Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Những tư tưởng cơ bản trong học thuyết “kiêm ái” của mặc tử và ý nghĩa của chúng trong xây dựng đạo đức của người việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (379.68 KB, 87 trang )

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Loài người ngày càng nhận thức rõ sự phát triển của một đất nước
không chỉ là phát triển kinh tế, khoa học, công nghệ. Sự giàu có vật chất,
phương tiện tiêu dùng, kỹ thuật chỉ mới là những điều kiện quan trọng, thực
hiện lý tưởng sống cao đẹp nhất của con người là cuộc sống văn minh, hạnh
phúc. Đáp ứng cuộc sống văn minh, hạnh phúc gồm nhiều yếu tố trong đó văn
hóa đạo đức chiếm một vị trí quan trọng. Người ta cũng thấy được rằng, văn
hóa không chỉ là yếu tố phát sinh, song song tồn tại với cuộc sống, mà nó nằm
ngay trong cuộc sống, là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Lịch sử cho thấy, không một nền văn hóa nào phát triển được nếu nó
đứng cô lập, tách rời với các nền văn hóa khác. Như chúng ta đã thấy vào thời
cổ đại, nhiều tộc người da đỏ châu Mỹ và da đen Nam Phi đã đạt được trình
độ phát triển cao nhưng do bị ngăn cách bởi các đại dương và sa mạc cho nên
các nền văn minh ấy bị suy thoái dần dần. Trong thời cận đại thì Trung Hoa
thi hành “chính sách bế quan tỏa cảng” tự ru ngủ mình bằng hào quang của
quá khứ và đã dẫn đến tình trạng trì trệ. Còn Nhật Bản thì chủ trương mở của,
tiếp thu khoa học kỹ thuật tiên tiến của phương Tây với nền tảng văn hóa, đạo
lý truyền thống dân tộc, nên đã phát triển nhanh. Việt Nam là một trong
những quốc gia trên thế giới, vì vậy chúng ta đã nhận thức ra được việc phát
triển kinh tế như thế nào cho phù hợp với xu hướng của thế giới trong giai
đoạn hiện nay. Đồng thời đánh giá về kết quả thu được cho nền văn hóa nước
nhà, nhất là về văn hóa đạo đức khi gia nhập vào nền kinh tế thị trường toàn
cầu. Thêm vào đó, thấy được sự giao lưu, hòa trộn giữa các nền văn hóa khác
nhau của nhân loại.
Hiện nay, khi mà đất nước chúng ta đang tiến hành mở cửa hội nhập
với các quốc gia trên thế giới, ngoài việc tiếp thu được các thành tựu khoa học
1
tiên tiến cùng với những trang thiết bị kỹ thuật hiện đại, góp phần thúc đẩy
sản xuất phát triển, thì chúng ta còn chịu ảnh hưởng lớn về mặt đời sống xã


hội, mà cụ thể là mặt đạo đức. Nền đạo đức Việt Nam chịu sự tác động của
kinh tế thị trường có nhiều điểm tích cực nhưng đồng thời nó cũng làm nảy
sinh một số hiện tượng tiêu cực, gây mất ổn định trong đời sống đạo đức của
người dân trong các tỉnh thành khắp cả nước.
Nền kinh tế mở mang tới cho con người cách sống năng động, linh hoạt
trong việc xử lý mọi tình huống xảy ra trong cuộc sống hàng ngày. Nhưng
đồng thời nó đã làm cho con người sống thực dụng hơn, mối quan hệ tình cảm
tốt đẹp giữa người với người giờ đây bị chi phối bởi tiền bạc, địa vị, lợi ích cá
nhân, những giá trị truyền thống của cha ông giờ đây đã bị phai nhạt đi trong
lối sống của tầng lớp trẻ. Những biểu hiện này chính là mầm mống cho một
quan niệm sống thực dụng nếu chúng ta không có biện pháp kịp thời ngăn
chặn thì có thể dẫn tới việc mất cân bằng xã hội, mất đi niềm tin của giới trẻ
vào xã hội tương lai, làm cho họ không có được nền tảng vững chắc để chuẩn
bị cho công cuộc xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh.
Chính vì thế, trong khi Việt Nam đang nổ lực hết mình để vươn lên
sánh vai cùng bạn bè năm châu về mọi mặt: kinh tế, xã hội, văn hóa, thì vấn
đề đạo đức mới được rất nhiều người quan tâm. Đảng và nhà nước ta trong
các chính sách của mình cũng thể hiện sự quan tâm sâu sắc tới vấn đề này.
Việc xây dựng đời sống đạo đức mới cho người dân phải lấy những tư tưởng
truyền thống làm nền tảng như tư tưởng Nho gia, Mặc gia, đạo Phật, đạo
Thiên Chúa v.v… Ở mỗi học thuyết, tôn giáo chúng ta đều chọn lọc lấy
những giá trị đạo đức tốt đẹp, phù hợp với cuộc sống của con người trong giai
đoạn hiện nay, sau khi đã gạt bỏ đi tính chất duy tâm thần bí của những tư
tưởng ấy và có sự cải biến phù hợp.
Nghiên cứu tư tưởng của Mặc Tử ở nhiều khía cạnh khác nhau như
“Phi công”, “Thượng đồng”, “Thượng hiền”, “Tiết dụng”, “Phi nhạc”, “Tiết
2
táng” với những nội dung có thể vận dụng vào việc xây dựng đời sống đạo
đức mới của người Việt Nam hiện nay, đặc biệt là học thuyết “kiêm ái”. Đây
là một tư tưởng về việc xây dựng khối đại đoàn kết nhằm đưa xã hội đi lên

xuất phát từ tình yêu thương giữa con người với con người, không phân biệt
sang hèn. “kiêm ái là yêu thương con người”, là sự gắn bó lợi ích giữa con
người với nhau trong xã hội. Để đi tới xây dựng một xã hội đại đồng, con
người sống với nhau chan hòa, tình cảm.
Hiện nay, chúng ta đang phải chứng kiến sự suy đồi về đạo đức của
một bộ phận người trong xã hội, nhất là tầng lớp thanh thiếu niên. Đạo đức
suy thoái làm cho mối quan hệ giữa người với người bị cách biệt, sự thương
cảm giữa những con người với nhau bị phai nhạt đi ngay cả trong gia đình -
nơi mà tình cảm con người gắn bó nhất. Thế nên cần phải có biện pháp tích
cực để khắc phục những hạn chế, tiêu cực trên. Với lý do này tôi đi đến việc
lựa chọn đề tài nghiên cứu là: “Những tư tưởng cơ bản trong học thuyết
“Kiêm ái” của Mặc Tử và ý nghĩa của chúng trong xây dựng đạo đức của
người Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ Triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Tư tưởng của Mặc Tử đã được nhiều nhà khoa học quan tâm và đi sâu
vào nghiên cứu với nhiều công trình và khai thác dưới nhiều góc độ khác
nhau. Có thể nêu lên một số công trình tiêu biểu như: PGS. TS. Đoàn Đức
Hiếu, "Lịch sử triết học phương Đông" (Huế, 2002); Phùng Hữu Lan, "Đại
cương triết học sử Trung Quốc" (Vạn Hạnh, Sài Gòn, 1968, Bản dịch của
Nguyễn Văn Dương); Hồ Thích, "Trung Quốc triết học sử" (Khai Trí, Sài
Gòn, 1969, Bản dịch của Huỳnh Minh Đức). Các tác phẩm này, nêu lên một
cách tóm tắt thân thế sự nghiệp và những nội dung cơ bản nhất trong tư tưởng
triết học của Mặc Tử.
PTS. Vũ Tình, "Đạo đức học phương Đông cổ đại" (Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998). Tác phẩm này tác giả đã trình bày đạo đức
3
của xã hội và đạo đức trong sinh hoạt đời thường xuất phát từ luận điểm
“kiêm ái” của Mặc Tử.
Cao Xuân Huy, "Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn tham
chiếu" (Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1995). Thảo đường cư sĩ Trần Văn

