Website: Email : Tel : 0918.775.368
Lời nói đầu
Để hoàn thiện mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá thì điều kiện
tiên quyết là vấn đề về vốn. Xoay quanh đề tài về vốn này đã có rất nhiều
cuộc tranh luận bàn cãi, hội thảo v.v... và cũng có rất nhiều những bài viết
đề cập đến, dù ở góc độ này hay góc độ khác. Đặc biệt là những bài viết đề
cập đến việc tạo ra vốn trung và dài hạn để đầu t dài hạn của nền kinh tế đất
nớc. Các doanh nghiệp có thể tiến hành tạo lập vốn bằng hai con đờng
chính. Thứ nhất, đi vay các ngân hàng thơng mại (NHTM) hoặc phát hành
trái phiếu Công ty. Thứ hai, phân chia quyền sở hữu của doanh nghiệp
bằng cách phát hành thêm cổ phiếu.
Với một chiều dài lịch sử hơn 400 năm hình thành và phát triển đến
nay thị trờng chứng khoán (TTCK) đã phổ biến ở hầu hết các quốc gia trên
thế giới. ở nớc ta, vấn đề xây dựng TTCK đã và đang thu hút sự quan tâm
của nhiều nhà kinh tế. Cho đến nay theo nhận định của các nhà kinh tế,
TTCK là một công cụ hữu hiệu để huy động vốn giúp hoàn thiện mục tiêu
công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nớc. Song điều quan trọng là TTCK nên
ra đời và phát triển ở nớc ta sẽ nh thế nào vẫn còn cha có quan điểm thống
nhất.
Nội dung đề tài gồm hai phần:
Phần I: Lý luận chung về thị trờng chứng khoán.
Phần II: Thực trạng thị trờng chứng khoán và những giải pháp để phát
triển thị trờng chứng khoán ở Việt Nam hiện nay.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Nội dung
Phần I - những vấn đề Lý luận về
thị trờng chứng khoán
Thị trờng chứng khoán xuất hiện từ rất lâu, tại thời điểm do cuộc
cách mạng khoa học kỹ thuật đợc phát triển với tốc độ cao nhằm đáp ứng
về vốn cho cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật. TTCK ra đời và tồn tại là
một thực thể khách quan theo sự phát triển của một nền sản xuất hàng hoá.
I- Chứng khoán, sự hình thành thị trờng chứng
khoán và cơ cấu của TTCK.
1. Chứng khoán.
1.1. Khái niệm về chứng khoán.
Chứng khoán là một loại giấy chứng nhận đã cho vay hoặc đã đầu t
một số vốn. Chỉ những chứng khoán đã đăng ký đợc Nhà nớc cho phép lu
hành mới đợc pháp luật thừa nhận vào bảo hộ quyền sở hữu, quyền thu lợi
tức và lợi nhuận. Là tài sản hợp pháp, chứng khoán đợc tự do chuyển nh-
ợng, mua bán, đợc dùng để thế chấp các khoản vay ngân hàng.
1.2. Phân loại chứng khoán.
Có nhiều cách phân loại song cách thông dụng là chia chứng khoán
ra làm hai loại: Cổ phiếu và trái phiếu.
- Cổ phiếu (chứng khoán vốn): Là chứng khoán xác nhận quyền sở
hữu một phần Công ty cổ phẩn. Chứng khoán vốn do các Công ty phát
hành. Ngời sở hữu chứng khoán vốn không phải là chủ nợ của Công ty mà
là ngời sở hữu Công ty và có quyền hởng thu nhập từ lợi nhuận Công ty.
- Trái khoán (chứng khoán nợ vốn): Là chứng khoán xác nhận một
khoản nợ của ngời phát hành đối với ngời nắm giữ chứng khoán. Chứng
khoán nợ thể hiện sự cam kết của ngời phát hành thanh toán những khoản
tiền lãi và tiền gốc vào những thời điểm nhất định.
2. Sự hình thành thị trờng chứng khoán.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Một tất yếu là ngời sở hữu chứng khoán không thể tự do trả lại
chứng khoán cho ngời phát hành để rút vốn về mặt dù họ nhìn thấy đầu t
chỗ khác có lợi hơn hoặc rút vốn ngay cả khi lỡ hẹn lợi tức, cổ tức hấp dẫn.
Tức là họ có nhu cầu bán chứng khoán nhng không có chỗ bán thuận lợi.
