Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Mô hình phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (949.96 KB, 86 trang )

LỜI MỞ ĐẦU

I. Đặt vấn đề:
Như chúng ta đã biết, trong thời gian vừa qua nến kinh tế thế giới nói chung và
kinh tế Việt nam nói riêng tăng trưởng rất nóng. Song song đó, thế giới ngày
càng bất ổn, nền kinh tế luôn chứa đựng nhiều rủi ro. Điều này thể hiện rất rõ
qua sự kiện ngày 17/8/2007 vừa qua, các chỉ số chứng khoán bắt đầu sụt giảm
nghiêm trọng và suốt những ngày sau đó. Các thị trường tài chính trên thế giới
đều đặt trong tình trạng báo động và ngân hàng trung ương các nước luôn cảnh
giác để sẵn sang can thiệp bất cứ lúc nào. Có thể nói trong thời gian vừa qua,
cả nền kinh tế thế giới luôn gặp những vấn đề nan giải : khủng hoảng tín dụng
thế chấp bất động sản, lạm phát, khủng hoảng lương thực, thế giới lao đoa
trong khi giá dầu và giá vàng liên tục lập kỷ luc chưa từng có.

Những vấn đề này tác động đến nền kinh tế Việt Nam ra sao?

Chỉ trong vài tháng đầu năm 2008, thị trường tài chính luôn là tâm điểm quan
tâm của cả nước với những rủi ro về một cụôc khủng hoảng sẽ xảy ra. Vào
khoảng tháng 2 và tháng 3, chỉ số chứng khoán không ngừng sụt giảm. Bên
cạnh đó, sự gia tăng chỉ số giá tiêu dùng cùng một số bất ổn về tín dụng đã
khiến cho VNĐ tăng giá so với USD (dự báo VNĐ sẽ tăng 1% năm 2008 và
2% trong năm 2009 so với USD) kèm theo sự gia tăng lãi suất. Trong tuần đầu
tháng 03 năm 2008, lấn áp sự ảm đạm trên thị trường cổ phiếu, thị trường trái
phiếu dường như đang dần trở thành tâm điểm chú ý của giới đầu tư, đặc biệt
là các nhà đầu tư nước ngoài. Trong bối cảnh hiện nay, nắm giữ trái phiếu có
thể ổn định trong dài hạn.

II. Mục tiêu nghiên cứu:
Hiện nay thị trường trái phiếu vẫn chưa hoạt động sôi động. Một điều đáng lưu
ý là toàn bộ giao dịch trái phiếu trong thời gian qua rất nhộn nhịp nhưng phần
lớn giao dịch này vẫn là ở các trái phiếu chính phủ do kho bạc nhà nứơc phát


hành và không có sự hiện diện của trái phiếu doanh nghiệp. Mục tiêu của đề
tài là nhằm đề ra các giải pháp phát triển thị trường trái phiếu, đặc biệt là giải
pháp phát triển trái phiếu doanh nghiệp.
III. Phương pháp nghiên cứu:

Từ việc thống kê tình hình phát triển thị trường trái phiếu ở các nước trên thế
giới, đề tài nhằm xem xét, đánh giá qui mô, cách thức giao dịch ở các nước. Từ
đó, xem xét tình hình nền kinh tế Việt Nam để đề ra giải pháp phát triển. Thị
trường trái phiếu sẽ là một kênh huy động vốn đầy tiềm năng trong tương lai.

IV. Kết cấu chuyên đề:

Với mục đích đó, đề tài được trình bày theo 3 chương như sau:

Chương 1: Tổng quan về thị trường trái phiếu
Chương 2: Tổng quan th ị trư ờng trái phi ếu ở các nước
Chương 3: Mô hình phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam



CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU
1.1 Nền tảng cho một thị trường trái phiếu phát triển:
Thị trường trái phiếu phát triển là một thị trường có tính thanh khoản rất cao,
hay nói một cách cụ thể là nơi mà nhà đầu tư muốn bán trái phiếu trước hạn thì
chắc chắn sẽ có nhà đầu tư khác sẵn lòng chi trả mua chứng khoán đó, việc thực
hiện giao dịch đó diễn ra một cách nhanh chóng thông qua bảng điện tử kết nối
trực tiếp với nhau, nơi đó chính là thị trường thứ cấp.
Một vài đặc điểm quan trọng mà thị trường có thể được đánh giá là có tính thanh
khoản chính là độ sâu, độ an toàn tương đối và độ hồi phục. Trong đó:

 Độ an toàn được đo lường bởi chênh lệch giá mua bán,chỉ ra những chi phí
phát sinh bởi những người tham gia thị trường khi thực hiện hợp đồng; chênh lệch
càng thấp thì tính thanh khoản thị trường càng cao.
 Độ sâu của thị trường xác định phạm vi nó có thể giải quyết các hợp đồng
lớn mà không làm thay đổi nhiều về giá
 Độ hồi phục xác định tốc độ mà những dao động về giá cuối cùng giảm
dần. Yếu tố khác có thể là qui mô thị trường, vì thị trường cùng với những cổ
phiếu đang lưu hành nhìn chung có doanh thu bằng tiền mặt cao và giao dịch giao
sau lớn.





1.2 Mô hình vận hành thị trường trái phiếu ở các nước phát triển




Theo mô hình trên thì để vận hành được một thị trường trái phiếu hiệu quả
cần có sự phối hợp đồng bộ và nhịp nhàng của các toàn bộ các yếu tố vĩ mô và vi
mô bao gồm:
o Chính phủ điều hành các yếu tố vĩ mô tốt
o Cơ sở nhà đầu tư phát triển cả về mặt chất và mặt lượng
Thị trường trái phiếu chính phủ
hiệu quả
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật như thanh
toán, bù trừ
Cơ cấu hệ
thống pháp

luật rõ ràng

Mức chuẩn tín dụng
Việc giao dịch
năng động
chứng khoán
nợ
Doanh nghiệp lớn/ hoạt động
phát hành nợ
Thị trường nợ trong nước
phát triển
Hoạt động
doanh
nghiệp hiệu
quả
Phát triển chiều rộng
và chiều sâu số lượng
NĐT
Thị trường sản phẩm
tài
chính phái sinh hiệu
quả
Chính phủ điều hành
tốt
Phương pháp giám sát năng
động
o Thị trường các sản phẩm tài chính phái sinh phải hoạt động hiệu quả
o Hoạt động quản trị doanh nghiệp phải hiệu quả
o Các chứng khoán nợ được giao dịch một cách chủ động
o Cơ cấu hệ thống pháp luật phải rõ ràng

o Thị trường phải xây dựng được một mức chuẩn tín dụng
o Hệ thống hạ tầng kỹ thuật thị trường như thanh toán bù trừ phải tốt
o Có sự tham gia phát hành nợ của các doanh nghiệp lớn
o Thị trường trái phiếu chính phủ phải vận hành hiệu quả
o Phương pháp giám sát thị trường một cách năng động
Qua đó, có thể thấy các chủ thể tham gia thị trường đóng vai trò rất quan trọng
trong việc vận hành thị trường trái phiếu.


