Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

NGƯỜI THỰC HÀNH TRONG ĐỒNG PHẠM THEO LUẬT HÌNH sự VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (532.64 KB, 103 trang )

môc lôc
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
më ®Çu 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƯỜI THỰC HÀNH
TRONG ĐỒNG PHẠM THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
6
1.1. Khái niệm đồng phạm và các hình thức đồng phạm 6
1.1.1. Khái niệm đồng phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam 6
1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của đồng phạm 12
1.1.3. Nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự của đồng phạm 19
1.1.4. Các hình thức đồng phạm 22
1.2. Khái niệm người thực hành trong đồng phạm và ý nghĩa của
việc xác định đúng vai trò của người thực hành trong đồng phạm
26
1.2.1. Quá trình phát triển các quy định về người thực hành trong
đồng phạm và khái niệm người thực hành trong đồng phạm
theo Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999
26
1.2.2. Ý nghĩa của việc xác định đúng vai trò người thực hành
trong đồng phạm
35
1.3. Phân biệt người thực hành với những người đồng phạm khác 35
1.3.1. Các loại người đồng phạm 35
1.3.2. Phân biệt người thực hành với những người đồng phạm khác 39
1
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM
1999 VỀ NGƯỜI THỰC HÀNH TRONG ĐỒNG PHẠM


VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ
42
2.1. Người thực hành theo quy định của Bộ luật Hình sự Việt
Nam năm 1999
42
2.2. Thực tiễn xét xử và những tồn tại vướng mắc đối với việc xác
định trách nhiệm hình sự của người thực hành trong đồng
phạm
46
2.2.1. Vài nét về hoạt động xét xử các vụ án có đồng phạm trong
thời gian từ năm 2005 đến 2010 của ngành Toà án
46
2.2.2. Những tồn tại, vướng mắc trong việc áp dụng các nguyên tắc
xác định trách nhiệm hình sự và vai trò của người thực hành
trong đồng phạm
50
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH
SỰ VỀ NGƯỜI THỰC HÀNH TRONG ĐỒNG PHẠM
79
3.1. Hoàn thiện các quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam năm
1999 về người thực hành trong đồng phạm
79
3.1.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật Hình
sự Việt Nam năm 1999 về người thực hành trong đồng phạm
79
3.1.2
.
Cơ sở của việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật Hình sự
Việt Nam năm 1999 về người thực hành trong đồng phạm

81
3.1.3. Nội dung các vấn đề cần sửa đổi, bổ sung trong Bộ luật Hình
sự năm 1999 về đồng phạm và người thực hành
87
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của pháp
luật về người thực hành trong công tác xét xử
89
3.2.1. Về lập pháp 89
3.2.2. Về áp dụng pháp luật 91
3.2.3. Về công tác cán bộ 92
KẾT LUẬN 94
2
Danh môc tµi liÖu tham kh¶o 96
Danh môc c¸c b¶ng
Sè hiÖu
b¶ng
Tªn b¶ng Trang
2.1 Tổng hợp số liệu xét xử của ngành Tòa án nhân dân trên
toàn quốc từ năm 2005 đến năm 2010
47
2.2 Tổng hợp kết quả đặc điểm nhân của bị cáo do ngành Tòa án
nhân dân xét xử trên toàn quốc từ năm 2005 đến năm 2010
48
2.3 Tổng hợp kết quả xét xử phúc thẩm vụ án có người thực
hành có kháng cáo, kháng nghị: Lấy ngẫu nhiên 180 bản
án do các cấp ngành Toà án xét xử từ năm 2005 - 2010
(mỗi năm 30 bản án) chủ yếu tại Tòa án nhân dân thành
phố Hà Nội
49
3

mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong nhiều năm gần đây, cùng với sự phát triển về kinh tế - xã hội
của đất nớc, tình hình tội phạm trên toàn quốc diễn biến ngày càng phức tạp,
gia tăng về số lợng. Những vụ án do nhiều ngi (ch yu l ngi thc hnh)
cùng thực hiện, mang tính chất quốc tế, xuyên quốc gia ngày càng nhiều với
quy mô và tính chất phức tạp ngày càng cao. So với tội phạm do một ngời thực
hiện, tội phạm có đồng phạm thực hiện thờng mang tính nguy hiểm cho xã hội
cao hơn các vụ án một ngời thực hiện.
Việc xác định chính xác cỏc giai on phm ti; từng loại ngời (bao
gm c ngời thực hành) trong đồng phạm có ý nghĩa quạn trọng đối với việc
phân hoá vai trò, xác định trách nhiệm hình sự, các thể hoá hình phạt đối với
mỗi bị can, bị cáo.
Theo s liu thống kê của Tòa án nhân dân tối cao thì số vụ án hình sự
có từ 02 b cỏo trở lên tham gia, đều thể hiện năm sau tăng hơn năm trớc. Song
quy định của pháp luật về vấn đề đồng phạm còn cha đầy đủ, rõ ràng, đôi khi
khó áp dụng nên các cơ quan tiến hành tố tụng còn gặp nhiều khó khăn, bt
ng quan im trong việc điều tra, truy tố xét xử đối với các vụ án có đồng
phạm, đặc biệt là những vụ án có nhiều ngời thực hành tham gia. Hin tng
bn ỏn b hu, b sa do khụng thng nht trong vic xỏc nh ng phm,
ngi thc hnh trong ng phm vn xy ra, iu ú nh hng trc tip n
cht lng, hiu qu cụng tỏc u tranh phũng chng ti phm; uy tớn ca
ngnh To ỏn núi riờng v cỏc c quan bo v phỏp lut núi chung.
Vì vậy, việc tip tc nghiên cứu làm sáng tỏ các vn v dấu hiệu,
đặc điểm trỏch nhim pháp lý của ngời thực hành trong đồng phạm theo quy
định của luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay và mt s hn ch trong
4
thực tiễn ỏp dng B lut Hỡnh s Vit Nam nm 1999 trong cụng tỏc xét xử
các vụ án có ngời thực hành trong ng phm thời gian vừa qua đa ra một số
luận cứ góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự núi chung, B lut