Trong khi đó lại có nhiều ngời cần mua chứng khoán ở những Công ty mà
họ muốn. Khi đó cung và cầu về chứng khoán xuất hiện dẫn đến việc mua
đi bán lại các loại chứng khoán. Việc này lúc đầu diễn ra một cách lộn xộn,
vô tổ chức. Sau đó xuất hiện những kẻ tìm sống bằng nghề môi giới giữa
ngời cần mua và ngời bán chứng khoán. Lúc đầu họ làm cả hai việc: môi
giới và đầu cơ chứng khoán. Sau đó hai việc này cũng dần dần đợc chuyên
môn hoá thành hai loại ngời: một loại ngời chuyên môi giới chứng khoán,
một loại ngời chuyên về kinh doanh chứng khoán. Hai loại ngời này giúp
cho cung - cầu về chứng khoán gặp nhau, hình thành thị trờng chứng
khoán. Bớc cao nhất trong lịch sử phát triển của TTCK là việc Chính phủ
dồn những ngời môi giới chứng khoán và những ngời kinh doanh chứng
khoán vào một chỗ để tổ chức việc mua bán có trật tự, gọi là sở giao dịch
chứng khoán (SGDCK). Nh vậy TTCK và SGDCK đã ra đời và những hạn
chế của việc huy động vốn thông qua phát hành chứng khoán đợc giải toả.
3. Cơ cấu của thị trờng chứng khoán.
Nghiên cứu cơ cấu của thị trờng chứng khoán là phân tích xem thị tr-
ờng chứng khoán bao gồm những bộ phận nào, và tìm hiểu mối quan hệ
giữa các bộ phận đó. Có thể xem xét cơ cấu thị trờng chứng khoán dới một
số góc độ sau:
3.1. Căn cứ vào tính chất các chứng khoán đợc giao dịch.
- Thị trờng cổ phiếu: Là thị trờng nơi các cổ phiếu đợc phát hành và
giao dịch. Thị trờng cổ phiếu gồm có thị trờng cổ phiếu sơ cấp và thị trờng
cổ phiếu thứ cấp.
- Thị trờng trái phiếu: Là thị trờng nơi các trái phiếu đợc phát hành
và giao dịch. Thị trờng trái phiếu cũng gồm có thị trờng trái phiếu sơ cấp và
thị trờng trái phiếu thứ cấp.
3.2. Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Thị trờng sơ cấp: Là thị trờng mua bán các chứng khoán lần đầu đ-
ợc phát hành. Sự hoạt động của thị trờng sơ cấp tạo ra một "kênh" thu hút
huy động nguồn tiền nhàn rỗi của dân chúng chuyển thành vốn đầu t cho
nền kinh tế. Thông qua thị trờng này, nhà phát hành thực hiện đợc việc bán
các chứng khoán mới cho nhà đầu t, thu đợc tiền về tăng thêm một lợng
vốn mới.
- Thị trờng thứ cấp: Là nơi giao dịch các chứng khoán đã đợc phát
hành trên thị trờng sơ cấp.
Sự hoạt động của thị trờng thứ cấp tạo ra khả năng dễ dàng, thuận
tiền chuyển đổi chứng khoán thành tiền. Trên thị trờng này diễn ra việc
mua bán chứng khoán giữa các nhà đầu t, tiền thu đợc từ việc bán chứng
khoán không thuộc về nhà phát hành mà thuộc về nhà đầu t bán chứng
khoán nhờng lại quyền sở hữu chứng khoán cho nhà đầu t khác.
Giữa thị trờng sơ cấp và thị trờng thứ cấp có mối quan hệ tơng tác
gắn bó chặt chẽ với nhau. Nếu không có thị trờng sơ cấp thì không có hàng
hoá để lu thông trên thị trờng thứ cấp. Nhng nếu không có sự tồn tại của thị
trờng thứ cấp thì thị trờng sơ cấp cũng khó có thể phát triển và hoạt động
có hiệu quả. Vì thế, mặc dù sự hoạt động của thị trờng thứ cấp không làm
tăng thêm vốn đầu t cho nhà kinh tế song sự tồn tại và hoạt động nhịp
nhàng của thị trờng thứ cấp làm cho thị trờng sơ cấp hoạt động có hiệu quả
và phát triển.
II- Những điều kiện cơ bản để thành lập TTCK.
