PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Lịch sử văn học ở mức độ nhất định có thể hiểu là lịch sử của các thể loại
văn học. Do đó, nghiên cứu các thể loại văn học có thể góp phần soi sáng tiến trình
lịch sử văn học dân tộc. Gần đây, hướng nghiên cứu văn học trung đại theo thể loại
được giới nghiên cứu trong và ngoài nước đặc biệt quan tâm, đã xuất hiện nhiều
công trình, luận án nghiên cứu về các thể loại văn học trung đại như tiểu thuyết chữ
Hán, tiểu thuyết chương hồi, truyện thơ Nôm, thể kí trung đại Tuy nhiên, đối với
thể loại từ, đến thời điểm này mới chỉ có những nghiên cứu, mô tả bước đầu, đôi khi
còn nhiều nhầm lẫn, chưa đủ để hình dung về sự vận động và phát triển cũng như
đóng góp của thể loại này trong văn học trung đại Việt Nam.
Từ là thể loại văn học có nguồn gốc Trung Quốc. Trong văn học Trung Quốc,
đây là thể loại quan trọng, nhiều thành tựu, đồng thời có ảnh hưởng đối với văn học
các nước Đông Á. Nghiên cứu thể loại từ trong văn học trung đại Việt Nam một mặt
có thể thấy rõ vị trí và sự đóng góp của nó cho văn học dân tộc, từ đó soi sáng thêm
cho tiến trình văn học sử; mặt khác, xem xét thể loại từ Việt Nam trong sự đối sánh
với thể loại này ở Trung Quốc và các nước Đông Á khác là hướng mở, không
những có thể góp phần làm sáng tỏ quy luật tiếp thu, kế thừa, sáng tạo của văn học
dân tộc mà còn giúp nhìn nhận nền văn học quá khứ của dân tộc trong những tương
quan rộng hơn.
Vì những lí do đó, người viết chọn “Thể loại từ trong văn học trung đại Việt
Nam” làm đề tài luận án của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Luận án tổng thuật, nghiên cứu một cách tổng quan về thể loại từ ở Trung
Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, xem đó như một “bối cảnh rộng” để định vị, so sánh
với thể loại từ tại Việt Nam.
Đối với thể loại từ tại Việt Nam, luận án sưu tầm, giám định các văn bản có
ghi chép tác phẩm từ hiện còn, làm rõ tính chân ngụy của tác phẩm, phân định rõ về
tác quyền cũng như niên đại tác phẩm; trên cơ sở đó tổng kết thành tựu sáng tác từ ở
Việt Nam thời trung đại.
Tiến hành phân kì từ sử Việt Nam, đồng thời nghiên cứu đặc điểm của thể
loại từ Việt Nam qua các thời kì.
Người viết có ý hướng triển khai luận án như một công trình khảo cứu -
nghiên cứu một cách có hệ thống và tương đối toàn diện về từ sử Việt Nam.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu các tác phẩm từ do các tác giả Việt Nam thời
trung đại sáng tác được ghi chép lại qua các thư tịch Hán Nôm hiện còn và qua tư
1
liệu điền dã. Trong trường hợp tác phẩm hiện không còn trong các sách Hán Nôm
tại Việt Nam, song vẫn được bảo lưu trong các tư liệu hải ngoại thì lấy các tư liệu
hải ngoại để bổ khuyết (như trường hợp Cổ duệ từ của Miên Thẩm).
Khái niệm “trung đại” được dùng trong luận án này giới hạn thời gian từ thế
kỉ X đến hết thế kỉ XIX. Do vậy, các tác phẩm từ xuất hiện sau đó, như trong các
sách chữ quốc ngữ và báo chí đầu thế kỉ XX (chẳng hạn trên Nam Phong tạp chí số
9, 10, tháng 4 năm 1918; số 11, tháng 5 năm 1918…) không thuộc phạm vi nghiên
cứu của luận án này.
Luận án lấy tác giả tác phẩm từ Việt Nam thời trung đại làm trọng điểm
nghiên cứu. Trong khi nghiên cứu, người viết tiến hành so sánh từ Việt Nam với từ
ở Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc ở mức độ nhất định.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phương pháp chính như văn bản học Hán-Nôm cùng
với các phương pháp tương cận như biện ngụy học, khảo chứng học, hiệu thù học…
để đối chiếu, giám định, xác minh văn bản. Áp dụng phương pháp loại hình học để
nghiên cứu về đội ngũ tác giả, tác phẩm. Đối với các tác phẩm từ, người viết áp
dụng từ chương học, thi pháp học, phong cách học để nghiên cứu chúng từ nhiều
phương diện khác nhau như mức độ tuân thủ từ luật, các dạng thức biến thể của tác
phẩm từ Việt Nam, quy trình lập ý, ngôn ngữ, phong cách từ học… Kết hợp với các
phương pháp nghiên cứu, phê bình truyền thống đối với thể loại từ như bản sắc, dĩ
thi vi từ, dĩ văn vi từ, cảnh giới nghệ thuật… Ngoài ra còn sử dụng một số phương
pháp khác như so sánh văn học, văn hóa học, thống kê phân loại…
5. Một số thuật ngữ chính được sử dụng trong luận án
Trong nghiên cứu từ học, hệ thống thuật ngữ, khái niệm chuyên biệt rất phong
phú, luận án chỉ nêu vắn tắt về 39 thuật ngữ, khái niệm từ học được sử dụng với tần
suất cao nhất, một số trong số đó được đề cập sâu hơn ở phần Phụ lục 2.1.
6. Đóng góp mới của luận án
Trên cơ sở kế thừa, tiếp thu thành tựu nghiên cứu của giới nghiên cứu từ học
Nhật Bản, Triều Tiên và đặc biệt là các nhà nghiên cứu từ học Trung Quốc, luận án
tổng thuật, nghiên cứu một cách tổng quan về thể loại từ ở Trung Quốc, Nhật Bản
và Triều Tiên làm cơ sở để so sánh với thể loại từ tại Việt Nam.
Cho đến thời điểm này, luận án là công trình sưu tập đầy đủ nhất về thể loại
từ trong văn học trung đại Việt Nam, đồng thời đây cũng là công trình có sự nỗ lực
xử lí, giám định văn bản một cách riết ráo nhất. Trên cơ sở khảo sát cụ thể, tổng kết
thành tựu sáng tác từ tại Việt Nam thời trung đại, luận án tiến hành phân kì từ sử,
nghiên cứu sâu từng giai đoạn sáng tác từ về các phương diện: đội ngũ tác giả, các
nguồn ảnh hưởng đến việc tác từ, quan niệm – động cơ sáng tác, quan niệm từ học,
thể thức đã tiếp thu, các dạng thức biến cách, nội dung và khuynh hướng nghệ thuật,
từ đó làm rõ đặc điểm của thể loại từ ở Việt Nam qua mỗi giai đoạn.
2
7. Cấu trúc luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án có cấu trúc gồm 4 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu thể loại từ Việt Nam
Chương 2: Thể loại từ ở các nước trong khu vực và thực trạng sáng tác từ tại
Việt Nam.