Hỡnh s nm 1999 núi riờng và đa ra một số giải pháp về mặt thực tiễn nhằm
góp phần phòng, chống các tội phạm có đồng phạm; bảo đảm an ninh trật tự,
an toàn xã hội, góp phần phục vụ thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nớc có ý nghĩa chính trị - xã hội và lý luận - thực tiễn quan trọng.
Đây là lý do chính để học viên quyết định lựa chọn đề tài: "Ngời thực hành
trong đồng phạm theo luật hình sự Việt Nam" làm đề tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Dới góc độ khoa học pháp lý, trong thời gian qua việc nghiên cứu về
đồng phạm, ngời thực hành trong đồng phạm đã thu hút đợc sự quan tâm của
nhiều nhà nghiên cứu lý luận, luật gia hình sự và cán bộ thực tiễn. Đến nay, đã
có nhiều công trình nghiên cứu đợc công bố thể hiện ở một số luận văn, luận
án, sách chuyên khảo, tham khảo, bình luận và giáo trình đại học nh:
- GS.TSKH o Trớ c ch biờn, Mụ hỡnh lý lun v B lut Hỡnh s
Vit Nam (Phn chung), Nxb Khoa hc xó hi, H Ni, 1993;
- GS.TSKH Lê Cảm, Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình
sự (Phần chung), Sách chuyên khảo sau đại học, Nxb Đại học quốc gia Hà
Nội, H Ni, 2005;
- ThS.Trnh Quc Ton, "ng phm", Trong sỏch: Giỏo trỡnh lut
hỡnh s Vit Nam (Phn chung), Tp th tác gi do GS.TSKH Lờ Cm ch
biờn, Nxb i hc quc gia H N i, H Ni, 2001 (tái bn nm 2003 v 2007).
- Trần Quang Tiệp, Đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam, Luận án
Tiến sĩ Luật học, Trờng Đại học Luật Hà Nội, 2000;
- Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 1999 (Phần
chung), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2004;
5
- Nguyễn Thị Trang Liên. Các hình thức đồng phạm trong Luật hình sự
Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009;
Bờn cnh ú vn ny cng c cp nhiu cụng trỡnh nghiờn
cu, bi vit ca nhiu tỏc gi nh:
- Nguyễn Ngọc Hòa, Trần Quốc Dũng phạm tội gì? Bàn về các giai

đoạn phạm tội và vấn đề cộng phạm, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 2/1980; Lê
Cảm, Về chế định đồng phạm, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 2/1988; Đoàn Văn
Hờng. Đồng phạm và một số vấn đề về thực tiễn xét xử, Tạp chí Tòa án nhân
dân, số 4/2003; Đặng Văn Doãn, Vấn đề đồng phạm, Nxb Pháp lý, Hà Nội,
1986; Trần Quang Tiệp. Chế định đồng phạm trong pháp luật hình sự ở một
số nớc trên thế giới, Tạp chí Nhà nớc và pháp luật, số 11/1997; Lê Thị Sơn. Về
các giai đoạn thực hiện hành vi đồng phạm, Tạp chí Luật học, số 3/1998; D-
ơng Văn Tiến. Các hình thức đồng phạm và trách nhiệm hình sự của những
ngời đồng phạm, Tạp chí Nhà nớc và pháp luật, số 1/1986
Tuy nhiên, các công trình nói trên đa số có phạm vi nghiên cứu rộng,
hoặc nghiên cứu vấn đề đồng phạm dới một số khía cạnh nhất định, hoặc chỉ
xem xét dới góc độ tội phạm học - phòng ngừa trong luật hình sự Việt Nam;
có công trình nghiên cứu về đồng phạm nhng đã đợc tiến hành cách đây khá
lâu, cha có những công trình phân tích sâu về mặt lý luận và thực tiễn xột x
đối với từng loại ngời trong đồng phạm, đặc biệt là đối với ngời thực hành -
trung tõm ca hot ng phm ti trong đồng phạm. Chính vì vậy, việc tiếp
tục nghiên cứu để hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về
ngời thực hành trong chế định đồng phạm, cũng nh đề xuất các giải pháp nâng
cao hiệu quả áp dụng các quy định về chế định đồng phạm vẫn còn có ý nghĩa
về lý luận và thực tiễn, đặc biệt là phục vụ trực tiếp cho quá trình xét xử, giải
quyết các vụ án hình sự của ngành Toà án.
3. Mục đích và đối tợng nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
6
Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống về những vấn đề pháp lý
cơ bản về ngời thực hành trong đồng phạm nh: khái niệm; các dấu hiệu pháp
lý; trách nhiệm hình sự đối với ngời thực hành; phân biệt ngời thực hành với
các hình thức đồng phạm khác. Qua nghiên cứu một số vớng mắc, khó khăn
trong quá trình áp dụng pháp luật khi xử lý các vụ án hình sự có đồng phạm
(đặc biệt là nhiều ngời thực hành tham gia), luận văn chỉ ra một số vớng mắc,

tồn tại trong xác định vai trò, trách nhiệm hình sự của ngời thực hành trong vụ
án có đồng phạm. Trên cơ sở đó, đề xuất một số kiến nghị, giải pháp hoàn
thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định
của Bộ luật Hình sự Việt Nam về xử lý đối tợng này.
3.2. Đối tợng nghiên cứu
Đối tợng nghiên cứu của luận văn đúng với tên gọi của đề tài là "Ngời
thực hành trong đồng phạm theo Luật hình sự Việt Nam".
4. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu
4.1 C s lý lun
Luận văn đợc thực hiện trên cơ sở phơng pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, t tởng Hồ Chí Minh và những chủ trơng, đờng lối của Đảng, Nhà
nớc ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm.
4.2 Phng phỏp nghiờn cu
Quá trình nghiên cứu trong đề tài sử dụng các phơng pháp nghiên cứu
cụ thể nh: phân tích, tổng hợp và thống kê xã hội học; phơng pháp so sánh, đối
chiếu; phân tích thuần túy quy phạm pháp luật; nghiên cứu, điều tra án điển
hình để phân tích và luận chứng các vấn đề khoa học cần nghiên cứu trong
luận văn này. Trong quá trình thực hiện đề tài luận văn, học viên đã tiếp thu có
chọn lọc kết quả của các công trình đã công bố; các đánh giá, tổng kết của các
cơ quan chuyên môn và các chuyên gia về những vấn đề có liên quan đến các
vấn đề nghiên cứu trong luận văn.
5. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
7
ở bình diện lý luận, kết quả nghiên cứu của luận văn đa ra một số
luận cứ góp phần hoàn thiện lý luận về chế định đồng phạm, ngời thực hành
trong đồng phạm trong khoa học luật hình sự Việt Nam. Cụ thể, làm rõ các
vấn đề chung về ngời thực hành trong vụ án có đồng phạm theo quy định của
luật hình sự Việt Nam; phân tích khái quát sự hình thành và phát triển của các
quy định pháp luật hình sự nớc ta về ngời thực hành trong đồng phạm từ năm
1945 đến nay; phân biệt hình thức đồng phạm này với một số hình thức đồng