Về mặt lý luận để TTCK có thể hoạt động và tồn tại, cần có những
điều kiện sau đây:
Thứ nhất, TTCK là một loại thị trờng mua bán các hàng hoá đặc
biệt - các cổ phiếu. Để có thị trờng này, trớc hết phải có các hàng hoá để
mua bán. Các hàng hoá náy phải có một số lợng đủ lớn và đợc đăng ký qua
thị trờng. Để có chứng khoán cần có nhiều Công ty cổ phần phát hành cổ
phiếu và xem xét những chứng từ có giá thông thờng có thể thay đổi thể
thức để tham gia thị trờng chứng khoán.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Thứ hai, phải có các chủ thể để tham gia vào quá trình mua bán trên
thị trờng chứng khoán. Đó là ngời mua, ngời bán, ngời môi giới. Chính vì
hoạt động của các chủ thể trên hết sức khác nhau, rất phức tạp nên cần phải
có những con ngời thực hiện nhiệm vụ quản lý các hoạt động của họ.
Thứ ba, phải có một hệ thống luật pháp tơng đối hoàn chỉnh để định
ra các "luật chơi" trong thị trờng này.
Thứ t, phải đợc tổ chức theo những hình thức phù hợp để thực hiện
hoạt động mua bán trên TTCK.
Thứ năm, phải có những cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại để đảm bảo
kỹ thuật thanh toán, giao dịch đồng thời ngăn chặn tệ làm chứng khoán giả.
III- Hai mặt của thị trờng chứng khoán.
Một tất yếu là, mỗi sự vật đợc sinh ra bao giờ cũng có hai mặt; mặt
tích cực và mặt tiêu cực, lại lợi và cái hại. Điều này trong lĩnh vực kinh tế
càng bộc lộ rõ hơn cả. Khi nói đến kinh tế thị trờng, xét trên góc độ tài
chính thờng ngời ta nhắc ngay tới sự có mặt của thị trờng chứng khoán, và
thờng chỉ nhìn thiên về một mặt lợi, còn các khuyết tật của nó dễ bỏ qua.
Khi cha có sự xuất hiện của thị trờng chứng khoán mọi hoạt động kinh tế
còn đang ở trong giai đoạn bình thờng, ít có phá sản, ít đỗ vỡ, nhng khi có
thị trờng chứng khoán các hoạt động kinh tế sẽ sôi động hẳn lên, thúc đẩy
nền kinh tế phát triển. Bên cạnh đó cũng xuất hiện sự đỗ vỡ, sự phá sản của
những ngời làm ăn kém hiệu quả ngày càng nhiều. Rõ ràng điều kiện ra đời
của thị trờng chứng khoán, cũng nh các thành viên tham gia trên thị trờng
này đòi hỏi phải ở một trình độ nhất định, ở nớc ta khi có TTCK ra đời và ai
là những ngời tham gia trên thị trờng này, tự họ cần phải hiểu rõ mặt tích
cực cũng nh các khuyết tật của nó để xác định xem mình có tồn tại và phát
triển đợc trên thị trờng không? Trong bài viết này chúng em hãy bình luận
về mặt lợi, mặt hại của thị trờng chứng khoán.
1. Mặt tích cực (mặt thứ nhất) của thị trờng chứng khoán.
- Trong nền kinh tế thị trờng, vốn phải đợc huy động từ mọi tầng lớp
nhân dân và thờng từ các nguồn rất phân tán nên cần phaỉ có những tổ chức
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nhất định để thu hút nguồn vốn này. Vai trò của ngân hàng là thu hút vốn,
bảo vệ sự an toàn tiền gửi của cá nhân cũng nh của các đơn vị tổ chức kinh
tế xã hội và trong quá trình đó ngân hàng có thể sử dụng một tỷ lệ nhất
định của tiền gửi để cho vay hay đầu t vào các loại chứng khoán có tính
thanh toán cao. Ngân hàng hoạt động nhằm mục tiêu lợi nhuận nhng cũng
phải đảm bảo thanh toán của khách hàng, cho nên phải có sự cân nhắc giữa
lợi nhuận và thanh toán. Trong nền kinh tế thị trờng, hệ thống ngân hàng
thơng mại có chỗ dựa vững chắc là ngân hàng trung ơng (ngời cho vay sau
cùng) để đảm bảo thanh toán cho các ngân hàng. Đây là mối quan hệ
truyền thống trong hệ thống ngân hàng để huy động vốn và cấp tín dụng
cho cá nhân hay đơn vị có nhu cầu.