Hải Minh, "Bách gia chư tử" (Hội Nghiên cứu và Giảng dạy văn học Thành
phố Hồ Chí Minh, 1991). Trần Đình Hượu, "Các bài giảng về tư tưởng
phương Đông" (Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002). GS. La Quốc
Việt, "Tu dưỡng đạo đức tư tưởng" (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2003). Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Huy Quý, "Lịch sử Trung Quốc" (Nhà xuất
bản Giáo dục, 2001). PGS. TS. Doãn Chính (chủ biên), "Đại cương lịch sử
triết học Trung Quốc" (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002). GS.
TS Nguyễn Hữu Vui (chủ biên), "Lịch sử triết học" (Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2002). Các tác giả trên trình bày khái quát các phạm trù
trong tư tưởng triết học của Mặc Tử một cách sơ lược.
Vũ Văn Gầu, "Kiêm ái nhân sinh - triết lý độc đáo của Mặc Tử" (Tạp
chí Triết học, số 5, tháng 5 - 2003, tr.36-41). Trong bài báo này tác giả nghiên
cứu rút ra cái hay trong tư tưởng của Mặc Tử ở học thuyết “kiêm ái”, cụ thể ở
đây là tình yêu thương giữa những con người trong xã hội với nhau. Tác giả
còn chỉ ra hoàn cảnh ra đời của học thuyết.
Các công trình nghiên cứu trên đi sâu vào tìm hiểu tư tưởng của Mặc
Tử ở một số phương diện như các phạm trù cơ bản: “phi công”, “thượng
đồng”, “thượng hiền” Tuy nhiên các tác giả trên chưa đi vào nghiên cứu
phạm trù "kiêm ái" với tư cách là một học thuyết quan trọng về đạo đức trong
xã hội.
Tác giả luận văn kế thừa các công trình nghiên cứu trước, đồng thời
vận dụng những giá trị tích cực của học thuyết "kiêm ái" vào thực tiễn xây
dựng đạo đức mới của người Việt Nam hiện nay.
4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích của đề tài: Phân tích những tư tưởng cơ bản trong học
thuyết “kiêm ái” của Mặc Tử. Từ đó nêu lên được những nội dung cơ bản của
học thuyết ý nghĩa của chúng đối với việc xây dựng đạo đức mới ở Việt Nam
hiện nay.
* Nhiệm vụ của đề tài:

+ Phân tích thân thế và sự nghiệp của Mặc Tử, cũng như hoàn cảnh ra
đời của học thuyết “kiêm ái”.
+ Phân tích những tư tưởng cơ bản trong học thuyết “kiêm ái” của Mặc
Tử cùng với sự đóng góp và hạn chế của nó.
+ Ý nghĩa của tư tưởng “kiêm ái” đối với việc xây dựng đạo đức mới ở
Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Học thuyết “kiêm ái” và sự thể hiện của nó
qua các phạm trù khác nhau trong tư tưởng của Mặc Tử.
* Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu các tài liệu bàn về Mặc
Tử và học thuyết “kiêm ái”.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp chủ yếu được sử dụng trong quá trình nghiên cứu là
phương pháp biện chứng duy vật, với tính cách là phương pháp luận chung
nhất. Trên cơ sở đó tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương
pháp thống nhất giữa lịch sử và lôgic, phương pháp phân tích và tổng hợp,
phương pháp so sánh đối chiếu để thực hiện tốt mục đích và nhiệm vụ của
luận văn.
6. Dự kiến đóng góp của đề tài
- Nêu lên những giá trị và hạn chế của Mặc Tử, nhất là học thuyết
“kiêm ái”.
5
- Chỉ ra ý nghĩa của học thuyết “kiêm ái” đối với việc xây dựng lối
sống đạo đức của người Việt Nam hiện nay.
- Làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm tới vấn đề này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn được kết cấu thành 2 chương, 5 tiết:
Chương 1: Mặc Tử và hoàn cảnh ra đời của học thuyết “kiêm ái”.
Chương 2: Những tư tưởng cơ bản trong học thuyết “kiêm ái” - giá trị,

hạn chế và ý nghĩa của chúng.
6
Chương 1
MẶC TỬ VÀ HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA HỌC THUYẾT “KIÊM ÁI”
1.1. Thân thế, sự nghiệp của Mặc Tử
1.1.1. Giải nghĩa chữ “Mặc” trong Triết học Trung Hoa cổ đại
Trong lịch sử tư tưởng triết học Trung Hoa cổ đại vào cuối thời Xuân
Thu - Chiến Quốc đã xuất hiện một trường phái triết học lớn, cùng với Nho
gia, Đạo gia chia nhau thống trị đời sống tinh thần ở Trung Hoa thời kỳ này,
đó là trường phái triết học Mặc gia. Sự ảnh hưởng to lớn của triết học Mặc gia
đã khiến Mạnh Tử phải lo lắng thốt lên rằng: “Lời của Dương Chu, Mặc Địch
tràn lan thiên hạ Những kẻ nói đạo trong thiên hạ thời nay không theo họ
Dương thì theo họ Mặc” [4, tr.262]. Người sáng lập ra trường phái triết học
Mặc gia với học thuyết “Kiêm ái” nổi tiếng là kẻ thù của Khổng giáo, đó là
Mặc Địch. Sau khi Mặc Tử mất học thuyết này được bảo vệ và phát triển bởi
các triết gia hậu Mặc vào thế kỷ thứ IV - III trước công nguyên, với tư tưởng
nổi bật nhất về lôgic và nhận thức luận trên cơ sở duy vật của họ.
Khi nghiên cứu về Mặc Tử chúng ta phải hiểu được nghĩa của từ “Mặc”
trong triết học Trung Hoa cổ đại là gì? Hiểu được nó, sẽ giúp chúng ta có
được một cách nhìn toàn diện hơn về trường phái Mặc gia.
Theo rất nhiều sách viết về trường phái này thì họ nhìn chung đều cho
rằng Mặc Tử họ Mặc, tên là Địch. Đến cuối đời nhà Thanh, Giang Tuyền có
giải thích đại khái như sau: “đời xưa các học phái của Chu Tử gồm có chín
dòng ai truyền lại học thống của mình thì đều xưng là nhà, là gia. Vậy chữ gia
là trỏ vào học phái, chứ không phải trỏ vào dòng họ. Cho nên về thời trước
nhà Tần, chữ Mặc gia là trỏ vào học phái, không phải trỏ vào dòng họ của tác
giả. Đây là lệ chung của chín nhà, theo Hán Chí có nói rõ, như Nho gia, Đạo
gia, Danh gia, Âm dương gia, Tung Hoành gia, Nông gia, Tạp gia” [38,
tr.305]. Bởi vậy Giang Tuyền đi đến kết luận: “Cổ chi sở vị Mặc gia, phi tính
7

thị chi xưng, nãi học thuật chi xưng giả” [38, tr.305], có nghĩa là xưa kia
người ta gọi “Mặc”, không phải gọi họ tên người, mà là nói về mặt học thuật
của trường phái đó mà thôi.
“Mặc” còn có nghĩa là đen, như Mạnh Tử nói “diện thâm mặc”, tức là
mặt đen xì. Vậy “Mặc” có nghĩa là mặc đồ đen. Mặc Tử lấy sự cực khổ làm
đức hạnh, cho nên mệnh danh học thuật của mình là Mặc.
Hơn nữa, chữ Mặc còn là để gọi một tội hình khắc vào mặt và thoa mực
đen đi. Và theo Chu Lễ thì kẻ phạm tội khinh hình thường bị sa vào hạng nô
lệ làm công việc khổ nhục. Như vậy, mới biết được rằng “Mặc” là hình đồ
biến thành, là nô dịch. Mặc gia sinh hoạt kham khổ, lấy sự khổ hạnh để thi
hành điều nhân nghĩa, xác lập đạo đức cho bản thân, từ đó đề ra đạo đức cho
xã hội.
Để chứng minh cho quan điểm của mình Giang Tuyền có đưa ra rất
nhiều bằng chứng rãi rác ở các sách của chư tử. Như trong sách Mặc Tử thiên
Bị Thê: “Cầm Hoạt Ly sự Mặc Tử tam niên, thủ thúc biền đê, diện mục lê
hoắc, dịch thân cấp sử, bất cảm vấn dục” [38, tr.306], có nghĩa là Cầm Hoạt
Ly hầu Mặc Tử trong suốt ba năm chân tay bị chai rộp, mặt mũi đen sì, nhìn
người ngợm khổ sở và không hề nghĩ tới những thèm muốn của mình.
Như vậy, theo Giang Tuyền, chữ “Mặc” không phải là tên là dòng họ
mà nó là tên gọi một học thuật. Qua thuật ngữ này chúng ta thấy được phần
nào cái tinh thần của Mặc học, đó là thứ tinh thần đại diện cho nguyện vọng
của tầng lớp nhân dân cần lao bị nô dịch chống lại chủ trương phục hưng chế
độ phong kiến, bênh vực quyền lợi quý tộc đề đòi về xã hội nguyên thủy sơ
khai với mọi thứ đều là của công, mọi người phải làm lụng, ai làm nhiều ăn
nhiều, ai làm ít ăn ít của thời vua Vũ nhà Hạ.
1.1.2. Thân thế sự nghiệp của Mặc Tử
Mặc Tử là người sáng lập ra Mặc gia và ông đã được một học giả nhận
xét “là một nhân vật kỳ dị nhất của Trung Hoa, kỳ dị từ tên gọi đến tư tưởng
8
và đời sống, kỳ dị đến nỗi gần đây người Trung Hoa ngờ rằng ông có dòng