1.2.1 Nhà phát hành: thành phần chính là chính phủ và doanh nghiệp
 Chính phủ: nhà phát hành lớn nhất trên thị trường trái phiếu. Ngoài mục
đích huy động vốn cho việc tài trợ các dự án phát triển của chính phủ, cho ngân
sách nhà nước, việc phát hành trái phiếu, đặc biệt là trái phiếu chính phủ theo lô
lớn thì nhằm nâng cao tính thanh khoản cho thị trường giao dịch thứ cấp. Mặt
khác, chính phủ có trách nhiệm thiết lập cách đo lường kinh tế vĩ mô và khung
pháp lý tốt nhằm tạo ra môi trường phát triển lành mạnh.
 Doanh nghiệp: Doanh nghiệp phát hành trái phiếu nhằm đa dạng hóa việc
tài trợ và sự ổn định trong cấu trúc vốn. Ngoài kênh huy động vốn qua việc phát
các nhà điều hành thị trường

Nhà
đầu


Nhà
phát
hành
Trung gian
thị trường
hành cổ phiếu, doanh nghiệp có thể phát hành trái phiếu, ghi nhận một khoản nợ

phải trả với những người nắm giữ trái phiếu. Chi phí tài trợ liên quan đến thời gian
đáo hạn có xu hướng thấp hơn vay mượn qua công cụ ngắn hạn của ngân hàng
 Các tổ chức tài chính khác như ngân hàng, công ty tài chính, công ty chứng
khoán, các quỹ đầu tư. Họ vừa là tổ chức tham gia phát hành trái phiếu vừa đứng
ra bảo lãnh phát hành trái phiếu cho các doanh nghiệp. Sự có mặt của họ trên thị
trường thứ cấp nhằm làm tăng tính thanh khoản cho những trái phiếu đã phát hành.
1.2.2 Nhà tạo lập thị trường:
Đó chính là công ty chứng khoán, nhà môi giới- giao dịch. Họ chấp nhận
đứng ra gánh chịu tổn thất khi nắm giữ một lượng chứng khoán nhất định nhằm
thúc đẩy thị trường phát triển. Do đó họ luôn đối mặt với rủi ro lãi suất. Và việc sử
dụng các công cụ tài chính phái sinh sẽ giúp họ ngăn ngừa rủi ro. Nhà tạo lập thị
trường thực hiện các giao dịch cho nhà đầu tư. Do vậy họ phải có đủ khối lượng
trái phiếu để bán nếu nhà đầu tư muốn mua trái phiếu và đủ nguồn vốn để thanh
toán nếu nhà đầu tư muốn bán trước hạn.
Các giao dịch trái phiếu thường có khối lượng và giá trị lớn nên thời gian
tiến hành thường lâu hơn giao dịch cổ phiếu. Bên cạnh đó một nhà tạo lập thị
trường thông thường dù có vốn lớn đến đâu cũng rất khó có thể đảm bảo tiến hành
được tất cả các giao dịch bằng lượng chứng khoán của mình, và cũng không thể
đảm bảo luôn tìm kiếm được các lệnh đặt đối ứng cần thiết của khách hàng. Do đó
phát sinh ra việc cần có một hình thức tạo lập thị trường thứ hai, đó là các nhà môi
giới-giao dịch nội bộ. Đây là một hình thức tổ chức tồn tại trong các thị trường trái
phiếu và các thị trường OTC sản phẩm phái sinh, những tổ chức này đóng vai trò
như những trung gian giữa các công ty môi giới chính trên thị trường với mục đích
hỗ trợ, thúc đẩy các giao dịch nội bộ giữa các tổ chức này. Đối tượng giao dịch
của họ là các công ty môi giới khác, các nhà môi giới khác, các tổ chức nhận quản
lý danh mục đầu tư, tín thác.
1.2.3 Nhà đầu tư:
Đại đa số các trái phiếu được nắm giữ bởi các hiệp hội như công ty tài chính,
công ty bảo hiểm, quỹ hưu bổng, ngân hàng, quỹ đầu tư và quỹ tương hỗ. Ở Mỹ,
các cá nhân riêng lẻ nắm giữ khoảng 10% thị trường. Đối với họ, việc tham gia

vào thị trường trái phiếu nhằm đa dạng hóa các khoản đầu tư, tìm kiếm lợi nhuận
tối đa.
 Sự có mặt của họ trên thị trường góp phần vào việc phát triển nền kinh tế.
 Họ có khả năng huy động vốn nhàn rỗi lớn trong công chúng do đó mà khả
năng giao dịch của họ trên thị trường với mục đích kinh doanh là rất lớn.
 Hơn nữa họ có khả năng sử dụng vốn linh hoạt nên vấn đề thu được lợi
nhuận nhiều hơn so với nhà đầu tư cá nhân.
 Trong trường hợp chủ thể phát hành bán không hết chứng khoán thì họ có
nhiệm vụ mua hết phần còn lại. Điều này góp phần làm gia tăng tính thanh khoản
cho chứng khoán trên thị trường thứ cấp.
 Mặt khác, họ là những người am hiểu các công cụ phòng ngừa tài chính
như hợp đồng quyền chọn, hoán đổi lãi suất hay hợp đồng giao sau, kỳ hạn. Do đó
khả năng việc quản trị rủi ro của họ rất tốt.
 Việc thực hiện đầu tư của họ luôn xem xét tính phù hợp về vòng đời tài sản
và khoản nợ liên quan.
1.2.4 Các nhà điều hành thị trường:
 Chính phủ có trách nhiệm thiết lập cách đo lường kinh tế vĩ mô và khung
pháp lý tốt nhằm tạo ra môi trường phát triển lành mạnh.
 Nhà quản lý thị trường vốn đảm bảo sự an toàn cho nhà đầu tư qua việc
cung cấp các chứng khoán theo từng ngành. Họ là ngân hàng trung ương, thực
hiện việc giám sát hoạt động thị trường, phát hiện trường hợp gian lận trong giao
dịch để cảnh báo cho nhà đầu tư, ổn định thị trường.
 Sở giao dịch chứng khoán: cung cấp nơi giao dịch cho các chứng khoán đã
phát hành và thúc đẩy việc niêm yết các đợt phát hành mới.
1.3 Thị trường trái phiếu đối với sự phát triển kinh tế:
1.3.1 Vai trò của thị trường trái phiếu đối với doanh nghiệp:
Thị trường nợ doanh nghiệp như là một kênh liên kết những khoản tiền tiết
kiệm của xã hội để thực hiện các cơ hội đầu tư, thể hiện các thông tin về công ty
giúp đánh giá nguồn huy động nhanh hơn. Lợi ích của thị trường trái phiếu mang
lại lợi ích cho nhà phát hành:

