Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Phát triển thị trường chứng khoán việt nam từ góc độ kích cầu chứng khoán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (524.42 KB, 80 trang )

1
Lời nói đầu
Tính cấp bách của đề tài:
Một trong những thách thức và trở ngại lớn nhất trong công cuộc
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc là tình trạng thiếu vốn. Đối với nền
kinh tế đang phát triển của Việt Nam hiện nay, để có nguồn vốn lớn mạnh cần
phải có một hệ thống tài chính hoàn hảo. Trong đó, việc ra đời một thị trờng
chứng khoán (thị trờng bậc cao) là cần thiết để có thể huy động những nguồn
vốn trung và dài hạn trong nền kinh tế đang tăng trởng. Nhng trên thức tế,
thị trờng chứng khoán Việt Nam trong hơn hai năm hoạt động lại cha đạt
đợc mục tiêu đề ra nh huy động vốn và phân bổ vốn từ nơi thừa đến nơi
thiếu Tại sao nh vậy? Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến việc thị trờng
chứng khoán hoạt động kém hiệu quả nh: quy mô thị trờng còn nhỏ bé,
chứng khoán niêm yết còn ít về số lợng và chủng loại, thiếu tính thanh khoản,
thiếu các định chế tài chính, trình độ hiểu biết còn hạn chế của công chúng về
thị trờng chứng khoán quá thấp dẫn đến sức cầu chứng khoán giảm
mạnh Việc nghiên cứu và đa ra các giải pháp thúc đẩy sự phát triển của thị
trờng chứng khoán Việt Nam trở thành một vấn đề quan trọng và cấp thiết.
Trong số nhiều nguyên nhân làm cho thị trờng chứng khoán Việt
Nam đang gặp khó khăn trong giai đoạn đầu đi vào hoạt động hiện nay, nổi
lên là tình trạng cầu về chứng khoán rất yếu. Tính đến đầu năm 2003 tổng số
tài khoản của các nhà đầu t mở tại các công ty chứng khoán là khoảng 12.000
tài khoản. Nhng trong đó, số tài khoản đầu t cá nhân chiếm tỷ trọng lớn
khoảng hơn 11.000 tài khoản và chủ yếu xu hớng đầu t ngắn hạn. Song thực
chất chỉ có khoảng 500 - 600 nhà đầu t thờng xuyên giao dịch. Số nhà đầu
t thu đợc lợi nhuận rất ít, chỉ tập trung vào khoảng 10% nhà đầu t có kiến
thức về thị trờng chứng khoán hoặc đã tham gia vào thị trờng chứng khoán.
Số còn lại thua lỗ trầm trọng hiện đang chờ cơ hội để đầu t giá lên. Đã có
khoảng 90% nhà đầu t bỏ cuộc trên thị trờng chứng khoán, rút vốn để
chuyển qua hình thức đầu t khác và chỉ để trên tài khoản một số d nhỏ nhằm
duy trì tài khoản.


Việc lựa chọn giải pháp kích cầu cho thị trờng chứng khoán là cần
thiết trong rất nhiều yếu tố có thể lựa chọn. Bởi sức cầu yếu có nghĩa là các
nhà đầu t tiềm năng không lựa chọn thị trờng chứng khoán làm địa chỉ đầu
t. Điều đó càng có nghĩa là thị trờng chứng khoán không thực hiện đợc
2
chức năng huy động vốn của nó và vì thế không có lý do tồn tại. Thực trạng
này, đòi hỏi chúng ta phải có các biện pháp tháo gỡ kịp thời, đảm bảo rằng thị
trờng chứng khoán Việt Nam trong tơng lai sẽ là một kênh huy động vốn
lớn, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc. Vì vậy, đề
tài nghiên cứu: Phát triển thị trờng chứng khoán Việt Nam từ góc độ
kích cầu chứng khoán" đợc lựa chọn, với mong muốn tìm hiểu một vấn đề
mà thực tiễn vận hành thị trờng chứng khoán đặt ra và đa ra một số kiến
giải.
Kết cấu của đề tài:
Chơng 1: Cơ sở lý thuyết của việc phân tích cầu chứng khoán.
Chơng này phân tích một số yếu tố tác động đến đầu t chứng khoán dựa trên
lý thuyết lợng cầu tài sản và những lợi ích của việc đa dạng hoá và sự lựa
chọn danh mục đầu t.
Chơng 2: Thực trạng cầu trên thị trờng chứng khoán Viêt
Nam trong thời gian qua. Chơng này phân tích diễn biến cung và cầu trên
thị trờng chứng khoán thời gian qua. Dựa trên cơ sơ lý thuyết ở Chơng 1 và
phần tìm hiểu thực trạng. Phân tích các nguyên nhân đang hạn chế cầu trên thị
trờng chứng khoán Việt Nam.
Chơng 3: Một số giải pháp kích cầu chứng khoán cho thị trờng
chứng khoán Việt Nam. Chơng này đề xuất một số giải pháp để đẩy mạnh
sức cầu trên thị trờng chứng khoán Việt Nam.
Thị trờng chứng khoán là một thị trờng mới mẻ, và phức tạp. Đối
với một sinh viên, kiến thức chủ yếu qua sách vở và còn ít kinh nghiệm thực
tế, do đó không thể tránh khỏi sai sót. Tuy nhiên, đợc sự hớng dẫn trực tiếp,
giúp đỡ nhiệt tình, cung cấp nhiều tài liệu quan trọng của Tiến sĩ Trần Thị

Thái Hà, em đã hoàn thành đề tài này nh mong muốn.
Em xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Trần Thị Thái Hà ngời đã giúp
đỡ em trong suốt quá trình thực hiện đề tài này.
3
chơng 1
Cơ sở lý thuyết của việc phân tích cầu chứng khoán.
Chơng này sẽ phân tích những yếu tố cơ bản tác động đến cầu đầu t
chứng khoán dựa trên lý thuyết kinh tế đã biết gọi là Lý thuyết lợng cầu tài
sản (hoặc còn gọi là lý thuyết chọn chứng khoán đầu t). Và phân tích ý tởng
đa dạng hoá tài sản (không nên đặt tất cả trứng vào một rổ), để làm rõ hơn cơ
sở lý thuyết về lựa chọn của nhà đầu t.
1. Các nhân tố ảnh hởng đến quyết định đầu t chứng khoán.
Chứng khoán là một loại tài sản tài chính, vì nó hứa hẹn những khoản
thu nhập trong tơng lai và đồng thời nếu đem bán nó đi, về nguyên tắc ngời
bán sẽ thu đợc một số tiền. Vì thế cầu về tài sản chứng khoán càng chịu tác
động của những yếu tố nh đối với các loại tài sản khác, đồng thời chứng
khoán là một tài sản đặc biệt nên những yếu tố tác động tới cầu chứng khoán
càng có những điểm đặc biệt.
1.1. Của cải.
Của cải, là toàn bộ tiềm lực kinh tế hiện có của một cá nhân.
Theo lý thuyết lợng cầu tài sản phát biểu Khi giữ mọi yếu tố khác
không đổi, một sự tăng về của cải làm tăng lợng cầu một tài sản, và sự tăng
lợng cầu này lớn hơn nếu tài sản đó mang nhiều tính chất cao cấp hơn là
tính chất cần thiết.
Xét trên phơng diện nền kinh tế tổng thể: cầu chứng khoán chỉ xuất
hiện và tăng lên khi thu nhập bình quân đầu ngời ngày càng ổn định và nâng
4
cao, khi những nhu cầu tối thiểu nh (cơm ăn áo mặc nhà ở, học hành ) đã
đạt tới ngỡng nhất định, tức là trong nền kinh tế, mức tiết kiệm ngày càng
tăng.

Xét trên phơng diện từng cá nhân cũng tơng tự, khi của cải tăng lên
và cuộc sống đã vợt qua mức đói nghèo, lúc đó ngời ta có thể nghĩ đến việc
mua chứng khoán.
Sự tăng trởng của thị trờng chứng khoán tơng thích với tình hình
của nền kinh tế thực.
Các giải pháp tăng cầu chứng khoán phải hớng tới những loại nhà
đầu t nhất định và phải chọn đợc giải pháp phù hợp cho mỗi loại nhà đầu t.
1.2. Lợi tức dự tính.
Lợi tức dự tính hay còn gọi là mức sinh lời dự kiến (lợi suất đầu t)
của một khoản đầu t đợc hiểu là phần chênh lệch giữa kết quả thu đợc sau
một khoảng thời gian đầu t và phần vốn gốc mà nhà đầu t bỏ ra.
Lý thuyết lợng cầu tài sản cho rằng: Lợng cầu một tài sản có
tơng quan thuận với lợi tức dự tính của nó so với các tài sản thay thế. Khi
những tài sản là tơng tự nhau (về mức độ rủi ro, về tính lỏng), một sự tăng lên
trong lợi tức dự tính của một tài sản so với lợi tức dự tính của một tài sản khác
làm cho tài sản đó đợc a thích hơn.
Trong thực tế, thu nhập của khoản đầu t vào một tài sản đợc cấu
thành bởi hai bộ phận: Thứ nhất, là thu nhập do chính bản thân tài sản đó
mang lại, đối với các tài sản là chứng khoán đó là cổ tức hoặc trái tức mà
ngời sở hữu chứng khoán nhận đợc. Thứ hai, là phần lỗ hay lãi do giảm
hoặc tăng giá của tài sản đầu t (còn đợc gọi là lỗ hoặc lãi về vốn hay thặng
d vốn).
Lợi tức dự tính đợc tính theo công thức:
n
RET
e
= S RET
i
P
i

i =1
Trong đó: RET
e
: Là lợi tức của phơng án đầu t.
RET
i
: Các lợi tức của việc thực hiện của một phơng án
đầu t.
P
i
: Xác suất của các lợi tức thức hiện (RET
i
).
5
n : Số lợng lợi tức thực hiện một phơng án đầu t.
Ví dụ: có 2 phơng án đầu t sau:
Phơng án 1: mua chứng khoán công ty A, biết rằng chứng khoán này
có một nửa thời gian sẽ có lợi tức là 15% và một nửa thời gian còn lại có lợi
tức là 5%.
Phơng án 2: Đầu t vào bất động sản, giả sử lợi tức dự tính của bất
động sản trong cùng thời gian sẽ là 8%.
Để quyết định nên chọn phơng án đầu t nào, nhà đầu t cần tính lợi
tức dự tính (RET
e
) của phơng án 1:
Lợi tức dự tính phơng án 1 là:

