Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Hòan thiện và tạo điều kiện phát triển các Cty chứng khóan ở Việt Nam hiện nay - 4 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.96 KB, 8 trang )


25

khoán thành lập và quả lí quĩ đầu tư trong khi điều này không được Inđônêxia chấp
nhận.
Như vậy, điều kiện thành lập công ty chứng khoán có sự khác nhau ở các nước trên
thế giới. Tùy theo đặc thù mỗi quốc gia, các công ty chứng khoán cũng được tổ
chức theo nhiều mô hình khác nhau.
1.3. Công ty chứng khoán ở một số nước trên thế giới.
Trên thế giới có ba mô hình công ty chứng khoán cơ bản:
Thứ nhất: là mô hình ngân hàng đa năng toàn phần. Trong mô hình này không có sự
tách biệt nào giữa hoạt động ngân hàng và hoạt động kinh doanh chứng khoán. Các
ngân hàng thương mại cung cấp đầy đủ các dịch vụ ngân hàng, chứng khoán và bảo
hiểm trong một pháp nhân duy nhất. Đây là phương thức hoạt động ngân hàng đa
năng cổ truyền mà điển hình được áp dụng ở CHLB Đức, Hà Lan, Thuỵ Sỹ, các
nước Bắc Âu.
Thứ hai: là mô hình đa năng một phần (đa năng kiểu Anh), được áp dụng ở Anh và
một số nước có quan hệ gần gũi với Anh như Canada, australia. Ngân hàng khi
tham gia kinh doanh chứng khoán phải thành lập công ty con, có tư cách pháp nhân
độc lập. Các công ty con ít khi nắm giữ cổ phần của ngân hàng và thường không có
sự kết hợp giữa các công ty bảo hiểm và ngân hàng.
Thứ ba: là mô hình chuyên doanh. Nó được áp dụng ở nhiều nước như Mỹ,
Nhật.v.v. Theo mô hình này các công ty chứng khoán là các công ty chuyên doanh
độc lập. Các ngân hàng không được phép tham gia vào kinh doanh chứng khoán.
Dưới đây là mô hình công ty chứng khoán ở một số nước trên thế giới.
1.3.1. Mô hình Mỹ.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

26

Nét nổi bật của mô hình này là sự tách rời hoạt động của ngành ngân hàng và ngành


chứng khoán. Đạo luật Glass-Steagall chỉ cho phép ngân hàng thương mại tiến hành
chào bán các loại chứng khoán Chính phủ mới phát hành lần đầu nhưng cấm các tổ
chức này bảo lãnh phát hành chứng khoán doanh nghiệp hoặc tham gia vào hoạt
động môi giới.
Do thị phần các ngân hàng thương mại giảm xuống, năm 1997 Cục Dự trữ Liên
bang đã áp dụng điều luật 20 của Đạo luật Glass-Steagall cho phép các công ty mẹ
thuộc ngân hàng bảo lãnh phát hành một số chứng khoán nhất định.Và tới tháng
7/1988 Cục Dự trữ Liên bang tiến hành thí điểm công ty mẹ thuộc ngân hàng
thương mại J.P Morgan được bảo lãnh phát hành trái phiếu công ty và bảo lãnh phát
hành cổ phiếu, dần dần mở rộng cho phép đối với các ngân hàng thương mại khác.
Các tổ chức tham gia hoạt động kinh doanh chứng khoán tại Mỹ bao gồm các ngân
hàng đầu tư và các công ty môi giới. Việc thành lập các công ty chứng khoán được
thực hiện theo chế độ đăng kí. Các công ty môi giới và tự doanh muốn tham gia
kinh doanh chứng khoán chỉ cần đăng kí với SEC (Uỷ ban Giao dịch chứng khoán
Hoa Kỳ) và phải tham gia một tổ chức tự quản phù hợp (như NASD) hoặc xin trở
thành một thành viên của Sở giao dịch.
Một tiêu chuẩn quan trọng mà công ty chứng khoán ở Mỹ phải tuân thủ là tiêu
chuẩn về vốn. Mức vốn yêu cầu cho hoạt động kinh doanh được xác định bằng sự
kết hợp giữa yêu cầu về vốn của pháp luật và mức vốn cần thiết của công ty. ở Mỹ
không có sự phân biệt trong qui định giữa công ty chứng khoán trong nước và các
tổ chức nước ngoài tham gia khinh doanh chứng khoán tại Mỹ.
1.3.2. Mô hình Nhật.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