 Giảm việc quá phụ thuộc vào những khỏan vay ngân hàng
 Giảm sự quá lệ thuộc vào nguồn quỹ nứơc ngòai (dòng vốn có thể rủi ro,
hạn chế lãi súât bởi những rủi ro tín dụng trong nước -limited interest in local
credit risk).
Công ty phát hành trái phiếu để tài trợ cho họat động kinh doanh, đa dạng
hoá nguồn huy động và thể hiện các thông tin về công ty giúp đánh giá nguồn huy
động nhanh hơn. Hầu hết các doanh nghiệp vay tiền từ ngân hàng, nhưng nhìn trực
diện việc vay tiền từ ngân hàng hạn chế và tốn chi phí hơn việc phát hành nợ trên
thị trừờng mở hay chính là phát hành trái phiếu. Chi phí vay tiền trưc tiếp từ ngân
hàng còn hạn chế đối với một số công ty. Thông thường, các giám đốc tài chính
xem ngân hàng như nhà cho vay của phương tiện tài trợ cuối cùng do các bản khế
ước nợ hạn chế. Các bản khế ước là những nguyên tắc nợ đựơc thiết kế nhằm giúp
ổn định hoạt động doanh nghiệp và làm giảm rủi ro mà ngân hàng gánh chịu khi
nó cấp hạn mức vay lớn cho một công ty. Ngân hàng đưa ra những hạn chế nhiều
hơn khi công ty vay và hòan trả nợ bằng cách phát hành trái phiếu. Ngoại trừ một
vài nước châu Á như Hàn Quốc, thị trường trái phiếu doanh nghiệp chưa phát triển
ở hầu hết các thị trường mới nổi. Những nhà đầu tư về trái phiếu và những loại có
liên quan làm tốt hơn những người tham gia vào ngân hàng khi quyết định công ty
nào để huy động và trong phạm vi nào- và vì thế sẽ ngăn chặn nền kinh tế rơi vào
cuộc khủng hỏang. Bởi vì những yếu tố như chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa
và những chính sách có liên quan đến kiểm sóat vốn rõ ràng có ảnh hưởng đến nền
kinh tế.
Một thị trường trái phiếu phát triển sẽ kết hợp với một thị trường có chức
năng tốt bởi các công cụ phái sinh về lãi súât và rủi ro tiền tệ được phòng ngừa
một cách nhanh chóng.
Việc phân bổ tín dụng lệch hướng và việc thiếu thị trường trái phiếu DN phát
triển cũng gây trở ngại cho những ngành và các công ty không có triển vọng để
vay mượn nước ngòai với các khỏan vay có thể hòan trả bằng ngọai tệ. Khi lòng
tin vào đồng nội tệ bắt đầu mất dần, việc tranh giành những nguồn quỹ nước ngòai
của những người đi vay thường dẫn đến khủng hỏang kinh tế.

1.3.2 Vai trò của thị trường trái phiếu đối với chính phủ:
Vì thị trường trái phiếu phát triển là một thành phần quan trọng của toàn bộ
thị trường vốn trong nước, thị trường trái phiếu rất cần thiết khi huy động vốn cho
các dự án hạ tầng, vài nhu cầu đầu tư cơ bản của quốc gia có thể bị trì hõan hay
huy động vốn không đủ khi không có sự cân đối thích hợp.
Thị trường trái phiếu một khi không đủ qui mô cũng như không tách rời với
sự can thiệp của chính phủ sẽ dẫn đến hai ảnh hưởng chủ yếu:
 Thứ nhất, ảnh hưởng của chính sách phân bổ tín dụng sai lầm của chính phủ
sẽ có xu hướng khuếch đại. Chính phủ muốn gây ảnh hưởng đối với hướng phát
triển và tăng trưởng của nền kinh tế, chính vì vậy xem xét sự kiểm sóat mạnh
thông qua hệ thống ngân hàng là cách hữu hiệu nhất. Những dự án được xem như
là hi vọng của quốc gia có thể sẵn sàng được huy động vốn bằng cách bổ sung
những ưu đãi thích hợp và biện pháp bắt buộc.
 Thứ hai, việc vắng thị trường trái phiếu có qui mô lớn sẽ làm tăng thêm sự
bất hòan hảo trong bất kỳ hệ thống tài chính nào. Chính phủ luôn muốn ưu tiên
phân bổ tín dụng dẫn đến gánh nặng của việc cho các doanh nghiệp vay được đảm
nhận bởi hệ thống ngân hàng. Hệ thống ngân hàng qui mô lớn trở nên dồi dào
nguồn vốn, dẫn đến các tiêu chuẩn lỏng lẻo và những tiêu chuẩn đầu tư nới lỏng.
Những khoản vay vượt mức dẫn đến vượt mức khả năng sản xuất, làm cho súât
sinh lợi trên nguồn vốn đầu tư thấp hơn, làm cho nhiều khỏan tiền cho vay vựơt
quá khả năng chi trả và trở thành nợ xấu. Những vấn đề khó khăn về đạo đức, sự
bất hòan hảo, thiếu minh bạch về kế tóan và trong nhiều trường hợp việc đồng lõa
cùng chính phủ có thể trì hõan những phương pháp cần thiết mãi đến khi cuộc
khủng hỏang thực sự bùng nổ. Do đó khủng hỏang kinh tế có thể xảy ra bất cứ lúc
nào.
Thị trường trái phiếu có tiềm năng mở rộng nhanh trong vài năm đầu. Ở khía
cạnh cung, việc cải tổ mới được tiến hành bởi kế hoạch 5 năm bắt đầu vào năm
2006. Vấn đề này sẽ được tiến hành bởi việc chi tiêu công để xây dựng cơ sở vật
chất, đầu tư chủ yếu vào giáo dục và thiết lập hệ thống phúc lợi chung cũng hệ
thống hưu bổng chung. Việc huy động tài chính của các khoản nợ chung tăng theo