phạm khác mà hiện hay thờng có sự nhầm lẫn trong thực tiễn; làm sáng tỏ chế
định đồng phạm quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999; phân tích thông qua
nghiên cứu thực tiễn xét xử trên toàn quốc (m chủ yếu l ti địa bàn thành
phố Hà Nội) t năm 2005 đến năm 2010 để so sánh, qua đó chỉ ra những mâu
thuẫn, bất cập của các quy định hiện hành; chỉ ra các vấn đề cha thống nhất
trong quá trình áp dụng các quy định đó cũng nh chỉ ra nguyên nhân để tìm
giải pháp khắc phục, nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật
Hình sự về ngời thực hành trong chế định đồng phạm ở khía cạnh lập pháp và
việc áp dụng trong thực tiễn.
Về thực tiễn, luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, nghiên
cứu, học tập. Những đề xuất, kiến nghị của luận văn sẽ cung cấp những luận
cứ khoa học phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng Bộ
luật hình sự Việt Nam liên quan đến ngời thực hành trong đồng phạm, qua đó
góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống các tội phạm có
sự tham gia của nhiều ngời hiện nay và sắp tới.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chơng:
Chơng 1: Nhng vấn đề chung về ngời thực hành trong đồng phạm.
Chơng 2: Quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 v ngời
thực hành trong đồng phạm và thực tiễn xét xử.
8
Ch¬ng 3: Hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng
các quy định về người thực hành trong đồng phạm.
9
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƯỜI THỰC HÀNH
TRONG ĐỒNG PHẠM THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm đồng phạm và các hình thức đồng phạm
1.1.1. Khái niệm đồng phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam

Trong lịch sử lập pháp hình sự của nước ta, kháí niệm đồng phạm đã
hình thành và phát triển qua nhiều thời kỳ. Trong thời kỳ phong kiến, cũng đã
có các quy định sơ khai về đồng phạm. Luật hình sự phong kiến được hình
thành và phát triển trên cơ sở của nhiều chế định khác nhau, vấn đề đồng
phạm đã bước đầu được đề cập tới trong "Quốc triều hình luật" (Bộ luật Hồng
Đức) năm 1483 - Bộ luật chính thống và quan trọng nhất của triều đại Nhà
Lê. Mặc dù chưa đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm đồng phạm nhưng
Bộ luật đã có những quy định về trách nhiệm hình sự cho những người tham
gia phạm tội là:
Những kẻ đồng mưu với nhau đi ăn cướp nhưng khi đi thì
lại không đi, người đi lấy được của về chia nhau, mà kẻ đồng mưu
ở nhà cũng lấy phần, thì xử tội như là có đi ăn cướp (ăn trộm cũng
vậy) nếu không lấy được phần chia thì xử lưu đi châu gần. Trước
kia vẫn từng đi ăn cướp mà khi ấy không đi, dù không lấy phần
cũng xử tội như đi ăn cướp [29].
Việc ghi nhận trách nhiệm hình sự đối với "kẻ đồng mưu" hay "người
xúi giục người khác phạm pháp" trong hai Điều luật trên cho thấy chế định
đồng phạm đã được đề cập đến trong luật hình sự phong kiến Việt Nam.
Phạm vi đồng phạm không những bao gồm người khởi xướng, kẻ chủ
mưu, người a tòng, thủ phạm, tòng phạm, kẻ đồng mưu, kẻ xúi giục mà còn
bao gồm cả những người thuộc phạm trù liên quan đến tội phạm: "Những kẻ
10
mưu phản nước theo giặc thì xử chém, nếu đã hành động thì xử tội bêu đầu,
kẻ biết việc ấy thì cũng đồng tội" [29].
Bộ "Quốc triều hình luật" cũng thể hiện đường lối xử lý, nguyên tắc
trừng trị tội phạm của Nhà nước phong kiến dưới triều Lê, Điều 35 quy định:
"Nhiều người cùng phạm một tội, thì lấy người khởi xướng làm đầu, người a
tòng được giảm một bậc. Nếu tất cả những người trong nhà cùng phạm một
tội, chỉ bắt người tôn trưởng" [29].
Như vậy, Bộ Quốc triều Hình luật đã có những quy định cơ bản về

đồng phạm và phân hóa trách nhiệm đối với những giai đoạn thực hiện tội
phạm khác nhau của đồng phạm. Tuy nhiên, các quy định thời kỳ này còn
chung chung, chưa đưa ra được các khái niệm cụ thể về đồng phạm, các loại
người cụ thể trong đồng phạm.
Hoàng Việt luật lệ (Luật Gia Long) được khắc in lần đầu năm 1812.
Mặc dù chịu ảnh hưởng Luật Thanh triều khá nặng nề nhưng nhiều điều luật
trong đó có các điều luật quy định về đồng phạm vẫn tiếp thu những quy định của
Bộ luật Hồng Đức mà không có bước tiến đáng kể nào về kỹ thuật lập pháp.
Hoàng Việt hình luật được ban hành ngày 03/7/1933 (chỉ có hiệu lực ở
miền Trung) đã có hẳn chương IX quy định về chế định đồng phạm. Tuy
nhiên, Bộ luật này cũng không có khái niệm về đồng phạm mà vân chỉ dừng ở
nguyên tắc trừng trị tội phạm:
Khi nào nhiều người đồng can một tội đại hình hoặc trừng
trị mà xét rõ là đáng tội, quan tòa án phải xét trong những người
ấy hoặc một người hoặc nhiều người là chánh yếu phạm, còn
những người khác thời là tùng phạm, mà nghĩ xử tội bằng phân
nửa tội người chánh yếu phạm [Dẫn theo 37, tr. 11].
Sau ngày thành lập Nhà Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (nay là
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam) Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản
pháp luật liên quan đến đồng phạm. Phạm vi đồng phạm được quy định rộng
11
bao gồm cả hành vi oa trữ, tức là hành vi chứa chấp, tiêu thụ của gian, không
phân biệt có hứa hẹn trước hay không. Ví dụ Điều 2 Sắc lệnh số 27-SL ngày
28/2/1946 quy định: "Những người tòng phạm hoặc oa trữ những tang vật của
tội phạm trên cũng bị phạt như chính phạm". Thuật ngữ "đồng phạm" lần đầu
tiên xuất hiện trong Sắc lệnh số 223-SL (17/11/1946) về truy tố các tội hối lộ,
biển thủ công quỹ: "Người phạm tội còn có thể bị xử, tịch thu nhiều nhất là
đến 3/4 gia sản. Các đồng phạm và tòng phạm cũng bị phạt như trên". Sắc
lệnh số 133-SL (20/01/1959) và Pháp lệnh ngày 30-10-1967 về trừng trị
những tội phản cách mạng cũng quy định trường hợp phạm tội của nhiều