Với sự ra đời của TTCK, một hệ thống thứ hai khuyết khích tiết kiệm
và đầu t của dân chúng cũng nh của những định chế có khả năng huy động
hay thu hút nguồn vốn trên của dân chúng nh quĩ hu bổng, Công ty bảo
hiểm. Hoạt động của TTCK là thu hút nguồn vốn lớn cho cả khu vực t nhân
cũng nh từ các đơn vị ,tổ chức xã hội và cũng chính nhờ có TTCK và hoạt
động của nó mà đầu t đợc mở rộng, và độ thanh toán cao hơn.
TTCK có tổ chức sẽ cung cấp mọi thông tin cần thiết về các loại cổ
phiếu, chứng khoán cũng nh khả năng sinh lời của từng loại trong tơng lai.
Thị trờng chứng khoán thu thập và phân tích các nguồn thông tin cần thiết
nh thành tích trong tơng lai của đơn vị đó, cũng nh sự đối chiếu với các loại
chứng khoán khác. Nếu không có thị trờng chứng khoán mỗi cá nhân phải
tự tìm các nguồn thông tin cần thiết và sẽ gặp nhiều khó khăn. Điều này sẽ
hạn chế hoạt động của thị trờng, hạn chế sự lu chuyển nguồn vốn và tăng
mức rủi ro, làm cho sự phân bổ tài nguyên trong đầu t kém hiệu quả. Trong
một hệ thống không có TTCK, sự hình thành và kinh doanh chứng khoán
sẽ rất tốn kém, thậm chí không có hiệu quả. Ngời phát hành có thể phải đi
rao bán, từng khách hàng và nh vậy sẽ rất hạn chế và không thể đa vốn từ
nơi thừa đến nơi thiếu một cách thuận tiện.
- TTCK, nơi tiện lợi huy động vốn.
Nhìn lại quá trình phát triển của TTCK, ta có thể thấy ngay rằng đây
là nơi thuận tiện huy động nguồn vốn cần thiết cho hoạt động của khách
hàng. Chẳng hạn, đối với thị trờng lâu đời nh New York, London... số vốn
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
huy động từ thị trờng này rất lớn, cả từ 1000 tỷ USD trở lên. Trớc đây, các
đơn vị kinh tế đều lệ thuộc vào ngân hàng để có vốn hoạt động , có nghĩa
là phải đi vay với lãi suất biến đổi tuỳ thuộc vào các ngân hàng. Ngày nay,
tại hầu hết các nớc, các đơn vị kinh tế cũng nh Nhà nớc đã huy động vốn
trực tiếp từ các nguồn tiết kiệm bằng cách phát hành cổ phiếu hay trái
phiếu. Nhờ có TTCK mà các nhà trung gian, các nhà môi giới, các nhà bảo
lãnh, cổ phiếu của một đơn vị kinh tế có thể phát hành bán rộng rãi cho dân
chúng nguồn vốn huy động. Do đó, đảm bảo đợc sử dụng rộng rãi và lâu
dài. Càng làm ăn có hiệu quả, cổ phiếu càng có giá tự do thu đợc cổ tức
cao. Đơn vị kinh tế không phải lo lắng về thời gian hoàn trả nh đi vay ngân
hàng và cũng không phải bận tâm vì giá trị cổ phần lên xuống.
Chính phủ Trung ơng hay địa phơng cũng có thể huy động vốn bằng
cách phát hành các loại chứng khoán nh công trái hay tín phiếu kho bạc.
Chính phủ cũng có thể sử dụng tập đoàn bảo lãnh phát hành hay thông qua
ngân hàng Trung ơng. Các loại công trái của Chính phủ là một công cụ phổ
biến để huy động nguồn vốn cần thiết dùng cho chi tiêu và đầu t của Chính
phủ thay vì phải sử dụng biện pháp phát hành tiền dễ dẫn đến lạm phát.
Dân chúng thờng thích các loại công trái quốc gia vì đợc lãi suất ổn định
và đảm bảo thu hồi vốn khi đến hạn. Công trái phù hợp với những nhà đầu
t không thích mạo hiểm, không chấp nhận mức rủi ro cao nh cổ phiếu của
các đơn vị kinh tế.
- TTCK, đảm bảo tính thanh khoản.