2

RET

e
= S RET
i
P
i
= 15% 0.5 + 5% 0.5 =10%
i =1
Nh vậy, nhà đầu t sẽ chọn phơng án 1, vì có cùng thời gian đầu t,
lợi tức của chứng khoán công ty A sẽ cao hơn là 2%.
Nếu tỷ suất lợi nhuận thu đợc qua đầu t chứng khoán cao hơn các
lĩnh vực đầu t khác, thì nhà đầu t đổ xô vào thị trờng chứng khoán, làm cho
sức cầu tăng rõ rệt. Ngợc lại, khi hiệu suất đầu t vào thị trờng chứng khoán
thấp hơn vào các lĩnh vực khác thì nhà đầu t sẽ chuyển hớng đầu t, làm
giảm cầu trên thị trờng. Do vậy, chúng ta có thể khẳng định việc đầu t vào
chứng khoán ảnh hởng rất nhiều bởi các thị trờng tài chính khác nh thị
trờng tiền tệ, thị trờng bất động sản, thị trờng ngoại hối Khi có những
biến động về lãi suất, về chính sách của ngân hàng Trung ơng tác động lên
thị trờng tiền tệ, hoặc có những biến động về thị trờng bất động sản, thì nó
sẽ tác động ngay lập tức lên thị trờng chứng khoán làm chuyển hớng đầu t
một cách nhanh chóng và rõ rệt. Ví dụ, khi lãi suất tiền gửi ngân hàng tăng cao
hơn lợi nhuận của chứng khoán thì các nhà đầu t sẽ bán chứng khoán để lấy
tiền gửi ngân hàng, làm cho cầu chứng khoán giảm mạnh.
1.3. Rủi ro.
Rủi ro đợc hiểu là sự biến động tiềm ẩn ở những kết quả, là khả
năng xảy ra của những điều không mong muốn và khi nó xảy ra thì mang lại
những tổn thất. Khác với sự không chắc chắn, rủi ro có thể đo lờng đợc.
Thuật ngữ rủi ro và nguy cơ rủi ro (hay tổn thất) thờng đợc sử
dụng lẫn cho nhau. ở đây phải hiểu nguy cơ rủi ro là một tình huống đợc tạo
6
nên bởi bất kỳ lúc nào và sẽ gây nên tổn thất hay lợi ích có thể có mà chúng ta

không thể tiên đoán đợc.
Vì vậy, rủi ro trong đầu t chứng khoán là khả năng (hay xác suất)
xảy ra những kết quả đầu t ngoài dự kiến, hay cụ thể hơn là khả năng làm
cho mức lợi tức thực tế nhận đợc trong tơng lai khác với mức lợi tức dự tính
ban đầu. Do vậy, tất cả các yếu tố làm cho mức lợi tức thay đổi so với lợi tức
dự tính ban đầu đều đợc coi là những rủi ro.
Đầu t luôn gắn liền với rủi ro. Các nhà đầu t điển hình luôn phải
lựa chọn mức rủi ro mà họ có thể chấp nhận đợc. Phơng án đầu t có lợi tức
(RET
e
) cao sẽ đợc a thích hơn, nhng thông thờng những phơng án đó lại
có mức độ rủi ro cao. Vì thế, so sánh mức độ rủi ro của các khoản đầu t là
công việc nhà đầu t cũng rất quan tâm. Rủi ro đó đợc đo bằng độ lệch của
những lợi tức thực tế so với lợi tức dự tính ở các phơng án đầu t.
Khái niệm đo độ lệch của các lợi tức thực tế đối với lợi tức dự tính là
phơng sai hay độ lệch chuẩn.
Phơng sai là số bình quân của các giá trị độ lệch của những khả
năng lợi tức thực tế so với lợi tức dự tính. Ký hiệu (s
2
)
n

s
2
= S ( RET
e
- RET
i
)
2

P
i

i =1
Độ lệch chuẩn là căn bậc hai của phơng sai, có thể đợc coi là một
dạng phơng sai đợc chuẩn hoá. Ký hiệu (s)

n

s

= [ S ( RET
e
- RET
i
) P
i
]

1/2

i =1
* Các nhà đầu t thờng khác nhau về mức độ chấp nhận rủi ro, do
các yếu tố tiềm năng kinh tế (của cải hiện có và trong tơng lai); tuổi tác, tính
cách, trình độ văn hoá, các quy định Chẳng hạn, ngời giầu có thể có mức độ
chấp nhận rủi ro cao hơn nhiều so với ngời nghèo; mặt khác, giữa những
ngời giàu có thu nhập cao hơn và ổn định với những ngời giàu nhờ một cơ
hội duy nhất thì ngỡng chấp nhận rủi ro cũng khác nhau.
7
* Nguyên tắc chung đối với một nhà đầu t điển hình là những rủi ro

có thể loại bỏ thì sẽ loại bỏ (tránh mọi rủi ro không cần thiết). Vì thế, nhà đầu
t kết hợp các tài sản thành danh mục để loại bỏ rủi ro không hệ thống.
* Phần rủi ro còn lại, tơng ứng với nó là mức lợi nhuận dự tính, sẽ
thích hợp với từng loại nhà đầu t cụ thể.
Phát biểu của lợng cầu tài sản là: Lợng cầu một tài sản có tơng
quan nghịch đảo với rủi ro về lợi tức của nó so với những tài sản thay thế. Tức
là, khi giữ mọi thứ khác không đổi, nếu sự rủi ro của một tài sản tăng lên so
với rủi ro của các tài sản thay thế thì lợng cầu của nó sẽ giảm.
Nh vậy, khi đầu t vào thị trờng chứng khoán là một thị trờng bậc
cao, lại hàm chứa rất nhiều rủi ro. Để đầu t vào chứng khoán có hiệu quả thì
nhà đầu t cần tránh những rủi ro không cần thiết. Tuy nhiên cũng có nhiều
nhà đầu t lại chấp nhận rủi ro cao vì nhiều lý do nh: họ muốn có lợi nhuận
cao, họ có nhiều vốn, họ liều lĩnh(do còn trẻ nên còn có nhiều cơ hội) và cũng
không loại trừ là họ có máu cờ bạc hoặc chỉ đầu t theo số đông
1.4. Tính lỏng (tính thanh khoản).
Tính lỏng của một tài sản so với các tài sản thay thế, nghĩa là nó có
thể nhanh chóng và dễ dàng chuyển sang tiền mặt nh thế nào.
Theo lý thuyết lợng cầu tài sản: Lợng cầu một tài sản có tơng
quan thuận với tính lỏng của nó so với những tài sản thay thế. Tức là, một tài
sản càng lỏng so với những tài sản thay thế, khi giữ mọi thứ khác không thay
đổi, thì nó càng đợc a chuộng và lợng cầu tài sản của nó sẽ tăng lên.
Nh vậy, tính lỏng cũng rất quan trọng đến việc đầu t vào chứng
khoán của các nhà đầu t, tức là nó có thể chuyển nhanh sang tiền mặt mà
không chịu nhiều phí tổn. Có rất nhiều ngời tham gia vào thị trờng chứng
khoán chỉ đầu t ngắn hạn, để có một khoản dự trữ cho những tình huống khẩn
cấp để chi trả những khoản chi tiêu của cuộc sống trong vòng từ hai đến sáu
tháng. Nên khi cần họ có thể chuyển đổi sang tiền mặt một cách nhanh chóng
mà lại chịu ít chi phí giao dịch. Ví dụ, Một tín phiếu kho bạc Mỹ, là một tài
sản có độ lỏng cao. Nó có thể đợc bán với chi phí giao dịch nhỏ trong một thị
trờng đợc tổ chức tốt, trong đó có nhiều nhà buôn, do đó nó có thể đợc bán