Chương 3: Thể loại từ Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XVIII: Tiếp nhận
và tái tiếp nhận
Chương 4: Thể loại từ Việt Nam thế kỉ XIX: Thừa tiếp và phát huy
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU THỂ LOẠI TỪ VIỆT NAM
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu thể loại từ Việt Nam
Ở Việt Nam từ những năm 50 của thế kỉ XX trở lại đây, trong một số sách đã
có một số kết quả nghiên cứu nhất định về từ được công bố, song thành tựu còn
nhiều hạn chế.
1.1.1. Những nghiên cứu trường hợp
Hướng nghiên cứu này có hai trọng điểm chính thu hút sự chú ý của các nhà
nghiên cứu trong và ngoài nước, đó là bài từ điệu Nguyễn lang quy của Không Việt
đại sư Ngô Chân Lưu và Mộng Mai từ lục của Đào Tấn.
Về trường hợp bài từ điệu Nguyễn lang quy của Khuông Việt, tới nay có tới
trên 20 bài viết chuyên sâu, khởi đầu là Phạm Thị Tú với bài “Về bài từ đầu tiên và
tác giả của nó: sư Khuông Việt” (Tạp chí Văn học, số 6 - 1974), sau đó là các tác giả
Nguyễn Tài Cẩn, Hoàng Văn Lâu, Nguyễn Đăng Na, Nguyễn Đình Phức, Phạm Văn
Ánh, v.v Tác phẩm được nghiên cứu với nhiều góc độ, như: lập trường ngoại giao
của tác giả, văn bản, nội dung, phong cách, giọng điệu, ngôn ngữ, cách lập ý, v.v
Về Mộng Mai từ lục của Đào Tấn, từ bài viết thiên về phê bình, phát huy
nghĩa lí của Xuân Diệu công bố năm 1982, trong phần “Tìm hiểu nhà thơ Đào tấn”
(sách Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập II, Nxb. Văn học, H.1982), đến một số bài
viết mang tính chất bình tán, gần đây tác phẩm được tiếp cận chủ yếu dưới góc độ
văn bản học, tiêu biểu là các bài viết của Trần Văn Tích (học giả Việt Nam tại hải
ngoại), Trần Nghĩa và Phạm Văn Ánh.
Bên cạnh đó là một số nghiên cứu về tác phẩm từ trong Cưu đài thi tập, Cổ
điệu ngâm từ, Lưu Hương kí, tác phẩm từ của Nguyễn Huy Oánh, Miên Thẩm, quan
niệm từ học của Miên Trinh của Phạm Văn Ánh.
3
Với các nghiên cứu trường hợp nói trên, hướng nghiên cứu chủ yếu vẫn là văn
bản học.
1.1.2. Những nghiên cứu tổng quan về thể loại từ Việt Nam
Năm 2001, tác giả Thế Anh trên Tạp chí Hán Nôm có bài“Từ Trung Hoa và
ảnh hưởng của nó ở Việt Nam”, song chỉ là mô tả một cách hết sức sơ lược. Người
thực sự đi đầu trong việc mô tả một cách tổng quan về thể loại từ tại Việt Nam là
Trần Nghĩa. Trong bài “Thể loại từ Trung Quốc du nhập vào Việt Nam và ảnh hưởng
của nó đối với văn học bản địa” (Tạp chí Hán Nôm, số 5 - 2005), Trần Nghĩa tiến
hành thống kê, phân kì từ sử Việt Nam đồng thời có một số nhận định bước đầu về
thực trạng sáng tác từ ở Việt Nam.
Tại Trung Quốc, năm 2004, trên tờ Giải phóng quân Ngoại quốc ngữ học viện
học báo, Tưởng Quốc Học (蔣國學) có bài “Từ tại Việt Nam vị năng hưng thịnh đích
nguyên nhân thám tích” (Tìm hiểu về nguyên nhân khiến thể loại từ Việt Nam không
phát triển hưng thịnh), song cũng mới chỉ mô tả về thể loại từ ở Việt Nam một cách
sơ lược. Năm 2008, trên tờ Quảng Tây đại học học báo, Hà Thiên Niên (何仟年)
trong bài “Việt Nam đích điền từ cập từ học –Hán văn học di thực bối cảnh đích văn
thể án lệ” (Điền từ và từ học ở Việt Nam – Một nghiên cứu trường hợp về thể loại
văn học trong bối cảnh di thực của văn học Hán) đã tiến hành thống kê tác giả, tác
phẩm từ Việt Nam đồng thời đưa ra một số nhận định ban đầu.
Trong số các bài viết của 4 tác giả trên đây, bài viết của Trần Nghĩa và Hà
Thiên Niên thể hiện công phu sưu tập, nghiên cứu thực sự dù còn ở mức độ sơ lược.
Tuy nhiên, đáng lưu ý là con số thống kê của hai tác giả nói trên đưa ra còn nhiều
thiếu sót và nhầm lẫn, dẫn đến các kiến giải chưa đủ thức thuyết phục.
Ngoài các bài viết đã đề cập còn một số nghiên cứu của Phạm Văn Ánh, như các
bài: “Một số nét cơ bản về thể loại từ ở Việt Nam” (Tạp chí Hán Nôm, số 4, 2009), mang
tính khái lược về thành tựu sáng tác từ và từ sử Việt Nam; “Thể loại từ ở Việt Nam từ thế
kỉ X đến hết thế kỉ XVIII” (Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 8-9, 2012), nghiên cứu
chuyên sâu về thể loại từ Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XVIII trên một số phương
diện như số lượng tác giả, tác phẩm, thể thức, nội dung, nghệ thuật
TIỂU KẾT:
Có thể thấy những năm gần đây, thể loại từ ở Việt Nam đã thu hút được sự
chú ý của giới học thuật trong và ngoài nước. Qua các công trình đã công bố, chỉ có
trường hợp bài từ điệu Nguyễn lang quy của Ngô Chân Lưu là được nghiên cứu một
các đa diện và chuyên sâu. Các nghiên cứu khác hoặc giải quyết một vài vấn đề cụ
thể, hoặc mới chỉ dừng ở mức độ nghiên cứu một số phương diện của một giai đoạn
từ sử nhất định. Việc khảo sát và nghiên cứu tổng quan về thành tựu sáng tác từ tại
Việt Nam còn nhiều bất cập, cần có những nghiên cứu toàn diện và sâu sắc hơn.
4
Chương 2
THỂ LOẠI TỪ Ở CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC VÀ
THỰC TRẠNG SÁNG TÁC TỪ TẠI VIỆT NAM
2.1. Khái niệm thể loại từ
Từ (詞) là thể loại văn học có nguồn gốc Trung Quốc, nguyên tên đầy đủ là
khúc tử từ (曲子詞), có nghĩa là phần lời của bài hát. Sáng tác từ ban đầu được thực
hiện theo nguyên tắc “tiên nhạc hậu từ” (先樂後詞 - nhạc trước lời sau), “ỷ thanh
điền từ” (倚聲填詞 - nương vào âm nhạc để điền lời); trên cơ sở bản nhạc có sẵn,
người viết từ - từ nhân (詞人), điền lời vào cho bản nhạc ấy để diễn xướng, phần lời
đó chính là từ, còn thao tác viết từ gọi là điền từ (填詞), ỷ thanh (倚聲), y thanh (依
聲) Sau khi từ nhạc dần thất truyền, các điệu từ được khái quát thành các khung
cách luật gọi là từ phổ, việc điền từ do đó cũng có sự thay đổi, từ “ỷ thanh điền từ”
chuyển sang “án phổ điền từ” (按譜填詞).