Thị trờng sơ cấp đảm nhiệm việc phát hành cổ phiếu, chứng khoán
mới, thị trờng thứ cấp là nơi mua bán các loại cổ phiếu hay chứng khoán đã
phát hành. Thị trờng thứ cấp hoạt động nhộn nhịp ở bất kỳ TTCK nào và
mỗi ngày có hàng triệu cổ phiếu chứng khoán đổi chủ. Mua bán cổ phiếu
hay chứng khoán trên thị trờng thứ cấp không tạo thêm nguồn vốn mới cho
đơn vị kinh tế mà chỉ đơn giản thay đổi quyền sở hữu đối cới cổ phiếu hay
chứng khoán. Thị trờng thứ cấp có vai trò quan trọng là bảo đảm tính thanh
khoản của các loại công cụ tài chính,có nghĩa là cổ phiếu và chứng khoán
có thể thông qua các nhà trung gian, các nhà môi giới bán ra để thu tiền
mặt đáp ứng nhu cầu cần thiết đối với cá nhân hay đơn vị. Chính sự đảm
bảo này mà các cá nhân hay các tổ chức kinh tế, xã hội sẵn sàng mua cổ
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phiếu hay chứng khoán trên thị trờng sơ cấp. Nếu không có phơng tiện này
ngời ta sẽ rất e dè trong việc sử dụng những nguồn tiết kiệm hoặc dự trữ
phòng khi bất trắc. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần lu ý đến hai điều tiên
quyết để biến thành cổ phần hay chứng khoán. Một là, phơng tiện dễ dàng
và phi thực hiện thấp: nếu mất nhiêù và phí cao, cổ phiếu hay chứng khoán
có tính thanh khoản thấp. Hai là, nguồn vốn chính phải đợc bảo vệ, không
chịu ảnh hởng của sự biến động giá trị. Mọi biến động trên thị trờng đều
tạo ảnh hởng trên giá trị của cổ phiếu hay chứng khoán, do đó đôi khi ngời
muốn bán không đảm bảo đợc vốn chính (mệnh giá) của cổ phiếu. Chứng
khoán có thời gian thu hồi càng lâu, tính thanh khoản càng thấp.
- Tạo thói quen về đầu t.
Chúng ta biết rằng nguồn tiền nhàn rỗi còn tiềm tàng trong dân
chúng rất lớn và hệ thống ngân hàng cha thu hút đợc tiềm tàng này. Hơn
nữa, dân chúng cũng cha hiểu đầy đủ về hùn vốn. Chúng ta đã thấy thực tế
nhiều Công ty cổ phần ra đời và nhiều cổ đông đã xem phần vốn của mình
nh là một loại tiền gửi và đòi hỏi đơn vị phải đảm bảo một lãi suất tơng đ-
ơng lãi suất tiền gửi cho phần hùn vốn của mình không cần biết đơn vị làm
ăn ra sao.
TTCK, với cơ sở pháp lý hoàn chỉnh và bộ máy quản lý hữu hiệu, sẽ
là môi trờng thuận lợi cho việc phát hành cổ phiếu và các loại chứng khoán
cũng nh mọi nghiệp vụ mua bán ở thị trờng thứ cấp. Với sự phổ biến và h-
ớng dẫn rộng rãi, ngời dân sẽ sử dụng nguồn tiết kiệm của mình để mua cổ
phiếu hay chứng khoán với niềm tin về lợi nhuận hay tiền lãi bảo đảm. Dĩ
nhiên, các nhà trung gian và môi giới phải làm tốt vai trò trung gian của
mình để các nhà đầu t nắm đợc thông tin đầy đủ về các đơn vị kinh tế đã
hoặc đang chuẩn bị phát hành cổ phiếu. Nguồn tiết kiệm quan trọng này,
nếu không có TTCK, sẽ tiếp tục nằm yên dới dạng cất trữ không sinh lợi, và
cũng chẳng đóng góp gì cho quá trình phát triển kinh tế . TTCK chẳng
những khuyến khích đầu t mà còn là nơi tạo điều kiện thực hiện mọi sự
mua bán dễ dàng khi cần thiết. Sự phát triển của thị trờng sơ cấp càng trở
nên hấp dẫn và tạo thói quen cho mọi ngời tham gia vào hoạt động của thị
trờng.