máu Ấn Độ hoặc Ả Rập chứ không thể là con cháu của Phục Hy và Thần
Nông được” [21, tr.7]. Lời nhận xét này dựa trên cơ sở nghiên cứu về Mặc
Tử, nghiên cứu này cho thấy họ Mặc là một họ cực kỳ hiếm hoi ở Trung Quốc
và đồng thời tư tưởng mà Mặc gia đề xuất rất mới lạ, khác biệt rất nhiều so
với các luồng tư tưởng đang tồn tại trong xã hội thời bấy giờ.
Về cuộc đời và sự nghiệp của Mặc Tử người ta có nhiều cách lý giải
khác nhau. Một số học giả căn cứ vào “Hán Thư”, “Nghệ Văn Chí” của Ban
Cố (32 - 95) cho rằng, Mặc Tử là người nước Tống, ở miền Đông, tỉnh Hà
Nam và miền Tây tỉnh Sơn Đông bây giờ. Một số khác như Tôn Di Nhượng
(Đời Thanh) và Hồ Thích lại cho rằng ông là người nước Lỗ, cùng quê với
Khổng Tử, quan điểm này dựa vào Hoài Nam Tử trong sách “Hoài Nam yếu
lược”. Lại có người cho rằng Mặc Tử là người nước Sở. Để trả lời xem luận
điểm nào là phù hợp thì trong sách “Mặc Tử”, chương “Công - Thâu” có
chép: “thầy Mặc Tử ra về, qua nước Tống”; chương “Quý - Nghĩa” có chép:
“thầy Mặc Tử đi phương Nam, chơi ở nước Sở”. Sách “Lã Thị Xuân Thu”,
chương “Ái Loại” có chép: “Công Thâu Ban muốn đánh nước Tống cho nước
Sở, Mặc Tử biết chuyện đó, từ nước Lỗ ra đi”. Gần đây viện hàn lâm khoa
học Trung Quốc đã xác định có thể nói Mặc Tử là người nước Lỗ.
Về vấn đề niên đại của Mặc Tử cũng là một vấn đề tốn khá nhiều giấy
mực của các nhà nghiên cứu mà đến nay vẫn chưa ngã ngũ. Theo Hồ Thích:
Mặc Tử “sinh vào khoảng giữa những năm 20 và 30 đời Chu Kính Vương
(Tức là từ năm 500 đến năm 490 trước công nguyên), chết vào khoảng giữa
những năm nguyên niên và năm thứ 10 đời Chu Uy - Liệt Vương (Tức là
những năm 425 đến năm 416 trước công nguyên). Mặc Tử ra đời vào khi
Khổng Tử 50, 60 tuổi” [35, tr.167].
Theo công trình khảo cứu của Lương Hán Siêu thì: “Mặc sinh vào
khoảng những năm 468 đến 459 trước công nguyên. Đại thể vào khoảng hơn
9
10 năm sau khi Khổng Tử chết ( Khổng Tử chết năm 479 trước công nguyên).
Mặc Tử chết vào khoảng đời Chu An Vương (Tức là vào khoảng những năm

390 đến 382 trước công nguyên) tức độ hơn 10 năm trước ngày sinh của
Mạnh Tử (Mạnh Tử sinh năm 372 trước công nguyên).
Tiền Mục lại cho rằng, Mặc Tử sinh năm 479 trước công nguyên, chậm
lắm cũng không ngoài 10 năm; chết năm 394, chậm lắm cũng không ngoài 10
năm. Trương Quý Đồng lại cho rằng, Mặc Tử sinh năm 480 và chết năm 400
trước công nguyên.
Mỗi luận thuyết trên đây cũng có những dẫn chứng riêng để chứng minh
tính đúng đắn của mình. Nhưng ở các luận thuyết ấy đều có một điểm chung đó
là cùng cho rằng Mặc Tử sinh vào khoảng giữa thời Khổng Tử và Mạnh Tử,
nói một cách khác tức là vào khoảng giữa thời Xuân Thu - Chiến Quốc giao
nhau. Điều đó có căn cứ để biết được năm sinh, năm mất của Mặc Tử.
Về tính giai cấp của Mặc Tử, thì trong các sách cổ chép rất ít về lúc
sinh thời của ông, cho nên cũng có phần không tìm ra được rõ ràng. Tư Mã
Thiên cho rằng Mặc Tử làm đại phu nước Tống, Lương Khải Siêu lại cho
rằng: “xem trong sách gốc, thì không có vết tích gì là Mặc Tử đã làm quan
nước Tống”. Thuyết này có thể đúng. Sách “Trang Tử”, chương “Thiên hạ”
cho rằng “Mặc Tử lấy việc giữ thân khổ hạnh là điều quan trọng nhất”.
Chuyện Mặc Tử không hề làm quan có lẽ đúng sự thật. Chính Mặc Tử cũng
thường nói: “không thi hành được đạo thì không hưởng lộc nhà vua; không
nghe thấy điều nghĩa thì không ở với triều đình nhà vua”. Khác với Trang Tử,
Mặc Tử không chủ trương tuyệt đối không tham gia chính trị, mà lấy việc có
thể hay không thể thực hành tư tưởng của mình làm điều kiện có hay không
tham gia chính trị. Tinh thần này của Mặc Tử khác rất nhiều so với giai cấp
thống trị đương thời. Chính “việc sang chơi nước Sở”, “đi sứ sang nước Vệ”,
“đi cứu nước Tống” là quá trình Mặc Tử tiến hành thực thi các chủ thuyết của
mình. Tư tưởng của ông khác hẳn với với tư tưởng của tầng lớp lãnh chúa
10
phong kiến và bọn địa chủ mới lên và dường như một phần nào đó nó phản
ánh tình hình tư tưởng và yêu cầu của nông dân thời đó.
Tuy nhiên có một điều chúng ta phải hiểu rõ đó là Mặc Tử có thể

