Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

skkn nâng cao chất lượng dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4 thcs ba đình bỉm sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.1 MB, 22 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỈM SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY VĂN MIÊU TẢ
CHO HỌC SINH LỚP 4
Người thực hiện : Thiều Thị Sáu
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Ba Đình
SKKN thuộc lĩnh vực: Tiếng Việt

THANH HÓA NĂM 2013

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Với tư cách là môn học công cụ, môn Tiếng Việt có vai trò hết sức quan
trọng trong giao tiếp đời sống cũng như trong học tập của học sinh. Đặc biệt đối
với học sinh tiểu học vì tiếng Việt là ngôn ngữ giao tiếp của trẻ. Thông qua môn
Tiếng Việt các em nắm được kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Từ đó mở rộng vốn
ngôn ngữ và sự hiểu biết về ngôn ngữ. Tiếng Việt là chìa khoá để mở cánh cửa
tri thức, là điều kiện phương tiện để học tốt các môn học khác.
Môn Tiếng Việt ở nhà trường tiểu học được phân chia thành nhiều
phân môn như: Tập đọc, Chính tả, Tập viết, Luyện từ và câu, Kể chuyện,
Tập làm văn. Mỗi phân môn đều có nhiệm vụ riêng của nó, song đều có
một đặc điểm chung là hình thành và phát triển 4 kĩ năng: nghe, nói, đọc,
viết.
Trong môn Tiếng Việt thì phân môn Tập làm văn có vị trí rất quan trọng
vì nó tận dụng các hiểu biết và kĩ năng về tiếng Việt do các phân môn khác rèn
luyện hoặc cung cấp đồng thời góp phần hoàn thiện chúng. Học sinh vận dụng
các kiến thức tiếng Việt khi làm bài văn, trong quá trình vận dụng này, các kiến
thức đó hoàn thiện và nâng cao dần. Phân môn Tập làm văn rèn luyện cho học
sinh kĩ năng sản sinh văn bản. Nhờ vậy, tiếng Việt không chỉ là một hệ thống


cấu trúc được xem xét từng phần, từng mặt qua từng phân môn mà trở thành một
công cụ sinh động trong quá trình giao tiếp, tư duy, học tập.
Khi học sinh làm một bài văn tức là học sinh đã thực hiện một hoạt động
giao tiếp. Mỗi bài văn là một sản phẩm không lặp lại của từng học sinh trước đề
bài. Do đó có thể nói, việc học làm văn, cái riêng của các em được bộc bạch rõ
nét nhất, trọn vẹn nhất. Như vậy dạy tập làm văn là dạy cho các em tập suy nghĩ
riêng, tập sáng tạo, tập thể hiện trung thực con người mình. Điều đó thực sự
quan trọng trong chiến lược đào tạo con người mà Đảng và Nhà nước vạch ra.
Hiện nay, giáo viên tiểu học còn rất khó khăn khi dạy tập làm văn, đặc biệt
là dạy theo tinh thần quan tâm đến việc tổ chức, hướng dẫn học sinh làm
bài tập. Làm thế nào để dạy tập làm văn đạt kết quả cao? Đó chính là băn
khoăn trăn trở của nhiều nhà giáo dục, của các giáo viên tiểu học đang trực tiếp
giảng dạy.Với tư cách là một giáo viên tiểu học muốn đóng góp một phần nhỏ
vào việc nâng cao chất lượng dạy tập làm văn. Đó cũng là hành trang vững
chắc giúp tôi có thể dạy tốt phân môn Tập làm văn nói riêng và bộ môn Tiếng
Việt nói chung.
Xuất phát từ những lí do nêu trên, tôi đã chọn đề tài: "Dạy văn miêu tả
cho học sinh lớp 4 '' rất mong được sự chỉ bảo, giúp đỡ của các nhà chuyên
môn và các bạn đồng nghiệp.
2
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
Dạy học tiếng Việt trong trường Tiểu học nói chung và dạy phân môn Tập
làm văn nói riêng là một vấn đề vô cùng quan trọng. Nhất là phân môn Tập làm
văn. Đây là phân môn tổng hợp của tất cả các phân môn Tiếng Việt khác ở bậc
Tiểu học: Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu. Mục tiêu của cả
người dạy và người học là “ có cảm xúc” trong mỗi tiết học văn. Người giáo
viên giúp cho các em cảm nhận được cái hay cái đẹp trong các bài văn, bài thơ,
cuộc sống xung quanh và thể hiện “cái đẹp” đó bằng ngôn ngữ giàu hình ảnh.
Trong chương trình lớp 4 “Văn miêu tả chiếm thời lượng lớn.Vì vậy để dạy tốt