nhanh với chi phí thấp. Còn một ngôi nhà thì không phải là thứ tài sản lỏng
nhiều, bởi vì để bán nhanh một ngôi nhà nhằm thanh toán các hoá đơn nợ, nó
8
phải bán với giá thấp đi nhiều. Chi phí giao dịch trong việc bán một ngôi nhà
cũng đáng kể (lệ phí môi giới, lệ phí luật s ).
u Trên đây là bốn yếu tố đợc đề cập trong lý thuyết lợng cầu tài
sản. Ngoài ra, cầu chứng khoán còn phụ thuộc vào những yếu tố khác rất đặc
thù. Những yếu tố đó là môi trờng đầu t và trình độ dân trí.
1.5. Môi trờng đầu t.
Có thể nói khái quát môi trờng đầu t trên thị trờng chứng khoán
có hai bộ hận chủ yếu là môi trờng pháp lý và việc cung cấp các dịch vụ.
* Chính sách của Chính phủ bao gồm sự khuyến khích hoạt động đầu
t, độ ổn định của các chính sách này, cam kết đợc luật hoá của Chính phủ về
bảo đảm quyền lợi và nghĩa vụ của nhà đầu t cũng nh năng lực chấp pháp
của Chính phủ.
Khuôn khổ pháp lý theo nghĩa hẹp bao gồm hệ thống các văn bản
pháp luật, hệ thống tài chính và viện kiểm sát. Hệ thống các văn bản luật
thờng đóng vai trò quan trọng đối với các thị trờng tài chính của đất nớc do
tầm quan trọng của nó và tầm ảnh hởng của nó là rất lớn. Hệ thống này bao
gồm các văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động đầu t trên thị trờng
chứng khoán từ các văn bản luật của Quốc hội thông qua cho đến các nghị
định do Chính phủ ban hành, tới các thông t và quy chế của các bộ ngành có
liên quan.
Thông thờng có ba cơ chế thực thi pháp luật thờng đợc áp dụng
trên thị trờng đó là hệ thống pháp luật hình sự, hệ thống pháp luật dân sự và
các biện pháp hành chính.
Việc thực thi pháp luật hình sự là việc cơ quan quản lý thị trờng
chứng khoán dựa nhiều hơn vào các toà án hình sự và các hình phạt hình sự để
thực thi luật chứng khoán hơn là toà án dân sự và bồi thờng. Các thủ tục tố
tụng hình sự có thể dẫn đến hình phạt nghiêm khắc hơn các cơ chế khác nh là

phạt tiền hay án tù, về mặt lý thuyết sẽ ngăn ngừa tốt hơn các hành vi không
mong muốn so với hai hình thức thực thi pháp luật còn lại. Hình thức này
thờng đợc áp dụng ở các thị trờng đang phát triển nơi mà hệ thống luật
hình sự hoạt động hiệu quả hơn hệ thống luật dân sự.
Việc thực thi pháp luật dân sự dựa trên ý tởng của cơ quan quản lý
cho rằng cần dựa vào những ngơì bị ảnh hởng trực tiếp nhất bởi các hành vi
9
vi phạm pháp luật để thực thi luật chứng khoán đó. Những ngời này cần có sự
hỗ trợ của pháp luật để khởi kiện ngời vi phạm pháp luật và gây thiệt hại cho
họ.
Hiệu lực thực thi pháp luật phải tuân thủ theo các nguyên tắc xử lý,
các hành vi bị xử lý, các hình thức xử lý.
Mục tiêu của việc xử lý, kỷ luật các đối tợng vi phạm là nhằm tạo
lập sự công bằng và ổn định cho thị trờng vì vậy phải tuân thủ những nguyên
tắc nh: đúng đối tợng, đúng hành vi vi phạm, đúng thẩm quyền thủ tục,
đúng mức độ vi phạm, kịp thời và triệt để
Các hành vi bị xử lý kỷ luật là; thứ nhất, vi phạm luật, các văn bản
pháp quy dới luật trong lĩnh vực chứng khoán, các quy chế, quy định của Sở
giao dịch chứng khoán; thứ hai,vi phạm tính trung thực hoặc chậm trễ trong
việc cung cấp thông tin, báo cáo; thứ ba, có hành vi che dấu, cản trở việc thanh
tra của cơ quan có thẩm quyền; thứ t, có các hành vi lừa đảo, gian lận làm tổn
hại đến lợi ích của các tổ chức, cá nhân tham gia thị trờng.
Các hình thức xử lý kỷ luật tuỳ thuộc vào mức độ vi phạm nhng nhìn
chung có những hình thức xử lý nh: 1) yêu cầu sửa đổi, sửa chữa khi đói
tợng phát sinh các vấn đề không hợp lý so với các quy định hiện hành. 2)
phạt cảnh cáo, khiển trách: hình thức này đợc áp dụng trong trờng hợp đối
tợng vi phạm không cố ý hoặc vi phạm lần đầu vơí quy mô nhỏ, không gây
thiệt hại đáng kể cho thị trờng và các đối tợng khác. 3) phạt tiền; đợc áp
dụng khi đối tợng thực hiện hành vi vi pạhm cố ý gây tổn hại đến nguyên tắc
công bằng, gây cản trở hoạt động quản lý, giám sát của Sở giao dịch. 4) yêu

cầu bồi thờng thiệt hại cho ngời bị hại. 5) đình chỉ một phần hay toàn bộ
giao dịch trong một thời gian nhất định khi hành vi vi phạm là cố ý, gây tổn
hại đáng kể cho các chủ thể khác, phá vỡ tính công bằng và trật tự vốn có của
thị trờng, cản trở hoạt động giám sát. 6) tớc quyền sử dụng giấy phép: hình
thức này đợc áp dụng khi các hành vi vi phạm là cố ý và có hệ thống, xảy ra
nhiều lần. 7) tịch thu toàn bộ các khoản thu có đợc tú việc thực hiện các hành
vi vi phạm và số chớng khoán liên quan: đây là một hình thức phạt bổ sung,
đợc áp dụng kèm theo các hình thức phạt chính khi đã có thông báo yêu cầu
đình chỉ mà vẫn cố tình vi phạm và tái vi phạm nhiều lần có hệ thống.
Cuối cùng, thực thi pháp luật bằng các biện pháp hành chính là việc
cơ quan quản lý thị trờng chứng khoán có thể sử dụng một loạt các công cụ
10
quản lý hành chính để thực thi luật chứng khoán. Sự chủ động và quyền lực
nằm trong tay cơ quan quản lý mặc dù các cơ quan này có thể sử dụng các toà
án hình sự hay dân sự để thực thi một số quy tắc quản lý.
Cho dù sử dụng cơ chế nào thì khuôn khổ pháp lý cũng cần hớng tới
việc bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho nhà đầu t nói chung. Vì vậy, khuôn khổ
pháp lý có ảnh hởng quan trọng đến sự lựa chon đầu t, đặc biệt là đầu t trên
thị trờng chứng khoán. Phần lớn các nhà đầu t chứng khoán là những ngời
không a rủi ro, chính vì vậy, nhà đầu t sẽ lựa chọn trớc tiên đầu t chứng
khoán trong một khuôn khổ pháp lý tốt, đầy đủ, đồng bộ để có môi trờng đầu
t thuận lợi cũng nh cơ hội tìm kiếm lợi nhuận cao và khuyến khích các đầu
t tham gia vào thị trờng nhiều hơn nữa.
* Môi trờng đầu t còn chịu các dịch vụ cung cấp của các công ty
chứng khoán cho nhà đầu t nh: môi giới và t vấn, cung cấp thông tin, hệ
thống giao dịch, lu ký, đăng ký, thanh toán bù trừ
Hoạt động của công ty chứng khoán là rát đa dạng và phức tạp, khác
hẳn với các doanh nghiệp sản xuất và thơng mại thông thờng vì công ty
chứng khoán là một định chế tài chính đặc biệt. Công ty chứng khoán là tác
nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nói chung và của thị

trờng chứng khoán nói riêng. Nhờ các công ty chứng khoán mà chứng khoán
đợc lu thông từ nhà phát hành tới nhà đầu t có tính thanh khoản, qua đó
huy động đợc vốn từ nơi nhàn rỗi để phân bổ vào những nơi sử dụng có hiệu
quả, góp phần tạo lập và kích cầu cho thị trờng.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, các công ty chứng khoán
đợc thực hiện các loại hình hoạt động nghiệp vụ sau: Môi giới chứng khoán,
tự doanh, t vấn đầu t, lu ký, bảo lãnh phát hành và quản lý danh mục đầu
t.
Thông qua các hoạt động nh môi giới, t vấn đầu t, quản lý danh
mục đầu t, công ty chứng khoán có vai trò làm giảm chi phí và thời gian giao
dịch, do đó nâng cao hiệu quả các khoản đầu t. Đối với hàng hoá thông
thờng, mua bán qua trung gian sẽ làm tăng chi phí cho ngời mua và ngời
bán. Tuy nhiên, đối với thị trờng chứng khoán, sự biến đổi thờng xuyên của
giá cả chứng khoán cũng nh mức độ rủi ro cao sẽ làm cho những nhà đầu t
tốn kém chi phí, công sức và thời gian tìm hiểu thông tin trớc khi quyết định
đầu t. Nhng thông qua các công ty chứng khoán, với trình độ chuyên môn
11
cao và uy tín nghề nghiệp sẽ giúp các nhà đầu t thực hiện các khoản đầu t
một cách hiệu quả.
- Môi giới chứng khoán là một hoạt động trung gian hoặc đại diện
mua, bán cho khách hàng để hởng hoa hồng. Theo đó, công ty chứng khoán
đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại Sở
giao dịch chứng khoán hoặc tại thị trờng OTC mà chính khách hàng phải
chịu trách nhiệm với kết quả giao dịch của mình.
Thông qua hoạt động môi giới, công ty chứng khoán sẽ chuyển đến
khách hàng các sảm phẩm, dịch vụ t vấn đầu t và kết nối giữa nhà đầu t
bán chứng khoán với nhà đầu t mua chứng khoán để hởng hoa hồng. Và
trong những trờng hợp nhất định, ngời môi giới sẽ chở thành ngời bạn,
ngời chia sẻ những lo âu, căng thẳng và đa ra những lời động viên và lời
khuyên kịp thời cho nhà đầu t, giúp nhà đầu t có những quyết định tỉnh táo.