không phải xuất thân từ tầng lớp nông dân. Mặc dù, thời kỳ này đã có những
nông dân tự cày lấy ruộng của mình, họ cũng đã có cơ hội để học hành, nhưng
chưa lấy việc học hành coi như là một việc làm thường xuyên. Theo sách
“Hoài Nam Tử yếu lược” chép thì: “Hồi nhỏ Mặc Tử có học lấy nghiệp của
nhà Nho, chịu nhận học thuật của Khổng Tử, nhưng lại cho rằng cái lễ của
đạo Nho quá phiền nhiễu mà không vui lòng, việc tống táng phiền phức quá
chỉ tốn của và làm nghèo dân, việc tang phục lâu quá chỉ kéo dài sự đau buồn
của người sống và có hại cho công việc”. Sách “Hoài Nam Tử yếu lược” tuy
có thể là do người đời Tây Hán làm ra, những lời trong ấy cũng không thể
hoàn toàn căn cứ được. Nhưng chúng ta đọc sách Mặc Tử thì lại thấy rõ ràng
là Mặc Tử có một công trình học tập và tu dưỡng rất sâu rộng và có một lập
luận rất chặt chẽ. Điều đó, tuy không thể tách rời đời sống thực tế mà có
được, nhưng cũng không thể không đưa vào một công phu tu dưỡng lý luận.
Theo Lã Trấn Vũ việc xuất thân của Mặc Tử có thể dính líu với gia thế của
tầng lớp địa chủ mới đã bị sa sút hoặc gia thế của một nhà đời trước là nông
dân tự do đã chuyển thành một nhà sản xuất nhỏ độc lập, nhất là thuyết sau có
vẻ đúng hơn cho nên trong hệ thống tư tưởng của Mặc Tử có phản ánh đôi
chút ý thức tư tưởng của bọn địa chủ mới. Hồi đó bọn địa chủ mới mà bị sa
sút thì rất có thể bị giáng xuống hàng nông dân. Học thuyết của Mặc Tử có
thể phản ánh một số những yêu cầu của nông dân có lẽ cũng vì thế.
Mặc Tử rất giỏi biện luận, “tài biện luận này là một trong những
nguyên nhân làm cho học trò của ông rất đông. Tuy họ thuộc hạ tầng xã hội
nhưng họ có tổ chức rất chặt chẽ” [19, tr.446]. Mặc Tử đã đào tạo được một
đội ngũ học trò có đức hạnh và lòng quả cảm cao độ. Sách “Hoài Nam Tử”
chép rằng: “Mặc Tử có một trăm tám mươi người phục dịch, đều có thể khiến
11
nhảy vào lửa, đạp chân lên lưỡi dao, chết mà không quay gót”. Chính từ tư
tưởng và hành động nghĩa hiệp cao cả của Mặc Tử, nên người công kích Mặc
gia nhiều nhất như Mạnh Tử cũng phải thốt lên rằng: “họ Mặc kiêm ái đến
mòn trán lỏng gót, cái gì lợi cho thiên hạ thì làm” [5, tr.86]. Trong cuộc đời

của mình Mặc Tử đã dắt học trò của mình bôn ba nhiều nước. Ông đã từng ở
Tống, Vệ, Sở, Tề và cũng đã tiếp kiến với vua các nước này. Ông cũng đã đề
cử rất nhiều học trò ra làm quan để cùng ông thực thi học thuyết của mình mà
một trong những nội dung của nó là chống chiến tranh xâm lược. Điều này
làm cho cuộc đời của Mặc Tử là cuộc đời của con người lo việc cho thiên hạ.
Hễ nghe nói một nước nào chuẩn bị tấn công nước khác thì dù xa xôi tới đâu
ông cũng gấp rút đi tới khuyên ngăn. Có lần ông đã đi suốt mười ngày đêm
không nghỉ để từ Lỗ tới Sở khi biết tin Sở chuẩn bị đánh Tống; đi đến nỗi
quần rách, giày lòi cả chân ra ngoài mà vẫn cố đi cho kịp. Tương truyền rằng
Công Thâu Ban chế giúp nước Sở một cái thang máy để đánh thành đã xong
định đem đi đánh nước Tống. Trước mặt vua Tống, Mặc Tử cùng Công Thâu
Ban biểu diễn khí giới công thủ của đôi bên. Mặc Tử cởi thắt lưng đánh
thành, lấy đũa nhỏ làm khí giới. Công Thâu Ban chín lần đặt máy phá thành,
Mặc Tử chín lần đều cự được. Máy phá thành Công Thấu Ban đã dùng hết,
sức giữ thành của Mặc Tử còn thừa. Công Thâu Ban bèn nói: “Ta biết cách
đánh ngươi. Ta không nói”. Mặc Tử cũng nói: “Ta biết cách ngươi đánh làm
sao. Ta không nói”. Vua Sở nghe xong câu nói này, hiểu hết ý nghĩa của nó
bèn từ bỏ ý định đánh Tống. Sau đó, Công Thâu Ban cũng bị tài trí của Mặc
Tử thuyết phục mà thốt lên rằng: “Khi tôi chưa được tiếp ông, tôi muốn chiếm
nước Tống. Sau khi gặp ông thì dù có người mang nước Tống đến tặng tôi mà
có ẩn một chút gì bất nghĩa tôi cũng không thèm” [5, tr.85]. Mặc Tử cũng đáp
lại: “Nói như thế, dường như là tôi đã mang cả nước Tống mà tặng cho ông
rồi vậy. Nếu như ông cố gắng thi hành điều nghĩa, tôi sẽ mang cả thiên hạ mà
tặng cho ông nữa kia” [5, tr.85]. Đây là một câu chuyện hay về việc hòa giải
12
giữa hai nước trong thế giới hiện tại. Ngày nay, nếu có chiến tranh thì trước
tiên hai nước đem vũ khí ra đối chọi với nhau, bên nào có thực lực hơn sẽ
được phân định rõ ràng không cần sự đổ máu.
Với lòng bác ái vị tha, Mặc Tử đã bôn ba giữa các nước, khẩn thiết kêu
gọi “kiêm ái phi công”. Nhưng vì chủ trương “kiêm ái phi công” của ông

nghịch lại với chính sách “Binh nông” (nuôi quân ở dân) của vua chúa các
nước đương thời, cho nên đã gặp nhiều trở ngại, khó thực hiện được. Chẳng
hạn khi Mặc Tử sang nước Sở, dâng tác phẩm của mình cho Sở Huệ Vương.
Vua Sở tuy khen sách viết rất hay, nhưng chẳng thực hành theo lời khuyên
của Mặc Tử mà chỉ ngỏ ý “vinh dưỡng hiền nhân” (trọng đãi kẻ hiền sĩ). Thấy
vậy, Mặc Tử liền tạ từ rằng: “Địch văn hiền nhân tiến, đạo bất hành, bất thụ
kỳ thưởng; nghĩa bất thính, bất xử kỳ triều, khất kim thư vị dụng, thỉnh toại
hành dĩ” (nghĩa là: Địch này nghe nói, khi hiền sĩ đã đem lời tiến dâng mà đạo
chẳng hành, thì nào dám nhận phần thưởng; khi nghĩa chẳng được nghe theo,
thì không thể cộng sự tại triều đình, mãi đến nay, sách của tôi chưa được áp
dụng, thì xin lui thôi).
Khổng Tử cùng Mạnh Tử, trước sau đều có dẫn nhóm học trò đi chu du
liệt quốc, nghiễm nhiên thành một tập đoàn sĩ nhân, dựa vào lớp người quyền
thế trên thượng tầng xã hội, để hoạt động chính trị, không làm cũng có ăn.
Trái lại, Mặc Tử cùng môn đệ nhà Mặc, vẫn sống tự túc với nghề lao động
thợ thuyền, bằng tinh thần khắc khổ, trong khi phải đi tuyên truyền, vận động
thuyết “kiêm ái phi công”. Cho nên Mặc Tử rất ác cảm với hàng Nho sĩ. Có
lần Mặc Tử đến nước Vệ, mục kích người Vệ sống theo lối xa sỉ, rất cảm khái
mà nói với quan Đại phu nước Vệ rằng: “Vệ là một nước nhỏ, lại nằm giữa
hai nước lớn Tề và Tấn, chẳng khác nào nhà nghèo sống trong xóm nhà giàu,
rồi học theo thói xa hoa, ngoài khả năng của mình, thì tránh sao cho khỏi sẽ
mất nước sớm”.
13
Biết rằng vua quan các nước đều vì quyền lợi riêng tư, chẳng ai chịu thi
hành chính sách “phi công” của mình nên Mặc Tử và những tín đồ theo Mặc
học, tự tổ chức lấy đoàn thể xã hội để tuyên truyền giáo lý của mình. Những
lời khuyên ngăn và truyền giáo của Mặc Tử có khi được chấp nhận nhưng
nhiều khi bị người đời bỏ ngoài tai, nhưng chưa bao giờ Mặc Tử tỏ ý chán
nản hay nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi, mà ông bôn ba thực hiện ý tưởng của
mình cho đến khi chết. Thật khó có thể tưởng tượng nỗi thời đại đó lại có một