Ngoài tên gọi là từ, hay khúc tử từ, thể loại này còn có nhiều cách gọi khác
như: thi dư (詩餘), trường đoản cú (長短句), nhạc phủ (樂府), nhạc chương (樂章),
biệt điệu (別調), ca khúc (歌曲), ngữ nghiệp (語業) mỗi một tên gọi mang những
hàm nghĩa nhất định.
Xét về hình thức, các bài từ chủ yếu dùng lối câu dài ngắn không đồng đều
(trường đoản cú), với hàng ngàn thể thức (điệu, thể) khác nhau. Từ có thủ pháp
nghệ thuật, phạm vi đề tài và giá trị thẩm mĩ riêng. Từ khi ra đời, trải hơn ngàn năm,
thể loại này tồn tại song hành cùng các thể thơ truyền thống như thơ cổ phong, cận
thể… xác lập vị trí quan trọng trong lịch sử văn học Trung Quốc. Không chỉ vậy,
cùng ảnh hưởng của chữ Hán, văn hóa Hán, từ còn ảnh hưởng lan tỏa sang các nước
Đông Á trong đó có Việt Nam, tạo ra một thể loại văn học mang tính chất khu vực.
2.2. Thể loại từ ở Trung Quốc và sự ảnh hưởng của nó ra các nước Đông Á
2.2.1. Thể loại từ ở Trung Quốc
Thể loại từ Trung Quốc manh nha từ thời Tùy (581-618), đến thời Đường
Huyền Tông (712-756) được sáng tác một cách tương đối thường xuyên. Các sáng
tác ban đầu chủ yếu là các tác phẩm dân gian, sau đó thể loại từ dần thu hút sự chú ý
của giới “thi khách”. Cuối thời Đường, Ngũ đại, từ phát triển tương đối mạnh, đặc
biệt là thành tựu sáng tác từ của Hoa gian phái.
Sang thời Tống (960-1279), kế thừa thành tựu phát triển của thể loại từ các
giai đoạn trước, đặc biệt là giai đoạn Ngũ đại, bên cạnh đó là chính sách sùng văn ức
võ và sự phát triển mạnh mẽ của các đô thị, thể loại từ thời Tống dần phát triển vượt
5
bậc, đạt đến đỉnh cao. Nói về thành tựu của từ giai đoạn này, Vương Quốc Duy (王
國維, 1877-1927) cho rằng Tống từ đã đạt đến mức là “văn học của một thời đại mà
các đời sau chẳng thể nào theo kịp” (Tống Nguyên hí khúc sử - Tự tự), dẫn đến cách
gọi định danh thể loại gắn với triều đại là “Tống từ”. Sự phát triển của thể loại từ thời
Tống thể hiện ở một số điểm cơ bản: phát triển vượt bậc về số lượng tác giả - tác
phẩm, hoàn thiện về thể thức, thuần thục về nghệ thuật, đa dạng về phong cách và
nội dung biểu đạt. Không chỉ vậy, ở giai đoạn này, quan niệm từ học cũng có nhiều
nét thú vị như quan điểm “dĩ thi vi từ” (lấy thơ làm từ) của Tô Đông Pha (蘇東坡,
1037-1101), “biệt thị nhất gia” của Lí Thanh Chiếu (李填照, 1084-1151), “dĩ văn vi
từ” của Tân Khí Tật (辛棄疾, 1140-1207), v.v…
Do từ nhạc thất truyền, sự thay thế của bắc khúc từ suy thoái vào thời Kim
(1115-1234) - Nguyên (1271-1368). Thời Minh (1368-1644), từ được sáng tác tương
đối phổ biến song không có thành tựu thật sự nổi bật. Thời Thanh (1644-1912) là
giai đoạn phục hưng của thể loại từ. Bên cạnh các thành tựu về sáng tác, thể loại từ ở
Trung Quốc còn đạt nhiều giá trị về phương diện lí luận từ học.
Từ là một thể loại có thành tựu đặc biệt trong nền văn học Trung Quốc. Trải
qua hơn một nghìn năm vận động và phát triển, thể loại từ ở Trung Hoa qua nhiều
giai đoạn khác nhau, về thể thức cũng như khuynh hướng nghệ thuật có nhiều biến
đổi qua các giai đoạn.
2.2.2. Thể loại từ ở Nhật Bản
Tại Nhật Bản, từ được tiếp nhận từ đầu thế kỉ XIX với chùm từ 5 bài Ngư ca
tử của Thiên hoàng Saga (嵯峨天皇, 786-842), song trải nhiều thế kỉ, thể loại từ ở
Nhật Bản gần như không phát triển, tới thế kỉ XVII mới ít nhiều khởi sắc. Đến thế kỉ
XIX, thể loại từ Nhật Bản có nhiều thành tựu đáng ghi nhận, tiêu biểu nhất là các
sáng tác của Điền Năng Thôn Trúc Điền ( 田 能 村 竹 田, 1777-1835) và Lâm Hòe
Nam (森槐南, 1863-1911). Nhà từ học Trung Quốc là Hạ Thừa Đảo trong Vực ngoại
từ tuyển (域外詞選) - một tuyển tập tác phẩm từ Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam -
từng viết: “Từ nhân Nhật Bản thuộc phái từ của Tô - Tân, đương thời không ai vượt
qua được Hòe Nam. Mà tác phẩm của ông, về sự diễm lệ và chặt chẽ, thì cũng không
kém gì Yến Cơ Đạo (宴幾道, 1040?-1112?) và Tần Quán (秦觀, 1049-1100)”. Giai
đoạn năm thứ 10 niên hiệu Minh Trị [1877] tới năm thứ 25 [1892], được coi là “thời
đại hoàng kim của điền từ Nhật Bản” (Kađa Chikirô - Nhật Bản điền từ sử thoại).
2.2.3. Thể loại từ ở Triều Tiên
Tại Triều Tiên, thể loại từ bắt đầu từ sáng tác của Tuyên Tông nước Cao Li
là Vương Vận (王運, 1049-1094). Tuy nhiên, tới hết thế kỉ XIII, sáng tác từ ở Triều
Tiên vẫn khá thưa thớt. Từ thế kỉ XIV, thể loại từ ở Triều Tiên được sáng tác một
6
cách phổ biến, đạt đỉnh cao nhất vào thế kỉ XIX, đặc biệt là nửa sau thế kỉ XIX.
