Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Nâng cao chất lượng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.14 KB, 15 trang )

PHẦN I
Phần mở đầu
I. Lý do chọn đề tài:
Môn Tiếng Việt ở trường phổ thông có nhiệm vụ hoàn thành năng lực
hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ được thể
hiện trong 4 dạng hoạt động, tương ứng với bốn kỹ năng: nghe, nói, đọc,
viết.
Đặc biệt trong môn tập làm văn: mở rộng vốn sống, rèn luyện tư duy,
bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mỹ, hình thành nhân cách cho học sinh.
Văn miêu tả, quan sát đối tượng tìm lí lẽ và dẫn chứng để thuyết trình,
tranh luận… góp phần phát triển năng lực phân tích, tổng hợp, phân loại học
sinh. Tư duy hình tượng của trẻ cũng được rèn luyện phát triển nhờ các biện
pháp so sánh, nhân hóa… khi miêu tả.
Có nhiều quan niệm về miêu tả, để đi đến thống nhất một quan điểm
chung là điều không phải dễ dàng. Sau đây tôi xin trích dẫn một số định nghĩa
về miêu tả như sau:
Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên định nghĩa : “Miêu tả là
dùng ngôn ngữ hoặc một phương tiện nghệ thuật nào đó làm cho người khác có
thể hình dung được cụ thể sự vật, sự việc hoặc thế giới nội tâm của con người” .
Tác giả Phillippe Hamon viết:
“Miêu tả là một thao tác tư duy rộng mở, theo thao tác này thay vì
nêu một cách đơn giản một sự vật, một đối tượng nào đó, người viết làm cho nó
trở nên nhìn thấy được bằng sự trình bày sinh động, linh hoạt các đặc tính và
những hoàn cảnh thú vị đáng chú ý nhất của sự vật đó”
Nhà văn Phạm Hổ trong cuốn “Viết văn miêu tả và văn kể chuyện”
cho rằng:
“Miêu tả là khi đọc những gì chúng ta biết, người đọc như thấy cái đó
hiện ra trước mắt mình: một con người, một con vật, một dòng sông, người đọc
còn có thể nghe được cả tiếng nói, tiếng kêu, tiếng nước chảy, thậm chí còn
ngửi thấy mùi hôi, mùi sữa, mùi hương hoa hay mùi rêu, mùi ẩm mốc… nhưng
đó mới chỉ là miêu tả bên ngoài. Còn sự miêu ta bên trong nữa nghĩa là miêu tả


tâm trạng vui, buồn, yêu, ghét của con người, con vật và cả cây cỏ” .
Từ sự tổng hợp các ý kiến của các nhà nghiên cứu, các nhà văn tôi
hiểu miêu tả như sau:
Miêu tả là nêu lên các đặc điểm của sự vật, hiện tượng bằng cách
làm cho các sự vật, hiện tượng đó hiện lên trực tiếp (tái hiện) trước mắt
người đọc (người nghe) một cách cụ thể, sống động, như thật khiến cho
người ta có thể nhìn, nghe, ngửi, sờ mó được.
Học các tiết tập làm văn, học sinh cũng có điều kiện tiếp cận với vẻ
đẹp của con người và thiên nhiên đất nước, có cơ hội bọc lộ cảm xúc của cá
nhân, mở rộng tâm hồn và phát triển nhân cách con người Việt Nam mới.
Qua quá trình tìm tòi, học hỏi tôi nắm được: các bài tập làm văn lớp 5
thường gắn với chủ điểm đang học ở các bài tập đọc. Quá trình hướng dẫn học
sinh thực hiện các kỹ năng phân tích đề, quan sát, tìm ý, viết đoạn văn là những
cơ hội giúp trẻ mở rộng hiểu biết về cuộc sống theo chủ điểm đang học. Để làm
được một bài tập văn nói hoặc viết, người làm phải hoàn thiện cả bốn kỹ năng
nghe,nói, đọc, viết, phải vận dụng các kiến thức về Tiếng Việt. Trong quá trình
vận dụng này, các kỹ năng và kiến thức đó hoàn thiện và nâng cao dần.
Đi vào đề tài: “Nâng cao chất lượng viết văn miêu tả cho học sinh
lớp 5 Tiểu học”. Qua đây tôi xin nêu lên những phương pháp, biện pháp tiến
hành trên cơ sở các phương pháp đặc trưng của phân môn mà Bộ Giáo dục và
Đào tạo quy định. Qua bài tiểu luận này tôi mong muốn đóng góp một vài ý kiến
nho nhỏ của bản thân trong năm học 2009-2010 mà tôi đã áp dụng có hiệu quả
(học sinh lớp 5C), hứng thú tiếp thu kiến thức ở học sinh là một quá trình nghiên
cứu, áp dụng bước đầu thành công. Cụ thể bài: “Luyện tập tả cảnh”.
II. Mục đích-Nhiệm vụ của đề tài:
1. Mục đích: Phương pháp tích cực hóa hoạt động của học sinh. Nâng
cao hiệu quả của việc dạy văn miêu tả:
- Phân môn tập làm văn vận dụng các hiểu biết và kỹ năng biết về
tiếng Việt do các phân môn khác rèn luyện hoặc cung cấp đồng thời góp phần
hoàn thiện chúng.

