A. PHẦN MỞ ĐẦU
I.Tính cấp thiết và lý do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết , ngày nay, xu hướng toàn cầu hóa, quốc tế hóa phát triển
ngày càng mạnh mẽ cả về chiều rộng lẫn chiều sâu và dần dần trở thành một xu thế
khách quan cuốn hút tất cả các quốc gia trên thế giới tham gia. Động lực chính của
của xu hướng toàn cầu hóa là sự phát triển của lực lượng sản xuất mà lực lượng sản
xuất thì không ngừng lớn mạnh, đây là quy luật chung của mọi quốc gia, mọi thời đại
và mọi chế độ xã hội. Sự lớn mạnh đó không chỉ theo cấp số cộng mà còn theo cấp số
nhân.Các cấp số này lớn mạnh đến mức nào không chỉ phụ thuộc vào khoa học công
nghệ mà còn phụ thuộc vào các cách tổ chức quản lý sản xuất và càng về sau càng
mở rộng.
Trong xã hội phong kiến trình độ của lực lượng sản xuất còn hết sức thấp kém,
của cải vật chất sản xuất ra không đủ đáp ứng nhu cầu thiết yếu nhất của con người.
Bên cạnh đó quá trình tái sản xuất lại chỉ vận động trong lãnh thổ của một vùng hoặc
một quốc gia theo kiểu “ nội bất xuất ngoại bất nhập”.
Cuộc cách mạnh công nghiệp lần thứ nhất diễn ra làm cho lực lượng sản xuất phát
triển thêm một bước cao hơn, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
phong kiến ngày càng trở lên gay gắt, quan hệ sản xuất ấy đã không còn có thể dung
nạp nổi lực lượng sản xuất nữa. Để ra giải quyết mâu thuẫn cuộc cách mạng tư sản đã
nổ ra quật đổ chế độ phong kiến và chế độ tư bản chủ nghĩa đã ra đời. Đó là một
bước tiến lớn trong sự phát triển mới của xã hội loài người.Nhờ vậy mà lực lượng
sản xuất được giải phóng, của cải vật chất được sản xuất nhiều hơn và thị trường dân
tộc được hình thành thay cho thị trường vùng trước kia.Nhưng của cải vật chất được
sản xuất ngày càng nhiều dư thừa để đáp ứng nhu cầu trong nước và yêu cầu đặt ra là
phải mở rộng thị trường ra các nước khác.Các cuộc chiến tranh xâm lược thuộc địa,
cuộc đại chiến thế giới thứ nhất và thứ hai do các nước tư bản phát động chủ yếu là
vì mục đích này.
Càng phát triển, chủ nghĩa tư bản ngày càng thể hiện rõ bản chất bóc lột xấu xa
của nó. Mâu thuẫn giữa chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và tính xã hội hóa ngày
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
càng cao của lực lượng sản xuất ngày càng trở lên gay gắt và yêu cầu giải quyết mâu
thuẫn để giải phóng lực lượng sản xuất trở thành một yêu cầu vô cùng cấp thiết cần
phải thực hiện ngay. Đến thế kỷ XX cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đẩu tiên nổ ra
ở Nga lật đổ chế độ Nga hoàng, cùng với đó là sự ra đời của hàng loạt các nước xã
hội chủ nghĩa đã một phần giải quyết được mâu thuẫn trên, lực lượng sản xuất được
giải phóng và phát triển mạnh mẽ hơn cả về bề rộng lẫn bề sâu, quá trình tái sản xuất
xã hội ngày càng được nâng cao
Trong giai đoạn hiện nay, khi xu hướng chính của thế giới là các quốc gia chuyển
dần từ đối đầu sang đối thoại thì quá trình toàn cầu hóa càng có môi trường phát
triển. Không một quốc gia nào có thể phát triển khi không tham gia quá trình toàn cầu
hóa trong đó có Việt Nam của chúng ta.
Đảng và nhà nước ta đã chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần định hướng xã hội chủ nghĩa mà muốn phát triển kinh tế thì phát triển lực lượng
sản xuất đóng vai trò vô cùng quan trọng. Bất cứ một quốc gia nào muốn phát triển
kinh tế cũng phải tập trung phát triển và nâng cao trình độ của lực lượng sản xuất.
Với vai trò và vị trí quan trọng như vậy nên em đã chọn đề tài nghiên cứu “ Vai trò
của lực lượng sản xuất trong đời sống xã hội và vận dụng trong phát triển lực
lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay”.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
B. NỘI DUNG
I. Lực lượng sản xuất và vai trò của lực lượng sản xuất.
1.Lý luận chung về lực lượng sản xuất.