Không chỉ có các tác phẩm từ độc lập, trong các bộ tiểu thuyết chữ Hán của Triều
Tiên như An Bằng mộng du lục (安憑夢遊錄, khuyết danh), Ngọc tiên mộng (玉仙
夢) của Đãng Ông (宕翁), Kim ngao tân thoại (金鰲新話) của Kim Thời Tập (金時
習), Anh Anh truyện (英英傳, khuyết danh)… thể loại từ cũng được ứng dụng một
cách phổ biến. Điều đáng chú ý là, bên cạnh các bài từ sáng tác theo các từ điệu tiếp
nhận từ Trung Hoa, các tác giả Triều Tiên còn chủ động tự viết nhạc (tự độ khúc) để
tạo ra các điệu từ mới. Đây là điều ít thấy ở Nhật Bản và Việt Nam. Nhìn chung, sơ
bộ thống kê, tại Triều Tiên từ thế kỉ XI đến cuối thế kỉ XIX có khoảng gần 200 tác
giả từ, số lượng tác phẩm khá phong phú, lên tới hàng ngàn bài. Số lượng tác giả tác
phẩm đó là ưu trội so với thể loại từ ở Nhật Bản và Việt Nam.
2.3. Thực trạng sáng tác từ ở Việt Nam – Khảo biện qua các nguồn tư liệu
2.3.1. Các tiêu chí nhận dạng
Căn cứ vào trạng thái tồn bản và những biến đổi phức tạp về hình thức của
tác phẩm từ Việt Nam hiện còn, luận án đưa ra 5 tiêu chí nhận dạng tác phẩm từ
Việt Nam, gồm:
1/ Mỗi bài từ bao giờ cũng được sáng tác theo một điệu từ (từ điệu) nhất
định. Trừ một số trường hợp, về cơ bản các điệu từ đều từng được ghi nhận trong
các sách về từ phổ, từ luật. Do vậy, một tác phẩm được coi là thuộc thể loại từ thì
phải có từ điệu và từ điệu đó từng được các sách về từ phổ, đồ phổ, từ luật ghi nhận.
Nếu tác phẩm không có từ điệu thì phải thuộc từ tập chuyên biệt và có thể thức đặc
trưng của thể loại từ.
2/ Tác phẩm không thuộc hai trường hợp trên thì phải được tác giả coi là từ,
hoặc sách có chép tác phẩm đó ghi rõ nó là sáng tác từ.
3/ Những bài mang các tên gọi khác của từ như “trường đoản cú”, “nhạc
chương”, cũng cần kiểm tra kĩ về cách luật bởi chúng không nhất thiết thuộc thể từ.
4/ Những bài mà tên gọi mang chữ “từ” như: Yến tử từ, Cung từ, Xuân từ, Thu
từ có khi chỉ là thơ cung từ, hoặc cổ phong; nếu không có tên điệu, không thuộc từ
tập, không có những đặc trưng thể thức của từ thì không được coi là tác phẩm từ.
5/ Các bài thuộc điệu Liễu chi, Trúc chi có bài thuộc thơ cổ phong, có bài
thuộc thơ cận thể, có bài thuộc thể từ, nếu không thuộc các từ tập, dạng thức cách luật
không đúng từ luật thì không được coi là từ.
Trong tất cả các trường hợp kể trên đều cần phải kiểm tra kĩ về dạng thức
cách luật của từng tác phẩm.
2.3.2. Khảo biện tác giả, tác phẩm từ Việt Nam qua các nguồn tư liệu
2.3.2.1. Khảo biện qua các truyện kí, tiểu thuyết:
7
Luận án sưu tập, khảo biện tác giả, tác phẩm từ Việt Nam qua 8 tài liệu,
gồm: 1/ Thiền uyển tập anh, 2/ Tam tổ thực lục, 3/ Truyền kì tân phả, 4/ Hoa viên kì
ngộ, 5/ Sơ kính tân trang, 6/ Đồng song kí, 7/ Việt Nam kì phùng sự lục, 8/ Truyện
kí trích lục, xác định được 8 tác giả, 29 bài từ .
8
2.3.2.2. Khảo biện qua các thi văn tập:
Luận án sưu tập, khảo biện tác giả, tác phẩm từ Việt Nam qua 27 tài liệu,
gồm : 1/ Cưu đài thi tập, 2/ Ngôn chí thi tập, 3/ Phủ chưởng tân thư, 4/ Hoa trình
ngẫu bút lục, 5/ Hồng Ngư trú tú lục, 6/ Bách liêu thi văn tập, 7/ Anh ngôn thi tập,
8/ Anh ngôn thi tập hạ, 9/ Ngọ Phong văn tập, 10/ Thạc Đình di cảo, 11/ Thạch
Động tiên sinh thi tập, 12/ Dụ Am ngâm tập, 13/ Thủy vân nhàn vịnh tập, 14/ Châu
Phong tạp thảo, 15/ Mai dịch thú dư, 16/ Lưu Hương kí, 17/ Quan Đông hải, 18/
Minh quyên thi tập, 19/ Hoa thiều ngâm lục, 20/ Tạ Hiên tiên sinh nguyên tập, 21/
Kim Mã Ẩn Phu cảm tình lệ tập (đính kèm trong Danh ngôn tạp trước), 22/ Hà
Đình ứng chế thi sao, 23/ Thi văn tạp tập, 24/ Quy điền thi tập, 25/ Nguyễn Hoàng
Trung thi tạp tập, 26/ Diệu Liên tập, 27/ Nguyễn đại nhân thí trúng hạ tập, xác định
được 23 tác giả, 143 bài từ .
2.3.2.3. Khảo biện qua các từ tập chuyên biệt:
Luận án sưu tập, khảo biện tác giả, tác phẩm từ Việt Nam qua 3 tài liệu,
gồm: 1/ Cổ duệ từ, 2/ Mộng Mai từ lục, 3/ Cổ điệu ngâm từ, xác định được 2 tác
giả, 131 bài từ .
2.3.2.4. Khảo sát qua tư liệu điền dã:
Qua khảo sát điền dã, hiện mới phát hiện được 1 bài từ điệu Thiên tiên tử tại nhà
thờ Đại tông dòng họ Nguyễn Huy (Xã Trường Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh).
2.3.2.5. Các tác phẩm đã thất truyền:
Luận án khảo cứu qua các tư liệu Hán – Nôm, xác định được 3 tác giả, với 1
từ tập chuyên biệt, 1 sách từ luận , 1 tuyển tập từ và một số bài từ (không rõ số
lượng cụ thể) đã bị thất truyền.
Sưu tập, khảo biện qua các nguồn tư liệu, sau khi loại bỏ các tác phẩm từ
Trung Quốc chép lẫn trong các thư tịch (181 tác phẩm: 64 bài chép lẫn trong các thi
tập, 117 bài chép lẫn trong từ tập), đính chính các nhầm lẫn về từ điệu, xác định, bổ
sung từ điệu, số lượng tác giả, tác phẩm từ Việt Nam qua các nguồn tư liệu gồm 37
tác giả, với số lượng tác phẩm từ hiện còn là 304 bài viết theo 133 điệu.