thị trường sẽ đẩy mạnh việc cung các trái phiếu chính phủ. Về khía cạnh nhu cầu,
việc tăng từ từ về thu nhập hộ gia đình, qui mô mở rộng dân số trong độ tuổi lao
động và tập hợp tất cả khoản tiết kiệm dự định đa dạng hoá, tất cả đều dẫn đến nhu
cầu về các trái phiếu. Vấn đề này trở thành chủ điểm để phát triển thị trường vốn
rộng và sâu.
Phát triển một thị trường repo về trái phiếu chính phủ rất cần thiết để tạo điều
kiện dễ dàng cho arbitrage và tăng tính thanh khoản ở thị trường. Vì theo hiện nay,
thị trường repo liên ngân hàng có xu hướng ngắn hạn, thường dựa vào qua đêm là
chủ yếu.
1.3.3 Vai trò của thị trường trái phiếu đối với nhà đầu tư:
Nhà đầu tư bao gồm những công ty bảo hiểm, quỹ hưu bổng, nhà quản lý tài
sản, nhà môi giới và những ngân hàng. Họ đầu tư vào trái phiếu với nhiều mục
đích:
 Đa dạng hoá danh mục đầu tư để giảm rủi ro tổng thể.
 Làm cho khoảng thời gian của tài sản và nợ tương thích nhau.
 Bổ sung đầy đủ những tiêu chuẩn được thiết lập bởi chính sách phân bổ tài
sản.
 Góp phần phát triển thị trường vốn trong nước.
 Tăng cơ hội đầu tư vào những loại công cụ đầu tư khác nhau.
 Tăng cơ hội nhận được phần bù tỷ súât sinh lợi so với khoản tiền gửi tại
ngân hàng.
 Nhà đầu tư cần càng nhiều tài sản dài hạn để giảm rủi ro lãi súât
 Cần súât sinh lợi cao hơn từ những khỏan tín dụng dài hạn hơn và được đa
dạng hóa.
Nếu thị trường trái phiếu trong nước không phát triển, những nhà đầu tư tổ
chức có thể chỉ nắm giữ những giấy tờ có giá trong ngắn hạn. Những quỹ hưu
bổng ở vài nước có ưu đãi khi nắm giữ những giấy tờ ngắn hạn, những công cụ thị
trường tiền tệ có thể được giao dịch dễ dàng hơn những giấy tờ trong dài hạn.
Những nhà đầu tư dài hạn không có cùng nhu cầu thanh khoản như những người
tham gia khác ở thị trường tài chính.Chẳng hạn như họ sẽ giao dịch bằng cách mua

những trái phiếu không có tính thanh khoản với giá tương đối rẻ và bán những trái
phiếu có tính thanh khoản cao hơn. Hoạt động này làm cho thị trường trái phiếu
càng có tính thanh khoản hơn.
Một điều kiện trước tiên để thị trường trái phiếu phát triển là nó phải độc lập
với sự can thiệp của chính phủ. Những nhà đầu tư phải cảm thấy độc lập khi đưa
ra những quyết định của họ về tiêu chuẩn đơn thuần về kinh tế, như là lãi súât
mong đợi và rủi ro. Áp lực đối với nhà đầu tư trái phiếu hay giá cả trái phiếu dựa
trên chính sách ngành, cả trực tiếp và gián tiếp đều phải hiện diện.
Những thị trường trái phiếu chính phủ sâu và có tính thanh khoản sẽ cung
cấp một đường cong tỷ suất sinh lợi, đường cong này sẽ cung cấp điểm chuẩn cho
việc tái cân bằng danh mục năng động. Khi đa dạng hoá tài sản, lãi súât phi rủi ro
tại mỗi kỳ đáo hạn thiết lập một điểm chuẩn để định giá rủi ro tín dụng. Nhiệm vụ
đó được giảm để xác định phạm vi biên độ của khoản vay phi rủi ro tại mỗi kỳ đáo
hạn. Việc sử dụng các công cụ phái sinh tín dụng sẽ cho phép chia nhỏ biên độ
giữa các yếu tố cơ bản của rủi ro: rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro được
gắn với những hợp đồng cụ thể và thậm chí là khác nhau về thuế.
Phát triển thị trường trái phiếu cũng là một bước để liên kết thị trường vốn
trong nước với thị trường toàn cầu. Một thị trường trong nước hiệu quả là điều
kiện trước tiên cho giai đoạn kiểm soát vốn an toàn. Các ngân hàng thương mại sẽ
có thể cung cấp những công cụ phòng ngừa cho các hoạt động giao dịch nước
ngoài và giúp các nhà đầu tư dễ dàng hơn khi đa dạng hoá khi đầu tư ra nước
ngoài. Trái lại, sẽ có thể vay mượn ở nước ngoài bằng đồng nội tệ, giảm sự lệ
thuộc đồng USD. Với một tài khoản vốn đa dạng hoá và mở rộng hơn, sẽ có thể
chuyển đến một cơ chế tỷ giá linh hoạt hơn.
Tóm lại, thị trường trái phiếu một khi phát triển sẽ làm tăng sự minh bạch về
kế toán, xuất hiện nhiều nhà phân tích tài chính, những tổ chức đánh giá về tín
dụng, một phạm vi rộng về những chứng khoán nợ và những công cụ phái sinh đòi
hỏi phân tích tín dụng phức tạp, những thủ tục hiệu quả về tính thanh khoản và tái
cấu trúc doanh nghiệp khi công ty không có khả năng thanh toán khi đến hạn. Để
thị trường trái phiếu phát triển thì hệ thống báo cáo tài chính cho các công ty cần