1.1.Định nghĩa về lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là năng lực thực tiễn cải biến giới tự nhiên của con người
nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống của mình.
1.2.Cấu trúc.
Lực lượng sản xuất bao gồm 3 yếu tố:
1.2.1.Người lao động.
Người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với sức mạnh, kỹ
năng kỹ sảo lao động của mình đã tác động vào tư liệu sản xuất trước hết là công cụ
lao động, tác dụng vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất. Do vậy
Nguời lao động giữ vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình tái sản xuất xã hội.
Bằng cách sử dụng tài năng về trí tuệ, sự khéo léo trong tay nghề cùng với các công
cụ sản xuất người lao động đã thực hiện cải biến giới tự nhiên theo nhu cầu của con
người, tác động vào tự nhiên và sản xuất ra của cải vật chất. C. Mác đã từng nhấn
mạnh rằng, "thiên nhiên không chế tạo ra máy móc, đầu máy xe lửa, đường sắt, điện
báo, máy sợi con dọc di động... Tất cả những cái đó đều là những cơ quan của bộ óc
con người, do bàn tay con người tạo ra, đều là sức mạnh đã vật hoá của tri thức” [3]
1.2.2.Tư liệu sản xuất.
Tư liệu sản xuất gồm 2 yếu tố:
- Đối tượng lao động:Đối tượng lao động là một bộ phận của giới tự nhiên mà
con người tác động và làm thay đổi hình thái của nó cho phù hợp với nhu cầu của con
người.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Tư liệu lao động: Tư liệu lao động bao gồm: tư liệu lao động và công cụ hỗ
trợ. Cùng với người lao động, công cụ lao động là một trong những yếu tố cơ bản
nhất của lực lượng sản xuất, đóng vai trò quyết định trong tư liệu sản xuất. Công cụ
lao động là do con người sang tạo ra, là sức mạnh của tri thức đã được vật chất hóa,
nó “nhân” sức mạnh của con người trong quá trình sản xuất. Công cụ lao động là yếu
tố động nhất của lực lượng sản xuất. Cùng với quá trình tích lũy kinh nghiệm, với
những phát minh, những sáng chế khoa học, công cụ lao động không ngừng được cải
tiến và hoàn thiện. Chính sự cải tiến và hoàn thiện đó đã làm biến đổi toàn bộ tư liệu
sản xuất. Đó chính là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi xã hội. Trình độ phát triển
của công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là tiêu
chuẩn để phân biệt giữa các thời đại kinh tế [10].
1.2.3.Khoa học kỹ thuật.
Trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học kĩ thuật đóng vai trò ngày càng
to lớn. Sự phát triển của khoa học kĩ thuật gắn liền với sản xuất là động lực mạnh mẽ
nhất để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Sự phát triển của khoa học kĩ thuật
đến mức nó đã trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều hoạt động kinh tế xã hội và
đang dần trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Những tác động của khoa học kĩ
thuật vào công cụ lao động đã khiến công cụ lao động có những biến đổi sâu sắc,
càng ngày càng có nhiều công cụ mang tính tự động hóa, tính linh hoạt và độ chính
xác cao.Những tác động vào đối tượng lao động cũng khiến cho đối tượng lao động
từ chỗ chủ yếu là sản phẩm của tự nhiên thì nay còn là sản phẩm của lao động, của
khoa học kĩ thuật. Sức lao động đặc trưng cho lao động hiện đại cũng không còn chỉ
là kinh nghiệm, thói quen mà còn là tri thức khoa học.Sự phát triển của khoa học kĩ
thuật đã làm thay đổi gần như hoàn toàn lực lượng sản xuất, những thay đổi này là
những thay đổi tích cực giúp cho lực lượng sản xuất ngày càng phát triển.
1.3.Ý nghĩa của quan hệ của các yếu tố trong cấu trúc của lực lượng sản xuất
3 yếu tố trong cấu trúc của lực lượng sản xuất có quan hệ mật thiết gắn bó và tác
động qua lại lẫn nhau hay có thể nói rằng các yếu tố này có quan hệ biện chứng với
nhau.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Thứ nhất là người lao động với vai trò là chủ thể của hoạt động sản xuất tác động
vào tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất xã hội.LêNin đã từng nhận xét rằng “
lực lượng sản xuất hang đầu của toàn thể nhân loại là công nhân người lao động”.
Bằng những tri thức thu thập được trong quá trình sản xuất tác động vào thiên nhiên,
người lao động đã không ngừng cải tiến, nâng cao và phát triển tư liệu sản xuất.