2.4. Phân kì từ sử Việt Nam
Xem xét các yếu tố niên đại sáng tác của các bài từ cụ thể, niên đại hoàn
thành các sách có lưu trữ các bài từ, cũng như niên đại tác giả, có thể tổng hợp kết
quả khảo sát thể loại từ Việt Nam theo lịch đại như bảng sau:
9
BẢNG TỔNG HỢP TÁC PHẨM TỪ VIỆT NAM QUA CÁC GIAI ĐOẠN
STT Tên sách Tác giả từ Số
lượng
(bài)
Giai đoạn từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XVII
1. Thiền uyển tập anh Ngô Chân Lưu (933-1011) 1
2. Tam tổ thực lục Lí Đạo Tái (1254-1334) 1
3. Ngôn chí thi tập Phùng Khắc Khoan (1528-1613) 3
Tổng số: 3 tác giả, 5 bài từ
Giai đoạn thế kỉ XVIII
4. Truyền kì tân phả Đoàn Thị Điểm (1705-1748) 6
5.
Phủ chưởng tân thư
Đặng Trần Côn (Nửa đầu thế kỉ XVIII) 9
6. Nguyễn Ngọc Thiềm (nửa đầu thế kỉ
XVIII)
8
7. Hoa trình ngẫu bút lục Lê Quang Viện (Nửa sau thế kỉ XVIII), 4
8. Hồng Ngư trú tú lục Học trò mừng Nguyễn Nghiễm (1708-
1775)
1
9. Bách liêu thi văn tập Trần Danh Lâm (1705-1777) 1
10. Anh ngôn thi tập
Ngô Thì Sĩ (1726-1780)
7
11. Anh ngôn thi tập hạ 10
12. Ngọ Phong văn tập 4
13. Thạc Đình di cảo Nguyễn Huy Oánh (1713-1789) 9
14. Thạch Động tiên sinh thi tập Phạm Nguyễn Du (1739-1786) 5
15. Dụ Am ngâm tập Phan Huy Ích (1750-1822) 11
16. Châu Phong tạp thảo Phạm Đình Hổ (1768-1839) 6
17. Hoa viên kì ngộ tập Khuyết danh (Cuối thế kỉ XVIII) 7
Tổng số: 12 tác giả, 88 bài từ
Giai đoạn thế kỉ XIX
18. Kim Mã ẩn phu cảm tình lệ
tập
Đỗ Lệnh Thiện (1760- sau 1824) 5
19. Sơ kính tân trang Phạm Thái (1777-1813) 4
20. Bảng gỗ nhà thờ họ
Nguyễn Huy
Khuyết danh (Cuối thế kỉ XVIII, đầu XIX) 1
21. Mai dịch thú dư Ngô Thì Hương (1774-1821) 3
22. Lưu Hương kí Hồ Xuân Hương (thế kỉ XIX) 4
23. Quan Đông hải Nguyễn Hành (1771-1824) 15
24. Minh quyên thi tập
25. Hoa thiều ngâm lục Phan Huy Chú (1782-1840) 8
26. Chu Tạ Hiên tiên sinh
nguyên tập
Chu Doãn Trí (1779-1850) 2
27. Hà Đình ứng chế thi sao Nguyễn Thuật (1842-?) 1
28. Thi văn tạp tập Hà Tông Vịnh, Khuyết danh (Nửa đầu thế
kỉ XIX)
2
29. Cổ duệ từ Miên Thẩm (1819-1870) 114
30. Lật Viên điền từ Nguyễn Miên Khoan (Thế kỉ XVIII) ?
10
31. Từ thoại
32. Từ tuyển, một số sáng tác từ
(không rõ số lượng cụ thể)
Tự Đức (Nguyễn Phúc Thì, 1829-1833) ?
33. Một số sáng tác từ (không rõ
số lượng cụ thể)
Miên Trinh (1820-1897) ?
34. Nguyễn Hoàng Trung thi tạp
tập
Nguyễn Hoàng Trung thế kỉ (XIX ) 22
35. Diệu Liên thi tập Mai Am (1826-1904) 2
36. Mộng Mai từ lục Đào Tấn (1845-1907) 17
37. Nguyễn đại nhân thí trúng
hạ tập
Bùi Lương (Cuối XIX) 1
38. Đồng song kí Khuyết danh (Thế kỉ XIX) 6
39. Việt Nam kì phùng sự lục Khuyết danh (cuối thế kỉ XIX) 3
40. Truyện kí trích lục Mai Cát Phủ (Cuối thế kỉ XIX) 1
Tổng số: 22 tác giả, 211 bài từ .
Căn cứ vào thực tế sáng tác từ ở Việt Nam, có thể phân chia từ sử Việt Nam
thành 2 giai đoạn lớn: 1/ Giai đoạn thứ nhất từ năm 987 đến hết thế kỉ XVII, là giai
đoạn thể loại từ được tiếp nhận và ít nhiều được vận dụng trong sáng tác, song gần
như không phát triển; 2/ giai đoạn thứ hai từ thế kỉ XVIII đến hết thế kỉ XIX là giai
đoạn thể loại từ xuất hiện trở lại sau một thời gian dài vắng bóng, được sáng tác một
cách thường xuyên hơn, dần dần đạt đến đỉnh cao nhất vào nửa sau thế kỉ XIX. Ở
giai đoạn thứ hai này có thể phân chia thành hai giai đoạn nhỏ hơn: 1/ Giai đoạn thứ
nhất tương ứng với thế kỉ XVIII, là giai đoạn xuất hiện trở lại của thể loại từ, và từ
đây, thể loại văn học này được sáng tác một cách khá thường xuyên, tạo đà cho giai
đoạn sau; 2/ Giai đoạn thứ hai tương ứng với thế kỉ XIX, là giai đoạn thể loại từ tiếp
tục được duy trì và phát triển đến đỉnh cao.
TIỂU KẾT:
Từ là thể loại văn học quan trọng trong lịch sử văn học Trung Quốc. Từ khi
xuất hiện đến thời quân chủ, thể loại này trải nhiều giai đoạn khác nhau, có toàn
thịnh, suy thoái đồng thời về quan niệm thẩm mĩ cũng không hoàn toàn nhất quán.
Cùng với ảnh hưởng của chữ Hán, văn hóa Hán, giống như nhiều thể loại văn học
có nguồn gốc Trung Quốc khác, thể loại này sớm được các nước Đông Á tiếp thu và
vận dụng trong sáng tác, dần trở thành một thể loại văn học có tính chất khu vực.
Từ sử Việt Nam khởi đầu bằng sáng tác của Khuông Việt đại sư Ngô Chân
Lưu, năm 987, chỉ tính đến hết thế kỉ XIX trải dài hơn 9 thế kỉ. So với các nước
Đông Á, Nhật Bản là nước tiếp nhận, sáng tác từ sớm nhất, kế đó là Việt Nam rồi
tới Triều Tiên, nhưng nếu xét về thành tựu sáng tác từ thể hiện ở số lượng tác giả,
tác phẩm thì có thể nói Triều Tiên là nước khả quan nhất. Tuy thành tựu sáng tác từ
ở các nước Đông Á nhiều ít khác nhau song về đại quan, thể loại từ Trung Quốc khi
truyền sang các nước Đông Á đều không phát triển mạnh như nhiều thể loại văn học
khác có chung một nguồn gốc mà tiêu biểu là thơ cận thể. Thực trạng sáng tác cùng
tiến trình vận động và phát triển của thể loại từ Việt Nam khá giống với Nhật Bản.