phân môn này, người giáo viên cần nắm vững các kiến thức sau:
1. Văn miêu tả là gì ?
Miêu tả là dùng ngôn ngữ để vẽ lại một con người hay một sự vật nào đó.
Văn miêu tả là dùng ngôn ngữ có hình ảnh và cảm xúc để vẽ lại một con
người, một đồ vật, một con vật hay một phong cảnh… nào đó. Ở lớp 4, các em
sẽ tập làm văn miêu tả đồ vật,cây cối,con vật.
2.Tìm hiểu đề bài
- Mỗi bài văn đều gắn với một đề bài : làm văn là thực hiện những yêu
cầu mà đề bài đặt ra.
- Xác định phạm vi, đối tượng miêu tả.
- Xác định những điểm trọng tâm mà đề bài yêu cầu cần phải tả.
3. Quan sát sự vật
- Quan sát là dùng giác quan ( chủ yếu là mắt) để tìm hiểu đối tượng miêu
tả.
- Quan sát từ xa đến gần,từ ngoài vào trong, từ khái quát đến cụ thể, từ
hình dáng đến hoạt động hoặc ngược lại.
4. Lựa chọn và miêu tả
- Đặc tả : là tả trực tiếp vào những bộ phận đặc biệt để làm nổi bật bản
chất sự vật.( Ví dụ hoa phượng đỏ gắn với mùathi…)
- Tả chấm phá : là tả đủ các bộ phận của sự vật nhưng chỉ bằng vài nét
chính và đơn sơ nhất, sau đó khái quát lại để người đọc có thể hình dung ra toàn
bộ sự vật.
5. Cấu trúc chung của bài văn miêu tả và cách viết từng phần
5.1 Phần mở bài : Giới thiệu đối tượng miêu tả.
5.2 Phần thân bài : miêu tả đối tượng từ bao quát đến chi tiết với những
đặc điểm nổi bật qua sự cảm nhận của bản thân.
5.3 Phần kết bài : kết luận về đối tượng miêu tả. Nêu đánh giá hoặc cảm
nhận của người viết về đối tượng đó.

3

.II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU:
1. Thực trạng
Dạy tập làm văn ở tất cả các khối nói chung đều chưa đạt kết quả tốt, phần lớn số
giáo viên khi được hỏi đều cho rằng Tập làm văn là tiết khó dạy, khó thành công.
Chất lượng của các giờ Tập làm văn nói chung đều đạt kết quả chưa cao.
Điều tra học sinh ở lớp 4 ở trường tiểu học Ba Đình – Bỉm Sơn – Thanh Hoá
thấy bài viết của các em ít có sự sáng tạo, hay rập khuôn theo một mô típ sẵn có
nào đó, có những bài làm không giống bài văn mà giống một bài khoa học hoặc
trình bày, sắp xếp ý lộn xộn.
Kết quả của thực trạng trên
Kết quả điều tra một bài viết ở 2 lớp 4A và 4C trường tiểu học Ba Đình-
Bỉm Sơn- Thanh Hóa
Đề bài : Tả một đồ chơi mà em thích.
Lớp
Số lượng
bài chấm
Bài viết đúng yêu
cầu, có hình ảnh
Giống bài
khoa học
Bài chưa đạt
yêu cầu
4A 25 3 17 5
4B 25 4 16 5
Từ thực trạng trên, để việc dạy và học đạt hiệu quả hơn, tôi đã mạnh dạn
cải tiến phương pháp dạy học Tập làm văn miêu tả ở lớp 4. Đối tượng nghiên
cứu và áp dụng là học sinh khối lớp 4 trường tiểu học Ba Đình.
III. CÁC GIẢI PHÁP VÀ BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
1. Các giải pháp thực hiện
- Xác định nhiệm vụ của phân môn Tập làm văn lớp 4