người trong đó bao gồm bọn chủ mưu, bọn cầm đầu và bọn tham gia tổ chức
phản cách mạng.
Cùng với sự phát triển của khoa học luật hình sự, khái niệm đồng
phạm đã bắt đầu xuất hiện trong các sách báo pháp lý.
Thời kỳ này, các học giả tư sản (trường phái xã hội học chuyên phục
vụ cho sự thống trị của giai cấp tư sản) khi nêu vấn đề đồng phạm đã đưa ra
quan điểm: Chỉ cần có hai người trở lên cùng phạm tội thì gọi là đồng phạm.
Đây là quan điểm hết sức sai lầm, phiến diện và không khoa học, không thể
hiện sự bao quát chính xác về mặt khách quan cũng như mặt chủ quan của
tội phạm.
Khi đó, chúng ta vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về đồng
phạm. Thành tựu lập pháp chỉ mới dừng lại ở quy định các trường hợp phạm
tội có đồng phạm như "phạm tội có tổ chức", "phạm tội có móc ngoặc" hay
quy định những loại người cụ thể trong vụ phạm tội có nhiều người cùng liên
kết thực hiện như bọn chủ mưu, bọn cầm đầu hay người xúi giục. Trong thực
tế, có nhiều thời kỳ việc nhiều người cố ý cùng phạm một tội được coi là
"cộng phạm".
Đến năm 1963, khái niệm này đã được khẳng định trong báo cáo tổng
kết ngành Toà án: "Coi là cộng phạm nếu hai hoặc nhiều người cùng chung ý
12
chí và hành động, nghĩa là hoặc tổ chức hoặc xúi giục hoặc giúp sức hoặc
tham gia thực hiện tội phạm để cùng đạt tới kết quả phạm tội" [38].
Pháp luật của một số nước trên thế giới, trong đó có Bộ luật Hình sự
của Liên bang Nga năm 1978 cũng có khái niệm tượng tự như vậy.
Hoặc giáo trình hình luật của Trường Cao đẳng Kiểm sát Hà Nội đã
nêu ra khái niệm hoàn chỉnh hơn: "Hai hoặc nhiều người cùng cố ý tham gia
thực hiện một tội phạm thì gọi là cộng phạm" [45].
Các khái niệm này chưa đưa ra sự phân hoá trách nhiệm hình sự đối
với những kẻ cùng thực hiện tội phạm nhưng là những tư duy làm tiền đề cho
việc phân biệt giữa trường hợp phạm tội riêng lẻ và trường hợp phạm tội có

sự tham gia cùng thực hiện của nhiều người. Những khái niệm này là tài liệu
quan trọng và thực sự quý báu để nhà làm luật tiếp tục hoàn thiện chế định
đồng phạm trong Luật hình sự.
Pháp luật hình sự giai đoạn sau này có những bước tiến vượt bậc với
sự ra đời của Bộ luật Hình sự năm 1985. Tại đây, lần đầu tiên khái niệm đồng
phạm đã chính thức được sử dụng, Khoản 1 Điều 17 nêu rõ: "Hai hoặc nhiều
người cố ý cùng thực hiện một tội phạm là đồng phạm" [22]. Khái niệm này
đã thay thế hoàn toàn khái niệm "cộng phạm" vẫn được sử dụng trước đây.
Theo khái niệm này, đồng phạm được hiểu đương nhiên loại trừ
trường hợp phạm tội do vô ý và quy định của điều luật được hiểu yếu tố bắt
buộc đối với đồng phạm là phải có lỗi cố ý. Đa số pháp luật các nước trên thế
giới có khái niệm về đồng phạm theo xu hướng quy định này. Tuy nhiên, Bộ
luật Hình sự của Cộng Hoà nhân dân Trung Hoa năm 1979 lại có quy định
khái niệm loại trừ những trường hợp không phải là đồng phạm ngay trong
điều luật là: "Hai hoặc nhiều người vô ý cùng thực hiện một tội phạm không
phải là đồng phạm" [18].
Bộ luật Hình sự Liên bang Nga (có hiệu lực từ 01/3/1996) cũng đã có
khái niệm cụ thể về đồng phạm như Bộ luật Hình sự Việt Nam.
13
Theo quan điểm này, GS.TSKH Lê cảm trong cuốn Những vấn đề cơ
bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), sách chuyên khảo sau đại học,
Nxb Đại học quốc gia Hà Nội năm 2005 đã có mô hình lý luận của khái niệm
đồng phạm là: "Đồng phạm là sự cố ý cùng tham gia của hai người trở lên
vào việc thực hiện tội phạm do cố ý" [4].
Lần đầu tiên khái niệm về đồng phạm và các loại người trong đồng
phạm đã được nhiều nhà nghiên cứu khoa học đề cập dưới nhiều khía cạnh và
nhiều quan điểm khác nhau.
Bộ luật Hình sự năm 1999 ra đời, một lần nữa khẳng định quan điểm của
luật hình sự Việt Nam về chế định đồng phạm trong Bộ luật Hình sự năm 1985.
Chế định đồng phạm đã được quy định trong hầu hết luật hình sự của