người chịu khổ như thế vì thiên hạ. Ngay cả người Trung Quốc cũng phải kêu
lên rằng: “Thử hỏi trong lịch sử Trung Hoa còn có người thứ hai nào ma đỉnh
phỏng chủng lợi thiên hạ vi chi như Mặc Tử nữa hay không?” [35, tr.306].
Bàn tới Mặc Tử và các học trò của ông, chúng ta nhận thấy rằng họ
khác với những người du hiệp trong xã hội thời ấy (Du hiệp: là những chuyên
gia về việc binh nhưng bị mất địa vị chức tước để phân tán trong dân gian và
mưu sinh bằng cách giúp việc cho những ai có điều kiện dùng đến họ). Ở hai
điểm sau: trước hết, nếu các du hiệp thường đều sẵn sàng nhận bất kỳ cuộc
chiến đấu nào, miễn là họ được trả công, họ được các vua chư hầu trọng dụng,
thì trái lại, Mặc Tử và các môn nhân đều triệt để chống lại các cuộc chiến
tranh xâm lăng và do đó họ chỉ chịu đánh nhau trong trường hợp phòng vệ
chính đáng. Điều thứ hai là, nếu bọn du hiệp thường chỉ biết có luật lệ luân lý
của nghề họ, thì Mặc Tử cố đào sâu luân lý ấy và cố biện giải cho luân lý ấy.
Cho nên, mặc dầu cơ sở khởi phát của Mặc Tử là cơ sở của du hiệp, nhưng
Mặc Tử đã trở thành người sáng lập một học phái triết học mới. Phái Mặc học
có tổ chức hết sức chặt chẽ, dưới sự chỉ huy của người đứng đầu gọi là “cự
tử”. Đoàn thể Mặc giả do Mặc Tử lãnh đạo lúc đó, được chứng minh là hội đủ
các điều kiện sau:
- Đang lúc Mặc Tử là “cự tử”, chỉ trong một thời gian ngắn, đã động
viên được 300 tín đồ, sang giúp Tống, sẵn sàng chống quân Sở.
14
- Sau ngày Mặc Tử mất, “cự tử” kế nhiệm là Mạnh Thắng, cũng đã
từng chỉ huy một nhóm tín đồ, giúp Dương Thành Quân bảo vệ phong ấp,
trong một trận kịch liệt đã hi sinh đến 183 người.
- Cao Thạch Tử là môn sinh của Mặc Tử, làm quan tại nước Vệ, hưởng
lộc rất hậu, nhưng vì chính kiến nêu ra không được vua Vệ chấp nhận nên từ
quan trở về với đời sống cơ hàn.
- Mặc Tử từng cử học trò là Thắng Trác, làm việc dưới quyền của Hạn
Tử Ngưu. Sau đó vì Ngưu đã ba lần xuất quân đánh Lỗ, Thắng Trác đều tham
dự, đó là hành động trái ngược với chủ trương “kiêm ái phi công”, nên bị Mặc

Tử đuổi ra khỏi hội đoàn Mặc giả.
Tính kiên định đối với những tín điều của mình, tính kỷ luật nghiêm
khắc đối với đoàn thể, tinh thần thực thế khắc khổ bản thân, không tiếc hi sinh
thân mình, tất cả cho đấu tranh cách mạng, về sau đều vẫn được lưu truyền
mãi trong dòng máu nông dân Trung Quốc và dân tộc Trung Hoa, đó là truyền
thống tốt đẹp của dân tộc Trung Hoa.
Về vấn đề trước tác của Mặc Tử: về tập sách “Mặc Tử”, xưa nay tranh
luận đã nhiều. Có người cho rằng những phần “Kinh thượng, hạ”; “Kinh
thuyết thượng, hạ”; “Đại Tiểu Thủ” là không phải của Mặc Tử, phần còn lại
do chính tay Mặc Tử viết. Có người cho rằng những phần sáu chương “Kinh
thượng, hạ”; “Kinh thuyết thượng, hạ”; “Đại Tiểu Thủ” đều là “Kinh Mặc
Tử”, phần còn lại là những “Lời bàn về Mặc Tử”. Lại có người cho rằng kể từ
chương “Thân sĩ” trở xuống bảy chương là do người đời sau viết thêm vào.
Hai chương “Thân sĩ”, “Tu thân” thì văn chương bay bướm gần như văn Tuân
Tử, đều là lời lẽ của các nhà Nho. Năm chương: “Sở nhiễm”, “Pháp nghi”,
“Thất hoạn”, “Từ quá”, “Tam biện” đều là do người sau học “Mặc Tử” mà
viết ra: chương “Sở nhiễm” thì lấy tinh thần của chương “Thượng hiền”;
chương “Pháp nghi” thì lấy tinh thần của chương “Thiên chí”, “Thượng
đồng”; hai chương “Thất hoạn”, “Từ quá” thì lấy tinh thần ở chương “Tiết
15
dụng”, “Tiết táng”; chương “Tam biện” thì lấy tinh thần ở chương “Phi nhạc”.
Cũng có người cho rằng chương “Sở nhiễm” là do những người bỏ đạo Mặc
về với đạo Nho làm ra. Gần đây lại có người cho rằng chương “Thiên chí”
cũng không phải là ý tứ của Mặc Tử. Tất cả những điều đó đều không phải
xuất phát từ một lập trường khoa học nghiêm chỉnh, từ một ý thức giai cấp đã
biểu hiện qua tài liệu nhận định, và chỉ là biện luận trên hình thức cấu tạo của
văn, cho nên trước sau họ vẫn không thể có được một kết cấu rõ rệt nào. Các
chương trong tập sách “Mặc Tử” ngày nay có thể biểu hiện là một dòng phái
triết học đồng nhất, đồng thời biểu hiện thành một hình thái ý thức giai cấp xã
hội đồng nhất. Tuy nhiên các chương trong tập sách “Mặc Tử” không phải do

một tay Mặc Tử viết ra, đó là sự thực. Tác phẩm ấy, một mặt có chỗ có thể do
học trò của Mặc Tử ghi chép lại và cũng có thể toàn trước tác của Mặc Tử đều
do sự ghi chép như vậy tập hợp. Về phần này cũng có thể là do những người
đời sau theo phái Mặc Tử sưu tầm lại. Một mặt có thể do phái Mặc học đời
sau biên tập vào, bởi vì giữa tác phẩm, những câu văn ở các chương không
những có cách viết, lối hành văn khác nhau mà còn có sự khác nhau về phần ý
thức giai cấp xã hội, thấy rõ sự khác nhau về thời gian. Song về điểm này đối
với chúng ta không quan trọng lắm, vì chúng ta nghiên cứu học thuyết của
Mặc Tử như là một hình thái ý thức giai cấp của thời đó.
Theo tác phẩm “Đại cương lịch sử triết học Trung Quốc” do PGS. TS
Doãn Chính chủ biên thì các nhà nghiên cứu cho rằng cuốn “Mặc Tử” gồm 53
thiên. Đây là cuốn sách ghi lại những lời dạy và trước tác của Mặc Địch cũng
như của các học trò ông. Trong đó, các thiên như “Thiên chí” (ba thiên),
“Minh quỷ” (một thiên), “Thượng đồng” (ba thiên), “Thượng hiền” (ba thiên),
“Kiêm ái” (ba thiên), “Phi nho” (một thiên), “Phi công” (ba thiên), “Phi nhạc”
(một thiên), “Phi mệnh” (ba thiên), “Tiết táng” (một thiên), “Tiết dụng” (hai
thiên) đều là những thiên diễn đạt chính tư tưởng của Mặc Tử. Năm thiên
khác như “Canh quế”, “Quý nghĩa”, “Công mệnh”, “Lỗ vấn”, “Công Thâu
16
Ban” là do những người của phái Mặc gia ghi lại những lời nói và hành động
của Mặc Tử mà làm ra. Các thiên “Kinh thượng và hạ”, “Kinh thuyết thượng
và hạ”, “Đại thủ”, “Tiểu thủ” với nội dung lý luận học và lôgic học đặc sắc là
của hậu Mặc còn các thiên khác không quan trọng lắm và đều do người đời
sau thêm vào.
Với những tư tưởng trong học thuyết của Mặc Tử nhiều nhà nghiên cứu
lịch sử tư tưởng Trung Quốc đã so sánh học thuyết của ông với tư tưởng từ bi,
bác ái của Phật giáo và Kitô giáo. Thậm chí với học thuyết “kiêm ái” và chủ
nghĩa công lợi, người ta còn cho rằng Mặc Tử là người đầu tiên có ý tưởng về
thế giới đại đồng. Cùng với Nho gia và Đạo gia, học thuyết của Mặc Tử đã
thịnh hành và ảnh hưởng một thời ở Trung Quốc.