- Tìm hiểu nội dung của phân môn TLV lớp4. Phân loại từng kiểu bài rèn
luyện kĩ năng về loại văn miêu tả có trong chương trình Tập làm văn lớp 4.
- Tìm hiểu những thuận lợi và khó khăn của giáo viên và học sinh khi
thực hiện việc dạy và học TLV ở lớp 4 nói chung và văn miêu tả ở lớp 4 nói
riêng.
- Lựa chọn cách dạy phù hợp để giúp nâng cao chất lượng TLV lớp 4
phần văn miêu tả.
- Khảo sát bài làm của học sinh để nắm chất lượng học văn miêu tả.
2. Các biện pháp tổ chức thực hiện
2.1. Xác định nhiệm vụ của phân môn Tập làm văn lớp 4
Nhiệm vụ của phân môn Tập làm văn lớp 4 là:
4
- Trang bị kiến thức và rèn luyện các kĩ năng làm văn.
- Góp phần cùng các môn học khác mở rộng vốn sống, rèn luyện tư duy
lô- gíc, tư duy hình tượng ; bồi dưỡng tâm hồn, xúc cảm thẩm mĩ, hình thành
nhân cách học sinh.
2.2. Tìm hiểu nội dung của phân môn Tập làm văn lớp 4 phần văn miêu
tả. Phân loại từng kiểu bài rèn luyện kĩ năng có trong chương trình ở lớp 4
Những nội dung kiến thức và kĩ năng làm văn dạy ở lớp 4 luôn quán
triệt tinh thần tích cực hoá hoạt động học tập: học sinh được tiếp nhận kiến
thức thông qua yêu cầu thực hành, luyện tập phù hợp với tâm sinh lí lứa
tuổi
a) Cấu trúc chương trình phần văn miêu tả ở lớp 4
Loại văn bản
Số tiết dạy
Học kì I Học kì II Cả năm
* Miêu tả 7 23 30
- Khái niệm miêu tả 1 4 1
- Miêu tả đồ vật 6 11 10
- Miêu tả cây cối 8 11

- Miêu tả con vật 8
b) Các kiến thức làm văn phần văn miêu tả :
Thông qua những giờ dạy văn miêu tả, học sinh lớp 4 được trang bị một số
hiểu biết ban đầu về những đặc điểm chính của các loại văn bản ấy, cụ thể như
sau:
- Thế nào là miêu tả ?
- Miêu tả đồ vật
- Miêu tả con vật
- Miêu tả cây cối
c) Về kĩ năng, các bài học rèn cho học sinh những kĩ năng sản sinh
ngôn bản cụ thể như sau :
- Kĩ năng định hướng hoạt động giao tiếp:
+ Nhận diện văn bản.
+ Phân tích đề bài.
- Kĩ năng lập chương trình hoạt động giao tiếp:
5
+ Xác định dàn ý của bài văn đã cho.
+ QS đối tượng, tìm và sắp xếp ý thành dàn ý trong bài văn miêu tả.
- Kĩ năng hiện thực hoá hoạt động giao tiếp:
+ Xây dựng đoạn văn.
+ Liên kết các đoạn văn thành bài văn.
- Kĩ năng kiểm tra, đánh giá hoạt động giao tiếp:
+ Đối chiếu văn bản nói, viết của bản thân với mục đích giao tiếp và yêu cầu
diễn đạt.
+ Sửa lỗi về nội dung và hình thức diễn đạt
d) Các loại bài học
- Dạy lí thuyết
- Hướng dẫn thực hành
2.3. Những thuận lợi và khó khăn của học sinh khi thực hiện việc học văn
miêu tả ở lớp 4

a) Thuận lợi:
- Các em học sinh được tiếp cận với văn miêu tả sớm ngay từ lớp 2.
- Đến lớp 4, các kĩ năng đọc, viết, nghe, nói đã đạt được ở một mức độ nhất
định.
- Kiến thức về tiếng Việt và văn học: Được chuẩn bị từ lớp dưới khá nhiều
như luyện tập về các kiểu câu theo mẫu (học ở lớp 2-3), các biện pháp tu từ so
sánh, nhân hoá; học nhiều các bài tập đọc về văn miêu tả có giá trị văn chương.
Lên lớp 4, các em tiếp tục được luyện tập các mảng kiến thức trên theo hướng
tích hợp, đồng thời, từ vựng học thêm khoảng 700 từ, ngữ theo chủ điểm, ngữ
pháp giúp các em học về từ loại, về các kiểu câu chia theo mục đích nói, tập làm
văn học kết cấu của văn bản.
- Các môn học khác như Khoa học, Địa lí cũng giúp các em rất nhiều vốn
hiểu biết về thế giới tự nhiên và thế giới xung quanh.
b) Khó khăn :
- Phần lớn học sinh ở thành phố, thị xã hiện nay bị bó hẹp trong phạm vi gia
đình và phạm vi nhà trường, các em ít có điều kiện tiếp xúc với thiên nhiên, ít
được tham gia các hoạt động như hoạt động ngoại khoá, hoạt động xã hội, …
Đất ở của mỗi gia đình phần lớn không đủ rộng để có thể trồng trọt hoặc nuôi
thêm các con vật. Tức là các em không biết những đối tượng mà các em phải tả
theo yêu cầu của đề bài.
Ví dụ:
. Bài tập 2 – SGK trang 32, tập2 “Lập dàn ý miêu tả một cây ăn quả quen
thuộc theo một trong hai cách đã học ”
6
. Bài tập 4– SGK trang 82, tập2 “ Em hãy viết kết bài mở rộng cho một trong
các đề tài dưới đây:
a) Cây tre ở làng em.
b) Cây tràm ở quê em.
c) Cây đa cổ thụ ở đầu làng. ”
. Bài : Luyện tập miêu tả cây cối – SGK trang 83, tập2 “ Tả một cây có