các nước trên thế giới. Tuy nhiên chỉ có một số nước đưa ra khái niệm cụ thể
về các loại người trong đồng phạm. Trong nhiều trường hợp pháp luật các
nước đưa ra các khái niệm có liên quan làm căn cứ xác định người thực hành
hoặc phân biệt các loại người đồng phạm khác với người thực hành như Bộ
luật Hình sự của Bỉ có khái niệm người tòng phạm:
Sẽ bị trừng phạt với vải trò người tòng phạm một trọng tội
hoặc khinh tội:
- Những người chỉ dẫn việc thực hiện trọng tội hoặc khinh tội.
- Những người cung cấp vũ khí, phương tiện hoặc các loại
thiết bị khác sử dụng phạm trọng tội hoặc khinh tội [18].
Hoặc Bộ luật Hình sự của Nhật Bản dành cả chương XI quy định về
đồng phạm nhưng cũng không có quy phạm định nghĩa về đồng phạm mà chỉ
có khái niệm về đồng chính phạm, người xúi giục, người giúp sức.
Như vậy tìm hiểu, nghiên cứu quá trình lập pháp đã cho chúng ta khái
niệm đầy đủ và thống nhất về số lượng người trong đồng phạm là hai người
trở lên, cùng cố ý thực hiện tội phạm. Hay nói cách khác, khi một tội phạm
14
được thực hiện bởi ít nhất là hai chủ thể và thoả mãn dấu hiệu "cùng cố ý" khi
tham gia thực hiện tội phạm thì trường hợp đó tội phạm được coi là đồng
phạm. Từ đó, có thể đi đến khái niệm chung nhất về đồng phạm như sau:
Đồng phạm là sự cố ý cùng tham gia của hai người trở lên vào việc thực hiện
tội phạm do cố ý.
Khái niệm đồng phạm là khái niệm cơ bản, khái niệm xuất phát để từ
đó xác định các quy phạm khác của chế định đồng phạm về những loại người
đồng phạm; các giai đoạn thực hiện tội phạm trong đồng phạm; tự ý nửa
chừng chấm dứt việc phạm tội trong đồng phạm; các hình thức đồng phạm và
trách nhiệm hình sự trong đồng phạm.
Khái niệm đồng phạm còn là cơ sở pháp lý để phân biệt hành vi đồng
phạm và những hành vi liên quan đến tội phạm đảm bảo thực hiện nguyên tắc
pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực hình sự nhằm xử lý đúng người,

đúng tội, không kết tội oan và không bỏ lọt tội phạm. Như vậy, khái niệm
đồng phạm có ý nghĩa thống nhất về mặt nhận thức trong nghiên cứu lý luận
cũng như trong thực tiễn xét xử.
Về mặt lý luận, khái niệm đồng phạm được quy định trong pháp luật
hình sự là cơ sở lý luận cho việc tiếp tục nghiên cứu những vấn đề khác mang
tính đặc thù đối với đồng phạm như: các giai đoạn thực hiện tội phạm, các
hình thức đồng phạm, tổ chức tội phạm… Bên cạnh đó khái niệm đồng phạm
còn có ý nghĩa trong việc xác định tính nguy hiểm cho xã hội của đồng phạm
khi so sánh với các hình thức phạm tội khác như phạm tội riêng lẻ, phạm tội
do nhiều người thực hiện nhưng không có đồng phạm.
Thông thường hiện nay, khái niệm đồng phạm quy định tại điều 20 Bộ
luật Hình sự được hiểu là trong đồng phạm mới có các loại người đồng phạm
(gồm ngừơi thực hành, người tổ chức, người xúi giục và người giúp sức). Chỉ
có thể xác định được người đồng phạm cụ thể sau khi xác định vụ việc xảy ra
là một vụ đồng phạm. Trái ngược với nhận thức này, thực tế cho thấy không ít
15
trường hợp phạm tội do nhiều người tham gia thực hiện, tuy không thỏa mãn
các dấu hiệu của đồng phạm nhưng lại thỏa mãn dấu hiệu của từng loại người
đồng phạm cụ thể. Đây là vướng mắc mà thực tiễn xét xử đòi hỏi khoa học
luật hình sự phải nghiên cứu vì pháp luật hình sự chưa có quy định. Để giải
quyết vướng mắc này, Giáo sư tiến sĩ Nguyễn Ngọc Hòa có quan điểm:
Bộ luật Hình sự trước khi quy định trường hợp đồng phạm
phải quy định những trường hợp bị coi là phạm tội. Đó là các
trường hợp:
- Thực hiện tội phạm.
- Xúi giục thực hiện tội phạm.
- Tổ chức thực hiện tội phạm.
- Giúp sức cho việc thực hiện tội phạm [50, tr. 182].
Với quy định này, trong những trường hợp người tổ chức, người thực
hành, người xúi giục, người giúp sức phạm tội độc lập trách nhiệm hình sự

vẫn được đặt ra mặc dù họ không phải là người đồng phạm.
Để hiểu rõ hơn, đầy đủ hơn về đồng phạm, ta cần đi sâu nghiên cứu
những dấu hiệu pháp lý của đồng phạm.
1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của đồng phạm
a) Dấu hiệu thuộc mặt khách quan của đồng phạm
Dấu hiệu thứ nhất thuộc mặt khách quan của đồng phạm đòi hỏi phải
có ít nhất hai người trở lên có đủ điều kiện chủ thể tham gia thực hiện một tội
phạm độc lập.
Nói hai người trở lên là nói về những người có hành vi nguy hiểm cho
xã hội đến một mức độ nhất định nào đó cùng thực hiện một tội phạm. Theo
TSKH.PGS Lê Cảm thì "Phải có sự cùng tham gia của từ hai người trở lên
vào việc thực hiện tội phạm (nói như vậy mới đảm bảo sự chính xác vì nếu
16
nói là "cùng thực hiện" thì có nghĩa là mới chỉ đề cập tới hành vi của một loại
người đồng phạm - người thực hành mà thôi)" [4, tr. 457].
Khoản 4 Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định: "Những hành vi
tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng
kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác" [25].
Trong thực tiễn, nguyên tắc này được áp dụng khi xử lý đối với tất cả các tội
phạm kể cả những tội phạm có đồng phạm. Chúng ta thường thấy trong
những vụ âm mưu lật đổ chính quyền, bạo loạn, hoạt động phỉ… có đông
người tham gia, không phải tất cả những người tham gia đều bị đưa ra truy tố
xét xử mà chỉ những người có mức độ tham gia đáng kể mới bị truy tố xét xử,
còn những người tham gia với mức độ nhỏ nhặt không đáng kể thường được
xử lý bằng các biện pháp khác không phải biện pháp hình sự. Tội phạm có hai
người trở lên cùng thực hiện nhưng chỉ có một người thỏa mãn dấu hiệu chủ
thể thì vụ án đó không có đồng phạm. Nếu vụ án có rất nhiều người tham gia
thực hiện nhưng chỉ có hai người thỏa mãn dấu hiệu chủ thể thì vụ án vẫn
được xác định là có đồng phạm.
Hiện nay luật hình sự Việt Nam không có điều luật nào quy định trực