11
Đáng chú ý là giai đoạn thời Tống, giai đoạn phát triển đạt đến đỉnh cao của thể loại
từ Trung Quốc, đồng thời là giai đoạn từ gắn liền với âm nhạc và diễn xướng, thể
loại từ ở Đông Á đều không phát triển mạnh. Thời nhà Thanh là giai đoạn phục
hưng của thể loại từ Trung Hoa, khi đó sáng từ không còn là “ỷ thanh điền từ”, mà
là “án phổ điền từ”. Sự phục hưng của thể loại từ thời Thanh đã được xác lập ngay
từ nửa sau thế kỉ XVII, dưới các triều Thuận Trị (1644-1661) và Khang Hi (1662-
1722), song phải đến nửa sau thế kỉ XIX thể loại từ ở ba nước Đông Á mới phát
triển lên đến đỉnh cao nhất. Có thể nhận thấy, dẫu khi từ còn là thể thức thơ ca hợp
nhạc, hay khi đã tách li khỏi âm nhạc để trở thành một thể thức thơ ca cách luật
riêng biệt, thì sự tiếp nhận thể loại từ ở Đông Á nhìn chung vẫn “chậm một nhịp” so
với thể loại từ ở Trung Quốc.
Chương 3
THỂ LOẠI TỪ VIỆT NAM TỪ THẾ KỈ X ĐẾN HẾT THẾ KỈ XVIII –
TIẾP NHẬN VÀ TÁI TIẾP NHẬN
3.1. Thể loại từ Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XVII – Xuất hiện và
ngưng trệ
3.1.1. Đội ngũ tác giả
Tính từ tác phẩm từ đầu tiên được Khuông Việt đại sư Ngô Chân Lưu sáng tác
năm 987 đến hết thế kỉ XVII, trải qua thời gian hơn 700 năm, hiện chỉ còn xác định
được 3 tác giả, với 5 tác phẩm từ. Các tác giả từ giai đoạn này đều là các trí thức cao
cấp, có vị trí đặc biệt trong hệ thống chính trị đương thời; có thể nói họ đều là những
“nhân vật chính trị”. Trong số này có 2 tác giả là những Thiền sư nổi tiếng trong lịch
sử (Khuông Việt đại sư Ngô Chân Lưu, Huyền Quang Lí Đạo Tái). Đó là nét khu
biệt với đội ngũ tác giả từ các giai đoạn sau.
3.1.2. Các nguồn ảnh hưởng đến việc tác từ
Xem xét trên các phương diện phương thức chế tác, nội dung và phong cách
từ, có thể thấy ảnh hưởng của thể loại từ thời Ngũ đại mà gần gũi nhất là từ phong
của triều Nam Đường đến sáng tác từ của Ngô Chân Lưu. Các sáng tác của Lí Đạo
Tái và Phùng Khắc Khoan có dấu vết ảnh hưởng của thể loại từ từ thời Tống về sau.
3.1.3. Quan niệm, động cơ sáng tác
Nếu ở Trung Quốc, từ thiên về trữ tình, nhất là tình cảm cá nhân, nam nữ
luyến ái thì sáng tác từ giai đoạn này ngay từ tác phẩm đầu tiên đã được dùng để
phục vụ phục vụ mục đích chính trị. Các tác phẩm khác đều được dùng để thể hiện,
đề cao đạo hiếu và ngôn chí.
3.1.4. Văn bản và thể thức
12
Tác phẩm từ giai đoạn này có nhiều biến dạng về văn bản. Có 2 lí do dẫn đến tình
trạng đó: 1/ Do truyền bản qua thời gian lâu dài với nhiều yếu tố tác động ảnh hưởng
khác nhau (như trường hợp sáng tác của Ngô Chân Lưu, Lí Đạo Tái), 2/ Do tác giả không
tuân thủ nghiêm ngặt từ luật (tiêu biểu là các sáng tác của Phùng Khắc Khoan).
3.1.5. Nội dung và phong cách nghệ thuật
Bài từ điệu Nguyễn lang quy của Ngô Chân Lưu sáng tác tiễn sứ giả nhà Tống
là Lí Giác về nước tiêu biểu cho nghệ thuật điền từ với tư cách là thể loại thơ ca hợp
nhạc, dùng để diễn xướng, tiếp cận với đặc trưng phong cách thể loại từ thời Ngũ
đại. Đây là tác phẩm mở đầu thể loại từ ở Việt Nam đồng thời cũng là một trong
những tác phẩm mở đầu lịch sử văn học dân tộc, ngôn từ trau chuốt, hoa mĩ, “có thể
vốc được” (Lê Quý Đôn – Toàn Việt thi lục), lập ý khéo léo, vừa đảm bảo yếu tố
diễm mĩ vừa đảm bảo yếu tố bi mĩ, có thể coi là một trong những bài từ xuất sắc nhất
trong từ sử Việt Nam. Các sáng tác của Lí Đạo Tái và Phùng Khắc Khoan nói về đạo
hiếu và chí hướng phò vua giúp nước, đã có biểu hiện của xu hướng thi hóa thể loại
theo quan niệm thi giáo của Nho gia.
3.2. Thể loại từ Việt Nam thế kỉ XVIII – Tái tiếp nhận và phát triển
3.2.1. Đội ngũ tác giả
Giai đoạn này hiện còn ít nhất 12 tác giả sáng tác theo thể loại từ. Về cơ bản
họ đều là các nhà khoa bảng thành danh, đồng thời cũng có vị trí cao trong xã hội
(như: Trần Danh Lâm, Ngô Thì Sĩ, Phạm Nguyễn Du, Nguyễn Huy Oánh, Phan Huy
Ích), một số tuy không đỗ đạt cao song đương thời nổi tiếng về tài năng thơ ca (như
trường hợp Đặng Trần Côn, Phạm Đình Hổ), một số là các bậc tài tử đương thời
(như: Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Ngọc Thiềm). Giữa một số tác giả có
quan hệ với nhau: Đoàn Thị Điểm có quan hệ với Đặng Trần Côn, Đặng Trần Côn là
bạn thơ từ với Nguyễn Ngọc Thiềm đồng thời có quan hệ với Nguyễn Huy Oánh,
Nguyễn Huy Oánh có quan hệ với Phạm Nguyễn Du và Ngô Thì Sĩ. Nét nổi bật của
đội ngũ tác giả từ giai đoạn này là xuất thân Nho học, có học vấn cao, có tài năng
văn chương, thành danh trong khoa cử; đa số các tác giả như Đoàn Thị Điểm, Đặng
Trần Côn, Nguyễn Ngọc Thiềm, Ngô Thì Sĩ, Phạm Nguyễn Du đều là những nhân
vật giàu cá tính và chất tài tử.