- Phân môn tập làm văn rèn luyện cho học sinh các kỹ năng sản sinh
văn bản (nói và viết) nhờ vây mà tiếng Việt không chỉ là một hệ thống cấu trúc
được xem xét từng phần, từng mặt qua từng phân môn mà trở thành một công cụ
sinh động trong quá trình giao tiếp, tư duy, học tập.
- Bồi dưỡng vun đắp tình yêu tiếng Việt, biết giữ gìn sự trong sáng,
giàu đẹp của tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách của con người Việt
Nam.
2. Nhiệm vụ:
- Sản phẩm của phân môn tập làm văn là các bài văn nói hoặc viết
theo các kiểu bài do chương trình qui định. Để sản sinh các bài văn này, học
sinh pải có thêm nhiều kỹ năng khác ngoài các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, kỹ
năng dùng từ đặt câu.
- Đó là các kỹ năng phân tích đề, tìm ý và lựa chọn ý, kỹ năng lập
dàn ý, viết đoạn và liên kết đoạn.
- Ở tiểu học phân môn Tập làm văn góp phần rèn luyện tư duy hình
tượng, từ óc quan sát tới trí tưởng tượng, từ khả năng tái hiện các chi tiết đã
quan sát được tới khả năng nhào nặn các vật liệu có thực trong đời sống để xây
dựng nên nhân vật, … tư duy lôgic của học sinh cũng được phát triển.
- Thông qua việc dạy tập làm văn các em thấy được vẻ đẹp của buổi
bình minh, một cây phượng ra hoa, một con mèo mướp, thấy dáng vẻ đáng yêu
của một em bé tập đi, của một cụ già thương con quý cháu… Từ đây tâm hồn và
nhân cách của các em hình thành và phát triển.
Như vậy dạy Tập làm văn có một ý nghĩa to lớn vì nó có cả các
nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển.
Để đạt được mục đích đó, đề tài đặt ra cho mình giải quyết các
nhiệm vụ.
+ Cơ sở lý luận và thực tiển của việc dạy Tập làm văn ở tiểu học
(chương trình mới).
+ Điều chỉnh nội dung và phưong pháp dạy học.
+ Thực nghiệm dạy học tìm hiểu phân môn dạy Tập làm văn lớp

5.
III. Phương pháp nghiên cứu:
1. Để hoàn chỉnh đề tài này tôi đã nghiên cứu tài liệu:
* Phương pháp dạy học tiếng Việt của PGS-TS Lê Phương Nga,
Nguyễn Trí.
* Tài liệu bồi dưỡng chương trình và sách giáo khoa lớp 5 (mới)
* Chuyên đề bồi dưỡng Văn-Tiếng Việt lớp 5 của Nguyễn Thị
Kim Dung-TP. HCM.
* Thơ với lời Bình dành cho học sinh tiểu học của NXB GD.
* Văn miêu tả và phương pháp dạy học văn miêu tả của Nguyễn
Trí.
* Những bài văn chọn lọc lớp 5 của NXB GD.
Từ những kiến thức quý báu, những kinh nghiệm sống động của
các tác giả trên đã giúp tôi học được nhiều nội dung kiến thức tuyệt vời rất có
ích cho công tác giảng dạy.
2. Dự giờ rút kinh nghiệm:
Học hỏi từ kinh nghiệm của đồng nghiệp trong giảng dạy tại
trường, sinh hoạt cụm, trong các tạp chí, sách báo có liên quan mà đặc biệt là
kinh nghiệm day học của bản thân được thể hiện trong từng tiết dạy, ngày dạy
và từng năm dạy.
Qua đó tôi sẽ rút kinh nghiệm cho bản thân mình và rút kinh
nghiệm cho tiết dạy. Khắc phục những điểm chưa tốt trong giảng dạy nói chung
và trong phân môn Tập làm văn nói riêng.
Thực tế tôi đã dạy bài: Luyện tập tả cảnh tại lớp 5C Trường Tiểu
học Đức Phú 1.
PHẦN II
Phần nội dung
Chương một:
Cơ sở lý luận và thực tiển của việc dạy Tập làm văn ở tiểu học
Chương trình mới 175 tuần dành cho 5 lớp tiểu học.