Trước kia đối tượng lao động chủ yếu là những bộ phận của tự nhiên thì trong thời
đại ngày nay đối tượng lao động còn là những bộ phận của sản phẩm của lao động,
của khoa học, công nghệ mà hàm lượng vật liệu tự nhiên trong đó ngày càng giảm.
Công cụ lao động cũng được cải tiến càng ngày càng hoàn thiện với trình độ cao hơn,
từ chỗ chỉ là những công cụ lao động thô sơ sử dụng chủ yếu là sức người thì ngày
nay những công cụ lao động ấy đã được thay thế bằng những máy móc tự động hóa
với hàm lượng tri thức và tính chính xác cao.
Ngược lại, tư liệu sản xuất cũng có những tác động nhất định đến người lao động.
Sự phát triển nhanh chóng của tư liệu sản xuất trong đó công cụ lao động là yếu tố
động nhất đã làm biến đổi nhanh chóng người lao động. Trình độ nhận thức của
người lao động càng ngày càng cao, tính chuyên môn hóa trong lao động sản xuất
càng ngày càng mạnh mẽ làm cho tính xã hội hóa của lực lượng sản xuất càng ngày
càng sâu sắc. Chính sự phát triển ấy đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển không
ngừng không những tăng theo cấp số cộng mà còn theo cấp số nhân.
2.Các yếu tố tác động đến lực lượng sản xuất.
Có rất nhiều yếu tố tác động đến lực lượng sản xuất trong đó có thể kể đến 2 yếu
tố chính là quan hệ sản xuất và dân số.
2.1. Quan hệ sản xuất.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất.
Chúng tồn tại không tách rời nhau mà tác động qua lại một cách biện chứng với nhau,
tạo thành quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất. Ở mỗi giai đoạn nhất định trình độ sản xuất của lực lượng sản xuất
lại khác nhau thể hiện ở trình độ của công cụ lao động kỹ năng lao động người lao
động. Gắn liền với trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của lực lượng sản
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
xuất. Tính chất của lực lượng sản xuất phát triển từ tính cá nhân đến tính xã hội hóa.
Khi sản xuất ở trình độ thấp kém thì tính chất của lực lượng sản xuất là tính cá nhân.
Khi sản xuất đã đạt đến trình độ cơ khí hiện đại thì tính chất của lực lượng sản xuất
là tính xã hội hóa và tính xã hội hóa này càng trở lên sâu sắc hơn.
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất và tái
sản xuất xã hội. Muốn thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển thì quan hệ sản xuất
phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp đó thể hiện ở
chỗ tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều là môi trường thuận lợi để phát triển lực
lượng sản xuất. Khi đó lực lượng sản xuất phải tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một
cách tối ưu giữa người lao động và tư liệu sản xuất tạo cơ sở để lực lượng sản xuất
phát huy tối đa khả năng của mình.
Sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất làm cho quan hệ sản xuất từ
chỗ phù hợp đã trở lên không phù hợp với lực lượng sản xuất. Khi đó quan hệ sản
xuất lại là “ xiềng xích” kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Và yêu cầu
khách quan đặt ra là phải thay thế kiểu quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất
mới phù hợp hơn để tạo điều kiện để lực lượng sản xuất phát triển.Các Mác đã từng
nhận xét rằng “ tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng ta lực lượng sản xuất
vất chất xã hội mâu thuẫn với quan hệ sản xuất hiện có …trong đó từ trước đến nay
lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng
sản xuất, những quan hệ ấy trở thành xiềng xích của lực lượng sản xuất. Khi đó bắt
đầu thời đại của một cuộc cách mạng xã hội”. Điều đó đã thúc đẩy xã hội phát triển.
Từ đó có thể kết luận rằng sự phát triển của lực lượng sản xuất đã quyết định và làm
thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó.
Với tư cách là một hình thức xã hội của sản xuất, quan hệ sản xuất cũng có tính
độc lập tương đối tác động trở lại lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất quy định mục
đích của sản xuất, tác động đến sự phân công quản lý lao động xã hội và do đó tác
động đến sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Ngược lại quan hệ sản xuất không phù hợp, lỗi thời lạc hậu hoặc tiến tiến hơn một
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
cách giả tạo cũng sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Và theo quy luật
chung thì quan hệ sản xuất cũ sẽ phải thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp
hơn.
Quan hệ sản xuất là yếu tố quan trọng nhất tác động đến sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Nó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm lực lượng sản xuất nhưng trong bất
kì thời kỳ nào lực lượng sản xuất muốn phát triển đều phải tuân theo quy luật phù
hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
2.2.Dân số.