Xuất phát từ yêu cầu trên, ngời môi giới đòi hỏi phải có những phẩm
chất, t cách đạo đực, thái độ phục vụ trong công việc, cung cấp cho khách
hàng những dịch vụ tốt nhất. Ngời môi giới không đợc xúi dục khách hàng
mua, bán chứng khoán để kiếm hoa hồng, mà nên đa ra những lời khuyên
hợp lý để hạn chế đến mức thấp nhất về thiệt hại cho khách hàng.
Kỹ năng của ngời môi giới chứng khoán đợc thể hiện qua các khía
cạnh nh: Thứ nhất, kỹ năng truyền đạt thông tin: Phẩm chất hay thái độ của
ngời môi giới đối với công việc, với bản thân với khách hàng đợc truyền đạt
rõ ràng tới hầu hết các khách hàng mà ngời môi giới thực hiện giao dịch. Để
thành công trong việc bán hàng (cung ứng dịch vụ mua bán) ngời môi giới
phải đạt khách hàng lên trên hết và doanh thu của mình là yếu tố thứ yếu. Đây
là điểm then chốt trong hoạt động tài chính và phải đợc thể hiện ngay từ khi
tiếp xúc với khách hàng. Thứ hai, kỹ năng tìm kiếm khách hàng: có nhiều
phơng pháp để tìm kiếm khách hàng, nhng tựu trung có thể đợc gộp vào
nhóm 6 phơng cách sau: những đầu mối đợc gây dựng từ công ty hoặc các
tài khoản chuyển nhợng lại, những lời giới thiệu của khách hàng, mạng lới
kinh doanh, các chiến dịch viết th, các cuộc hội thảo, gọi điện làm quen. Thứ
ba, kỹ năng khai thác thông tin: một trong những nguyên tắc trong hành nghề
môi giới là phải hiểu khách hàng, biết đợc khả năng tài chính, mức độ chấp
nhận rủi ro của khách hàng. Ngoài ra nó còn giúp cho ngời môi giới tăng
đợc khối lợng tài sản quản lý, có chiến lợc khách hàng thích hợp.
12
- Cũng nh các loại hình t vấn khác, t vấn đầu t chứng khoán là
việc công ty chứng khoán thông qua các hoạt động phân tích để đa ra lời
khuyên, phân tích các tình huống và có thể thực hiện một số công việc dịch vụ
khác liên quan đến phát hành, đầu t và cơ cấu tài chính cho khách hàng.
Hoạt đông t vấn đầu t chứng khoán là việc ngời t vấn sử dụng
kiến thức, dó chính là chất xám mà họ đã bỏ ra để kinh doanh nhằm đem lại
lợi nhuận (hiệu quả) cho khách hàng. Nhà t vấn đòi hỏi hết sức cẩn thận
trong việc đa ra các lời khuyên đối với khách hàng, vì với lời khuyên đó

khách hàng có thể thu về lợi nhuận lớn hoặc thua lỗ, thậm chí phá sản, còn có
ngời t vấn thu về cho mình khoản thu phí về dịch vụ t vấn (bất kể t vấn đó
thành công hay không). Hoạt động t vấn đòi hỏi phải tuân thủ một số nguyên
tắc cơ bản sau: Thứ nhất, không đảm bảo chắc chắn về giá trị chứng khoán:
giá trị chứng khoán không phải là một số cố điịnh, nó luôn thay đổi theo các
yếu tố kinh tế, tâm lý, và diễn biến thực tiễn của thị trờng. Thứ hai, luôn nhắc
nhở khách hàng rằng: những lời t vấn của mình dựa trên cơ sở phân tích các
yếu tố lý thuyết và những biễn biến trong quá khứ, có thể là không hoàn toàn
chính xác và khách hàng là ngời quyết định cuối cùng trong việc sử dụng các
thông tin từ nhà t vấn để đầu t, nhà t vấn sẽ không chịu trách nhiệm về
những thiệt hại kinh tế do lời khuyên đa ra. Thứ ba, không đợc dụ dỗ, mời
chào khách hàng mua hay bán một loại chứng khoán nào đó, những lời t vấn
phải đợc xuất phát từ những cơ sỏ khách quan, là quá trình phân tích, tổng
hợp một cách khoa học, logic các vấn đề nghiên cứu.
Đối với hai hoạt đông môi giới và t vấn chứng khoán của công ty
chứng khoán, nếu hoạt động tôt thì đối với các nhà đầu t có ít thời gian, vốn
và kiến thức để phân tích những diễn biến của thị trờng, họ sẽ giao phó và đặt
lòng tin rất nhiều vào khả năng môi giới và t vấn của các công ty chứng
khoán. Qua đó, hai hoạt động này cũng góp phần làm tăng sức cầu cho thị
trờng chứng khoán.
- Hệ thống thông tin của thị trờng chứng khoán là hệ thống chỉ tiêu,
t liệu liên quan đến chứng khoán và thị trờng chứng khoán, là những chỉ tiêu
phản ánh bức tranh của thị trờng chứng khoán và tình hình kinh tế, chính trị
tại những thời điểm hoặc thời kỳ khác nhau của từng quốc gia, từng ngành,
từng nhóm theo phạm vi bao quát của mỗi loại thông tin.
13
Hệ thống thông tin trên thị trờng chứng khoán rất đa dạng và phong
phú. Hệ thống này đợc ví nh hệ thống mạch máu trong cơ thể ngời, giúp
cho thị trờng vận hành liên tục và thông suốt, đảm bảo cung cấp đầy đủ thông
tin cho nhà đầu t, cơ quan quản lý điều hành và các tổ chức nghiên cứu. Thị

trờng chứng khoán hoạt động hết sức nhạy cảm và phức tạp, nhng phải đảm
bảo nguyên tắc công bằng, công khai, mọi nhà đầu t đều có quyền bình đẳng
trong việc tiếp nhận thông tin. Không ai đợc phép có đặc quyền trong tiếp
nhận thông tin hoặc sử dụng các thông tin nội bộ, thông tin cha đợc phép
công bố để đầu t chứng khoán nhằm trục lợi.
Có hai kiểu công khai thông tin: công khai thông tin của tổ chức niêm
yết và công khai thông tin của Sở giao dịch chứng khoán.
Công khai thông tin của tổ chức niêm yết có: Công khai thông tin
định kỳ (thể hiện tình hình hoạt của công ty). Công khai thông tin bất thờng
(công bố ra công chúng những vấn đề mà công chúng cha biết, mà những vấn
đề này làm ảnh hởng tới tài sản, tình hình tài chính hay hoạt động kinh doanh
nói chung, từ đó gây ra biến động giá chứng khoán). Công khai thông tin theo
yêu cầu (tổ chức niêm yết phải công bố thông tin theo yêu cầu của Sở giao
dịch chứng khoán hoặc Uỷ ban chứng khoán khi có tin đồn liên quan đến tổ
chức niêm yết, ảnh hởng đến giá chứng khoán và cần xác nhận tin đồn đó khi
giá và khối lợng giao dịch chứng khoán niêm yết thay đổi bất thờng).
Công khai thông tin của Sở giao dịch chứng khoán. Sở giao dịch
chứng khoán phải có trách nhiệm công bố các thông tin sau đây: Thông tin về
giao dịch, về lệch giao dịch, về chỉ số chứng khoán niêm yết, về quản lý thị
trờng, về tình hình thị trờng, thông tin phân tích cho nhà đầu t, các thông
tin hỗ trợ cho hoạt động của các thành viên, thông tin về tổ chức niêm yết,
công ty quản lý quỹ, thông tin liên quan tới thành viên, thông tin về nhà đầu
t.
Nh vậy, thông tin trên thị trờng chứng khoán khác về căn bản với
hệ thống thông tin ở các thị trờng khác, ví dụ nh hệ thống ngân hàng. Trên
hệ thông ngân hàng thông tin là không công khai, chỉ có ngân hàng và ngời
đi vay biết với nhau, còn trên thị trờng chứng khoán mọi thông tin đều đợc
công bố công khai, chia sẻ bình đẳng. Các quyết định đầu t đều dựa vào
nguồn thông tin đợc cung cấp, hệ thống thông tin tốt sẽ đa các nhà đầu t
14