3.2.2. Các nguồn ảnh hưởng đến việc tác từ
Ngoài tác động của bối cảnh xã hội và văn chương, về các nguồn ảnh hưởng
dẫn đến việc tác từ của các tác giả giai đoạn này có thể khái quát bởi 4 yếu tố: 1/ Xuất
phát từ sự học, 2/ Từ nguồn sách vở Trung Quốc truyền sang, 3/ Do sự tiếp xúc trực
tiếp thông qua đi sứ, 4/ Do ảnh hưởng lẫn nhau giữa các tác giả. Tuy nhiên, bốn yếu tố
này không phải bao giờ cũng có thể phân tách được một cách thật rạch ròi.
3.2.3. Quan niệm, động cơ sáng tác
Tuy các tác giả giai đoạn này không phát biểu một cách trực tiếp quan niệm
sáng tác của họ, song dựa vào từ tự, nội dung các bài từ, có thể nhận thấy đối với đa
13
phần các tác giả, từ vẫn thuộc địa hạt của thơ, không phân biệt một cách rạch ròi về
mặt chức năng, nhưng so với thơ, địa vị của từ có phần sút kém hơn. Đây cũng là
một trong những nguyên nhân khá quan trọng khiến từ tuy không bị dè bỉu, tẩy
chay, nhưng cũng không được sáng tác một cách phổ biến.
3.2.4. Thể thức
3.2.4.1. Các điệu thức đã được tiếp thu
Thống kê 88 tác phẩm từ Việt Nam giai đoạn thế kỉ XVIII cho thấy chúng
thuộc về 54 điệu, trong đó các điệu được sử dụng một cách thường xuyên nhất là:
Mãn đình phương – 7 lần, Vọng Giang Nam (hay cũng gọi là điệu Giang Nam hảo)
– 6 lần, Tây giang nguyệt – 5 lần.
Xét về cú thức, trong các sáng tác từ giai đoạn này có sự hiện diện của 8 trong
tổng số 11 kiểu câu của từ, bao gồm: câu 2 chữ, 3 chữ, 4 chữ, 5 chữ, 6 chữ, 7 chữ, 8
chữ và câu 9 chữ, không có các câu 1 chữ, 10 chữ và 11 chữ; cách cách ngắt câu
cũng hết sức phong phú.
3.2.4.2. Về phương diện gieo vần
Các tác phẩm từ thế kỉ XVIII thuần túy gieo vần chân theo 3 cách: 1/ Dùng
thuần vần bằng, 2/ Dùng thuần vần trắc, 3/ Dùng vần bằng và vần trắc đan xen nhau.
Đây cũng là nét khá đặc biệt so với cách gieo vần của các thể thức thơ cận thể vốn là
thể thức quen thuộc, sở trường của nhà nho Việt Nam.
3.2.4.3. Về ngôn ngữ
Ngôn ngữ từ giai đoạn thế kỉ XVIII thiên về trang trọng, tao nhã, đặc biệt là
từ trong các thi tập; đôi khi cũng có tác giả khá chuộng dùng điển, như trường hợp
các bài từ của Nguyễn Huy Oánh. Lãnh cú tự có xuất hiện nhưng rất ít, đến mức
không đáng kể.
3.2.4.4. Phân loại theo loại và phiến
Các tác phẩm từ giai đoạn thế kỉ XVIII, dạng tiểu lệnh - song điệu vẫn chiếm
số lượng lớn nhất. Trong số 88 bài từ giai đoạn này chỉ có 1 bài làm theo lối tam
điệp, toàn bài phân làm ba phiến, đó là bài từ điệu Nguyệt trung hành của Phạm
Nguyễn Du. Thực ra, điệu Nguyệt trung hành theo từ phổ là loại song điệu, có 2 thể:
48 chữ và 50 chữ, xét tổng số chữ theo từ phổ, bài trên vẫn thuộc loại tiểu lệnh,
nhưng khi tiếp thu điệu từ này, Phạm Nguyễn Du đã “chế biến” và “nâng cấp”, biến
nó từ song điệu thành tam điệp; từ số chữ là 48 hoặc 50 đẩy lên thành 82 chữ, tức là
biến điệu Nguyệt trung hành từ loại tiểu lệnh thành loại trung điệu.
3.2.4.5. Mức độ chuẩn xác về từ luật
Các sáng tác từ giai đoạn này nhìn chung có độ “lệnh khung” rất lớn so với
từ luật, nhiều tác phẩm thậm chí nếu không có từ điệu thì không thể xác định được
14
điệu thức của chúng. Điều này cho thấy, tác phẩm từ Việt Nam giai đoạn thế kỉ
XVIII mang tính biến thể cao.
15
3.2.4.6. Nguyên nhân dẫn đến sự sai lệch về cách luật
Có 2 nguyên nhân cơ bản: 1/ Do biến động về văn bản, 2/ Do tác giả cố ý
không tuân thủ nghiêm cách luật, vừa có xu hướng thoát li khỏi sự quy định chặt chẽ
của từ phổ để tự do trong sáng tác, lại có biểu hiện cách tân thể loại để tạo ra những
dạng thức cách luật mới, chứng tỏ trong khi tiếp nhận một thể loại từ với tư cách là
thể loại văn học ngoại lai, các tác giả Việt Nam giai đoạn này có sự tìm tòi riêng,
không quá câu nệ vào các khuôn mẫu có sẵn.
3.2.5. Nội dung và phong cách nghệ thuật
3.2.5.1. Xu hướng dùng từ để tả cảnh
Các bài từ dạng này chiếm tỉ lệ lớn. Tiêu biểu cho khuynh hướng dùng từ để
miêu tả phong cảnh là Ngô Thì Sĩ và Phan Huy Ích. Tuy nhiên trong thể loại từ, nhất
là từ ở Trung Quốc, không có xu hướng tả cảnh thuần túy, các tác giả thường thông
qua tả cảnh để ngụ cái xuân tình, hoặc giả là ý “thương xuân bi thu”, hay “thương
loạn thương biệt”. Các sáng tác của hai tác giả Việt Nam nói trên (nhất là Ngô Thì
Sĩ) khá gần với thơ, sự phân biệt với thơ qua các bài từ chỉ là ở hình thức thể loại.
Cũng là các bài từ tả cảnh, tác phẩm của Nguyễn Huy Oánh và Phạm Nguyễn
Du lại mang ý vị khác hẳn. Với Nguyễn Huy Oánh, đó là cảnh nhàn dật của một sĩ phu
sau khi “công thành danh thỏa” trở về làm bạn với cúc với mai, vui với một bầu nước
biếc, bốn phía gió xuân, tìm phong vị của cuộc sống nơi thôn dã, an bần mà lạc đạo.
Với Phạm Nguyễn Du, đó là tâm thái của đạo sĩ lánh đời, vô vàn xa cách cõi hồng trần.
Như vậy, với hai tác giả này, dùng từ để tả cảnh mà thực chất lại là để nói chí.