bóng mát ( hoặc cây ăn quả, cây hoa) mà em yêu thích.”
Đó là nguyên nhân sâu xa ảnh hưởng đến xúc cảm, tình cảm của các em, ảnh
hưởng đến chất lượng bài văn miêu tả.
4. Lựa chọn cách dạy phù hợp để giúp nâng cao chất lượng Tập làm
văn lớp 4 phần văn miêu tả.
Ngay từ lớp 2, khi tập quan sát để trả lời câu hỏi, các em đã bắt đầu làm
quen với văn miêu tả. Việc cho các em tiếp xúc với văn miêu tả sớm như vậy đã
góp phần nuôi dưỡng tình yêu của các em với thế giới xung quanh, với thiên
nhiên, góp phần giáo dục tình cảm thẩm mĩ, góp phần phát triển ngôn ngữ ở trẻ
Học văn miêu tả các em có thêm điều kiện để tạo nên sự thống nhất giữa tư duy
và tình cảm, ngôn ngữ và cuộc sống, con người với thiên nhiên, với xã hội để gợi
ra những tình cảm, xúc cảm, ý nghĩ cao thượng, đẹp đẽ Cho các em tiếp xúc với
thế giới xung quanh, với thiên nhiên là con đường hiệu quả nhất để giáo dục học
sinh phát triển ngôn ngữ. Đến lớp 3, văn miêu tả được học không nhiều song
trong chương trình phân môn Luyện từ và câu đã chú trọng rèn luyện các kiểu câu
theo mẫu nhất định và chú trọng dạy các biện pháp tu từ như so sánh, nhân hoá.
Đó là những bước chuẩn bị quan trọng cho việc dạy văn miêu tả ở lớp 4.
Văn miêu tả được dạy ở lớp 4 trong 30 tiết (7 tiết ở học kì I, 23 tiết ở học
kì II). Sau bài mở đầu Thế nào là miêu tả ? (tuần 14) giúp học sinh có khái niệm
về miêu tả nói chung, các em lần lượt đi sâu vào từng kiểu bài cụ thể : miêu tả
đồ vật, miêu tả cây cối, miêu tả con vật. Trong mỗi kiểu bài nói trên, học sinh
đều được rèn luyện các kĩ năng cơ bản : quan sát đối tượng miêu tả, lựa chọn và
sắp xếp ý để miêu tả, xây dựng đoạn văn và bài văn miêu tả. So với các bài tập
về miêu tả đơn giản ở lớp 2, lớp 3 (nói, viết thành đoạn văn ngắn), học sinh lớp
4 đã bắt đầu được học một cách tương đối có hệ thống về kĩ năng xây dựng văn
bản hoàn chỉnh (gồm 3 phần : mở bài, thân bài và kết bài). Do đó, để dạy tốt loại
văn miêu tả, giáo viên vừa phải giúp học sinh thực hiện được những yêu cầu làm
văn miêu tả nói chung, vừa phải chú ý đến những đặc điểm riêng của từng loại
đối tượng (đồ vật, cây cối, con vật) để hướng dẫn học sinh miêu tả cho cụ thể và
sinh động. Cụ thể :

4.1. Bài văn miêu tả phải chân thực
Miêu tả là vẽ lại bằng lời những đặc điểm nổi bật của cảnh, của
người, của vật để giúp người nghe, người đọc hình dung được các đối
tượng ấy.
7
Do vậy, bài văn miêu tả trước hết cần có tính chân thực, đúng bản chất
của đối tượng. Dạy cho học sinh tiểu học miêu tả chân thực một đối tượng, trước
hết phải đi từ yêu cầu tả đúng thực tế, nghĩa là thông qua việc quan sát trực tiếp
bằng nhiều giác quan, chọn được từ ngữ thích hợp, diễn tả đúng được đối tượng,
không làm cho người đọc (nghe) hiểu sai hoặc không hình dung được nó.
4.2 Quan sát đối tượng miêu tả
Để giúp người đọc, người nghe tái hiện được đối tượng miêu tả một cách
chân thực, sinh động, bài văn miêu tả phải tuân theo một trình tự hợp lí, đảm bảo
tính lôgíc. vậy khi dạy văn miêu tả, giáo viên cần hướng dẫn các em :
- Quan sát tỉ mỉ các bộ phận theo một trình tự hợp lí
Ví dụ: + Quan sát theo trình tự không gian: Từ xa đến gần, từ trên xuống dưới,
từ ngoài vào trong, từ trái qua phải, hoặc ngược lại
+ Quan sát từ bao quát đến các bộ phận, từ bộ phận chủ yếu đến các bộ
phận thứ yếu, ).
+ Quan sát trình tự tâm lí : Điều gì gây chú ý nhiều (gây hứng thú có tác
động mạnh) thì tả trước, điều gì ít chú ý tả sau.
+ Quan sát bằng nhiều cách khác nhau (mắt nhìn, tai nghe, tay sờ, mũi
ngửi, ).
- Chú ý những yêu cầu riêng khi quan sát từng loại đối tượng miêu tả :
+ Tả đồ vật : Có loại đồ vật tĩnh (như cái bàn, cái ghế, quyển vở, ), có
loại đồ vật động (như cái xe, cái quạt máy, búp bê biết khóc, cười, ). Cách quan
sát đồ vật động khác với đồ vật tĩnh.
+ Tả cây cối : Cần quan sát theo đặc điểm của từng loại cây (cây hoa, cây
ăn quả, cây bóng mát, cây lấy gỗ, ) theo từng chặng phát triển (khi cây còn nhỏ,
lúc cây lớn, ) ; theo từng mùa khác nhau ; kết hợp quan sát khung cảnh thiên

