò của giai cấp công nhân trong nền sản xuất vật chất xã hội, bởi bản chất
cách mạng và nhân đạo của giai cấp vô sản. Chính tính cách mạng và khoa
học của đạo đức mới đã quy định bản chất của đạo đức mới.
1.2.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng
Có thể nói, đạo đức là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của
Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng của Người. Suốt cuộc đời hoạt động
cách mạng, lãnh tụ Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới giáo dục, rèn luyện
đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Có thể nói, Hồ Chí
Minh là một trong những nhà tư tưởng, nhà cách mạng bàn nhiều nhất đến
vấn đề đạo đức. Mặc dù không phải là người chuyên nghiên cứu về vấn đề
đạo đức, cũng không có những tác phẩm lớn về đạo đức, nhưng tư tưởng đạo
đức của Hồ Chí Minh được thể hiện sinh động trong những bài nói, bài viết
ngắn gọn của Người. Quan trọng hơn chính cuộc đời Người là một tấm gương
sáng về thực hành đạo đức để toàn Đảng và toàn dân chúng ta noi theo.
Vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung và
lý luận về về đạo đức nói riêng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Chủ tịch
Hồ Chí Minh cho rằng: “Nói tóm tắt đạo đức cách mạng là: quyết tâm suốt
15
đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng, đó là điều chủ chốt nhất. Ra sức làm
việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối chính sách
của Đảng, đặt lợi ích của đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi
ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng vì
dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi công việc. Ra sức học tập
Chủ nghĩa Mác-Lênin, luôn luôn dùng phê bình và tự phê bình để nâng cao tư
tưởng và cải tiến công tác của mình và cùng đồng chí của mình tiến bộ” [43,
tr.285].
1.2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về những phẩm chất đạo đức cơ bản
của con người Việt Nam trong thời đại mới
Quan điểm cho rằng đạo đức là gốc của người cách mạng đã được Hồ
Chí Minh khẳng định từ rất sớm. Trong tác phẩm “Đường Kách mệnh”, Người
đã nêu 23 luận điểm thuộc “tư cách của người cách mệnh”, trong đó chủ yếu là
các tiêu chuẩn về đạo đức, thể hiện trong 3 mối quan hệ: với mình, với người
và với việc. Người viết: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới
là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một sự nghiệp nặng nề, một
cuộc đấu tranh rất lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi
được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn
thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang” [39, tr.252-253].
Hồ Chí Minh luôn quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của
người cách mạng, coi đó là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước.
Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng thì mới hoàn
thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang vì sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không
có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người
cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không
lãnh đạo được nhân dân” [43, tr.283]. Người quan niệm đạo đức tạo ra sức
mạnh, nhân tố quyết định sự thắng lợi của mọi công việc: “Cán bộ là cái gốc
16
của mọi công việc” [39, tr.269], do đó: “Công việc thành công hoặc thất bại,
đều do cán bộ tốt hay kém” [39, tr.273].
Theo Người, đạo đức cách mạng giúp cho con người vững vàng trong
mọi thử thách. Như Người viết: “Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn,
gian khổ, thất bại không rụt rè, lùi bước”; “khi gặp thuận lợi, thành công vẫn
giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn”, mới “lo trước thiên hạ,
vui sau thiên hạ”; “lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt
hưởng thụ; không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ
hóa” [35, tr.446]. Quan niệm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh không có
nghĩa là tuyệt đối hoá mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Người cho rằng có tài mà
không có đức là người vô dụng nhưng có đức mà không có tài thì làm việc gì
cũng khó. Cho nên, đức là gốc nhưng đức và tài phải kết hợp với nhau để
hoàn thành nhiệm vụ cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh, những chuẩn mực đạo đức cách mạng cơ bản nhất
của con người Việt Nam trong thời đại mới bao gồm những phẩm chất sau:
Trung với nước, hiếu với dân
Đây là những khái niệm có từ lâu của đạo đức phương Đông, đặc biệt
là của Nho giáo; nhưng đã được Hồ Chí Minh sử dụng và đưa vào một nội
dung mới.
Đây là phạm trù cốt lõi của đạo đức phong kiến mà đạo Nho đã dạy và
đòi hỏi đối với người quân tử. Đạo Nho dạy người quân tử phải trung quân ái
quốc - trung với vua là yêu nước. Còn chữ Hiếu, nghĩa là hết lòng thờ kính
cha mẹ, ông bà, người trên của mình. Để thực hiện chữ Trung, trong các triều
đại phong kiến đã có rất nhiều tấm gương trung liệt, sẵn sàng chết để vua
sống, sẵn sàng tuân theo lệnh vua hoặc khi vua tử nạn, họ cũng tự chết theo.