đến với thị trờng. Thông tin không minh bạch, chính xác và kịp thời sẽ khiến
các nhà đầu t quay lng lại với thị trờng.
- Môi trờng đầu t chứng khoán không thể đợc gọi là tốt nếu các hệ
thống giao dịch không hoàn hảo. Đó là hệ thống giao dịch đấu giá theo lênh và
đấu giá theo giá. Tuy nhiên, trên thực tế hệ thống giao dịch đấu giá theo lênh
hiện nay đợc các Sở giao dịch chứng khoán trên thế giới áp dụng rộng rãi do
có những u việt hơn so với giao dịch đấu giá theo giá. Trớc hết, quá trình
xác lập giá đợc thực hiện một cách hiệu quả. Tất cả các lệnh mua và bán của
các nhà đầu t cạnh tranh với nhau, qua đó nhà đầu t có thể giao dịch tại mức
giá tốt nhất. Thêm vào đó, không có sự hiện diện của những nhà tạo lập thị
trờng nên hệ thống đảm bảo tính minh bạch của thị trờng do lệnh giao dịch
của các nhà đầu t đợc thực hiện theo quy tắc ghép lệnh. Đồng thời, bằng
cách theo dõi thông tin đợc công bố, nhà đầu t có thể đa ra những quyết
định kịp thời trớc tình hình diễn biến của thị trờng.
- Hệ thống lu ký, đăng ký, thanh toán bù trừ chứng khoán có vai trò,
chức năng hết sức quan trọng đối với môi trờng đầu t và hoạt động của thị
trờng chứng khoán. Trên thị trờng hàng hoá thông thờng, một giao dịch
đợc xem là kết thúc khi ngời bán nhận đợc tiền và và ngời mua nhận đợc
hàng. Cũng vậy, giao dịch chứng khoán trên thị trờng chứng khoán đợc xem
là hoàn tất khi ngời mua đã trả tiền và ngời bán đã thực hiện việc chuyển
nhợng quyền sở hữu chứng khoán. Thế nhng, khác với giao dịch mua bán
hàng hoá thông thờng, trong giao dịch mua bán chứng khoán, việc giao nhận
và thanh toán chứng khoán thờng mất nhiều thời gian vì cần phải có sự đối
chiếu, xác nhận kết quả giao dịch và lập các thủ tục cần thiết để thực hiện vệ
sang tên và đăng ký chuyển đổi tên các chủ sở hữu mới của chứng khoán. Do
đó, để hạn chế tình trạng giao nhầm, giả mạo và gian lận trong cả ba khâu của
chu trình giao dịch (đối chiếu, thanh toán, đăng ký), việc tổ chức xây dựng
một hệ thông thanh toán an toàn, nhanh chóng thuận, thuận lợi, hữu hiệu phù
hợp với đặc điểm riêng của giao dịch chứng khoán có vai trò cực kỳ quan
trọng trong việc tạo lập một thị trờng chứng khoán.

Một bộ phận quan trọng nhất cấu thành nên môi trờng đầu t của thị
trờng chứng khoán, đó là hệ thống thanh toán bù trừ, lu ký và đăng ký
chứng khoán. Hệ thống này tuỳ theo đặc thù của mỗi thị trờng, có thể đợc
tồn tại dới hình thức một Phòng nằm trong Trung tâm giao dịch chứng khoán
15
hoặc là một trung tâm thanh toán, hoặc trung tâm bù trừ độc lập tách rời nằm
bên ngoài Sở giao dịch chứng khoán, hoặc là một trung tâm hỗn hợp nhiều
chức năng.
Việc thiết lập một trung tâm thanh toán bù trừ, lu ký và đăng ký
chứng khoán của thị trờng chứng khoán với hệ thống các thiết chế khung
pháp lý cho trung tâm nhằm cung cấp các thủ tục và phơng tiện thực hiện
hoạt động thanh toán bù trừ lu ký và đăng ký cho các bên tham gia thị trờng
chứng khoán, mặt khác cũng nhằm cung cấp các dịch vụ hỗ trợ cho hoạt động
của thị trờng chứng khoán một cách hiêu quản và an toàn nhất.
Trung tâm thanh toán bù trừ, lu ký và đăng ký chứng khoán là tên
gọi thông thờng của một hệ thống cụ thể các trang thiết bị, con ngời hoạt
động về thanh toán bù trừ, lu ký và đăng ký chứng khoán, và các quy nhịnh
của nó. Trung tâm này ban hành các quy định để cung cấp và hớng dẫn cho
các bên tham gia thị trờng chứng khoán thực hiện các hoạt động cụ thể về
thanh toán bù trừ, lu ký và đăng ký chứng khoán thông qua các bộ phận
nghiệp vụ liên quan nh: Bộ phận thanh toán, bộ phận bù trừ, bộ phận lu ký,
bộ phận đăng ký chứng khoán
Hệ thống có những vai trò: Thực hiện thanh toán cho các giao dịch
chứng khoán, đảm bảo cho các giao dịch đợc hoàn tất. Giúp cho việc quản lý
thị trờng chứng khoán hiệu quả. Giảm chi phí cho các chủ thể tham gia vào
thị trờng chứng khoán. Góp phần giảm rủi ro cho hoạt động của thị trờng.
Đảm bảo thực hiện thanh toán nhanh góp phần giúp các đối tợng của hệ
thống tăng vòng quay của vốn.
Vậy sự xuất hiện của hệ thống lu ký, đăng ký, thanh toán bù trừ
chứng khoán đã tiết kiệm đợc chi phí và thời gian cho các đối tợng tham gia

thị trờng. Việc thanh toán bù trừ chứng khoán nhanh tạo điều kiện cho các
giao dịch tiếp theo đợc thức hiện, giúp cho nhà đầu t nắm đợc cơ hội kinh
doanh, đồng vốn đợc quay vòng nhanh hơn.
Chức năng của hệ thống: Quản lý các chứng khoán lu ký của khách
hàng. Ghi nhận quyền sở hữu và các thông tin về tình hình thay đổi của các
chứng khoán lu ký cho khách hàng. Cung cấp thông tin về chứng khoán giả
mạo và mất cắp. Thực hiện các nghiệp vụ thanh toán tiền và chuyển giao
chứng khoán sau khi các giao dịch đợc thực hiện. Xử lý các thông tin về việc
thực hiện quyền của ngời sở hữu chứng khoán đối với các tổ chức phát hành
16
nh: thông báo họp đại hội đồng cổ đông, đại diện uỷ quyền và giúp cho
khách hàng thực hiện quyền thông qua mạng lới của hệ thống. Phân phối lãi,
trả vốn gốc và cổ tức cho ngời đầu t chứng khoán. Giúp quản lý tỷ lệ nắm
giữ chứng khoán của nhà đầu t. Cung cấp các dịch vụ khác liên quan đến
chứng khoán nh: cầm cố chứng khoán, thu hộ thuế
- Sự có mặt của các tổ chức định mức tín nhiệm, đã góp phần vào sự
ổn định của môi trờng đầu t chứng khoán. Trong lịch sử, các tổ chức định
mức tín nhiệm đợc hình thành do có nhu cầu cung cấp thông tin về sự đáng
tin cậy, về khả năng trả nợ của các nhà phát hành cho các nhà đầu t nhỏ,
những ngời thiếu kỹ năng xử lý thông tin tài chính và các thông tin về các
nhân tố thị trờng gắn liền với rủi ro để ra đợc quyết định đầu t. Các nhà
phát hành cũng dùng xếp hạng tín nhiệm nh là một chiến lợc để huy động
vốn. Dới góc độ này, các tổ chức định mức tín nhiệm đóng vai trò nh một
cầu nối giữa nhà đầu t và thị thờng. Khi thị trờng tài chính và việc toàn cầu
hoá ngày càng phát triển, vai trò quan trọng mới nữa của việc xếp hạng tín
nhiệm là đợc dùng nh một công cụ để giám sát thị trờng tài chính, giảm
thiểu rủi ro cho các nhà đầu t và rủi ro hệ thống nói chung. Hệ thống xếp
hạng của các tổ chức định mức tín nhiệm còn mang lại lợi ích to lớn về phía
các công ty chứng khoán, vì hệ thống xếp hạng làm nền tảng vững chắc cho
việc lựa chọn một danh mục đầu t lý tởng đối với các công ty quản lý quỹ,

các công ty chứng khoán có nghiệp vụ quản lý danh mục đầu t và nghiệp vụ
tự doanh. Đối với các nhà quản lý, việc xếp hạng chứng khoán đợc coi nh
một tiêu chuẩn quản lý chính thức.
Chính vì vậy, có thể coi hoạt động xếp hạng của các tổ chức định mức
tín nhiệm là loại dầu bôi trơn quan trọng cho hoạt động của cỗ máy thị
trờng, là nhân tố quan trọng tạo cho hoạt động của thị trờng chứng khoán
sôi động, nâng cao và chuẩn hoá kiến thức về kinh tế, tài chính, kế toán, tạo
lập lòng tin và khuyến khích nhà đầu t tích cực tham gia đầu t, nâng cao sự
minh bạch của thị trờng.
Các công ty định mức tín nhiệm đóng vai trò nổi bật trong thị trờng
chứng khoán mới nổi cũng nh thị trờng chứng khoán phát triển. Do nhu cầu
cần thiết để phát triển một thị trờng trái phiếu nhiều biến động nhằm đáp ứng
nhu cầu về vốn trong tơng lai, các tổ chức định mức tín nhiệm ngày càng có
vai trò hết sức quan trọng. Thông thờng, các công ty định mức tín nhiệm
17
thành công hơn khi sự tự do hoá thị trờng tài chính gây áp lực đến thị trờng
và quyết định của t nhân đóng vai trò lớn trong việc tham gia vào thị trờng
chứng khoán. Đồng thời, việc pháp luật quy định bắt buộc phải sử dụng định
mức tín nhiệm cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát
triển của các công ty định mức tín nhiệm.
Nh vậy, môi trờng đầu t chứng khoán tốt không chỉ cần có những
chính sách của Chính phủ, khuấn khổ pháp lý đầy đủ, đồng bộ mà còn có các
dịch vụ tốt cung cấp cho khách hàng nh: môi giới, t vấn, cung cấp thông tin,
hệ thống giao dịch, lu ký, đăng ký, thanh toán bù trừ để nhà đầu t sẽ tích
cực tham gia vào thị trờng chứng khoán và đầu t có hiệu quả, làm cho cầu
chứng khoán gia tăng.
1.6. Trình độ dân trí.
Đặc điểm của ngời đầu t trên thị trờng chứng khoán đó là tâm lý
bầy đàn, tức là tâm lý chỉ cảm thấy an toàn trong sự hành động theo đám
đông. Điều này thể hiện ở một hiện tợng thờng thấy trên thị trờng chứng