Khi nghiên cứu thân thế, sự nghiệp của Mặc Tử chúng ta không thể bỏ
qua việc tìm hiểu thế giới quan của ông. Vì đó là cơ sở nền tảng để xây dựng
lên toàn bộ hệ thống triết học Mặc gia.
Thế giới quan của Mặc Tử cơ bản là duy tâm và hữu thần. Trong quan
điểm về thế giới, cả ông và Khổng Tử đều tin có một lực lượng với quyền
năng tối cao chi phối vũ trụ vạn vật, đó là Trời. Theo Khổng Tử “đạo trời”,
“thiên lý” là lẽ tự nhiên, lưu hành khắp vũ trụ, định phép sống cho vạn vật
như là sức mạnh tuyệt đối. Con người là kết tinh của trời đất nên luôn chịu sự
chi phối của “đạo trời” không ai cưỡng lại được. Vì vậy, Khổng Tử cho rằng
con người ta phải biết mệnh, sợ mệnh, thuận mệnh và đợi mệnh. Mặc Tử đã
bài bác lại học thuyết “thiên mệnh” đó của Khổng Tử. Nhưng ông lại đưa ra
một thế giới quan mang tính chất tôn giáo, thần bí, coi ý chí của trời là
nguyên tắc tối cao của hành vi con người, đồng thời cho rằng sự biến hóa của
hiện tượng tự nhiên cũng bị ý chí của trời chi phối. Trời tạo ra muôn vật, nuôi
dưỡng muôn loài. Trời xoay vần bốn mùa, sinh ra các tiết, tạo ra hoa lá cỏ
cây, động vật và con người. Trời là một đấng linh thiêng tối cao có ý chí, có
nhân cách, quyền uy như gia trưởng trong nhà, như quốc quân một nước. Do
17
vây, ý chí của trời là khuôn phép cho tất cả mọi người noi theo, là phép tắc cho
kẻ thống trị thực hiện việc chính trị của mình. Không những thế, ý chí của trời
còn là nguyên tắc, chuẩn mực để nhận biết mọi sự đúng sai, thiện ác, tốt xấu
của con người và thể chế xã hội. Nếu thuận theo ý trời, làm điều thiện, điều tốt
sẽ được trời khen thưởng. Ngược lại, nếu làm sai ý trời gây ra điều ác sẽ bị trời
trừng phạt. Bởi vậy, trời mới khiến cho sang thì làm đến thiên tử, giàu thì có cả
thiên hạ, cơ nghiệp để lại cho con cháu muôn đời. Ông cho rằng “ý trời quy
định là muốn người ta cùng thương yêu nhau, làm lợi cho nhau mà chẳng muốn
người ta cùng ghét nhau, làm hại nhau” và trời đem cái ý muốn ấy giao cho
thánh nhân trị thiên hạ, đặt tên là “thượng đồng” (trên dưới đồng lòng). Tin vào
trời, coi trời có ý chí và là vị chúa tể tối cao trong vũ trụ, nên Mặc Tử cũng tin
có quỷ thần. Quỷ thần cũng là một thế lực đầy quyền uy, linh thiêng, công

minh chính trực, luôn giám sát mọi việc làm của con người. Ông nhân cách hóa
quỷ thần, quỷ thần “có thể thưởng kẻ hiền mà phạt kẻ dữ”. Đây là cơ sở cho
thuyết “kiêm ái” (thương yêu lẫn nhau) của ông. Mặc Tử cũng cho rằng, mọi
người đều có quyền lợi như nhau đối với việc thờ cúng quỷ thần, bình đẳng
trước quyền lợi về tín ngưỡng tôn giáo, đó là sự phản ánh nhu cầu đòi quyền
bình đẳng xã hội của giai tầng mà ông đại biểu.
Tuy Mặc Tử sùng bái trời và quỷ thần, nhưng ông lại chống lại thuyết
định mệnh. Ông cho rằng, mọi thành bại, họa phúc của con người đều là kết
quả do hành vi của con người gây nên, là tại sức người chưa đủ, lực người
chưa mạnh, tuyệt nhiên không phải là do số mệnh như Nho gia quan niệm.
Theo ông, nếu con người ta cố gắng hết sức làm những điều ích lợi cho người
khác thì có thể làm cho đời sống của mình được đầy đủ, ấm no, ngược lại nếu
không ra sức làm việc sẽ bị nghèo đói. Đây là một bước tiến bộ trong triết học
của Mặc Tử, nó đề cao sự nỗ lực của con người trong đời sống. nhưng khi
đem nguyện vọng thoát khỏi nghèo khổ của muôn dân gửi gắm vào ý chí của
trời và quỷ thần, dùng quyền uy của trời và quỷ thần tác động đến bọn thống
18
trị trên mặt đất, cải thiện đời sống nhân dân, thì ông đã rơi vào vũng bùn lầy
của chủ nghĩa ảo tưởng, duy tâm tôn giáo thần bí. Đó là một bước lùi trong tư
tưởng triết học của ông. Có thể nói, dưới một hình thức khác, thuận ý trời của
Mặc Tử cũng là mục đích luận vậy.
Cùng với Nho gia và Đạo gia, học thuyết của Mặc Tử đã thịnh hành và
ảnh hưởng một thời ở Trung Quốc. Vào thời Chiến quốc Mặc gia nổi tiếng
ngang hàng với Nho gia. Tuy nhiên giữa hai người sáng lập hai học phái này
là Mặc Tử và Khổng Tử luôn luôn tồn tại sự đối lập không chỉ về tư tưởng,
chủ trương, phương pháp mà còn đối lập nhau cả về nền tảng giai cấp xã hội.
Khổng Tử đề cao “thiên mệnh” ưa chuộng những chế độ cổ truyền như thi,
thư, lễ, nhạc. Ông chủ trương giáo hóa con người bằng các quy tắc đạo đức cơ
bản như nhân, nghĩa, lễ, trí, tín và theo những nghi lễ tôn giáo của chế độ phụ
quyền. Thì ngược lại, Mặc Tử lại đưa ra chủ trương “phi nhạc”, “tiết dụng”,

“tiết táng” nhằm chống lại những nghi lễ rườm rà, sự xa hoa không có lợi cho
dân, cho nước của Nho gia, không tin vào mệnh trời. Nếu Khổng Tử chủ
trương không đánh đuổi kẻ bại binh, không bắn kẻ trốn chạy, chấp nhận có
chiến tranh. Mặc Tử lại chủ trương “phi công”, phản đối chiến tranh và vẫn
giết những kẻ bạo loạn trừ hại cho thiên hạ. Nếu Khổng Tử chủ trương không
ở địa vị chính quyền thì không được mưu tính việc chính trị, không được bàn
tính chuyện gì về quốc gia đại sự, phải trung thành với vua tuyệt đối. Mặc Tử
thì cho rằng không kể người ở tầng lớp nào trong xã hội, nếu có tài thì đều
được bàn chính sự, khi phụng sự nhà vua phải hết sức trung thành nhưng nếu
vua có sai lầm thì có thể đứng ra can gián.
Về phương pháp, nếu Nho gia chỉ nói “là thế” thì Mặc Tử muốn biết
“tại sao?”. Nho gia chỉ muốn nêu lên một cái mẫu lý tưởng thật cao làm tấm
gương cho đời, thì Mặc Tử bất cứ việc gì cũng đều hỏi “để làm gì?”, phải có
công dụng nhất định. Bởi vậy, khi bàn về lợi ích của thuyết “kiêm ái”, Mặc
19
Tử đã khẳng khái nói: “Dùng mà không được, đến như ta đây cũng bị công
kích. Và khi nào lại có cái phải mà không dùng được?” [5, tr.88].
Sự khác nhau giữa Khổng Tử và Mặc Tử thực chất là sự khác nhau về
địa vị, lợi ích giai cấp xã hội quy định. Nếu như Khổng Tử là nhà quý tộc và
các nhà Nho thường xuất thân từ tầng lớp trên của xã hội, thì Mặc Tử vốn
xuất thân từ kỹ nghệ tinh thông hay bậc du hiệp, đại biểu cho lợi ích của tầng
lớp tiểu tư hữu, phu dịch, võ sĩ lớp dưới của xã hội, nên ít nhiều gần gũi với
quần chúng lao động. Chính vì vậy, các quan điểm và chuẩn mực đạo đức cảu
Nho gia đã trở thành đối tượng phê phán mạnh mẽ của Mặc Địch.
Cần nói thêm rằng, thời Mặc Tử sống, Lão giáo cũng phát triển rất
mạnh. Do vậy quan điểm của Mặc Tử không chỉ đối lập với Nho gia mà còn
đối lập với tư tưởng tự nhiên chủ nghĩa, “vô vi” phóng túng của Đạo gia. Nếu
Lão Tử nói “Trời đất bất nhân, coi vạn vật như loài chó rơm”, thì Mặc Tử cho
rằng: “Trời yêu cả thiên hạ, làm lợi cho cả muôn vật tỉ mỉ như cái múp sợi
lông” [5, tr.88]. Nếu Dương Chu chủ trương “trọng kỷ, quý sinh, vị ngã”, thì