- Hỗ trợ định giá cổ phần trong chơng trình cổ phần hoá.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Vấn đề then chốt ở đây là các đơn vị kinh tế muốn tham gia TTCK
cần phải đợc đánh giá khá chính xác về tình hình hoạt động của đơn vị thể
hiện qua bảng cân đối tài sản và tài khoản lỗ lãi. Muốn làm đợc điều này,
đơn vị phải cung cấp đầy đủ thông tin để bộ phận chuyên môn của thị trờng
thẩm định lại tất cả các loại tài sản, các khoản nợ và đánh giá hoạt động
trong từng năm. Mức độ lỗ, lãi của đơn vị là thớc đo giá trị cổ phần và ngời
ta cũng quan tâm đến triển vọng của đơn vị trong tơng lai. Sự thành bại của
một đơn vị còn lệ thuộc vào trình độ quản trị của đơn vị. Do đó, trong kinh
tế thị trờng không có sự khoan nhợng trong việc thay đổi cấp lãnh đạo của
đơn vị. Quyền lợi của cổ đông phải đặt lên trên hết. Nếu không, đơnvị sẽ
khó tồn tại. Quản trị tốt sẽ mang lại hiệu quả cao và sẽ làm tăng giá trị cổ
phần. Ngợc lại, đơn vị sẽ lâm vào tình trạng suy sụp có thể đi đến phá sản.
- Điều tiết việc phát hành cổ phiếu.
Sự tồn tại và phát triển của TTCK hoàn toàn tuỳ thuộc vào sự tham
gia thị trờng của các đơn vị kinh tế. Tuy nhiên, sự tham gia này phải có
điều kiện và chỉ khi nào các điều kiện này đợc thoả mãn đầy đủ, đơn vị mới
có khả năng yết giá trên thị trờng để tiến hành mua bán. TTCK có quyền
tạm ngừng mua bán một loại cổ phiếu nào đó, nếu có vi phạm sẽ có thể đa
đến thiệt hại cho nhà đầu t và chỉ cũng cho phép yết giá trở lại khi mọi
điều kiện cần thiết đợc đáp ứng đầy đủ. Nh vậy, vai trò quản lý của TTCK
là bảm đảm sự an toàn cho các nhà đầu t bằng cách xem xét, đánh giá các
loại cổ phiếu trớc khi cho phép đa ra mua bán. Vai trò điều tiết của TTCK
còn có thể hớng các đơn vị kinh tế đầu t vào các ngành hay lĩnh vực đợc
khuyến khích cũng nh thúc đẩy chơng trình cổ phần hoá của Nhà nớc bằng
cách phát hành cổ phiếu của những đơn vị đã đợc đánh giá tơng đối chính
xác.
2. Mặt thứ hai (mặt tiêu cực) của thị trờng chứng khoán.
- Yếu tố đầu cơ. Trong TTCK đầu cơ là một yếu tố có tính toán của
những ngời chấp nhận rủi ro. Họ có thể mua cổ phiếu ngay với hy vọng là
giá sẽ tăng trong tơng lai và thu hồi đợc lợi nhuận trong từng thơng vụ.
Yếu tố đầu t dễ gây ảnh hởng dây chuyền làm cho cổ phiếu có thể tăng giả
tạo. Sự việc này càng dễ xảy ra khi có nhiều ngời cùng kết cấu với nhau để
mua hay bán ra một số cổ phiếu nào đó của một đơn vị kinh tế. Sự kết cấu
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
này sẽ tạo sự khan hiếm hay thừa làm cho giá cổ phiếu có thểlên hay
xuống đột ngột.
- Mua bán nội gián. Một cá nhân nào đó lợi dụng thông tin nội bộ
trong một đơn vị kinh tế để mua bán cổ phiếu của đơn vị đó có ảnh hởng
đến giá trị của cổ phiếu nếu thông tin đó đợc phổ biến rộng rãi. Mua bán
nội gián đợc xem là phi đạo đức về mặt thơng mại vì ngời có nguồn thông
tin từ bên trong sẽ có một lợi thế không hợp lý đối với nhà đầu t bên ngoài
để kiếm lời v ề cho riêng mình hay tránh lỗ và dĩ nhiên là đi ngợc lại
nguyên tắc: mọi nhà đầu t đều phải có cơ hội nh nhau. Mua bán nội gián đ-
ợc xem nh là vi phạm quyền lợi chung, vì lợi dụng nguồn thông tin từ bên
trong, ngời mua bán thu đợc lợi nhuận hay tránh đợc lỗ và hậu quả sẽ do
ngời không có đợc nguồn thông tin đó gánh chịu. Và, nhều nớc đã có luật
cấm về việc mua bán này.