khoán là các nhà đầu t theo nhau mua ào ạt, đẩy giá lên cao, hoặc theo nhau
bán dỡ, bán tháo khiến giá tụt xuống; mà không có một lý do xác đáng từ phía
chất lợng của chứng khoán. Điều này có nhiều nguyên nhân. Song một
nguyên nhân quan trọng là sự thiếu những hiểu biết tối thiểu để tham gia vào
loại thị trờng này.
Cộng đồng đầu t càng hiểu biết về lĩnh vực này thì hành động càng
có ý thức hơn và càng giảm đợc kiểu ứng xử bầy đàn. Những lĩnh vực mà nhà
đầu t phải có những hiểu biết cơ bản là:
a) Phải hiểu các tiêu chí cá nhân của bản thân: mục tiêu tài chính,
thời hạn đầu t, mức độ chấp nhận rủi ro.
Mục tiêu tài chính: Nhà đầu t vẫn phải cân nhắc tình hình tài chính
của họ khi ra quyết định dầu t. Họ phải đầu t bao nhiêu tiền, tình trạng thuế
của họ ra sao, thậm chí họ dự tính sẽ tiêu tốn bao nhiêu thời gian cho những
khoản đầu t của họ, tất cả đều cần phải tính đến trớc khi bắt đầu. Ngoài ra,
đa số các nhà lập kế hoạch tài chính đều đa ra lời khuyên cho nhà đầu t là
giành riêng ra một khoản dự trữ cho những tình huống khẩn cấp để chi trả
những khoản chi tiêu của cuộc sống trong vòng từ hai đến sáu tháng. Số tiền
này nên giữ dới dạng tài sản rất lỏng nh các quỹ thị trờng tiền tệ hay các
quỹ trái phiếu rất ngắn hạn.
18
Thời hạn đầu t: Ngời đầu t cần tính đến lúc nào thì cần tiền. Nếu
một ngời đầu t dự tính rút tiền vào ngay năm sau thì họ sẽ cần đến những
khoản đầu t rất ổn định, nh là các quỹ trái phiếu ngắn hạn hay quỹ tiền tệ.
Trái lại nếu ngời đầu t có mời năm để trụ lại với những biến động ngắn hạn
của thị trờng, thì họ có thể đợc hởng lợi thế về tiềm năng tăng trởng, lớn
hơn của một quỹ cổ phiếu. Trong việc lựa chọn một khoản đầu t thì trên thực
tế thời gian là yếu tố cần xem xét quan trọng nhất: thời hạn của ngời đầu t
càng dài thì chiến lợc đầu t của họ càng phải năng động và mạnh dạn.
Mức độ chấp nhận rủi ro: Ngời đầu t phải hiểu họ có thể chịu đựng
đợc sự biến động của thị trờng tới mức nào. Liệu họ có thể chấp nhận mất

5% - 10% số tiền của mình không? Nếu nh ngời đầu t có một danh mục trị
giá 100 triệu VNĐ và chỉ sau một ngày mất giá của thị trờng nó chỉ còn trị
giá có 75 triệu VNĐ, họ sẽ thấy thế nào?. Đối với nhà đầu t có hiểu biết thì
họ biết mình có thể chấp nhận rủi ro đến mức nào và đối với những rủi ro có
thể loại bỏ đợc thì họ sẽ loại bỏ.
b) Hiểu tính chất của các công cụ đầu t cơ bản.
Để sử dụng bất cứ một công cụ, một hình thức đầu t nào có hiệu quả
nhất thì nhà đầu t phải hiểu rõ công năng của công cụ, hình thức đầu t đó.
Khi tham gia vào thị trờng chứng khoán, nhà đầu t cần hiểu tính chất của
một số công cụ đầu t cơ bản nh: cổ phiếu(cổ phiếu thờng, cổ phiếu u
đãi ), trái phiếu(trái phiếu công ty, trái phiếu chính phủ, tín phiếu thả nổi lãi
suất, trái phiếu chuyển đổi ) để đầu t một cách hợp lý, đối phó với những
biến động của thị trờng. Việc đầu t vào chứng khoán không chỉ đơn giản là
nhận đợc cổ tức, mà quan trọng hơn là chênh lệch giá của chứng khoán trên
thị trờng.
Chính nhờ sự hiểu biết về tính chất của công cụ đầu t các nhà đầu t
chứng khoán không chỉ xác định thời điểm và mức giá mua bán một loại
chứng khoán, mà còn biết giảm rủi ro xuống mức thấp nhất bằng cách đa dạng
hoá thông qua việc xây dựng đợc danh mục chứng khoán có các mức độ rủi
ro khác nhau hoặc chu kỳ giao động lệch nhau.
c) Hiểu biết và tuân thủ luật lệ.
Hoạt động trên thị trờng chứng khoán là một dạng phức tạp, có tiềm
năng bị thao túng và để lại những hậu quả xấu cho thị trờng và cho nền kinh
tế. Vì thế những ngời tham gia thị trờng phải nắm vững và tuân thủ những
19
quy định của pháp luật, ý thức đợc các quyền và nghĩa vụ của mình. Có nh
thế ngời đầu t có thể tham gia lâu dài và khai thác đợc các lợi ích của thị
trờng.
Sự hiểu biết của cộng đồng các nhà đầu t là một yếu tố quan
trọng tạo nên bản lĩnh đầu t. Thiếu những hiểu biết tối thiểu, nhà đầu t sẽ bị

rơi vào các trạng thái: rụt rè, lo sợ, lúng túng dẫn đến lảng tránh thị trờng
chứng khoán, coi nó nh một thức trò chơi đầy rủi ro hay thậm chí là xấu xa;
hoặc là thiếu kiên định, tự chủ, hành động theo đám đông và khi xảy ra tổn
thất sẽ quay lng lại với thị trờng. Có thể cũng do thiếu hiểu biết mà nhà đầu
t coi thị trờng chứng khoán là nơi khiến họ có thể làm giàu một sớm một
chiều, và họ dốc hết tài sản vào đó một cách không tính toán. Tất cả những
cách ứng sử bắt nguồn từ thiếu hiểu biết của cộng đồng đầu t, trong ngắn hạn
hay dài hạn đều gây tổn thất cho thị trờng về phơng diện cầu.
1.7. Những lợi ích của việc đa dạng hoá.
v Các nhà đầu t không chỉ muốn thu lợi nhuận cao nhất, mà bên
cạnh đó còn có điều kiện là rủi ro phải thấp nhất. Vì sao các nhà đầu t lại
đồng thời nắm giữ nhiều tài sản rủi ro, thậm chí là rủi ro cao ?. Tại sao các nhà
đầu t không đầu t chỉ vào những chứng khoán có rủi ro thấp và hởng lợi tức
thấp ?. Phải chăng việc nắm giữ nhiều tài sản rủi ro đã đặt nhà đầu t nắm giữ
chúng trớc nhiều rủi ro hơn nữa?.
Lời cảnh báo từ một câu châm ngôn nổi tiếng Không nên đặt tất cả
trứng vào một cái rổ chính là chìa khoá cho câu trả lời: Bởi vì cùng một lúc
nắm giữ nhiều tài sản rủi ro (đợc gọi là đa dạng hoá) giảm tổng rủi ro về
những tài sản đó mà một nhà đầu t gặp phải, nhng không ảnh hởng đến lợi
nhuận của việc đầu t, nh vậy đa dạng hoá là có lợi. Để tìm hiểu điều này,
hãy xét một ví dụ cụ thể để xem một nhà đầu t sẽ nhận đợc lợi ích nh thế
nào từ việc nắm giữ đồng thời hai loại chứng khoán rủi ro.
Giả sử một nhà đầu t đang xét nắm giữ hai cổ phiếu rủi ro: một là cổ
phiếu công ty A, một là cổ phiếu công ty B. Cổ phiếu A trong một nửa thời
gian đầu khi nền kinh tế đang hng thịnh, cổ phiếu A có doanh số cao và lợi
tức cổ phiếu là 15%, trong nửa thời gian còn lại nền kinh tế suy thoái, doanh
số của công ty A giảm đi, cổ tức giảm đi chỉ còn 5%. Trong khi đó hoạt động
sản xuất của công ty B ngợc lại, lại phát đạt khi nền kinh tế suy thoái và trả
20
cho cổ đông mức cổ tức ở mức 15%, nhng lại kém đi khi nền kinh tế đang