nhiên và tác động của người hay loài vật đối với cây (nếu có).
+ Tả con vật : Cần quan sát đầy đủ những đặc điểm về hình dáng, hoạt
động và cả mối quan hệ của con vật đối với người.
- Trong cùng một loại đối tượng, mỗi đối tượng cụ thể cũng có đặc điểm
riêng. Khi quan sát cần chú ý phát hiện những đặc điểm riêng phân biệt đối
tượng được tả với những đối tượng khác cùng loại.
Để giúp HS quan sát đối tượng và miêu tả chân thực về đối tượng ấy,
người giáo viên nên ứng dụng CNTT vào trong quá trình giảng dạy nhằm cung
cấp cho các em những hình ảnh những thước phim cụ thể, sinh động của những
loài cây, những con vật mà các em định tả nhưng thực tế lại chưa một lần nhìn
thấy hoặc chỉ nhìn lướt qua trong phim ảnh hay khi về quê… Ví dụ:
. Bài tập 2 – SGK trang 32, tập2 “Lập dàn ý miêu tả một cây ăn quả quen
thuộc theo một trong hai cách đã học ”.
a) Tả lần lượt từng bộ phận của cây.
8
b)Tả lần lượt từng thời kì phát triển của cây.
* Đối với cách “a) Tả lần lượt từng bộ phận của cây”, tôi đã cho các em
quan sát hình ảnh từng bộ phận của rất nhiều loại cây ăn quả quen thuộc như :
xoài, nhãn, chuối…( Tùy từng loại cây để đưa ra hình ảnh phù hợp).

Gốc dừa – Thân dừa(vùng đất cát) ngọn dừa – lá dừa

Quả dừa Cùi dừa
*Có thể kết hợp tả từng bộ phận với quá trình phát triển của cây, ta có thể
đưa ra các hình ảnh sau:
Ví dụ: Tả cây chuối
9

Gốc; thân chuối- Cây chuối con Lá chuối – Hoa chuối



buồng chuối xanh Buồng chuối chín
* Đối với cách b)Tả lần lượt từng thời kì phát triển của cây, tôi đã cho
các em quan sát cây theo mùa.Ví dụ :



10
Mùa đông, cây trơ trụi, khẳng khiu.
Xuân sang, cây đâm chồi,nảy lộc.

Hè đến, cành lá xum xuê Cây ra hoa

Quả chi chít cành trên,cành dưới Quả lớn nhanh như thổi
( Tuy nhiên cần lưu ý HS trong thực tế nhiều loài cây mùa đông không rụng
lá mà xanh quanh năm. Hình ảnh trên chỉ mang tính minh họa)
. Bài tập 4– SGK trang 82, tập2 “ Em hãy viết kết bài mở rộng cho một trong
các đề tài dưới đây:
a) Cây tre ở làng em.
b) Cây tràm ở quê em.
c) Cây đa cổ thụ ở đầu làng. ”
Để có thể làm được các bài này thì các em phải có những hiểu biết nhất
định về những loài cây mà các em định tả. Vì vậy, tôi đã đưa ra một số hình ảnh
sau và cung cấp cho các em những hiểu biết về ích lợi của cây và những tình
11
cảm của người dân địa phương đối với những loài cây đó( Ví dụ: cây tràm cho
tinh dầu; người dân thường ngồi dưới gốc đa, gốc tre hóng mát…)
Bụi tre Cây đa
Cây tràm bông vàng