Thực hiện chữ Hiếu với cha mẹ, trong chế độ phong kiến có không ít những
người con chăm bẵm, nâng giấc cho cha mẹ lúc bệnh hoạn, yếu đau, một mực
nghe theo lời dạy bảo của cha, mẹ. Từ Trung, Hiếu của đạo Nho, Bác Hồ tiếp
17
thu, kế thừa và phát triển, đưa vào trong khái niệm cũ này một nội dung hoàn
toàn mới, đó là: “Trung với nước, hiếu với dân”. Hồ Chí Minh không gạt bỏ
từ trung, hiếu đã ăn sâu bám rễ trong con người Việt Nam với ý nghĩa trách
nhiệm, bổn phận của người dân. Với khái niệm cũ, Người đưa vào đó một nội
dung mới, phản ánh đạo đức cao rộng hơn, không phải chỉ trung với vua và
hiếu với cha mẹ mà là: “trung với nước, hiếu với dân”. Người nói: “Đạo đức
ngày nay cao rộng hơn, không phải chỉ có hiếu với cha mẹ, mà trung với
nước, hiếu với dân” [46, tr.558].
Trung với nước là sự trung thành vô hạn với sự nghiệp dựng nước và
giữ nước. Phải biết đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của cách mạng lên trên
hết. Nước là của dân, còn nhân dân là chủ của nước; trung với nước là trung
với dân, vì lợi ích của nhân dân như Hồ Chí Minh nói “Bao nhiêu lợi ích đều
vì dân”. Như vậy, bằng việc chuyển khái niệm trung với vua thành trung với
nước, Hồ Chí Minh đã loại bỏ công cụ thống trị đắc lực của các triều đại vua
chúa phong kiến. Đây là một sự độc đáo của Hồ Chí Minh trong việc sử dụng
khái niệm đạo đức cũ để nói lên đạo đức mới. Hiếu với dân là khẳng định vai
trò sức mạnh của nhân dân, tin dân, học dân, lấy dân làm gốc phải thực hiện
dân chủ cho người dân. Người đã đặt vấn đề: “bao nhiêu quyền hạn đều của
dân” “bao nhiêu lợi ích đều vì dân” “Đảng, Chính phủ là “đầy tớ” của dân”.
Phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, quan tâm cải thiện dân sinh, nâng
cao dân trí, làm cho dân hiểu rõ quyền lợi và nghĩa vụ của người làm chủ đất
nước. Trong Bài nói tại lớp chỉnh Đảng Trung ương khoá 2 (3-1953) Người
nói: “Người kiên quyết cách mạng nhất lại là người đa tình, chí hiếu nhất. Vì
sao? Nếu không làm cách mạng thì chẳng những bố mẹ mình mà hàng chục
triệu bố mẹ người khác cũng bị đế quốc phong kiến giày vò. Mình không
những cứu bố mẹ mình mà còn cứu bố mẹ người khác, bố mẹ của cả nước
nữa. Phải hiểu chữ hiếu của cách mạng rộng rãi như vậy” [41, tr.60].
18
Như vậy, với luận điểm trung với nước, hiếu với dân, Hồ Chí Minh đã
làm một cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức. Người đã gạt bỏ cái cốt lõi
nhất trong Nho giáo là lòng trung thành tuyệt đối với ông vua phong kiến. Hồ
Chí Minh đã lật ngược triết lý đạo đức Nho giáo, giống như C. Mác đã làm
với học thuyết của F.Hêghen.
Thương yêu con người, sống có tình nghĩa
Hồ Chí Minh đã kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp
truyền thống nhân nghĩa với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, tiếp thu tinh thần
nhân văn của nhân loại qua nhiều thế kỷ cùng với sự trải nghiệm của một
chiến sĩ cách mạng để kết tinh, hình thành tình yêu thương con người vô bờ
bến. Tình yêu thương con người của Hồ Chí Minh không chung chung trừu
tượng, mà là tình yêu rộng lớn dành cho những người cùng khổ, những người
lao động bị áp bức, bóc lột. Tình yêu đó luôn gắn liền với những mục tiêu cụ
thể là phấn đấu cho Tổ quốc được độc lập, nhân dân được tự do, hạnh phúc.