Dân số là nguồn lực chính tạo ra người lao động- chủ thể của quá trình lao động sản
xuất. Do đó quy mô, cơ cấu, chất lượng dân số có ảnh hưởng trực tiếp tới người lao
động của lực lượng sản xuất. Quốc gia nào có dân số trẻ thì nước đó rất có lợi thế về
lao động với nguồn lao động trẻ dồi dào, năng động và đầy tính sáng tạo. Chất lượng
dân số cũng có tác động tới người lao động. Đất nước nào có mức sống cao, giáo
dục, y tế phát triển thì chắc chắn rằng chất lượng và trình độ nguồn lao động ở nước
cũng sẽ ở mức cao. Và sự phân bố dân cư cũng kéo theo sự phân bố nguồn lao động.
Ở đa số các quốc gia dân cư phân bố không đều dẫn đến sự tập trung không đều của
nguồn lao động. Đa số lao động tập trung ở các khu vực thành thị, ở khu vực nông
thôn chiếm tỷ lệ rất ít.Do vậy muốn phát triển lực lượng sản xuất ta cũng phải chú
trọng tới vấn đề dân số.
3.Vai trò của lực lượng sản xuất trong đời sống xã hội
Lực lượng sản xuất biểu thị mối quan hệ tác động giữa con người với tự nhiên,
biểu hiện trình độ sản xuất của con người , năng lực hoạt động thực tiễn của người
trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Do vậy lực lượng sản xuất có vai trò rất
quan trọng.
Lực lượng sản xuất phát triển sẽ thúc đẩy sản xuất phát triển, đẩy nhanh quá trình
tái sản xuất xã hội sản xuất ra nhiều của cải vật chất phục vụ đời sống con người.
Sự phát triển kinh tế suy cho cùng là sự phát triển của lực lượng sản xuất. Do vậy
Lực lượng sản xuất phát triển sẽ kéo theo sự phát triển kinh tế và đưa tới sự tiến bộ
xã hội.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Lực lượng sản xuất phát triển, của cải vật chất sản xuất ra nhiều hơn với chất
lượng cao hơn chính là điều kiện để nâng cao chất lượng đời sống nhân dân, xóa đói
giảm nghèo, giảm bớt thất nghiệp, thúc đẩy kinh tế, văn hóa, chính trị phát triển và
thực hiện thành công công bằng xã hội.
4.Kết luận
Qua đó ta có thể thấy rằng lực lượng sản xuất là yếu tố cơ bản nhất của hoạt động lao
động sản xuất trong xã hội, là nguyên nhân sâu xa của mọi sự phát triển kinh tế và
tiến bộ xã hội. Do vậy, bất cứ quốc gia nào, bất cứ thời đại nao, bất cứ cũng phải chú
trọng tới phát triển việc phát triển lực lượng sản xuất. Trong các yếu tố hợp thành lực
lượng sản xuất thì người lao động bao giờ cũng là chủ thể là lực lượng cơ bản nhất
của sản xuất xã hội.
II. Quá trình phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay
1. Bối cảnh của quá trình phát triển lực lượng sản xuất.
1.1.Thế giới.
Sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa trên thế
giới đã mở ra một trang sử mới cho sự phát triển của lực lượng sản xuất. Rõ ràng
rằng phương thức sản xã hội chủ nghĩa có tính ưu việt hơn so với phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa, nó đã xóa bỏ đi chế độ người bóc lột người trong sản xuất, ở
đây tư liệu sản xuất là của chung của cả cộng đồng chứ không còn là của riêng giai
cấp tư sản nữa. Ở đó, lực lượng sản xuất được giải phóng và ngày càng phát triển
mạnh mẽ hơn theo đúng quy luật chung- quy luật phù hợp giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất. Sự ra đời của phương thức sản xuất mới đã làm nảy sinh một cuộc
đấu tranh có tính quy luật giữa cái mới và cái cũ, giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
tư bản. Trong cuộc chiến tranh gay gắt này có những lúc tưởng chừng như cái mới đã
đẩy cái cũ tới bên bờ vực thẳm, nhưng chủ nghĩa tư bản đã kịp thời đưa ra những
điều chỉnh phù hợp nhằm xoa dịu mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiến bộ và
phương thức sản xuất tư bản lạc hậu và chủ nghĩa tư bản vẫn tồn tại song song với
chủ nghĩa xã hội.Còn trong quá trình xây dựng và phát triển của mình, chủ nghĩa xã
Website: Email : Tel (: 0918.775.368