Mặc Tử đối lại là “kiêm ái”, “thượng đồng”, “thượng hiền”.
Mạnh Tử từng phê phán rất nghiêm khắc, cả Dương Chu lẫn Mặc Địch
rằng: “Dương Chu, Mặc Địch chi ngôn dinh thiên hạ… Dương thị vị ngã, thị
vô quân giã; Mặc thị kiêm ái, thị vô phụ giã; vô quân vô phụ, thị cầm thú giã”
(dịch là: nay thuyết của Dương Chu cùng với Mặc Địch lan tràn khắp thiên
hạ… Họ Dương chủ trương vị kỷ, ấy là không có chúa; họ Mặc chủ trương
kiêm ái, đó là không có cha; kẻ không chúa không cha, là loài cầm thú vậy).
Tuân Tử cũng có lời phê phán tương tự, cho rằng thuyết của Mặc Tử làm đảo
lộn luân thường, mà thoáng nghe như là có lý, rất dễ mê hoặc người đời. Tuân
Tử vốn chủ trương “túc dục”, cho nên chê Mặc Tử khuyên người ta thắt lưng
buộc bụng, chỉ làm cho người đời sống trong cảnh nghèo khó và buồn tẻ thôi.
Cũng vì vậy mà Mặc học đã đi vào mạt vận từ thời Tây Hán. Tuy nhiên, tinh
thần nghĩa hiệp của những người theo Mặc học, đã bén rễ ăn sâu vào hạ tầng
20
xã hội và tiếp tục phát huy. Tinh thần nghĩa hiệp đó là thái độ công bằng, lập
trường ngay thẳng, hết lòng bênh vực cho tầng lớp bình dân và giữ gìn chính
nghĩa cho xã hội, bằng lời nói và hành động hào hiệp, coi thường tính mạng vì
hai chữ “chính nghĩa”. Tinh thần nghĩa hiệp ấy được kết hợp với ý thức dân
tộc, đã phát huy công dụng về mặt chính trị xã hội lớn lao, như “hội Bạch
Liên” đã trỗi dậy vào cuối thời nhà Nguyên Mông Cổ, cũng như Thanh Bang
và Hồng Bang hoạt động mạnh mẽ vào cuối thời nhà Minh. Truy nguyên ra,
những tổ chức đó đều bắt nguồn từ tinh thần nghĩa hiệp của tập đoàn dân sự,
mà Mặc Tử là người sáng lập đầu tiên.
Tư tưởng trung tâm của Mặc Tử - “kiêm ái” sẽ là công cụ hữu hiệu nhất
để chống lại đạo đức Nho gia. Vậy tư tưởng này ra đời như thế nào?
1.2. Hoàn cảnh ra đời của học thuyết “Kiêm ái”
* Về kinh tế - xã hội
Tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại phát triển rực rở nhất là lúc xã
hội Trung Quốc bước vào thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc, thời kỳ tan rã của
chế độ chiếm hữu nô lệ và chế độ phong kiến sơ kỳ đang lên.

Chế độ chiếm hữu nô lệ ở Trung Quốc đã tồn tại và phát triển từ triều
đại nhà Hạ, qua nhà Thương, đến cuối thời Tây Chu thì bắt đầu bước vào giai
đoạn khủng hoảng và ngày càng đi tới suy tàn. Xã hội Trung Quốc trải qua
một thời kỳ giao thời, từ chế độ tông tộc chuyển sang chế độ gia trưởng, giá
trị tư tưởng, đạo đức của xã hội cũ bị băng hoại, nhưng giá trị tư tưởng, đạo
đức mới còn manh nha và đang trên con đường xác lập. Sự biến đổi toàn diện
về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa thời kỳ này đã tạo ra tiền đề giải phóng
tư tưởng con người thoát khỏi sự chi phối của thế giới quan thần thoại, tôn
giáo, thần bí truyền thống, ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình phát triển của tư
tưởng triết học.
Thời Tây Chu, khi nhà Chu còn thịnh, chế độ tông pháp và trật tự lễ
nghi nhà Chu còn được duy trì. Từ thời Chu Lệ Vương đến Chu U Vương,
21
mâu thuẫn nội bộ nhà Chu ngày càng trở nên gay gắt. Hơn nữa, do phải
thường xuyên tiến hành các cuộc chiến tranh đàn áp sự nổi dậy của chư hầu
và chống lại sự xâm lăng của các bộ lạc khác, thêm vào đó là hạn hán liên tiếp
xảy ra, nạn đói lan tràn làm cho nhà Chu nhanh chóng suy vong. Vị trí, quyền
lợi của các tầng lớp, giai cấp trong xã hội bị đảo lộn.
Năm 771 trước công nguyên Chu Bình Vương lên ngôi đưa xã hội
Trung Quốc bước vào thời kỳ đặc biệt, đó là thời kỳ Xuân Thu. Ở thời kỳ này,
nền kinh tế Trung Quốc đang chuyển từ thời đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt.
Việc dùng bò kéo cày đã trở thành phổ biến. Phát minh mới về kỹ thuật khai
thác và sử dụng đồ sắt đã đem lại những tiến bộ mới trong việc cải tiến công
cụ và kỹ thuật sản xuất nông nghiệp. Thời kỳ này hệ thống thủy lợi đã trải
khắp khu vực Trường Giang. Diện tích đất đai canh tác nhờ đó mà được mở
rộng. Kỹ thuật trồng trọt cũng được cải tiến tạo điều kiện tăng năng suất trong
lao động nông nghiệp. Từ đó người ta thấy không cần thiết phải chia lại ruộng
đất công theo định kỳ căn cứ vào đất tốt đất xấu như trước kia nữa. Giờ đây
công xã giao hẳn đất công cho từng hộ gia đình nông nô cày cấy trong thời
hạn lâu dài. Vì vậy, nông dân có thể dùng phương pháp lưu canh hay luân