hng thịnh và chi trả cổ tức ở mức 5%. Do đó cả hai cổ phiếu này đều có mức
cổ tức là 15% trong nửa thời gian và 5% trong nửa thời gian khác, cả hai đều
có một lợi tức dự tính là 10% (xem công thức tính lợi tức dự tính ở phần Lý
thuyết lợng cầu tài sản). Tuy nhiên, cả hai cổ phiếu đều có rủi ro vì sự không
chắc chắn về cổ tức thực nhận đợc của chúng.
Thay vì mua cổ phiếu này hay cổ phiếu kia, nhà đầu t đặt một nửa số
tiền vào cổ phiếu A và một nửa còn lại vào cổ phiếu B. Khi nền kinh tế hng
thịnh, nhà đầu t nhận đợc 15% cổ tức từ cổ phiếu A và 5% cổ tức từ cổ
phiếu B, khi nền kinh tế suy thoái, nhà đầu t nhận đợc 5% cổ tức từ cổ phiếu
A và 15% cổ tức từ cổ phiếu B. Kết quả là nhà đầu t vẫn thu đợc mức lợi tức
trung bình là 10% trong mỗi nửa thời kỳ. Bằng cách mua đồng thời cả hai cổ
phiếu để đa dạng hoá, nhà đầu t vẫn thu đợc mức lợi tức dự tính là 10% bất
kể nền kinh tế là mạnh hay yếu. Tuy nhiên, nhà đầu t nắm giữ từng cổ phiếu
riêng lẻ thì mức lợi tức dự tính nhà đầu t nhận đợc vẫn là 10%.
Để so sánh mức rủi ro trong hai trờng hợp có đa dạng hoá và không
đa dạng hoá, xem xét độ lệch chuẩn của chúng.
Độ lệch chuẩn trong trờng hợp nhà đầu t chỉ nắm giữ một trong hai
cổ phiếu, hoặc là A hoặc là B:
s
2
= 0.5 (15% - 10%)
2
+ 0.5 (5% - 10%)
2

s
2
= (5%)
2
hay s = 5%

Khi nhà đầu t nắm giữ đồng thời hai cổ phiếu với số lợng nh nhau,
xác suất tơng ứng nhận đợc mức cổ tức từ hai chứng khoán là 5% là 0.25,
15% là 0.25, và 15% từ cổ phiếu này cùng với 5% từ cổ tức kia là 0.5. Độ lệch
chuẩn trong trờng hợp đa dạng hoá sẽ là
s
2
= 0.25 (15% - 10%)
2
+ 0.25 (5% - 10%)
2
+ (10% - 10%)
2

s
2
= (3.5%)
2
hay s = 3.5%
Nh vậy, lợi ích của việc đa dạng hoá chính là việc nó giảm thiểu rủi
ro gặp phải từ việc nắm giữ các tài sản rủi ro.
Mặc dù, ví dụ trên rất hiếm gặp trong thực tế do khó tìm đợc những
cổ phiếu có lợi tức dự tính luôn ngợc chiều nhau: khi lợi tức của một cổ phiếu
cao thì lợi tức của cổ phiếu kia sẽ thấp và ngợc lại. Chúng ta có khả năng tìm
21
thấy những chứng khoán có lợi tức tốt nhất nhng lại độc lập với nhau: tức là
khi một lợi tức cao thì lợi tức kia có thể cao hay thấp.
Đa dạng hoá hầu nh luôn có lợi cho những nhà đầu t không a mạo
hiểm do nó giảm rủi ro trừ khi lợi tức của chúng diễn biến theo nhau một cách
hoàn hảo, tức là lợi tức chứng khoán này tăng thì lợi tức chứng khoán kia cũng
tăng và ngợc lại. Một khi lợi tức của chứng khoán nắm giữ càng biễn biến

ngợc chiều nhau thì lợi ích của việc đa dạng hoá càng lớn, rủi ro đợc giảm
nhiều hơn.
Nói cách khác, rủi ro của danh mục đầu t sẽ giảm đi nếu trong danh
mục đó có các chứng khoán có lợi tức diễn biến ngợc chiều nhau (các chứng
khoán có tích sai âm). Điều này dẫn tới một kết luận quan trọng là nếu chứng
khoán trên thị trờng càng đa dạng, nghĩa là các công ty phát hành thuộc về
nhiều lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, nhiều khu vực địa lý, nhiều loại công
nghệ, nhiều loại quy mô thì khả năng thiết lập các danh mục đầu t hiệu quả
càng lớn (Tức là những danh mục đạt đợc mục tiêu lợi nhuận với mức rủi ro
thấp nhất, hay đạt đợc mức rủi ro có thể chịu đợc với mức lợi nhuận cao
nhất). Điều đó càng có nghĩa là nếu nguồn cung chứng khoán đợc đa dạng
hoá, thì sẽ khuyến khích đợc cầu chứng khoán, bởi khi đó các loại định chế
tài chính nh công ty bảo hiểm, quỹ hu trí, quỹ đầu t hay ngay cả các ngân
hàng thơng mại sẽ có đủ điều kiện để tham gia vào thị trờng với t cách là
các nhà đầu t lớn, chuyên nghiệp. Đây là lực lợng quan trọng có tác động
quyết định tới sức cầu trong thị trờng chứng khoán.
ị Rủi ro khi đầu t vào chứng khoán có thể chia làm hai nhóm lớn,
là rủi ro hệ thống (rủi ro không thể đa dạng hoá) và rủi ro không hệ thống (rủi
ro có thể đa dạng hoá). Rủi ro hệ thống tác động lên toàn bộ thị trờng, hầu
nh không có một loại chứng khoán nào tránh khỏi, ví dụ: rủi ro thị trờng, rủi
ro do lãi suất Rủi ro không hệ thống là rủi ro xảy ra với riêng một ngành hay
một công ty, do những yếu tố kinh doanh hay tài chính gây ra, nh tình hình
thị trờng không thuận lợi, những chính sách của Chính phủ đối với ngành,
năng lực quản lý của công ty, tình trạng nợ Về nguyên tắc, rủi ro không hệ
thống có thể đợc giảm tới số 0, bằng cách phối hợp nhiều chứng khoán trong
một danh mục đầu t, theo nguyên tắc không đặt hết trứng vào một rổ. Nhìn
chung, các nhà đầu t cá nhân là ngời sợ rủi ro. Ngời sợ rủi ro sẽ tránh
22
những rủi ro không cần thiết và điều này chỉ có thể thực hiện bằng cách đầu t
vào các quỹ đầu t (mua chứng chỉ quỹ đầu t).

Phơng sai của danh mục đầu t giảm xuống khi số lợng chứng
khoán đợc tăng thêm, đó là bằng chứng về hiệu ứng đa dạng hoá. Tuy nhiên,
phơng sai của danh mục đầu t không bao giờ có thể giảm xuống tới 0. Thay
vào đó nó đạt tới một mức sàn là rủi ro của danh mục (rủi ro hệ thống). Xem
hình vẽ dới đây.
Mối quan hệ giữa phơng sai của lợi nhuận của một danh mục đầu t
và số lợng chứng khoán có trong danh mục đợc thể hiện qua sơ đồ sau.
Phơng
sai Rủi ro không
của hệ thống
lợi
nhuận
danh
mục Tổng rủi Rủi ro
ro hệ thống
Số lợng chứng khoán nắm giữ
Tổng rủi ro là rủi ro mang lại khi nhà đầu t nắm giữ chỉ một chứng
khoán duy nhất. Rủi ro của danh mục là rủi ro vẫn còn lại sau khi nhà đầu t
đã thực hiện đa dạng hoá đầy đủ. Rủi ro danh mục còn đợc gọi là rủi ro hệ
thống, hay rủi ro thị trờng. Rủi ro không hệ thống, hay rủi ro có thể đa dạng
hoá hoặc rủi ro đặc thù, là rủi ro có thể phân tán trong một danh mục lớn.
Rủi ro của danh mục cổ phiếu.
Tổng số rủi ro của một danh mục cổ phiếu có thể đợc chia thành 3
loại: rủi ro công ty, rủi ro ngành và rủi ro thị trờng.
Rủi ro công ty. Mối nguy hiểm cơ bản nhất và có sức tàn phá lớn nhất
là rủi ro riêng của công ty, hay là rủi ro ngẫu nhiên. Đó là những thiệt hại
nghiêm trọng tác động tới một công ty riêng lẻ, có thể đa tới tình trạng phá
sản của công ty. Kiện cáo, cạnh tranh khốc liệt, mất đội ngũ nhân viên chủ
23
chốt, những sai lầm nghiêm trọng của ban giám đốc, những thay đổi trong thị