phải có liên quan, đúng thời gian và đáng tin cậy.
1.3.4 Vai trò của ngân hàng đối với sự phát triển thị trường trái phiếu:
Trong những hệ thống tài chính phát triển, huy động tài chính bằng trái phiếu
và tín dụng ngân hàng luôn đầy đủ. Những hệ thống tài chính châu Á thì chủ yếu
thiên về những ngân hàng. Đặc điểm này là do sự phát triển quá nhanh của chính
phủ về việc nắm giữ tiền tiết kiệm quá nhiều. Chính phủ đã nhận ra rằng thật là
thuận tiện để tạo điều kiện cho những ngân hàng thương mại mở rộng hệ thống chi
nhánh. Bằng cách này, những ngân hàng cũng có thể dùng tiền tiết kiệm từ xa và
mở rộng khoản vay với mức lãi súât ổn đinh ở cả khu vực tư và nhà nước trong
nền kinh tế đóng. Mức độ đầu tư cao, dẫn đến sự phát triển vững mạnh, có thể huy
động tài chính với chi phí tối thiểu. Ở những hệ thống này, những ngân hàng được
bảo vệ chống lại sự cạnh tranh từ thị trừơng vốn. Việc phát hành khoản nơ ngắn
hạn có thể cạnh tranh với tiền gửi ngân hàng thì thường bị hạn chế và việc phát
hành trái phiếu bởi doanh nghiệp bị giới hạn.
Ngân hàng có thể sẽ phải tổng hợp những khoản nợ vay ngân hàng thành một
món lớn để bán ở thị trường – đây chính là chứng khoán hoá. Điều này rất tốt cho
việc cầm cố nhà và tín dụng cho khách hàng, ở một vài nền kinh tế phát triển thì
cả hai khu vực này phát triển mạnh gần đây, vì những quyết định về định giá các
khoản vay này có xu hướng không phụ thuộc vào bất kỳ kiến thức hay mối quan
hệ đặc biệt nào, và không dựa trên những tiêu chuẩn có chủ đích (như là thu nhập,
định giá tài sản bảo chứng ). Do quá trình này phát triển, những công cụ nợ mới
xuất hiện ở thị trường vốn.
Hơn nữa, sự phát triển có nghĩa là giá cả bắt nguồn từ những thị trường này
có thể áp dụng để đánh giá những khoản vay ngân hàng. Sự phân biệt giữa trung
gian thông qua ngân hàng (điển hình là mua những khoản nợ dài hạn không có
tính thanh khoản nắm giữ ở bảng cân đối kế toán mãi đến kỳ đáo hạn) và thông
qua thị trường vốn (nơi mà tài sản được giao dịch ở thị trường thứ cấp) ngày càng
giảm.
Một câu hỏi đặt ra là vai trò ngân hàng như thế nào trong những thị trường
trái phiếu phát triển? Việc phát hành trái phiếu ngày càng tăng sẽ đem lại lợi

nhuận cho ngân hàng. Đầu tiên, vấn đề: “đem lại kinh doanh tốt nhất” phát sinh rất
lớn là do cơ chế điều chỉnh có thể bị thay đổi. Nếu những ngân hàng bị buộc nắm
giữ khoản vốn vượt mức so với những khoản vay mang lại rủi ro thấp cho người
vay, điều này có thể làm cho những người vay có uy tín sẽ vay ở ngân hàng. Điều
này có thể không hiệu quả. Nó có thể làm tăng rủi ro hệ thống khi tập trung những
rủi ro nhiều về phía ngân hàng. Thứ hai, ngân hàng và thị trường vốn ngày càng có
nhiều mối quan hệ hơn.
Một vấn đề nữa là liệu rằng việc chuyển tiếp đến lãi súât trái phiếu thả nổi
theo thị trường có nghĩa là những rủi ro của ngân hàng liên quan đến những rủi ro
về lãi súât không phòng ngừa ngày càng tăng. Đây là vấn đề phản ánh việc thiếu
các công cụ phòng ngừa lãi suất ở những thị trường mới nổi.
 Do đó, ta thấy hiện nay có nhiều nguyên nhân mà một tổ chức có thể phát
hành nợ hơn là cổ phiếu:
 Nợ có thể là nguồn tiền huy động rẻ hơn là phát hành cổ phiếu.Bởi vì nó
tương đối an toàn, rủi ro đầu tư thấp, nhà đầu tư không mong đợi đạt được TSSL
cao như là khi đầu tư bằng cổ phiếu. Do đó, tổ chức sẽ trả ít lãi súât hơn là cổ tức.
 Nợ không liên quan đến việc làm lõang việc sở hữu doanh nghiệp. Việc
phát hành nợ không cần phải thống nhất tất cả quyền biểu quyết của chủ sở hữu.
 Phát hành nợ thì nhanh hơn là cổ phiếu.
 Các tổ chức có thể hợp nhất kỳ hạn nợ phục vụ cho nhu cầu huy động vốn
của họ


CHƯƠNG 2
TỔNG QUAN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU Ở CÁC NƯỚC
2.1 Tổng quan thị trường trái phiếu châu Á:
Tổng giá trị trái phiếu đang lưu hành của các quốc gia châu Á ( bao gồm ở cả
thị trường vốn quốc gia và quốc tế) tăng mạnh đạt gần 1100 tỷ USD vào cuối năm
2001, bằng hơn một nửa so với tổng giá trị trái phiếu đang lưu hành ở tất cả các
quốc gia mới nổi. Tuy nhiên, giá trị trái phiếu đang lưu hành ở tất cả các quốc gia

mới nổi cũng chỉ chiếm 5.6% thị trường trái phiếu toàn cầu. So sánh với các khu
vực khác, khu vực châu Á mới nổi phát hành trái phiếu quốc tế ít hơn (13% tổng
lượng trái phiếu quốc tế của châu Á) và phát hành nhiều trái phiếu chính phủ hơn ở
thị trường trong nước hơn, tuy nhiên cũng không phải là cao hơn (50%), và thị phần
khu vực tư lớn: 20% cho các tổ chức tài chính và 17% cho các doanh nghiệp. Tương
tự như các thị trường: khoảng 49% là trái phiếu chính phủ trong nước, 22% là trái
phiếu của các tổ chức tài chính, 11% là trái phiếu doanh nghiệp và khoảng 18% là
trái phiếu quốc tế. Ngược lại ở các nước châu Mỹ La Tinh thì phát hành trái phiếu
quốc tế nhiều hơn ( 32% được nắm giữ bởi các nhà đầu tư quốc tế) và trái phiếu
chính phủ quốc gia chiếm 55%, và chỉ có một phần nhỏ dành cho khu vực tư (
khoảng 13%). Tương tự, các nước Đông Âu, Trung Đông, Châu Phi cũng phát hành
nhiều trái phiếu quốc tế hơn (23%) và trái phiếu chính phủ ở thị trường trong nước
(73%) và chỉ có 4% dành cho khu vực tư.
Xét theo tương quan quy mô thị trường trái phiếu trong nước với GDP, thì
khu vực châu Á bằng khoảng 38%, trong đó, thị trường trái phiếu doanh nghiệp
chiếm 8%. Ngược lại, thị trường trái phiếu Mỹ bằng 150% GDP và thị trường trái
phiếu doanh nghiệp bằng khoảng 24%, thị trường trái phiếu doanh nghiệp Nhật
Bản bằng 17% GDP của Nhật, trong khi ở Úc thì thị trường trái phiếu doanh
nghiệp bằng khoảng 10% GDP.
Ở Châu Á, thị trường trái phiếu doanh nghiệp lớn nhất là Malaysia ( bằng gần
51% GDP năm 2001), và Hàn Quốc ( 28% GDP). Chi phí phát hành trái phiếu ở
Malaysia thấp hơn chi phí vay ngân hàng. Việc phát hành trái phiếu đã dần thay thế
bắt kịp hoạt động tín dụng ngân hàng trong việc tài trợ cho hoạt động của doanh
nghiệp kể từ năm 1997. Còn ở Hàn Quốc, phát hành trái phiếu doanh nghiệp lại tập
trung giữa các tập đoàn kinh tế lớn và được đảm bảo bởi các ngân hàng thương mại
thông qua các công ty tín thác đầu tư thuộc sở hữu của ngân hàng. Sự liên thông này
dễ dẫn đến sự sụp đổ của thị trường trái phiếu khi mà các tập đoàn kinh tế này phá
sản. Các nhà chính quyền đã một lần nữa ủng hộ việc xây dựng thị trường trái phiếu
trong nước suốt thời kỳ bất ổn kể từ năm 1997-1998.
Bên cạnh việc phát hành nhiều hơn các loại chứng khoán chính phủ, các chính