canh để tăng năng suất cây trồng. Mặt khác, nhờ công cụ sản xuất bằng sắt
phát triển và thủy lợi mở mang, ruộng đất do nông nô vỡ hoang biến thành
ruộng tư ngày một nhiều. Bọn quý tộc có quyền thế cũng chiếm dần ruộng
của công xã làm ruộng tư. Chế độ “tỉnh điền”dần tan rã. Sau đó chế độ tư hữu
ruộng đất còn được pháp luật nhà nước thừa nhận và bảo vệ. Khi chế độ tư
hữu ruộng đất phát triển, số lượng ruộng đất của nông dân sở hữu không bằng
nhau, nhà nước đã bỏ hình thức thu thuế cũ mà thi hành chế độ thu thuế đánh
vào từng mẫu ruộng (gọi là thuế sơ mẫu) và cùng với nó thi hành chế độ quân
sự mới.
Do đồ sắt phát triển cùng với việc mở rộng quan hệ trao đổi sản phẩm
lao động, sự phân công trong sản xuất thủ công nghiệp cũng đã đạt tới mức
22
chuyên nghiệp cao hơn, thúc đẩy một loạt các ngành nghề thủ công nghiệp
phát triển, như nghề luyện kim, nghề rèn, nghề đúc v.v… Thương nghiệp lúc
này cũng đã phát triển hơn trước. Tiền tệ đã xuất hiện. Trong xã hội đã hình
thành một tầng lớp thương nhân giàu có và ngày càng có thế lực gây nhiều
ảnh hưởng đối với chính trị đương thời. Chính việc xuất hiện tầng lớp này đã
tạo ra sự thay đổi trong cơ cấu giai cấp xã hội. Từ tầng lớp này dần dần xuất
hiện một loại quý tộc mới với thế lực ngày càng mạnh, tìm cách leo lên tranh
giành quyền lực với tầng lớp quý tộc cũ.
* Về chính trị
Nếu như thời Tây Chu chế độ tông pháp, “phong hầu kiến địa” vừa có
ý nghĩa ràng buộc về kinh tế, vừa có ý nghĩa về chính trị, ràng buộc về huyết
thống, có tác dụng tích cực làm cho nhà Chu giữ được một thời gian dài hưng
thịnh thì đến thời Xuân Thu, chế độ tông pháp nhà Chu không còn được tôn
trọng, đầu mối các quan hệ về kinh tế, chính trị, quân sự giữa thiên tử và các
nước chư hầu ngày càng lỏng lẻo, huyết thống ngày càng xa, trật tự lễ nghĩa
nhà Chu không còn được tôn trọng như trước. Thiên tử nhà Chu hầu như
không còn quyền uy gì với các nước chư hầu.
Thời Xuân Thu các lãnh chúa tăng cường bóc lột nhân dân lao động.

Người dân ngoài việc phải đi chiến trận thực hiện các cuộc chinh phạt của các
tập đoàn quý tộc còn phải chịu sưu thuế, phu phen, lao dịch nặng nề. Thiên tai
thường xuyên xảy ra, nạn trộm cướp nổi lên khắp nơi làm cho đời sống nhân
dân ngày càng thêm khốn khổ. Dân lưu vong khắp nơi, ruộng đồng thì bị bỏ
hoang nhiều nơi.
Việc các nước gây chiến tranh thôn tính lẫn nhau cũng như các lãnh
chúa bóc lột tàn khốc dân chúng không chỉ dẫn tới sự diệt vong của hàng loạt
các nước chư hầu nhỏ mà còn phá hoại lễ nghĩa nhà Chu, phá hoại trật tự triều
hội, triều cống, chinh phạt giữa các nước làm cho mâu thuẫn xã hội ngày càng
23
gay gắt và sự rối loạn trong xã hội ngày càng tăng. Có thể tóm tắt mấy mâu
thuẫn chính nổi lên trong thời kỳ này là:
- Mâu thuẫn giữa tầng lớp mới lên có tư hữu tài sản, có địa vị kinh tế
trong xã hội mà không được tham gia chính quyền với giai cấp quý tộc thị tộc
cũ của nhà Chu đang nắm chính quyền.
- Mâu thuẫn giữa tầng lớp sản xuất nhỏ, thợ thủ công, thương nhân với
giai cấp quý tộc thị tộc nhà Chu.
- Trong bản thân giai cấp quý tộc thị tộc Chu có một bộ phận tách ra,
chuyển hóa lên thành giai tầng mới, một mặt họ muốn bảo lưu nhà Chu, một
mặt họ cũng không hài lòng với trật tự cũ của nó. Họ muốn cải tiến nó bằng
con đường cải lương, cải cách.
- Tầng lớp tiểu quý tộc thị tộc, một mặt họ đang bị tầng lớp mới lên tấn
công về chính trị và kinh tế, mặt khác họ cũng có mâu thuẫn với tầng lớp đại
quý tộc thị tộc đang nắm chính quyền.
- Mâu thuẫn nông dân công xã thuộc các tộc bị người Chu nô dịch với
nhà Chu và tầng lớp mới lên đang ra sức bóc lột, tận dụng sức lao động của họ.
Đó là những mâu thuẫn của thời kỳ lịch sử đang đòi hỏi giải thể chế độ
nô lệ thị tộc, tiến vào xã hội phong kiến, đòi hỏi giải thể nhà nước của chế độ
gia trưởng, xây dựng nhà nước của giai cấp quốc dân, giải phóng lực lượng
sản xuất, mở đường cho xã hội phát triển.

Xã hội đang có những bước chuyển mình dữ dội, kinh tế phát triển,
tầng lớp dân tự do xuất hiện, đặc biệt là sự ra đời của các thành thị tự do phồn
vinh và thành quả đạt được trên lĩnh vực khoa học tự nhiên là nguồn động lực
quan trọng cho sự phát triển có tính chất đột biến của tư tưởng thời kỳ này.
Trong nước xuất hiện những trung tâm, những tụ điểm mà ở đó “kẻ sĩ bàn
ngang” hay “bàn việc nước”. Nhìn chung, họ đều đứng trên lập trường giai
cấp mình, tầng lớp mình mà phê phán trật tự xã hội cũ, xây dựng xã hội tương
lai và tranh luận, phê phán, đả kích lẫn nhau. Lịch sử gọi thời kỳ này là thời
24
kỳ “bách gia chư tử” (trăm nhà trăm thầy), “bách gia tranh minh” (trăm nhà
đua tiếng).
Chính trong quá trình “tranh minh” đó đã cho ra đời những nhà tư
tưởng vĩ đại, hình thành nên những hệ thống triết học khá hoàn chỉnh, mở đầu
cho lịch sử tư tưởng Trung Quốc có ngôn ngữ và ý nghĩa chặt chẽ.
Học thuyết triết học “kiêm ái” của Mặc Tử đã ra đời trong hoàn cảnh
đó, nó phản ánh một phần những tư tưởng, những tình cảnh và những yêu cầu
của tầng lớp nông dân bị bóc lột, thống trị nặng nề trong xã hội.
* Phân biệt hai khái niệm “kiêm” và “biệt” trong quan điểm của Mặc
Tử
Trong sách “Mặc Tử” có ba thiên bàn về “kiêm ái” (kiêm ái thượng,
trung, hạ). Trung tâm giáo lý của Mặc Tử chính là ở điểm thực hành tương ái,
công lợi. Kể từ Mạnh Tử cao tiếng phê bình và công kích Mặc Địch với kết
luận: “Mặc Tử kiêm ái mòn trán lỏng gót, cái gì lợi cho thiên hạ thì làm”. Câu
nói tuy để công kích mà thật ra đã hóa thành câu tán dương. Người về sau khi
nhắc tới Mặc Tử là nhắc tới học thuyết “kiêm ái” của ông.
Theo Mặc Tử những kẻ chia rẽ nhau, làm thiệt hại cho nhau thuộc phái
“biệt”. “Biệt” là bậy. Đã là bậy thì phải có cái thay vào. Nếu chê mà không
thay thì cũng như lấy nước cứu nước, lấy lửa cứu lửa mà thôi. Cái thay “biệt”
là “kiêm”. “Kiêm” bao gồm những kẻ yêu thương nhau, “kiêm” là tốt.
Ngô Tất Tố giải thích: “kiêm” tức là gồm, trái lại với “biệt” là rẽ. “Ái”

tức là yêu, trái lại với “ố” là ghét, chỉ về tấm lòng thương mến lẫn nhau của
loài người. “Kiêm ái” là yêu hết mọi người.
Để so sánh và xác minh ý nghĩa của “kiêm” khác với “biệt”, Mặc Tử có
ví dụ sau: “Có hai kẻ sĩ, một kẻ chuyên giữ thuyết “biệt”, một kẻ chuyên giữ
thuyết “kiêm”. Kẻ sĩ phái “biệt” nói: “Ta há có thể ví thân bạn như thân ta, coi
đấng thân của bạn như đấng thân của ta?”. Và rồi thì kẻ đó thấy bạn đói không
cho ăn, rét không cho mặc, ốm đau không thăm nuôi, chết không chôn cất.
25

×