- Mua bán cổ phiếu ngoài thị trờng chứng khoán.
Luật về TTCK cũng cần phải quan tâm đến việc hạn chế những nhà
môi giới mua bán cổ phiếu bên ngoài TTCK. Nếu để việc mua bán này đợc
tự do thực hiện sẽ gây hậu quả khó lờng. Vì bộ phận quản lý không thể nào
biết đợc việc chuyển nhợng quyền sở hữu cổ phiếu của một đơn vị nào đó.
Mọi sự mua bán bên ngoài có khả năng tạo áp lực cho các nhà đầu t khác,
thậm chí đa đến việc khống chế hay thay thế cả lãnh đạo của đơn vị. Hầu
hết các TTCK đều quy định là mọi sự mua bán cổ phần đã đăng ký với
TTCK phải đợc thực hiện thông qua thị trờng. Nếu không quy định nh vậy
thì mọi sự lạm dụng trong việc mua bán và chuyển nhợng có thể xảy ra, có
khả năng tạo ảnh hởng xấu đối với đơn vị kinh tế có liên quan.
- Phao tin đồn nhảm về hoạt động của một đơn vị kinh tế.
Điều này cũng gây hậu quả xấu cho đơn vị, có thể đa đến tình trạng
cổ phiếu đợc đa ra bán ồ ạt làm giá trị cổ phiếu giảm đột ngột. Những ngời
có ý đồ xấu có thể đứng ra mua các cổ phiếu nào đó để khống chế Công ty
và hởng một số lãi đáng kể sau khi tin đồn đã đợc kiểm chứng. Đây cũng là
điều cấm trong các luật chi phối hoạt động của TTCK.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Liên tục mua cổ phiếu của một đơn vị kinh tế nào đó ở giá cao và
bán ra cùng loại cổ phiếu đó ở giá thấp với mục tiêu làm ảnh hởng đến giá
trị cổ phiếu để đầu cơ.
Hoạt động của TTCK có những yếu tố đầu cơ, nhng cũng có những
yếu tố đầu cơ bị cấm nh mua bán liên tục một loại cổ phiếu nào đó nhằm
làm cho giá trị của cổ phiếu tăng hay giảm để đầu cơ. Ngời đầu cơ mau cổ
phiếu với giá cao để đẩy giá lên và đến một lúc nào đó họ bắt đầu bán ra để
kiếm lời. Hiện tợng này tuy không phổ biến nhng cũng thờng xảy ra và
việc phát hiện cũng không phải dễ dàng. Ngời ta cũng có thể giả vờ mua
bán cổ phiếu nhng không thực sự chuyển quyền sở hữu với mục đích là đẩy
giá lên hoặc xuống. Bộ phận qql TTCK cũng cần phải theo dõi. Trên thực
tế không cho phép sử dụng tín dụng ngân hàng để mua bán cổ phiếu, nhất
là đối với các thơng vụ mang tính chất đầu cơ. Sự sụp đổ của một Công ty,
trong trờng hợp này sẽ có ảnh hởng đến ngân hàng cho vay và uy tín của
ngân hàng cũng sẽ chịu ảnh hởng.
- Biến động về tình hình chung của nền kinh tế.
TTCK là một công cụ để huy động vốn và cũng là nơi để hiện kim
hoá cổ phiếu khi có yêu cầu. Trong tình hình kinh tế phát triển, những ngời
đầu cơ đa giá lên giúp cho thị trờng thu hút nguồn vốn lớn. Ngợc lại, trong
trờng hợp có suy thoái, đầu t giảm, mua bán trên thị trờng cũng có chiều h-
ớng giảm và những ngời đầu cơ đa giá xuống, có thể làm cho thị trờng biến
động bất thờng, có khả năng dẫn đến khủng hoảng. Trong trờng hợp này,
vai trò của Nhà nớc rất quan trọng, phải bơm tiền vào nền kinh tế để tránh
mọi sự biến động lớn trong chỉ số cổ phiếu.
Rõ ràng hiểu cả hai mặt tích cực cũng nh các khuyết tật của thị trờng
chứng khoán là một điều cần thiết cho bất cứ thành viên nào tham gia trên
thị trờng chứng khoán.
Từ những lý luận chung về TTCK ở trên, chúng ta tiến tới thực trạng
và những giải pháp để phát triển TTCk ở Việt Nam hiện nay.
Website: Email : Tel : 0918.775.368