Tràm bông vàng ra hoa Sản phẩm từ cây tràm
12
. Bài : Luyện tập miêu tả cây cối – SGK trang 83, tập2 “ Tả một cây có bóng
mát ( hoặc cây ăn quả, cây hoa) mà em yêu thích.”Đối với bài này, tôi đã cho
các em thấy sự đa dạng, phong phú của các loại cây. Từ đó, các em sẽ lựa chọn
cây để miêu tả theo ý thích: Ví dụ:


Cây hoa bằng lăng Cây bàng về mùa đông

Cây bàng về mùa hè Cây phượngmùa hè

Cây hồng leo Cây hoa hồng
13

Cây mít Cây hoa sứ

Hoa loa kèn Cây hoa đào

Cây hoa mai Hoa sen
14
Dạng bài: Miêu tả con vật
Tùy theo yêu cầu của từng bài mà tôi đã đưa ra những hình ảnh hay
những thước phim về những con vật cũng như những hoạt động của chúng cho
phù hợp.
Ví dụ :1) Tả con vật nuôi trong nhà:

Gà mái- gà con Gà chọi Gà trống

Chó lớn Chó con


Mèo mướp Mèo tam thể
15
2) Tả con vật nuôi trong vườn thú:

Chim công múa Khỉ
Hổ

Voi
16
Voi - Hươu
3) Tả con vật em nhìn thấy trên đường:

Con trâu Thỏ nâu

Con vịt Ngựa kéo xe
17
4.3 Lựa chọn và sắp xếp ý để miêu tả
- Chọn được những nét nổi bật của đối tượng để miêu tả rõ ràng, đầy đủ.
- Sắp xếp ý một cách hợp lí theo ba phần của bài văn miêu tả :
+ Mở bài : Giới thiệu đối tượng miêu tả bằng cách trực tiếp hay gián tiếp.
+ Thân bài : Tả bao quát rồi tả từng bộ phận của đối tượng hoặc tả từng thời
kì phát triển của đối tượng.
+ Kết bài : Nêu cảm nghĩ (ấn tượng) về đối tượng miêu tả theo cách mở rộng
hoặc không mở rộng.
* Cách thức lựa chọn và sắp xếp ý với từng thể loại nhỏ phần thân bài
a) Tả đồ vật : Trước hết, nêu tả bao quát toàn bộ đồ vật (hình dạng, màu
sắc, ), sau đó tả những bộ phận chính với những đặc điểm nổi bật.
Ví dụ: Tả chiếc cặp
+ Tả bao quát đồ vật: Cặp hình chữ nhật, làm bằng bằng vải giả da được

trang trí rất đẹp.
+ Tả chi tiết: Tả mặt cặp, quai xách, quai đeo, khoá cặp, các ngăn,
b) Tả cây cối : Tả từng bộ phận của cây hoặc tả từng thời kì phát triển của
cây (theo các mùa trong năm) ; tập trung vào những nét nổi bật của từng loại cây
cụ thể (VD : hình dạng, màu sắc, hương thơm, của hoa ; hình dạng, màu sắc,
mùi vị, của quả, ).
Tiết tập làm văn “Luyện tập miêu tả cây cối” Trang 41- 42 và trang 50-
51 SGK TV4- Tập 2, đã đưa những ví dụ rất cụ thể và là những đoạn văn mẫu
mực về miêu tả cây cối.
c) Tả con vật : Tả hình dáng rồi tả thói quen sinh hoạt và một vài hoạt
động chính của con vật (hoặc kết hợp tả hình dáng xen kẽ trong khi tả hoạt động
của con vật) ; tả thêm những biểu hiện của con vật trong mối quan hệ với người
(nếu có).
4.4 Dựng đoạn và viết bài miêu tả
- Mỗi đoạn văn miêu tả có một nội dung nhất định (Ví dụ : giới thiệu hay
tả bao quát về đối tượng, tả từng bộ phận hay từng mặt của đối tượng, bộclộ tình
cảm, thái độ của người viết về đối tượng miêu tả, ).
- Khi viết, hết mỗi đoạn văn cần xuống dòng. Bài văn phải đầy đủ 3 phần :
Mở bài, Thân bài, Kết bài. Lời văn miêu tả cần chân thực, giàu hình ảnh và cảm
xúc (thường dùng nhiều từ ngữ gợi tả, gợi cảm và sử dụng các biện pháp liên
tưởng, so sánh hay nhân hoá thích hợp). Bài tập làm văn cần chú ý đến tính
thống nhất của cả bài. Mỗi đoạn trong bài văn (kể cả đoạn mở bài và đoạn kết
bài đều phải hướng vào nội dung chính của bài, gắn bó với nội dung đó. (Nhiều
em đoạn mở bài giới thiệu cây hoa sau lại tả cây ăn quả.