27

Trước đây, mô hình kinh doanh chứng khoán của Nhật là mô hình chuyên doanh,
ngân hàng không được phép tham gia vào hoạt động kinh doanh chứng khoán. Theo
Luật cải cách các định chế ban hành 4/1993, các tổ chức ngân hàng được phép tham
gia vào thị trường chứng khoán thông qua các công ty chứng khoán con. Đồng thời

các công ty chứng khoán lại được phép thành lập công ty con làm dịch vụ ngân
hàng.
Kinh doanh chứng khoán Nhật Bản được chia thành 4 loại hình và mỗi loại hình lại
có giấy phép kinh doanh riêng biệt, đó là nghiệp vụ: môi giới, tự doanh, bảo lãnh
phát hành, chào bán chứng khoán ( hay tham gia vào hệ thống bán lẻ các chứng
khoán phát hành ra công chúng). Ngoài ra, các công ty chứng khoán chuyên doanh
được phép cung cấp các dịch vụ khác liên quan tới chứng khoán như tư vấn đầu tư,
làm đại lí thu tiền mua các trái phiếu phát hành ra công chúng, thanh toán gốc và lãi
trái phiếu, đại lí trả lợi nhuận, mua lại hoặc huỷ từng phần tiền mua chứng chỉ quĩ
đầu tư, lưu kí chứng khoán
Công ty xin tham gia kinh doanh chứng khoán phải đáp ứng được các tiêu chuẩn:
Có nguồn tài chính lành mạnh.
Nhân sự phù hợp với hoạt động kinh doanh.
Chứng minh được việc xin tham gia kinh doanh chứng khoán là thiết thực đối với
công ty.
Vốn điều lệ tối thiểu đối với công ty chứng khoán thay đổi tuỳ theo loại hình kinh
doanh mà công ty đó tham gia:
Đối với các công ty không phải là thành viên của Sở giao dịch chứng khoán:
+ Tokyo hoặc Osaka SE : 300 triệu Yên.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

28

+ Nagoya SE : 150 triệu Yên.
+ Các Sở khác : 100 triệu Yên.
Đối với các công ty không phải là thành viên: 100 triệu Yên.
Đối với công ty bảo lãnh phát hành:
+ Công ty tham gia 3 loại hình môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành: 10 tỷ Yên.
+ Công ty chuyên bảo lãnh phát hành hoặc là người quản lí cho tổ hợp bảo lãnh
phát hành: 3 tỷ Yên.

+ Các loại hình khác: 500 triệu Yên.
Cho tới năm 1972 Nhật Bản mới cho phép công ty chứng khoán nước ngoài mở chi
nhánh tại Nhật Bản. Theo luật hiện hành, các công ty chứng khoán nước ngoài khi
mở chi nhánh tại Nhật Bản phải được sự cho phép của Bộ tài chính Nhật.
1.3.3. Mô hình Đức.
Các ngân hàng đa năng được tham gia vào tất cả các loại hình kinh doanh chứng
khoán mà không phải chịu sự ràng buộc nào. Các ngân hàng thường tiến hành các
nghiệp vụ tự doanh và môi giới các chứng khoán được phép giao dịch tại Sở giao
dịch chứng khoán. Các thành viên của Sở giao dịch chứng khoán, ngoài các ngân
hàng và tổ chức tín dụng, còn bao gồm những người được Nhà nước cử ra để lập
giá và nhóm các nhà lập giá tự do. Số lượng các ngân hàng và người lập giá tự do
không bị hạn chế, chỉ hạn chế số lượng người do Nhà nước đề cử để lập giá.
Chức năng của các thành viên này được thể hiện: chỉ có ngân hàng mới được nhận
lệnh mua và bán chứng khoán của khách hàng rồi chuyển tới Sở giao dịch chứng
khoán. Chi nhánh của các công ty chứng khoán nước ngoài tại Đức cũng phải có
giấy phép kinh doanh chứng khoán với tư cách là một ngân hàng.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