hiếu tiêu dùng, và các loại thiên tai, đều có thể đẩy một công ty vào vòng suy
thoái.
Rủi ro ngành. Tính đa dạng không chỉ phụ thuộc vào việc nắm giữ
một số lợng lớn cổ phiếu. Quả thực, ngời ta có thể loại bỏ hầu hết rủi rỏ
riêng của công ty nếu nh nắm giữ trên 10 cổ phiếu. Song điều gì sẽ xảy ra
nếu tất cả những công ty của những cổ phiếu đó đều thuộc cùng một ngành,
nh ngân hàng, hàng không hay khai thác khoáng sản ? Rủi ro ngành đe doạ
những hãng cung cấp sản phẩm hay dịch vụ tơng tự nhau vì trong ngành có
thể có những lúc thăng trầm dữ dội.
Rủi ro thị trờng. Rủi ro thị trờng thờng đợc coi là một con dao
hai lỡi. Phần lớn ngời ta đều coi đó là nguy cơ về một thị trờng xuống giá.
Nhng đó chỉ là nguy cơ rõ ràng nhất, bên cạnh đó còn là khả năng bị gạt sang
một bên trong một thị trờng đang lên giá. Rủi ro thị trờng đôi khi đợc coi
là rủi ro không thể đa dạng hoá vì ngời ta không thể tránh đợc nó cho dù
có nhiều đi đến bao nhiêu cổ phiếu đợc nắm giữ trong danh mục. Tất cả các
loại vấn đề về kinh tế, chính trị của một đất nớc, kể cả tình trạng lạm phát
không thể kiểm soát hay lãi suất tăng vọt, đều có thể làm cho giá cổ phiếu suy
giả nặng nề.
Rủi ro của danh mục trái phiếu.
Rủi ro lãi suất Giá của trái phiếu chịu tác động ngợc chiều của
những thay đổi trong lãi suất. Khi lãi suất tăng thì giá trái phiếu giảm, và khi
lãi suất giảm thì giá trái phiếu tăng. Đó chính là rủi ro lãi suất. Chẳng hạn nhà
đầu t có một trái phiếu 1000 VNĐ trả lãi 6%. Đến cuối năm nhà đầu t đó sẽ
có một khoản thu nhập 60 VNĐ. Khi đó lãi suất tăng lên tới 7%, cũng với
1000 VNĐ nh vậy, bây giờ nhà đầu t có thể mua một trái phiếu đem lại thu
nhập 70 VNĐ một năm. Đơng nhiên là chẳng ai muốn trả giá đó cho một trái
phiếu có lãi suất thấp hơn. Vì thế khoản đầu t của nhà đâu t bị mất giá, từ
chỗ là 1000 VNĐ giảm xuống còn khoảng 890 VNĐ. Điều ngợc lại cũng có
thể xảy ra. Ngoài ra còn có rủi ro lạm phát (rủi ro sức mua) là rủi ro do tác
động của lạm phát, đối với khoản đầu t. Yếu tố lạm phát hay giảm phát sẽ

làm thay đổi mức lãi suất danh nghĩa và từ đó sẽ tác động đến giá cuả các
chứng khoán trên thị trờng.
24
ảThị trờng phải có hàng hoá đa dạng về chủng loại và ổn định về
chất lợng. Hàng hoá đa dạng là điều kiện để ra đời một loại định chế đặc biệt
giúp thu hút tiền tiết kiệm của các nhà đầu t nhỏ. Đó là các quỹ đầu t.
Để hiểu vai trò của quỹ đầu t với việc tăng cầu chứng khoán cho thị
trờng, chúng ta cần hiểu rõ hơn về cơ chế hoạt động của loại định chế tài
chính này.
Quỹ đầu t là một tổ chức trung gian tài chính, nó nhận tiền từ các
nhà đầu t và sử dụng số tiền đó để mua các tài sản tài chính nh cổ phiếu, trái
phiếu bằng cách phát hành các chứng chỉ (một loại cổ phần) có mệnh giá nhỏ.
Số tiền lãi nhận đợc từ các cổ phiếu và cổ tức t các cổ phiếu mà quỹ nhận
đợc sẽ chia cho các nhà đầu t của quỹ, cùng với số lợi vốn ( hay lỗ vốn)
đợc thực hiện do quỹ bán các chứng khoán đang nắm giữ. Nh vậy khi mua
cổ phần của quỹ đầu t, các nhà đầu t gián tiếp sở hữu các tài sản tài chính
mà quỹ đầu t vào, và lợi ích đợc hởng tỷ lệ thuận với số cổ phần mà nhà
đầu t nắm giữ. Việc này có gì khác so với trực tiếp mua những chứng khoán
riêng lẻ?.
Đối với một cá nhân, đặc biệt là những nhà đầu t nhỏ, việc mua cổ
phần của quỹ đầu t thay vì trực tiếp đầu t vào những chứng khoán riêng lẻ
có nhiều lợi thế: Họ có thể tiết kiệm đợc chi phí trong khi vẫn thực hiện đợc
đa dạng hoá đầu t để giảm thiểu rủi ro với một lợng tiền hạn chế, và đợc
hởng lợi ích từ sự quản lý chuyên nghiệp.
Để hiểu đợc những lợi thế này, ta hãy xem xét một cá nhân với
những nguồn tài chính khiêm tốn đang muốn đầu t vào thị trờng cổ phiếu.
Muốn giảm thiểu rủi ro trên khoản đầu t của mình, nhà đầu t cần đa dạng
hoá danh mục đầu t, tức là rải số tiền của mình trên nhiều món đầu t khác
nhau, nói cách khác là phải thực hiện nguyên lý không bỏ hết chứng vào một
rổ. Ông ta có thể mua những lô lẻ để tạo thành một danh mục đầu t có nhiều

loại cổ phiếu. Tuy nhiên đối với các giao dịch lô lẻ thì mức hoa hồng môi giới
là tơng đối cao. Để giảm bớt mức phí hoa hồng này, một lựa chọn khác là
ông ta có thể mua những lô chẵn, nhng cũng vì lý do không có nhiều tiền nên
ông ta chỉ mua đợc một vài loại cổ phiếu và do đó không thể hởng những lợi
ích từ việc có đợc một danh mục đầu t đa dạng hoá đầy đủ. Trong khi đó,
cũng với số tiền đó bếu mua cổ phần của quỹ đầu t thì ông sẽ đợc làm chủ
một phần của một danh mục đầu t đa dạng hoá, với chi phí thấp hơn nhiều.
25
Nh vậy, lợi thế kinh tế nhờ quy mô cho phép quỹ đầu t cung cấp tính đa
dạng với mức chi phí trên một đồng tiền đợc đầu t thấp hơn so với mức chi
phí phát sinh với một nhà đâu t nhỏ, vì với tổng số tiền lớn, quỹ đầu t giao
dịch quy mô lớn trên nhiều loại chứng khoán, nếu bảo đảm đợc đa dạng hoá
danh mục đầu t với chi phí thấp. Mặt khác những chi phí khác liên quan tới
các giao dịch có thể giảm đợc đáng kể nhờ lợi thế quy mô. Chẳng hạn, nếu
một nhà đầu t riêng lẻ phải thuê luật s thảo một hợp đồng nợ thì chi phí thuê
có thể chiếm tỷ lệ khá cao so với tổng giá trị đầu t. Nhng một quỹ đầu t có
thể bỏ ra một số tiền khá lớn để thuê một luật s giỏi thảo một mẫu hợp đồng
để sử dụng nhiều lần, và do đó phần chi phí này giảm đi đáng kể trên một đơn
vị tiền đợc đầu t. Hiệu quả tổng thể đầu t của quỹ vì thế cao hơn nhiều so
với hiệu quả cảu bất kỳ nhà đầu t riêng lẻ nào.
Một cá nhân đầu t trực tiếp vào thị trờng cổ phiếu sẽ phải xoay xở
với tất cả các chi tiết đầu t, từ việc nghiên cứu, phân tích từng loại chứng
khoán cũng nh tổng thể thị trờng để đa ra các quyết định mua và bán, cho
đến việc lu giữ chứng từ của tất cả các giao dịch nhằm tính thuế và trả thuế.
Nhà đầu t sẽ phải thờng xuyên tìm kiếm những chứng khoán bị định giá sai,
để mua những chứng khoán định giá thấp và bán những chứng khoán đợc
định giá cao. Nh vậy từng ngời đầu t vừa phải có nhiều thời gian, vừa phải
có kiến thức, phơng tiện và kỹ năng chuyên sâu vào lĩnh vực này. Trừ việc
thoả mãn nhu cầu tự mình khám phá, thử nghiệm và tận hởng niềm vui tự
mình ra quyết định đầu t, với những nhà đầu t riêng lẻ thì việc này rất không

hiệu quả. Nếu mua cổ phần của quỹ, ngời đầu t có thể giao phó tất cả những
nhiệm vụ này cho một nhà quản lý tiền chuyên nghiệp, và có thể đợc hởng
hàng loạt dịch vụ do các quỹ cung cấp.
Một đặc điểm khác của quỹ đầu t khiến cho mỗi loại quỹ phù hợp
với một loại nhà đầu t nhất định là các quỹ lựa chọn những chính sách đầu t
khác nhau, thể hiện trên việc lựa chọn các chứng khoán đa vào danh mục
đầu t. Ví dụ, có quỹ chỉ đầu t vào cổ phiếu, có quỹ chỉ đầu t vào trái phiếu
hay công cụ của thị trờng tiền tệ, và có quỹ có một danh mục đầu t hỗn
hợp. Nh vậy, tuỳ theo mục tiêu và mức độ chấp nhận rủi ro, mỗi nhà đầu t
có thể lựa chọn quỹ này hay quỹ khác để đầu t nhằm đạt đợc mục tiêu của
mình.
Những mục tiêu dài hạn: đầu t cho việc nghỉ hu.

×