Ở lớp 4, 5, Tập làm văn cũng được học 35 tuần, mỗi tuần 2 tiết.
+ Tập làm văn ở lớp 5 thường gắn với các chủ điểm của môn tập đọc.
Tập một gồm 5 chủ điểm học trong 18 tuần, tập hai gồm 5 chủ điểm, học trong
17 tuần.
+ Dạy bài mới và ôn tập:
* 31 tuần học bài mới.
* 4 tuần ôn tập và kiểm tra định kỳ (tuần 10, tuần 18, tuần 28,
tuần 35).
+ Cấu trúc chương trình Tập làm văn:
Loại văn miêu tả:
* Tả cảnh: 14 tiết. HKI-Cả năm 14 tiết.
* Tả người: 8 tiết. HKI-HKII 4 tiết.
* Các loại văn bản khác: 36 tiết.
+ Các kỹ năng làm văn:
Việc sản sinh ra một văn bản thường có 4 giai đoạn:
* Giai đoạn định hướng:
- Nhận diện đặc điểm loại văn bản.
- Phân tích đề bài, xác định yêu cầu.
* Giai đoạn lập chương trình:
- Xác định dàn ý bài văn đã cho.
- Quan sát đối tượng, tìm ý và sắp xếp ý thành dàn ý trong
bài văn miêu tả.
* Giai đoạn thực hiện hóa chương trình:
- Xây dựng đoạn văn (chọn từ, tạo câu, viết đoạn).
- Liên kết các đoạn thành bài văn.
* Giai đoạn kiểm tra văn bản mới hoàn thành.
+ Viết được đoạn văn, bài văn tả cảnh, tả người theo nội dung chương
trình quy định.
Chương hai:
Điều chỉnh nội dung và phương pháp dạy

Môn Tập làm văn lớp 5 bài “Luyện tập tả cảnh”
Song song với phương pháp giảng dạy đặc trưng của phân môn, qua quá trình
giảng dạy thực tế, tôi có kinh nghiệm truyền đạt đến học sinh với những con
đường có sáng tạo, có chọn lọc, … hầu đem lại hiệu quả tốt nhất.
Qua quá trình giảng dạy bộ môn này nhiều năm, đặc biệt trong năm áp
dụng phương pháp tích cực hóa hoạt động hóa học sinh vào trong một giớ học
lập dàn ý miêu tả.
Đặc trưng của miêu tả, gồm bốn bước sau:
- Bước một: Tính cụ thể sinh động.
Tính cụ thể sinh động không chỉ là đặc trưng mà còn là mục
đích của miêu tả. So sánh hai đoạn văn sau đây để hiểu rõ hơn.
Đoạn thứ nhất trích trong “Từ điển Tiếng Việt” do Hoàng Phê
chủ biên: “Bọ Ngựa là bọ màu xanh, biết bay bụng to và có 2 càng giống như
hai lưỡi hái, sông trên cây, ăn sâu bọ”.
Đoạn văn thứ hai trích trong tác phẩm: “ Dế Mèn phiêu lưu kí”
của Tô Hoài, trang 78: “Người ngợm anh Bọ Ngựa này cũng bình thường thôi,
nhưng chưa hiểu sao anh làm ra lối quan trọng đến thế, anh cứ nhắt chân từng
bước cao đầu gối kiểu bước chân ngỗng, cách thức rất ta đây kẻ giở hách dịch,
Cái khắc cổ vươn ra. Cái mặt ngắn cũn nhưng cái cằm vuông bạnh lún. Con
mắt đu đưa tưởng như ai xung quanh chỉ còn có việc thán phục nhìn anh ta. Hai
sợi râu óng ả, mấp máy phất lên phất xuống. Hai lưỡi bên mạng sườn, lưỡi có
răng cưa, luôn luôn có vào trước ngực, ra lối ta đây con nhà võ, đi đứng thế võ,
lúc nào cũng giữ miếng”.
Cả hai đoạn văn trên cùng nói về một con vật: con Bọ Ngựa.
Nhưng ở đoạn văn thứ nhất người ta chỉ nêu một số đặc điểm có tính chất sinh
học, những đặc điểm đó cụ thể, chính xác nhưng khô khan, không có cảm xúc,
hay nói cách khác không có tính sinh động. Ở đoạn văn thứ hai, tác giả cũng đi
vào tả đặc điểm của Bọ Ngựa, nhưng bằng việc sử dụng các phương tiện ngôn
ngữ (các tính từ: ngắn cũn, bạnh lún, óng ả,…), biện pháp nhân hóa, tác giả đã
dựng lên một hình ảnh con Bọ Ngựa thật sinh động cụ thể, hấp dẫn và thú vị bởi