tiếp: Như thế nào là người có năng lực trách nhiệm hình sự. Song tại Khoản 1
Điều 13 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định:
Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi
đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng
nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình thì không phải
chịu trách nhiệm hình sự, đối với người này phải áp dụng biện
pháp bắt buộc chữa bệnh [25].
Như vậy có thể hiểu rằng: Người có năng lực trách nhiệm hình sự là
người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức được
tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và có khả năng điều khiển
được hành vi ấy.
17
Năng lực trách nhiệm hình sự chỉ được hình thành khi con người đạt
độ tuổi nhất định, Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định:
1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự
về mọi tội phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải
chịu trách nhiệm hình sự về tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng [25].
Năng lực trách nhiệm hình sự và độ tuổi là dấu hiệu pháp lý bắt buộc
của chủ thể tội phạm.
Yếu tố chủ thể tham gia thực hiện tội phạm là cơ sở quyết định tính
chất của tội phạm. Thực tế cho thấy, một tội phạm được thực hiện chỉ do một
người thực hiện nhưng cũng có thể nó là kết quả của sự liên kết, phối hợp
giữa nhiều chủ thể khác nhau. Sự tham gia của nhiều người vào việc gây án
đã làm cho tội phạm có sự thay đổi về chất và có tính nguy hiểm cho xã hội
cao hơn hẳn trường hợp phạm tội riêng lẻ. Khi tội phạm có nhiều người cùng
tham gia thì những người phạm tội có tâm lý dựa vào sức mạnh tập thể, nên
liều lĩnh và táo bạo hơn, quyết tâm phạm tội hơn. Do đó, tội phạm có khả
năng gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội cao hơn

Dấu hiệu thứ hai thuộc về mặt khách quan của đồng phạm: Những
người đồng phạm đều có chung hành động và hướng tới một kết quả chung:
Để đánh giá chính xác vụ án có đồng phạm không thì cần xem xét
những người tham gia đó có cùng thực hiện một tội phạm hay không?
Dấu hiệu cùng thực hiện một tội phạm có nghĩa là trong đồng phạm
mỗi người (có đủ điều kiện chủ thể của tội phạm) phải có hành vi tham gia
vào việc thực hiện tội phạm hoặc thúc đẩy việc thực hiện tội phạm. Họ có thể
tham gia vào tội phạm với một hoặc một số hành vi sau: Hành vi thực hiện tội
phạm, hành vi tổ chức thực hiện tội phạm, hành vi xúi giục thực hiện tội
18
phạm, hành vi giúp sức thực hiện tội phạm. Tương ứng với bốn loại hành vi
này là bốn loại người đồng phạm, bao gồm: Người tổ chức, người xúi giục,
người giúp sức và người thực hành.
Thực tế cho thấy trong một vụ án đồng phạm có thể có đủ bốn loại
hành vi nhưng cũng có thể chỉ có một trong bốn hành vi đó. Những người
đồng phạm có thể tham gia với một loại hành vi hoặc với nhiều loại hành vi
khác nhau. Họ có thể tham gia từ đầu hay khi tội phạm đã xảy ra nhưng chưa
kết thúc.
Bằng những hành vi cụ thể, những người tham gia vào vụ án đồng
phạm đều gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Những hành vi đó được thực
hiện trong mối liên kết thống nhất với nhau. Hành vi của mỗi người là điều
kiện cần thiết cho hoạt động phạm tội chung. Hành vi của người này hỗ trợ,
bổ sung cho hành vi của người khác và ngược lại. hành vi của mỗi người là bộ
phận, một khâu của hành vi phạm tội chung nhằm thực hiện một tội phạm
nhất định để gây ra hậu quả phạm tội chung thống nhất. Hoạt động của mỗi
người đều có mối quan hệ nhân quả với hậu quả chung hoặc với việc thực
hiện hành vi phạm tội chung. Như vậy, người đồng phạm có thể tham gia từ
giai đoạn chuẩn bị phạm tội, hoặc cũng có thể tham gia khi tội phạm đã xảy ra
và chưa kết thúc trên thực tế, nhưng không thể có việc tham gia sau khi tội
phạm đã kết thúc.

Về mặt pháp lý, khái niệm tội phạm hoàn thành là chỉ hành vi phạm
tội đã thoả mãn đầy đủ các dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm nhất
định được quy định tại Phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự. Khái niệm tội
phạm kết thúc để chỉ tội phạm không được thực hiện trong thực tế nữa mà
không kể lý do gì. Về mặt lý luận, vấn đề đồng phạm xuất hiện sau khi tội
phạm xảy ra nhưng chưa kết thúc là rất phức tạp. Thực tiễn áp dụng chưa có
những văn bản giải thích hướng dẫn cụ thể nên các cơ quan tiến hành tố tụng
còn gặp nhiều khó khăn và bất đồng về quan điểm.
19
Khoa học luật hình sự Việt Nam chia tội phạm thành hai loại: Loại có
cấu thành tội phạm vật chất và loại có cấu thành tội phạm hình thức. Đối với
loại tội phạm có cấu thành vật chất, hành vi phạm tội phải gây ra hậu quả thì
mới được coi là hoàn thành.
Đối với tội có cấu thành hình thức, hậu quả tuy không phải là dấu hiệu
bắt buộc của mặt khách quan nhưng việc xác định hậu quả có ý nghĩa quan
trọng trong việc quyết định hình phạt.
Quan hệ nhân quả trong đồng phạm là dạng quan hệ nhân quả kép trực
tiếp (quan hệ nhân quả trong đó có nhiều hành vi trái pháp luật cùng đóng vai
trò là nguyên nhân). Khi tội phạm được thực hiện với sự cố ý cùng tham gia
của nhiều người thì mỗi hành vi trái pháp luật của từng người đồng phạm đều
có khả năng thực tế trực tiếp làm phát sinh hậu quả.
Trong trường hợp hành vi của những người đồng phạm chưa có khả
năng thực tế làm phát sinh hậu quả thì quan hệ nhân quả chỉ hình thành khi có
sự kết hợp các hành vi đó với nhau thành một thể thống nhất.
Như vậy, khi tìm hiểu dấu hiệu thuộc mặt khách quan của đồng phạm
ta cần phải xác định được những người tham gia thực hiện tội phạm đó có đủ
điều kiện của một chủ thể tội phạm hay không. Hành vi của người đồng phạm
đó ảnh hưởng tới hành vi của những người đồng phạm khác như thế nào và
ngược lại chịu ảnh hưởng của những người đồng phạm khác ở mức độ nào.
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi của người đồng phạm với hậu quả chung