Thương yêu con người ở Hồ Chí Minh là phải tin vào con người, với mình thì
nghiêm khắc, với người thì khoan dung, độ lượng. Phải có tình nhân ái với cả
những ai có sai lầm, đã nhận rõ và cố gắng sửa chữa, đánh thức những gì tốt
đẹp trong mỗi con người. Người căn dặn Đảng phải có tình đồng chí thương
yêu lẫn nhau, trên nguyên tắc tự phê bình và phê bình chân thành để giúp cho
mỗi người ngày một tiến bộ hơn. Ở Hồ Chí Minh, thương yêu con người là
một trong những phẩm chất cao đẹp nhất, thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân
với cá nhân và giữa cá nhân với xã hội. Chỉ có tình yêu thương con người bao
la đến như vậy mới có cách mạng, mới nói đến Chủ nghĩa xã hội và Chủ
nghĩa cộng sản.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Theo Hồ Chí Minh, đây là những phẩm chất trung tâm của đạo đức
mới. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh đây là mối quan hệ với “tự mình”. Cần là
lao động cần cù, siêng năng, lao động có kế hoạch, sáng tạo năng suất cao; lao
19
động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa
dẫm. Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của
nhân dân, của đất nước, của bản thân mình. Tiết kiệm từ cái nhỏ đến cái to;
“Không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”… Liêm là “luôn luôn tôn
trọng giữ gìn của công và của dân; không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc
của nhà nước, của nhân dân”. Phải trong sạch, không tham lam địa vị, tiền
của, danh tiếng, sung sướng, không tâng bốc mình. Chỉ có một thứ ham là
ham học, ham làm, ham tiến bộ. Hành vi trái với chữ liêm là: Cậy quyền thế
mà đục khoét, ăn của dân, hoặc trộm của công làm của riêng. Dìm người giỏi,
để giữ địa vị và danh tiếng của mình là trộm vị. Gặp việc phải, mà sợ khó
nhọc nguy hiểm, không dám làm là tham uý lạo. Thời xưa, Khổng Tử nói:
người mà không liêm, không bằng súc vật. Mạnh Tử cũng nói: ai cũng tham
lợi thì nước sẽ nguy… Chính là không tà, thẳng thắn, đứng đắn đối với mình,
với người, với việc.
Bốn đức tính này rất cần thiết đối với tất cả mọi người. Trong tác phẩm
“Cần, kiệm, liêm, chính” (tháng 6-1949), Người viết: “Trời có bốn mùa: Xuân,
Hạ, Thu, Đông. Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc. Người có bốn đức:
cần, kiệm, liêm, chính. Thiếu một mùa thì không thành trời. Thiếu một phương
thì không thành đất.Thiếu một đức thì không thành người” [39, tr. 631].
Theo Người: các đức tính trên có quan hệ chặt chẽ với nhau; Cần với
Kiệm, phải đi đôi với nhau, như hai chân của con người.
Cần mà không Kiệm, "thì làm chừng nào xào chừng ấy". Cũng như một
cái thùng không có đáy; nước đổ vào chừng nào, chảy ra hết chừng ấy, không
lại hoàn không. Kiệm mà không Cần, thì không tǎng thêm, không phát triển
được. Mà vật gì đã không tiến tức phải thoái. Cũng như cái thùng chỉ đựng
một ít nước, không tiếp tục đổ thêm vào, lâu ngày chắc nước đó sẽ hao bớt
dần, cho đến khi khô kiệt. Cần, Kiệm, Liêm, là gốc rễ của Chính; giống như
một cây cần có gốc rễ, lại cần có cành, lá, hoa, quả mới là hoàn toàn. Một
20
người phải Cần, Kiệm, Liêm, nhưng còn phải Chính mới là người hoàn toàn.
Tự mình phải chính trước, mới giúp được người khác chính. Mình không
chính, mà muốn người khác chính là vô lý.
Chí công là rất mực công bằng, công tâm; vô tư là không có lòng riêng,
thiên tư, thiên vị. Chí công vô tư, là làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến
mình trước, chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì nhân dân, vì lợi ích của cách
mạng “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Muốn “chí công vô tư” thì phải
chiến thắng chủ nghĩa cá nhân. Đây là chuẩn mực của người lãnh đạo giữ
“cán cân công lý”, không được vì lòng riêng mà chà đạp lên pháp luật. “Cần,
kiệm, liêm, chính” có quan hệ chặt chẽ với nhau và với “chí công vô tư”.
“Cần kiệm liêm chính” sẽ dẫn đến “chí công vô tư”. Ngược lại, đã “chí công
vô tư”, một lòng vì nước vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được “cần,
kiệm, liêm, chính”.
Tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự thống nhất hòa quyện giữa chủ nghĩa yêu
nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Quan niệm đạo đức về tình
đoàn kết quốc tế trong sáng của Người mang nội dung sâu rộng. Đó là tinh
thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức với nhân dân lao động ở các nước vì
một mục tiêu chung là đấu tranh giải phóng con người khỏi áp bức bóc lột.
Đó là đoàn kết giữa những người vô sản vì một mục tiêu chung nhất: “Bốn
phương vô sản đều là anh em”. Đó là đoàn kết với nhân loại tiến bộ vì hòa
bình, công lý và tiến bộ xã hội
1.2.4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về những nguyên tắc xây dựng đạo đức
mới
Để xây dựng nền đạo đức mới, Hồ Chí Minh đã đề ra một số nguyên
tắc và suốt đời thực hiện không mệt mỏi, tự rèn mình, giáo dục đảng viên và
mọi người cùng thực hiện. Đó là các nguyên tắc:
Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức
21