nó mang những nét tính cách của con người.
Như vậy ở đoạn văn thứ hai mới chính là đoạn văn miêu tả, đoạn
văn thứ nhất chỉ có tính khoa học, không có tính nghệ thuật.
- Bước hai: Tính sáng tạo.
Phillippe Hamon cho rằng: “Năng lực miêu ta là một năng lực
đặc biệt phản ánh niềm mê sáng tạo của người nghệ sĩ. Nó có những lối vẽ và
những quan niệm riêng. Bức vẽ đó phải tác động vào đọc giả”.
Cũng có khi cùng miêu tả về một sự vật hiện tượng, nhưng mỗi
nhà văn lại có những cách thức miêu tả khác nhau:
Cùng miêu tả về trăng, nhưng nhà thơ Êxênhin (Nhà thơ Nga thế
kỷ XX) lại có những gì rất thân thuộc, mộc mạc nhưng cũng hết sức thú vị:
“Mặt trăng đã ló qua mái rạ
Giống như con chó nhỏ yêu thương”
Với Hàn Mặc Tử, “trăng” lại gắn với hình ảnh mang tính nhục thể:
“Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về lã lơi…”
Trong “Mảnh trăng cuối rừng”, Nguyễn Minh Châu miêu ta “trăng” với nét vẽ
tinh tế, trong sáng và hết sức lãng mạn: “Mảnh trăng khuyết đứng yên ở cuối
trời, sáng trong như một mảnh bạc…” .
- Bước ba: Tính chân thực
Miêu tả tất nhiên đòi hỏi phải có tính cụ thể, sinh động , tính sáng tạo,
nhưng cũng rất cần tính chân thực. Miêu tả dù có sáng tạo đến bao nhiêu đi
chăng nữa nhưng không được xa rồi bản chất của đối tượng miêu tả. Văn miêu
ta của Tô Hoài là một ví dụ tiêu biểu, bằng con mắt quan sát tỉ mỉ, khả năng bao
quát sự vật, hiện tượng, tác giả đã dựng nên một thế giới loài vật sống động và
hết sức chân thực:
“Chuồn Chuồn chúa lúc nào cũng dữ dội, hùng hổ nhưng kỳ thực trông
kĩ đôi mắt lại rất hiền. Chuồn Chuồn Ngô nhanh thoăn thoắt, Chuồn Chuồn ớt
rực rỡ trong trong bộ quần áo đỏ chót giữa ngày hè chói lọi… Chuồn Chuồn Tư
có đôi cánh kép vàng điểm đen…(Dế Mèn phiêu lưu kí).