của tội phạm. Mức độ tham gia của người đồng phạm đối với hoạt động phạm
tội chung.
Bên cạnh những dấu hiệu thuộc mặt khách quan thì những dấu hiệu
thuộc mặt chủ quan của đồng phạm cũng hết sức quan trọng.
b) Những dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của đồng phạm
Mặt chủ quan của tội phạm nói chung, đồng phạm nói riêng bao gồm
các dấu hiệu đặc trưng và cơ bản sau: Lỗi, động cơ và mục đích.
20
Dấu hiệu lỗi: Lỗi là thái độ tâm lí của con người đối với hành vi nguy
hiểm cho xã hội của mình đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu
hiện dưới hình thức là cố ý hoặc vô ý.
Trong đồng phạm ngay từ khái niệm được quy định tại Điều 20 Bộ
luật Hình sự năm 1999 đã quy định, đồng phạm chỉ được thực hiện với lỗi
cố ý, mỗi người đồng phạm khi thực hiện hành vi phạm tội đều cố ý với
hành vi của mình và mong muốn sự cố ý tham gia của những người đồng
phạm khác. Lỗi cố ý trong đồng phạm được thể hiện trên hai mặt lí trí và ý
chí như sau:
• Về lí trí:
Trong nhận thức của những người đồng phạm đều phải biết hành vi
của mình là nguy hiểm cho xã hội, đồng thời họ cũng phải biết rằng người
khác cũng có hành vi nguy hiểm cho xã hội như mình. Trong trường hợp vụ
đồng phạm có nhiều người tham gia, bản thân mỗi chủ thể khi thực hiện hành
vi không thể biết được hành vi cụ thể của những người tham gia phạm tội
cùng với mình. Nhưng có một điều mà những người phạm tội luôn tin tưởng
là bên cạnh chúng còn có những người khác cùng phạm tội. Trong vụ án đồng
phạm phức tạp, mỗi người đồng phạm khác đều biết hành vi của mình có tác
động, hỗ trợ hành vi của người thực hành để cùng đạt đến mục đích của hành
vi phạm tội chung. Người thực hành cũng biết sự tá động hỗ trợ của người
đồng phạm khác đối với mình. Dù ít hay nhiều bọn chúng đều có sự liên kết
cùng hành động, điều này tạo nên tính nguy hiểm cao của đồng phạm so với

trường hợp phạm tội đơn lẻ.
Nếu một người chỉ biết mình có hành vi nguy hiểm cho xã hội mà
không biết người khác cũng có hành vi nguy hiểm cho xã hội như mình thì
chưa phải là cùng cố ý, do vậy chưa có đồng phạm.
Mặt khác, mỗi người đồng phạm còn thấy trước hậu quả nguy hiểm
cho xã hội do hành vi của mình cũng như hậu quả chung của tội phạm mà họ
21
thực hiện, và mục đích mà họ cùng mong muốn đạt được là thực hiện được kế
hoạch vạch ra.
• Về ý chí:
Những người đồng phạm mong muốn có hoạt động chung và cùng
mong muốn hoặc cùng có ý thức để mặc cho hậu quả phát sinh. Ở đây luật
hình sự chỉ đưa ra giới hạn "cùng cố ý", tức lỗi của họ đều phải là lỗi cố ý chứ
điều luật không yêu cầu họ cùng có lỗi cố ý trực tiếp hay lỗi cố ý gián tiếp.
Do đó, điều mà chúng ta quan tâm khi tìm hiểu dấu hiệu ý chí trong đồng
phạm là những người đồng phạm có cùng mong muốn hoặc cùng có ý thức để
mặc cho hậu quả phát sinh hay không?
Phân tích dấu hiệu lỗi trong đồng phạm trên hai mặt lý trí và ý chí cho
chúng ta đi đến thống nhất quan điểm: Đồng phạm là trường hợp mà những
người tham gia thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức được tính
chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà mình thực hiện và biết người khác
cũng có hành vi nguy hiểm cùng với mình, họ đều thấy trước được hậu quả
nguy hiểm cho xã hội của mình cũng như hậu quả chung của tội phạm mà họ
tham gia thực hiện, đồng thời họ cùng mong muốn có hoạt động chung và
cùng mong muốn hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả phát sinh.
Bên cạnh dấu hiệu lỗi cùng cố ý, từ nội dung họ cùng cố ý thực hiện
tội phạm trong đồng phạm nêu trên, chúng ta có thể thấy trong mặt chủ quan
của đồng phạm cần phải thoả mãn dấu hiệu động cơ, mục đích mà điều luật
quy định là dấu hiệu bắt buộc.
Dấu hiệu động cơ, mục đích