18
* Cách thức hướng dẫn học sinh dựng đoạn và viết bài với từng thể loại
nhỏ:
a) Tả đồ vật : Thường dùng nhiều từ ngữ gợi tả hình dạng, đặc điểm ; có
thể so sánh, nhân hoá làm cho đồ vật được miêu tả thêm sinh động (Ví dụ : gọi

đồ vật bằng anh, chị, chú, bác, hoặc cho đồ vật tự xưng là tớ, tôi, mình để tự
nói về nó).
b) Tả cây cối : Thường dùng nhiều từ ngữ gợi tả hình dạng, màu sắc,
hương thơm, mùi vị ; có thể sử dụng biện pháp liên tưởng, so sánh để gợi ra
hình ảnh cây cối ở thời kì phát triển hay mùa khác nhau (cây cối ở thời điểm
hiện tại so với trước đây và tương lai sau này).
c) Tả con vật : Thường dùng nhiều từ ngữ gợi tả hình dạng, màu sắc, âm
thanh ; từ ngữ chỉ hoạt động, trạng thái của con vật ; có thể sử dụng biện pháp
liên tưởng, so sánh hay nhân hoá để miêu tả cho sinh động và bộc lộ mối quan
hệ gần gũi với con người.
4.5 Rèn kĩ năng viết trong giờ tập làm văn miêu tả ở lớp 4.
Khi viết một đoạn văn, bài văn, học sinh có thời gian suy nghĩ, tìm cách
diễn đạt (dùng từ, đặt câu, sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hoá, ) rèn luyện
kĩ năng sản sinh văn bản. Lời văn viết vừa cần rõ ý vừa cần sinh động, bộc lộ
được cảm xúc; bố cục bài văn cần chặt chẽ, hợp lí ở từng đoạn và toàn bài để tạo
thành một đoan văn, bài văn hoàn chỉnh. Kĩ năng viết của học sinh được rèn
luyện chủ yếu qua các bài tập viết đoạn văn trước khi viết một bài văn hoàn
chỉnh. Do vậy, trong quá trình rèn kĩ năng viết, giáo viên cần giúp học sinh thực
hiện tốt những yêu cầu sau :
Bước1: Phân tích đề bài, xác định nội dung viết ; tìm ý, sắp xếp ý để
chuẩn bị thực hiện yêu cầu viết (đoạn văn, bài văn) theo loại văn, kiểu bài đã
học ( miêu tả đồ vật, cây cối, con vật)
Bước 2: Tập viết đoạn văn bảo đảm sự liên kết chặt chẽ về ý : viết đoạn
mở bài, (trực tiếp, gián tiếp), viết các đoạn phần thân bài, viết đoạn kết bài (mở
rộng, không mở rộng) sao cho có sự liền mạch về ý (không rời rạc, lộn xộn), các
ý trong đoạn được diễn tả theo một trình tự nhất định nhằm minh hoạ cụ thể hoá
ý chính (có mở đầu, triển khai và kết thúc).
Bước 3: Viết bài văn có bố cục chặt chẽ, có lời văn phù hợp với yêu cầu
nội dung và thể loại, cụ thể :
- Các đoạn văn trong một bài phải liên kết với nhau thành một văn

bản hoàn chỉnh, được bố cục chặt chẽ theo 3 phần : Mở bài, Thân bài, Kết
bài. Có thể liên kết các đoạn văn bằng cách dùng từ ngữ nối hoặc cách sắp
xếp ý theo trình tự đã học.Khi viết hết một đoạn văn, cần chấm xuống
dòng.
- Lời văn trong bài (đoạn) cần phù hợp với yêu cầu nội dung và thể loại.
VD : + Tả đồ vật thường dùng nhiều từ ngữ gợi rõ hình dáng, đặc điểm ; có thể
so sánh, nhân hoá làm cho đồ vật được miêu tả thể sinh động.
19
+ Tả cây cối thường dùng nhiều từ ngữ gợi rõ hình dáng, màu sắc, hương
thơm, mùi vị ; có thể sử dụng biện pháp liên tưởng, so sánh để gợi ra hình ảnh
cây cối ở từng thời kì phát triển hay từng mùa khác nhau.
+ Tả con vật thường dùng nhiều từ ngữ gợi rõ hình dáng, màu sắc, âm
thanh ; từ ngữ chỉ hoạt động, trạng thái của con vật ; có thể sử dụng biện pháp
liên tưởng, so sánh hay nhân hoá để miêu tả cho sinh động và bộc lộ mối quan
hệ gần gũi giữa con vật mà học sinh đó miêu tả với con người.
20
C. KẾT LUẬN
1. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Qua nghiên cứu và áp dụng những kinh nghiệm của bản thân vào thực tế
giảng dạy phân môn Tập làm văn phần miêu tả ở trường tiểu học Ba Đình tôi
thấy chất lượng giờ Tập làm văn đã có những chuyển biến tốt, đáng mừng. Số
em biết viết đúng thể loại, đúng yêu cầu của đề bài ngày càng được nâng lên, số
em biết viết sáng tạo, có hình ảnh, câu văn mềm mại, sắp xếp ý hợp lí ngày
càng nhiều.
Khảo sát chất lượng một bài viết ở 2 lớp 4A và lớp 4C trường tiểu học Ba
Đình tuần 27 “Tả một cây hoa mà em thích”
Lớp
Số lượng bài
chấm
Bài viết đúng y/c, có