- Bước bốn: Tính hấp dẫn, truyền cảm.
Đặt trưng này thực ra là hệ qua của tính cụ thể, sinh động, chân thực
và sáng tạo trong miêu tả. Nó đòi hỏi người viết dù có miêu tả đối tượng nào ở
góc độ nào cũng phải tạo được sự hấp dẫn, truyền cảm đối với người đọc. Muốn
vậy, khi miêu tả, các em phải thổi vào đó hơi thở của cảm xúc, biến đổi miêu tả
trở nên có hồn, nếu không nó đơn thuần chỉ là những dòng chữ khô khan, lạnh
lùng, không để lại ấn tượng gì cho đọc giả.
Nhà văn Nguyễn Tuân trong tùy bút “Người lái đò Sông Đà” với nét
vẽ tài hoa tinh tế của mình đã biến dòng sông Đà vô tri thành một sinh thể sống,
có linh hồn, sống động. Người đọc không thể nào quên hình ảnh dòng Đà giang
đẹp mê hồn như thế nào: “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ
tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban gạo
tháng hai và cuồn cuộn mùi khói núi Mèo đốt nương xuân… Mùa xuân dòng
xanh ngọc bích, chứ nước sông Đà không xanh màu xanh cánh hến của sông
Gâm, sông Lô. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì
rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận giữ ở một người bất mãn bục bội gì mỗi độ thu
về”
Chỉ bằng mấy nét phát thảo dòng sông Đà đã hiện lên thật cụ thể, sinh
động, bằng cách so sánh tài tình, sáng tạo, tác giả đã giới thiệu cho người đọc
thấy vẽ đẹp của sông Đà giang giống như mái tóc dài mềm mại buông xuống
của người thiếu nữ, nhà văn còn miêu tả được sự thay đổi về màu sắc của sông
theo mùa: mùa xuân thì sông “xanh ngọc bích”, mùa thu thì “lừ lừ chín đỏ
như da mặt người bầm đi vì rượu bữa”. Thật là một bức tranh hài hòa về
đường nét và màu sắc, rất giàu cảm xúc, khơi gợi và mở rộng khả năng liên
tưởng của người đọc.
Sau khi đã đi qua những bước trên, trong tưởng tượng của các em đã phác họa
được chân dung của sự vật hiện tượng miêu tả. Một trong nhưng chứng tỏ điều
này là các em đã nhớ được nhiều chi tiết, hình ảnh, biết sử dụng biện pháp so
sánh, nhân hóa, thổi hồn vào sự vật, hiện tượng một cách sống động gần gũi…
để các em thể hiện bản thân mình một cách thoải mái, không gò bó và đầy tính

sáng tạo.
Chương III:
Kết quả giảng dạy.
Qua một quá trình lao động, tìm tòi sáng tạo để thực hiện từng giờ môn tập làm
văn một cách bài bản, có kế hoạch. Tôi nhận được một số kết quả như sau:
1/ Mặt mạnh:
Tôi nhận thấy ngoài nhiệm vụ chính là biết làm một bài văn, học
sinh được chủ động, tự do thể hiện cái “tôi” của mình một cách rõ ràng, bộc
bạch cái riêng của mình một cách trọn vẹn. Dạy Tập làm văn là dạy các em tập
suy nghĩ riêng, tập sáng tạo, tập thể hiện trung thực con người mình qua từng bài
học cụ thể.
Qua quá trình giảng dạy theo quy trình mới này, tôi nhận được một số
kết quả:
+ Đạt Tốt (làm bài đủ 3 phần, hay, có tính sáng tạo) - Điểm 9: 5 em
+ Đạt Khá (7-8 điểm): 8 em .
+ Đạt Trung bình (5-6 điểm): 8 em
+ Yếu (< 5 điểm) 5 em:
Đây là kết qua rất khả quan qua đánh giá tôi thấy em nào cũng làm bài
đạt yêu cầu, chỉ có 5 em làm bài chưa đạt do sai vài lỗi chính tả và trình bày
chưa đúng yêu cầu.
2. Mặt Hạn chế.
Giờ học quy định ít (35 phút) . vì thế ở phần luyện tập thực hành và
sửa sai còn hạn chế.
Một số em còn rụt rè, góp phần xây dựng bài chưa tích cực lắm.
PHẦN III
Phần kết luận.
1/ Kết luận chung:
Do kết hợp nhiều hình thức dạy học trong một giờ Tập làm văn, học sinh
phát huy được tính tích cực của mình, chủ động trong các hoạt động học tập, các
em đều tham gia vào giờ luyện tập, chú ý lắng nghe bạn đọc bài, để sửa bài.