29

Người lập giá gồm có người lập giá tự do và người lập giá do Nhà nước đề cử.
Nhiệm vụ của người lập giá do Nhà nước cử ra là xác định giá chính thức của
chứng khoán trên cơ sở tình hình giao dịch thực tế ở Sở giao dịch. Người lập giá tự
do là người trung gian môi giới các nghiệp vụ giao dịch giữa các ngân hàng khác
với người lập giá tỷ giá do Nhà nước cử ra.
1.3.4. Mô hình tại một số nước Châu á điển hình.
a. Mô hình Hồng Kông.
ở mô hình này không có sự tách biệt giữa hai ngành chứng khoán và ngân hàng.
Hầu hết các ngân hàng đều tham gia kinh doanh chứng khoán thông qua công ty
con của mình.

Công ty kinh doanh chứng khoán có thể tồn tại dưới bất cứ hình thức nào: cá thể,
công ty cổ phần, công ty TNHH, công ty hợp doanh khi tham gia kinh doanh
chứng khoán, công ty chứng khoán chỉ cần đăng ký với Uỷ ban giao dịch chứng
khoán. Mức vốn pháp định không được đặt ra, nhưng công ty chứng khoán phải duy
trì mức vốn khả dụng theo quy định của pháp luật, chẳng hạn: công ty chứng khoán
chỉ làm một nghiệp vụ môi giới chứng khoán, vốn khả dụng tối thiểu là 500.000 H$,
đối với nhà kinh doanh chứng khoán tham gia hoạt động tự doanh vốn khả dụng tối
thiểu đối với các pháp nhân (công ty) là 3.000.000 H$; đối với thể nhân là 500.000
H$; đối với công ty hợp danh, từng thành viên pháp nhân là 3.000.000 H$, thể nhân
là 500.000 H$.
Hồng Kông không có quy định nào riêng biệt đối với các công ty chứng khoán nước
ngoài kinh doanh trên thị trường và không có một sự phân biệt đối xử nào giữa các
công ty trong nước và công ty nước ngoài.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

30

b. Mô hình Malaysia.
Trước đây các nhà kinh doanh chứng khoán Malaysia có thể là các cá nhân, công ty
cổ phần, công ty TNHH, công ty hợp danh Từ 1986, các nhà quản lý cho phép
ngân hàng thành lập công ty con kinh doanh chứng khoán. Các hoạt động nghiệp vụ
chủ yếu bao gồm: môi giới, tự doanh và bảo lãnh phát hành.
Cũng như những thị trường mới nổi, Malaysia có các quy định hạn chế sự tham gia
của nước ngoài. Công ty chứng khoán nước ngoài chỉ được phép tham gia kinh
doanh chứng khoán dưới hình thức liên doanh với công ty chứng khoán trong nước.
Tỷ lệ góp vốn của phía nước ngoài lúc đầu là 30%, sau đó là 49%. Do thị trường và
quản lý còn nhiều bất cập nên trên thực tế chưa có công ty liên doanh nào nâng mức
góp vốn trên 30%.
c. Mô hình Trung Quốc
Các công ty chứng khoán Trung Quốc là công ty TNHH hoặc công ty cổ phần được

thành lập theo luật công ty. Các công ty chứng khoán được thành lập theo chế độ
cấp phép. Cơ quan quản lý Nhà nước đảm nhiệm việc cấp phép là cơ quan giám
quản chứng khoán thuộc Quốc vụ viện.
Các nghiệp vụ kinh doanh chính gồm: môi giới, bảo lãnh phát hành, tự doanh. Công
ty chứng khoán gồm 2 loại: công ty môi giới chỉ thực hiện chức năng môi giới, công
ty chứng khoán đa năng thực hiện đồng thời 3 nghiệp vụ.
Điều kiện thành lập công ty đa năng và công ty môi giới chứng khoán:
+ Về vốn: đối với công ty đa năng, vốn điều lệ tối thiểu là 500 triệu Nhân dân tệ,
công ty môi giới là 50 triệu Nhân dân tệ
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