sáng tạo, có hình ảnh
Bài viết đúng
yêu cầu
Bài chưa
đạt yêu cầu
4A 25 12 13 0
4C 25 15 10 0
2. KẾT LUẬN CHUNG
Chương trình tiếng Việt mới lấy quan điểm dạy giao tiếp làm định hướng
cơ bản. Phân môn Tập làm văn cũng được xây dựng trên quan điểm đó. Dạy Tập
làm văn lấy giao tiếp làm môi trường và phương pháp, lấy việc phục vụ giao tiếp
làm nhiệm vụ và mục đích.
Nội dung chương trình Tập làm văn lớp 4 được xây dựng dưới dạng hệ
thống các bài tập. Học sinh sẽ tự làm bài dưới sự tổ chức, hướng dẫn, góp ý của
giáo viên để phát triển kĩ năng nói và nghe. Đây chính là cơ sở giúp học sinh
mở rộng vốn từ, phát triển tư duy hình tượng và tư duy lôgic; trau dồi kĩ năng
sản sinh văn bản.
Cùng với sự đổi mới về nội dung là sự đổi mới về phương pháp dạy học.
Đó là sự phối hợp hợp lí giữa các phương pháp dạy học truyền thống với các
phương pháp dạy học hiện đại nhằm đưa người học vào các tình huống giao
tiếp, tạo cho các em môi trường giao tiếp cụ thể. Từ đó, hình thành và phát triển
4 kĩ năng nghe, nói, đọc, viết.
Việc đổi mới về nội dung và phương pháp dạy Tập làm văn như hiện nay
là tương đối đúng đắn, phù hợp với nước ta trong thời kì đổi mới, phù hợp với
xu thế phát triển của khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu
đề ra đòi hỏi sự nỗ lực của các nhà sư phạm, các giáo viên và tất cả học sinh tiểu
học.
21
Là giáo viên tiểu học, tôi đã mạnh dạn nghiên cứu để góp phần tháo gỡ
khó khăn và để trang bị cho mình vốn kiến thức nhất định giúp học sinh học tập

đạt chất lượng cao hơn. Trong quá trình nghiên cứu, tôi nhận thấy để giúp cho
học sinh lớp viết văn miêu tả đạt hiệu quả cao thì khi tổ chức hướng dẫn cho các
em giáo viên cần phải:
- Nắm vững mục đích của bài tập :
- Thấy được mối liên quan giữa bài tập làm văn với các phân môn của
môn Tiếng Việt trong tuần và sự kết nối thành chuỗi hệ thống giữa các giờ tập
làm văn.
- Soạn hệ thống câu hỏi gợi mở, dẫn dắt cho học sinh thực hiện từng thao
tác khi làm bài tập, lưu ý dạy đúng loại bài hình thành kiến thức hoặc loại bài
luyện tập thực hành.
- Dự đoán trước những khó khăn của học sinh trong từng tiết Tập làm văn
để tìm cách tháo gỡ.
- Giờ học Tập làm văn phải phát huy cao độ vai trò chủ thể của học sinh
trong hoạt động học tập.
- Tích cực ứng dung CNTT trong dạy văn miêu tả. Đó là trực quan sinh
động nhất giúp các em quan sát các sự vật một cách cụ thể. Từ đó, bài viết của
các em sẽ chân thực và giàu hình ảnh hơn (tuy nhiên không được lạm dụng.)
Mặc dù đã rất cố gắng nhưng do thời gian nghiên cứu chưa nhiều, năng lực
và trình độ còn hạn chế chắc chắn đề tài không tránh khỏi những thiếu sót.
Tôi rất mong nhận được những góp ý, bổ sung chân thành của các nhà
chuyên môn và các bạn đồng nghiệp để đề tài hoàn thiện hơn.
Thanh Hóa, ngày 15 tháng 4 năm 2013
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người khác.
NGƯỜI VIẾT

Thiều Thị Sáu
22

×