- Khi làm luyện tập kết hợp với hoạt động cá nhân tất cả học sinh đều
phải làm việc, giáo viên có thể bao quát lớp được kết quả hoạt động, đòi hỏi học
sinh phải tập rung suy nghĩ để làm bài.
- Lớp học sinh động, gây hứng thú trong học tập cho các em được
phát biểu nhiều hơn.
Dạy tiết học đạt hiệu quả giáo viên phải biết kết hợp các hình thức, phương
pháp giảng dạy thích hợp, tổ chức giáo trình đạt hiệu quả, sử dụng tranh ảnh, tư
liệu, sách giáo khoa, … giúp học sinh tiếp thu bài tốt.
Đây là một biện pháp có tác dụng tích cực làm chuyển biến tư tưởng, nâng
cao nhận thức về giá trị cảm xúc và tâm hồn. Thiếu nó sẽ không tạo được sự
thống nhất hài hòa để các em được phát triển ở tương lai sau này.
Muốn vậy, các biện pháp thực hiện cần phải có kế hoạch, có định kỳ, có
theo dỏi đánh giá, bổ sung, sửa chữa và rút kinh nghiệm để việc thực hiện quy
trình dạy Tập làm văn ngày một hoàn chỉnh và mang lại kết quả như mong
muốn.
2/ Những điểm đề xuất:
+ Sĩ số lớp đạt chuẩn 20-25 em để công tác giảng dạy được chặt chẽ
và quan tâm kịp thời đến từng học sinh.
+ Trang bị các phương tiện như: ti vi, máy tính, đèn chiếu, … cho các
phòng học để giáo viên thực hiện nhiệm vụ giáo dục áp dụng phương pháp tích
cực hóa hoạt động của học sinh một cách có hiệu quả.
Đức Phú, ngày 12 tháng 4 năm 2010
Người viết
Hồ Thị Như Nguyệt
TRƯỜNG TIỂU HỌC ĐỨC PHÚ I
ĐỀ TÀI:
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG VIẾT VĂN MIÊU TẢ
CHO HỌC SINH LỚP 5 Ở TIỂU HỌC
Họ và tên: Hồ Thị Như Nguyệt
Chức vụ: Giáo viên

PHẦN I:
PHẦN MỞ ĐẦU
I/ Lý do chọn đề tài:
Nâng cao chất lượng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 5 ở Tiểu học là mở
rộng vốn sống, rèn luyện tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mỹ, hình
thành nhân cách cho học sinh Tiểu học.
II/ mục đích – Nhiệm vụ đề tài:
1.Mục đích:
- Rèn luyện cho học sinh kĩ năng nói và viết văn bản.
- Vun đắp tình yêu Tiếng việt, biết giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của
Tiếng việt, góp phần hình thành nhân cách của con ngườ Việt Nam.
2.Nhiệm vụ:
Phân môn Tập làm văn là các bài văn nói hoặc viết theo các kiểu bài do
chương quy định. Vì thế học sinh phải có thêm nhiều kĩ năng khác ngoài các
kĩ năng nghe, nói, đọc, viết, dùng từ đặt câu. Tập làm văn có một ý nghĩa to
lớn vì nó có cả các nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển.
III/ Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu là những tài liệu:
* Phương pháp dạy học tiếng Việt của PGS-TS Lê Phương Nga,
Nguyễn Trí.
* Tài liệu bồi dưỡng chương trình và sách giáo khoa lớp 5 (mới)
* Chuyên đề bồi dưỡng Văn-Tiếng Việt lớp 5 của Nguyễn Thị
Kim Dung-TP. HCM.
* Thơ với lời Bình dành cho học sinh tiểu học của NXB GD.
* Văn miêu tả và phương pháp dạy học văn miêu tả của Nguyễn
Trí.
* Những bài văn chọn lọc lớp 5 của NXB GD.
* Dự giờ rút kinh nghiệm
PHẦN II:
PHẦN NỘI DUNG

Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiển của việc dạy Tập làm văn ở tiểu học
+ Chương trình mới
+ Cấu trúc chương trình Tập làm văn
Chương hai: Điều chỉnh nội dung và phương pháp dạy Môn Tập làm văn lớp 5
Gồm bốn bước sau:
- Bước một: Tính cụ thể sinh động.
- Bước hai: Tính sáng tạo.
- Bước ba: Tính chân thực
- Bước bốn: Tính hấp dẫn, truyền cảm.
Chương III: Kết quả giảng dạy.
1/ Mặt mạnh:
Dạy Tập làm văn là dạy các em tập suy nghĩ riêng, tập sáng tạo, tập thể
hiện trung thực con người mình qua từng bài học cụ thể.
2. Mặt Hạn chế.
Một số em còn rụt rè, góp phần xây dựng bài chưa tích cực lắm.
PHẦN III
Phần kết luận.
1/ Kết luận chung:
Đây là một biện pháp có tác dụng tích cực làm chuyển biến tư tưởng, nâng
cao nhận thức về giá trị cảm xúc và tâm hồn. Thiếu nó sẽ không tạo được sự
thống nhất hài hòa để các em được phát triển ở tương lai sau này.
2/ Những điểm đề xuất:
Trang bị các phương tiện cho các phòng học để áp dụng phương pháp
tích cực hóa hoạt động của học sinh một cách có hiệu quả.
Đức Phú, ngày 12 tháng 4 năm 2010
Người viết
Hồ Thị Như Nguyệt
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC NHÀ TRƯỜNG
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC PHÒNG GIÁO DỤC
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………

×