phủ ở nhiều quốc gia đang phát triển được kiến nghị là cần bổ sung thêm nhiều
thước đo nữa để cải thiện hệ thống cơ sở hạ tầng thị trường, bao gồm cả việc thành
lập các nhà kinh doanh sơ cấp, nâng cao hoạt động giao dịch, hệ thống thanh toán
bù trừ. Hoạt động của thị trường thứ cấp được đo lường bằng khối lượng giao dịch
đã phát triển mạnh trong các năm gần đây. Sự phát triển của hoạt động giao dịch
trong thị trường thứ cấp là điều đáng chú ý nhất ở Malaysia và Hàn Quốc.
Mặc dù thị trường trái phiếu của châu Á đã có những bước phát triển đáng
khích lệ nhưng vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề, nổi cộm nhất là các vấn đề các tiêu
chuẩn của một thị trường trưởng thành chưa phát triển: quy mô, thanh khoản, pha
loãng và độ sâu. Vấn đề chính vấp phải là một thị trường trái phiếu hiện đại đòi hỏi
các quy tắc chuẩn mực quốc tế tốt nhất trong phạm vi rộng ở các lĩnh vực liên quan.
Khung pháp luật và điều chỉnh cần được chuẩn hóa nhằm xây dựng nền tảng và hạ
tầng cơ sở thị trường, hỗ trợ thị trường phát triển như hoạt động repo, phái sinh
cũng như là sự hiện diện của các nhà đầu tư trưởng thành, có kinh nghiệm. Thực tế
thách thức chính đối với sự phát triển của thị trường trái phiếu châu Á là đạt đến
một mức cạnh tranh nhất định trên toàn diện các lĩnh vực, nhất là khi thị trường trái
phiếu châu Á thanh khoản không tốt, đặc biệt là trái phiếu doanh nghiệp. Chúng vẫn
tồn tại gián đoạn và cô lập lẫn nhau, và trong trường hợp của Trung Quốc, với cùng
một quốc gia. Ở Trung Quốc, sự gián đoạn tồn tại giữa nhà đầu tư, các công cụ đầu
tư và cơ chế giao dịch. Nhà đầu tư ở một số các quốc gia không được phép được
đầu tư ra thị trường ngoài và nhà đầu tư quốc tế phải đối mặt với rất nhiều khó khăn
và chi phí cao trong việc phòng ngừa rủi ro tỷ giá khi đầu tư vào các trái phiếu trong
nước. Đồng thời có rất nhiều tiêu chuẩn bị thiếu trong lĩnh vực ký hợp đồng trái
phiếu, hợp đồng bảo lãnh phát hành, các quy tắc thanh toán bù trừ, các quy định về
thị trường và thuế. Thiếu cả các vấn đề về sự minh bạch liên quan quản trị xung đột
doanh nghiệp, khó khăn trong việc định giá rủi ro tín dụng, sự chậm trễ trong việc
xây dựng văn hóa tín dụng. Cần phải nhận thức được sự ảnh hưởng của các yếu tố
này đến quyết định đầu tư, thay vì chỉ chăm chăm quan tâm đến vấn đề phân tích tín
dụng một cách nghiêm ngặt. Mặc dù tương quan thì một lượng lớn trái phiếu chính
phủ sẽ giúp tạo ra một tham số chuẩn ( benchmark) cho thị trường trái phiếu trong

nước, tuy nhiên nhiều nhà phát hành trái phiếu doanh nghiệp có thể không dùng đến
tham số chuẩn này.
Nói chung, các vấn đề vấn tồn tại và vươn tới một thị trường trái phiếu phát
triển vẫn còn xa, các nhà làm chính quyền vẫn cần phải tập trung bổ sung các công
cụ, chuẩn mực, tạo điều kiện cho cả hai thị trường sơ cấp và thứ cấp.
2.2 Kinh nghiệm phát triển thị trường trái phiếu ở một số quốc gia châu Á
điển hình:
2.2.1 Thị trường trái phiếu Malaysia
Thị trường vốn của Malaysia đang ngày một phát triển mạnh mẽ, cả về quy
mô thị trường lẫn các loại công cụ tài chính và tính hiệu quả. Qúa trình phát triển
này đang ngày càng khẳng định vai trò của mình đối với sự tăng trưởng kinh tế.
Nói chung, sở dĩ thị trường vốn Malaysia có được sự phát triển như vậy là nhờ vào
hệ thống cơ sở hạ tầng thị trường tốt, hệ thống luật pháp đầy đủ và toàn diện,
khung pháp lý rõ ràng. Điều kiện cơ bản cho sự phát triển của thị trường vốn chính
là sự ổn định về chính trị và các chính sách kinh tế vĩ mô rõ ràng, từ đó mới có thể
tạo ra một môi trường hấp dẫn cho tăng trưởng kinh tế với sự ổn định về giá cả.
Điều kiện quan trọng không kém chính là tỷ lệ tiết kiệm cao và có nền tảng nhà
đầu tư trong nước lớn.
THỊ TRƯỜNG NỢ ĐẠO HỒI
4 4.3 5
6.9
10
15.1
20
34.7
50.2
62.7
76.8
82.7
0

20
40
60
80
100
120
1999 2000 2001 2002 2003 2004
Năm
tỷ RM
Tư nhân
Nhà nước
TỔNG LƯỢNG TRÁI PHIẾU ĐANG LƯU HÀNH
103
117
125
149
175
142
161
153
179
188
0
20
40
60
80
100
120
140