31

+ Những người điều hành và nhân viên nghiệp vụ phải có giấy phép hành nghề
chứng khoán.
+ Phải có địa điểm kinh doanh cố định và thiết bị giao dịch đủ tiêu chuẩn.
+ Có chế độ quản lý hoàn chỉnh và có hệ thống kiểm tra nội bộ hoạt động tự doanh
và môi giới chứng khoán hợp lý.
Chương II: Thực tiễn hoạt động của các công ty chứng khoán ở Việt nam hiện nay.
Qua nghiên cứu mô hình công ty chứng khoán ở một số nước trên Thế giới có thể
thấy sự thành lập, phát triển của các công ty chứng khoán gắn liền với sự hình
thành, phát triển của thị trường chứng khoán. Nó là một quá trình lâu dài. ở Việt
Nam, thị trường chứng khoán có nét đặc thù riêng, nó được hình thành và phát triển
theo định hướng của Nhà nước. Do vậy, quá trình thành lập, hoạt động của các công
ty chứng khoán cũng mang những đặc điểm riêng.
2.1. Quá trình thành lập các công ty chứng khoán.
2.1.1. Mục tiêu hoạt động của các công ty chứng khoán.
Trong 2-3 năm đầu, các công ty chứng khoán thuộc các ngân hàng chưa đặt vấn đề
nguồn thu lớn từ TTCK. Thị trường mới thành lập, quy mô nhỏ. Vì vậy, mục tiêu
trước mắt là tìm hiểu, thăm dò thị trường, tạo lập quan hệ khách hàng, bồi dưỡng,

đào tạo nghiệp vụ và tích luỹ kinh nghiệm cho đội ngũ cán bộ nhân viên. Trên cơ sở
đó, xúc tiến, triển khai các phương án kinh doanh một cách hoàn chỉnh. Để thực
hiện điều này các công ty đã tiến hành một số biện pháp như:
* Nắm bắt mọi động thái xu hướng phát triển, vận động của thị trường để đánh giá
và đúc rút những kinh nghiệm cần thiết ban đầu.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

32

* Triển khai một số nghiệp vụ thí điểm có chọn lọc để tập dượt và đúc rút những
kinh nghiệm kinh doanh.
* Bảo toàn vốn tích cực.
* Xúc tiến các hoạt động quảng cáo, tiếp thị tạo lập quan hệ với khách hàng tiền
năng.
Trong thời gian đầu các công ty chứng khoán chuyên doanh vẫn chưa đặt mục tiêu
lợi nhuận lên hàng đầu. Trước mắt các công ty này tham gia thị trường một cách
thận trọng, lần lượt triển khai các nghiệp vụ với mục đích làm quen với các hoạt
động kinh doanh chứng khoán. Từ đó rút ra những kinh nghiệm kinh doanh cần
thiết ban đầu. Họ đặt mục tiêu bảo toàn vốn, cắt giảm các chi phí không cần thiết,
duy trì hoạt động động kinh doanh thật vững sau đó mới mở rộng và phát triển thị
trường.
2.1.2. Quá trình thành lập các công ty chứng khoán.
ở Việt Nam, trong giai đoạn đầu phát triển TTCK, vì quy mô thị trường còn nhỏ
nên số lượng các công ty chứng khoán hiện nay còn ít. Điều này là phù hợp nhằm
giảm sự cạnh tranh gay gắt trong bối cảnh chi phí ban đầu của các công ty khi mới
thành lập là rất lớn mà thu nhập còn nhỏ, chưa đủ khả năng bù đắp chi phí. Ngoài
ra, để đảm bảo nguyên tắc xây dựng thị trường chứng khoán hiệu quả và an toàn
ngay từ giai đoạn đầu, hiện nay chúng ta đã chọn ra các công ty có quy mô lớn và
chất lượng cao tham gia hoạt động kinh doanh chứng khoán để giảm thiểu rủi ro.
Khi thị trường đã phát triển hiệu quả, quy mô và dung lượng thị trường đã lớn, số

lượng công ty chứng khoán có thể sẽ tăng lên để đáp ứng nhu cầu thị trường. Hiện
nay có 07 công ty chứng khoán đã thành lập và đi vào hoạt động.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

×