Ngoài dấu hiệu lỗi là cùng thực hiện và cùng cố ý, trong một số
trường hợp đồng phạm còn đòi hỏi dấu hiệu cùng mục đích, khi đó mục đích
là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm.
Ví dụ: Trong nhóm tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia. Mục đích
chống chính quyền nhân dân hoặc làm suy yếu chính quyền là dấu hiệu bắt
22
buộc trong mặt chủ quan của tất cả các tội phạm. Khi thực hiện hành vi phạm
tội, người phạm tội có mục đích chống lại hoặc làm suy yếu chính quyền nhân
dân. Đây là dấu hiệu cho phép phân biệt tội xâm phạm an ninh quốc gia với
những tội khác có dấu hiệu của mặt khách quan tương tự.
Nếu không thoả mãn dấu hiệu cùng mục đích sẽ không có đồng phạm,
trong trường hợp này những người tham gia sẽ chịu trách nhiệm hình sự độc
lập với nhau.
Dấu hiệu này sẽ được phân tích rõ hơn khi đi vào tìm hiểu những vấn
đề liên quan đến trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm ở phần sau.
1.1.3. Nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự của đồng phạm
Theo quy định hiện nay, trách nhiệm hình sự của đồng phạm được xác
định dựa trên những nguyên tác cơ bản sau:
a) Nguyên tắc chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội phạm
Tội phạm luôn là thể thống nhất giữa các yếu tố khách quan và chủ
quan không thể tách rời. Khi được thực hiện dưới hình thức đồng phạm, tội
phạm được thực hiện là do sự nỗ lực, hợp tác chung của tất cả những người
cùng tham gia. Hành vi của mỗi người là bộ phận cần thiết trong hoạt động
chung đó. Hậu quả của tội phạm là kết quả hoạt động chung của tất cả những
người đồng phạm. Hơn nữa bản thân tội phạm là thể thống nhất, không thể
chia cắt tội phạm để buộc mỗi người phải chịu trách nhiệm về một phần của
tội phạm. Theo nguyên tắc này, luật hình sự Việt Nam đã xác định: Tất cả
những người đồng phạm phải chịu trách nhiệm hình sự, bị truy tố, xét xử về
cùng một tội danh, theo cùng một điều luật, trong phạm vi những chế tài điều
luật ấy quy định. Tất cả họ đều phải chịu trách nhiệm về tình tiết tăng nặng

định khung hoặc tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo điều 48 Bộ luật
Hình sự liên quan đến hành vi phạm tội chung nếu họ cùng gây ra hoặc cùng
nhận thức được tình tiết đó. Những nguyên tắc chung về truy cứu trách nhiệm
23
hình sự, về quyết định hình phạt, về thời hiệu mà luật định đối với loại tội do
đồng phạm thực hiện được áp dụng cho tất cả những người đồng phạm. Mặc
dù những người đồng phạm đều phải chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội
phạm mà họ cùng thực hiện, nhưng theo pháp luật hình sự Việt Nam trách
nhiệm hình sự là trách nhiệm cá nhân, mỗi người đồng phạm là môt chủ thể
có lý trí và ý chí hành động trên cơ sở nhận thức và điều khiển hành vi của
mình cho nên mỗi người đồng phạm chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự trên cơ
sở hành vi phạm tội của chính mình. Tuy nhiên, hành vi thái quá của người
thực hành, về lý luận cũng như thực tiện xét xử ở nước ta thừa nhận: Nếu
những người đồng phạm để cho người thực hành hoàn toàn tự do hành động
nhằm đạt được mục đích của tội phạm mà những người đồng phạm khác có ý
định thực hịên, thì mọi hành vi của người thực hành không được coi là hành
vi thái quá và những người đồng phạm khác phải chịu trách nhiệm hình sự về
mọi hành vi của người thực hành gây ra.
Nguyên tắc chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội phạm còn thể hiện
ở khía cạnh: Thời hiệu đối với loại tội do những người đồng phạm đã thực
hiện được áp dụng chung cho tất cả.
Tuy nhiên, đối với trường hợp người phạm tội đó đã tự mình hối cải,
làm ăn lương thiện, không phạm tội mới, không trốn tránh sự trừng trị của
pháp luật thì việc truy cứu trách nhiệm hình sự là không cần thiết
b) Nguyên tắc chịu trách nhiệm độc lập về việc cùng thực hiện vụ
đồng phạm
Tội phạm được thực hiện dưới hình thức đồng phạm là kết quả hoạt
động của tất cả những người đồng phạm gây ra. Bản thân mỗi người đồng
phạm trong đó có người thực hành đều đủ khả năng nhận thức và khả năng
điều khiển hành vi khi họ có hành động phạm tội.

Mặt khác, trách nhiệm hình sự là trách nhiệm cá nhân nên việc xác
định trách nhiệm hình sự cho từng người đồng phạm, thực hành là cần thiết.
24
Do vậy, luật hình sự Việt Nam đã xác định nguyên tắc thứ hai trong việc xác
định trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm là: Mỗi người đồng
phạm phải chịu trách nhiệm độc lập về việc cùng thực hiện vụ đồng phạm.
Nguyên tắc này thể hiện ở chỗ: Những người đồng phạm không phải chịu
trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người đồng phạm, người thực
hành khác. Hành vi vượt quá của đồng phạm là hành vi vượt ra ngoài ý định
chung của những người đồng phạm khác và hành vi đó có thể đã cấu thành tội
khác hoặc cấu thành tình tiết tăng nặng định khung. Hành vi vượt quá thông
thường là hành vi vượt quá của người thực hành.
c) Nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự của những người thực
hành trong đồng phạm
Trong một vụ đồng phạm, những người tham gia tuy phạm cùng một
tội nhưng tính chất và mức độ tham gia của mỗi người là khác nhau. Cho nên,
khi xác định trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm cũng như
người thực hành trong đồng phạm phải xem xét mức độ và tính chất tham gia
của mỗi người. Tính chất tham gia của những người đồng phạm thể hiện vai
trò của họ trong đồng phạm. Mức độ thể hiện sự đóng góp thực tế cụ thể của
người thực hành trong đồng phạm và việc thực hiện tội phạm. Mức độ tham
gia càng lớn thì hậu quả nguy hại cho xã hội càng cao. Do đó trách nhiệm
hình sự phải tương xứng với mức độ tham gia của mỗi người thực hành trong
đồng phạm. Pháp luật hình sự nước ta đã quy định: "Nghiêm trị kẻ chủ mưu,
cầm đầu, chỉ huy " [25, Điều 2], "khoan hồng với người thật thà khai báo, tố
giác đồng bọn " [25, Điều 3].Tất cả những người đồng phạm nếu đủ dấu
hiệu chủ thể đều phải chịu trách nhiệm hình sự. Điều này không có nghĩa mức
án áp dụng đối với họ phải như nhau. Khi giải quyết trách nhiệm hình sự của
những người đồng phạm, Tòa án phải tuân theo các quy định chung về căn cứ
quyết định hình phạt được quy định tại Điều 45 Bộ luật Hình sự năm 1999:

"Khi quyết định hình phạt, Tòa án phải căn cứ vào các quy định của Bộ luật
Hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
25

×