160
180
200
2000 2001 2002 2003 2004
Năm
tỷ RM
Khu vực nhà nước
Khu vực tư

Nguồn: Báo cáo hàng năm BNM 2004









Nguồn: Thống kê BNM
Thị trường trái phiếu Malaysia là một trong số những thị trường trái phiếu
phát triển hơn ở trong khu vực: cả về sự gia tăng quy mô thị trường, hoạt động
phát hành và giao dịch trái phiếu doanh nghiệp, trái phiếu chính phủ năng động,
việc giới thiệu các công cụ tài chính mới (ví dụ như các chứng khoán được đảm
bảo bằng tài sản) và những tiến bộ của hệ thống luật pháp là những điều đáng ghi
nhận trong nền kinh tế năng động này.
Năm 2004, Ngân hàng Trung Ương Malaysia, Bank Negara Malaysia (
BNM), đã xem lại hướng dẫn việc phát hành lần đầu đối với các chứng khoán có
tài sản đảm bảo, song song đó là việc phát hành thêm các hướng dẫn đối với các
chủ thể đại diện định giá trái phiếu và hệ thống đăng ký đấu giá điện tử năm 2006.

Tháng 4/2007, BNM đã xem lại hướng dẫn của mình đối với việc phát hành các
sản phẩm cấu trúc.
Trái phiếu theo kiểu đạo Hồi xuất hiện và đóng một vai trò lớn trong sự phát
triển thị trường vốn của Malaysia.
Cả thị trường trái phiếu doanh nghiệp và trái phiếu chính phủ đều là những
thị trường năng động đối với cả khu vực thị trường trái phiếu truyển thống lẫn thị
trường trái phiếu đạo Hồi. Nhà đầu tư trong nước và nước ngoài có thể mua và bán
các công cụ nợ truyền thống cũng như các công cụ nợ theo kiểu đạo Hồi thông qua
sàn giao dịch và thị trường phi tập trung (OTC).
Các quy định ở thị trường thứ cấp thường xuyên được nới lỏng. Các quy định
đối với việc phòng ngừa rủi ro được tự do hóa để cho phép các nhà đầu tư trong
nước và ngoài nước thuận tiện trong việc thực hiện các hợp đồng về phòng ngừa rủi
dưới sự cho phép của các ngân hàng ngoài nước. Ở Malaysia, hầu hết các chứng
khoán đều không phải là chứng khoán tạm thời, với hệ thống chuyển nhượng chứng
Tỷ lệ tăng trưởng
1999 2000 2001 2002 2003 2004
%
0 62.5 41.7 26 24.8 12.6
khoán tự động thông qua hệ thống chuyển nhượng tự động các quỹ và chứng khoán
ngay tại chỗ của BNM. Các hướng dẫn thực hiện chuyển nhượng được thực hiện
dựa trên nền tảng “trade-by- trade”. Năm 2005, BNM và Chính quyền tiền tệ Hồng
Kông đã thiết lập kết nối hệ thống thanh toán giá trị lớn giữa Malaysia và Hồng
Kông , Trung Quốc. Việc hệ thống chuyển nhượng tự động các quỹ và chứng khoán
của BNM ngay tại chỗ và hệ thống thanh toán ròng ngay tại chỗ bằng đồng đô la
Mỹ của Hồng Kông, Trung Quốc kết nối với nhau là sự kết nối về thanh toán vượt
biên giới ( payment- versus payment) trong khu vực.
Năm 2006, BNM đã thành lập trung tâm thông tin trái phiếu - một trung tâm chứa
đựng tất cả các thông tin về trái phiếu ở Malaysia. Việc thực hiện chứng khoán
hóa ở Malaysia được thực hiện bắt đầu từ năm 1986 khi chính phủ thành lập Công
ty Cầm cố quốc gia ( Cagamas), Chủ thể phát hành các công cụ chứng khoán hóa

lớn nhất ở Malaysia. Chức năng của nó cũng giống như một pháp nhân đặc biệt
(Special Purpose Vehicle) giữa các chủ thể cho vay cầm cố nhà và các nhà đầu tư
trong việc tài trợ vốn dài hạn. Các chứng khoán được phát hành bởi Cagamas
được gọi là “trái phiếu Cagamas” ở thị trường trái phiếu trong nước.
2.2.2 Thị trường trái phiếu Singapore:
Thị trường trái phiếu Singapore đã và đang trở thành một thị trường vốn mở
và quan trọng ở châu Á trong hơn 1 thập kỷ qua. Nó tăng trưởng cả về mặt quy
mô, mức độ sâu rộng và tính thanh khoản.
Trước năm 1998, thị trường trái phiếu của Singapore rất nhỏ và kém phát
triển. Chính phủ Singapore đã quản lý thặng dư ngân sách và không có nhu cầu tăng
vốn trong thị trường vốn. Ủy ban chứng khóan chính phủ Singapore (SGS) phát
hành chủ yếu là để đáp ứng nhu cầu của ngân hàng về các tài sản có tính thanh
khỏan thỏa theo những yêu cầu của pháp luật. Vào thời điểm này, SGS đã thành lập
chỉ có 7 năm. Do đó, thị trường SGS tương đối nhỏ và thị trường thứ cấp gần như là
không sôi động. Do thiếu vắng đường cong lợi suất có tính thanh khỏan, khu vực tư
nhân miễn cưỡng rút ra khỏi thị trường nợ, hầu hết các doanh nghiệp đều dựa trên
các khỏan vay ngân hàng và cổ phiếu để đáp ứng những nhu cầu về vốn.
Vào tháng 2 năm 1998, MAS đã bắt đầu 1 chuỗi các phương pháp để phát
triển thị trường trái phiếu của Singapore. Vài mục tiêu là:
(a) Tạo ra đường cong TSSL chuẩn ở chính phủ đáng tin cậy để khuyến khích việc
phát hành ở khu vực tư nhân
(b) Tạo điều kiện cho những nhà phát hành, cả trong nước và nước ngòai, tới
những thị trường thứ cấp và sơ cấp
(c) Thiết lập cơ sở vật chất để tạo điều kiện bù trừ chứng khoán và tiền – clearing-
cũng như tạo tính thanh khỏan cho SGS và trái phiếu DN dựa trên cơ sở thanh
toán ngay khi giao nhận
Sự phát triển thị trường nợ Singapore
Phạm vi mà những phương pháp phát triển thị trường SGS đã đưa ra thành
công khi thiết lập 1 đường cong lợi suất chuẩn có tính thanh khỏan hơn. Do đó, thị
trừơng trái phiếu chính phủ phát triển chủ yếu về qui mô, chiều sâu và tính thanh

khỏan. Điều này dẫn đến SGS bao gồm chỉ số trái phiếu chính phủ thế giới của JP
Morgan cũng như chỉ số hợp nhất tòan cầu của Lehman Brother. Vào tháng 1 năm
2005, Singapore đã trở thành quốc gia chấu Á đầu tiên ngoài Nhật Bản để tham
gia vào chỉ số trái phiếu chính phủ tòan cầu - Citigroup World Government Bond
Index , đó chính là dấu hiệu về sự phù hợp của SGS đối với những nhà đầu tư trên
tòan cầu.
Thị trường nợ DN của Singapore cũng phát triển mạnh sau thị trường trái
phiếu chính phủ (đồ thị C). Nợ DN chưa trả vào năm 2004 là 123 tỷ S$, gấp 5 lần
khỏang nợ vào năm 1995. Tổng phát hành trái phiếu DN vào năm 2004 là 78.7 tỹ
S$, trong đó 21.7 tỷ S$ là nợ SGD và 57 tỷ S$ bằng các đồng tiền khác. Những
phương pháp để tự do hóa chính sách phi quốc tế của đồng tiền Singapore dẫn đến
việc phát hành ra nước ngòai chiếm nhiều hơn 11% tổng phát hành nợ DN vào
năm 2004.
Singapore cũng có kinh nghiệm về sự đa dạng hóa nhiều hơn những nhà phát
hành trong thị trường. Trước năm 1998, những công ty kinh doanh bằng tài sản
thật thì phát triển hơn thị trường trái phiếu DN SGD, chiếm khỏang 70% tổng
phát hành. Bây giờ, tập hợp những người phát hành thì trở nên cân đối hơn (đồ
thị D). Những nhà phát hành từ các ngành khác nhau như cơ khí, sản xuất, thức
ăn,logistics và vận tải.
Sự phát triển của thị trường nợ cấu trúc
Một trong những xu hướng quan trọng mà chúng ta đang xem xét là sự phát
triển của các sản phẩm nợ cấu trúc. Theo TSSL quá khứ thấp đối với các CK
vanila thuần nhất, tỷ lệ các phát hành có cấu trúc so với các phát hành vanilla
thuần nhất tăng dần. Để tạo điều kiện cho sự phát triển các sản phẩm có cấu trúc
như là 1 dạng thay thế của huy động tài chính, chỉ dẫn về những chứng khoán thế
chấp cho các ngân hàng vào năm 2002. Để phát triển nhà đầu tư, chúng ta cũng
giới thiệu những chỉ dẫn đầu tư cho các công ty bảo hiểm, cho phép họ đầu tư vào
công cụ phái sinh tín dụng để phòng ngừa và quản lý danh mục.
Nợ cấu trúc chiếm gần như 60% tổng phát hành nợ SGD vào năm 2004. Nó bao
gồm các sản phẩm như là nợ chứng khoán hoá tài sản, nợ liên quan đến tín dụng,

nợ liên quan đến cổ phiếu, nợ chuyển đổi và những cấu trúc khác bao gồm tổng
giấy bạc và giấy bạc tích luỹ (đồ thị E). Khi tăng mức độ phức tạp và chấp nhận
rủi ro cũa nhà đầu tư trong nước, đây chính là yếu tố khi phát triển bề rộng của thị
trường nợ.

Nợ chứng khóan hoá tài sản chiếm hơn phân nửa phát hành nợ cấu trúc bằng
SGD vào năm 2004. Chứng khoán có thu nhập cố định định danh bằng SGD được
phát hành thông qua các pháp nhân mục đích đặc biệt SPVs đã tăng từ việc chiếm
chỉ từ 30% khoản nợ được phát hành vào năm 2001 đến trên 47% vào năm 2004
(đồ thị D). Thị trường cũng giới thiệu về những sản phẩm lai tạp với tín dụng được
bảo vệ chủ yếu là do kết hợp với nợ và cổ phiếu.
Khi bán chứng khóan theo cách mới vào tháng 4 năm nay, chính phủ đã ủng
hộ sự cải tiến của cơ chế cho vay SME ACCESS- cơ chế này sẽ giúp SMEs ( các
công ty vừa và nhỏ) rút khỏi thị trường vốn bằng cách chứng khóan hóa tài sản..
Cùng chung với 1 danh mục đa dạng hóa tốt của tín dụng SME , cơ chế đó được
mong đợi sẽ tạo ra giá trị của những khỏan cho vay SME cho chứng khóan hóa là
300 triệu S$. Việc chứng khóan hóa của những khỏan cho vay SME ở thị trường
Nhật và Hàn cũng đã đạt những thành công.













CHƯƠNG 3
MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU VIỆT
NAM
3.1 Tồn tại của thị trường trái phiếu Việt Nam hiện nay:
Thị trường trái phiếu Việt Nam gồm trái phiếu chính phủ, trái phiếu doanh
nghiệp, trái phiếu chính quyền địa phương, tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi
và các chứng khoán nợ có giá trị. Bên cạnh đó, thị trường vốn Việt Nam vẫn được
xem là nhỏ về qui mô cũng như chưa có sự chuẩn hoá. So với Malaysia, Việt Nam
có tốc độ tăng trưởng GDP khá ổn định, có xu hướng càng tăng so với các nước
trong khu vực cũng như thị trường chứng khoán hiện nay đang có nhiều biến
động, chính vì thế trái phiếu trở nên thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, như là một
kênh tiềm năng để đẩy mạnh phát triển thị trường vốn không chỉ trong khu vực
chính phủ mà còn cho khu vực tư nhân:
Đóng góp của từng trái phiếu như sau
Bảng: Quy mô đóng góp trong GDP của trái phiếu
Biểu đồ thể hiện quy mô trái phiếu
với % GDP năm 2007
0
2
4
6
8
10
12
14
16
quý 1 quý 2 quý 3 quý 4
Qúy
Quy mô trái phiếu trong GDP
Trái phiếu doanh nghiệp

Trái phiếu chính phủ

Đóng góp của thị trường trái phiếu vào sự phát triển nền kinh tế qua tốc độ
tăng trưởng GDP rất thấp so với các nước trong khu vực. Qua đó, ta thấy thị
trường trái phiếu Nhật, Hàn Quốc, Singapore và Malaysia chiếm tỷ trọng rất lớn.
Trái phiếu chính phủ ở Việt Nam vẫn chiếm 1 tỷ trọng tương đối cao trong
tổng cơ cấu đầu tư tài chính :


13%
21%
14%
37%
11%
3%
1%
Trái phiếu chính phủ
Tư nhân
Những người sử dụng
ODA
Ngân sách
Ngân hàng TM nhà
nước
khác

Nguồn: Infrastructure Strategy - Cross-sectoral issues

×