3.2.5.2. Xu hướng dùng từ để trữ tình
Tác phẩm thuộc dạng này chiếm tỉ lệ khá nhỏ, tiêu biểu là một số sáng tác của
Ngô Thì Sĩ, Đặng Trần Côn, Nguyễn Ngọc Thiềm, và một số bài trong Truyền kì tân
phả, Hoa viên kì ngộ tập. Nhìn chung các bài từ trong các tiểu thuyết bạo dạn hơn
trong việc ngôn tình, nhất là tình yêu, tiệm cận hơn với phong cách thể loại. Tuy
nhiên, cũng cần lưu ý rằng sở dĩ có hiện tượng đó là do các bài từ này bị chi phối bởi
nội dung các tiểu thuyết.
3.2.5.3. Xu hướng dùng từ để tự sự
Các bài từ viết theo xu hướng này không nhiều, tiêu biểu là một số sáng tác
của Ngô Thì Sĩ và Nguyễn Huy Oánh. Tuy tự sự không phải điểm mạnh, đặc sắc của
từ, nhưng dùng từ để thuật việc mà “thuật lại sự việc như nói ra miệng” , như thế vẫn
được coi là có ý cảnh (Vương Quốc Duy – Nhân gian từ thoại).
3.2.5.4. Xu hướng dùng từ để triết lí và nói chí
Tiêu biểu cho việc dùng từ để triết lí và nói chí chính là Ngô Thì Sĩ. Bài từ
điệu Tô mạc già của ông như sau:
16
Phiên âm: Tạm dịch:
Thiên bao hàm,
Địa trì tải,
Nhân sinh kì trung,
Hựu đệ trì nhất hội.
Trường tồn chính hợp tam tương đối,
Na lý nhân mang,
Địa hòa thiên độc tại.
Thế khuynh triều,
Nhan tuyệt đại,
Chuyển tiệp thành không,
Hốt nhiên như long mại.
Thương mang chỉ tác vô tình đãi,
Thiên cổ hý trường,
Tá cừ đương khổi lỗi.
Trời bao hàm,
Đất che chở,
Người sống ở trong,
Lại tuần hoàn một hội.
Còn mãi, đất-trời-người tiếp nối,
Nơi đó người vội vàng,
Đất trời riêng tồn tại.
Thế nghiêng thành,
Xinh bậc nhất,
Chớp mắt thành không.
Chợt tựa rồng bay vút.
Trời xanh vẫn chỉ kẻ vô tình,
Thiên cổ một trường đùa cợt,
Mượn ngươi làm hình nộm.
(Hàn Vu Thủy dịch).
Tác phẩm thể hiện sự suy lự sâu sắc về nhân sinh, tuy nặng về triết lí nhưng
cách nói “Cái thế xiêu đổ triều đình / Cái nhan sắc nhất đời / Chớp mắt đã thành
không” và “Thiên cổ hý trường / Chỉ mượn kẻ kia để làm cái hình nộm” đã ít nhiều
biểu lộ những cảm nhận về sự ngắn ngủi và vô thường của kiếp người; điều đó
khiến cho từ phong tuy thiên về triết lí mà vẫn phảng phất yếu tố “bi mĩ” của thể
loại từ. Đây là nội dung ít thấy trong thể loại từ nói chung.
TIỂU KẾT:
Trong từ sử Việt Nam, sáng tác từ giai đoạn từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XVIII
là một hành trình dài, song thành tựu không lớn. Có 4 nguyên nhân quan trọng dẫn
đến thực trạng này. Trước hết, ban đầu từ là thể thức văn chương dùng để phối hợp
với âm nhạc để hát, theo con đường “do nhạc định từ” (từ nhạc điền lời), “tiên nhạc
hậu từ” (nhạc trước lời sau), “ỷ thanh điền từ” (dựa vào âm nhạc để điền lời); chịu
sự chế định của âm nhạc (yến nhạc). Vì thế, muốn sáng tác được từ, các tác giả - từ
nhân - cần phải am tường từ nhạc. Điều đó khiến từ nhân cần phải có tố chất nghệ
sĩ cao hơn nhiều so với thi nhân. Sự khó khăn trong việc tiếp thu hệ thống từ nhạc
hiển nhiên là một lực cản lớn đối với việc điền từ. Thứ hai, thể thức cách luật của từ
phức tạp hơn nhiều lần so với thơ. Vì vậy, ngay cả khi từ thoát li khỏi sự tòng thuộc
của âm nhạc để trở thành một dạng thức thơ ca cách luật thì sự phức tạp về cách luật
của nó vẫn là một lực cản khá lớn đối với các tác giả, nhất là các nhà nho Việt Nam
vốn đã phải quá dụng tâm vào các thể thức văn chương cử nghiệp. Thứ ba, từ vốn là
thể thức văn học giải trí trước chén dưới trăng (tôn tiền nguyệt hạ), được tiến hành
trong một môi trường âm nhạc và nữ tính, nội dung thiên về nỗi “thương xuân, bi
thu”, “li sầu biệt hận”, tình yêu trai gái, sắc dục… thể loại này cố nhiên không phù
hợp với quan niệm thẩm mĩ của giới tăng lữ, ngay nhà nho cũng coi là thể loại ủy
mị, thấp kém. Để từ phát triển mạnh trong điều kiện đó, ngoài việc tiếp thu hệ thống
17
từ nhạc, sự am tường từ luật, nó cần một môi trường tiếp nhận phù hợp, đặc biệt là
sự phát triển của các đô thị lớn và các trung tâm giải trí kiểu “ca lâu kĩ quán”, “ca
đài vũ tạ”… mà điều này thực tế phát triển ở Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ
XVIII còn nhiều hạn chế. Thứ tư, ngoài những điểm trên, xét hoàn cảnh Việt Nam,
đến thế kỉ XVIII, tuy môi trường xã hội, quan niệm văn học có nhiều chuyển biến so
với các giai đoạn trước song sự trở lại của thể loại từ giai đoạn này về cơ bản không
có sự kế thừa từ giai đoạn trước, vì vậy để thể hiện tình cảm riêng tư các tác giả Việt
Nam có thể sử dụng các thể loại vốn là quen thuộc, sở trường như thơ cận thể
(chẳng hạn các trường hợp Khuê ai lục, Đoạn trường lục), hay các thể loại văn học
nội sinh như ngâm khúc, hát nói… mà không nhất thiết tìm đến với từ. Hơn nữa đến
giai đoạn này, từ đã thoát li khỏi sự lệ thuộc vào âm nhạc, sáng tác từ không còn
dùng để hát. Do đó, để giải trí, bộc lộ ưu hoài trong các cuộc yến ẩm trước chén
trong hoa, thay vì tìm đến với thể loại từ, các tác giả đương thời có thể tìm đến với
hát nói, là thể thức văn học nội sinh, dễ sáng tác, dễ cảm thụ và cũng dễ biểu diễn.
Chính vì những nguyên nhân cơ bản trên, ở giai đoạn này chưa thấy có tác
giả nào thực sự thâm nhập vào thể loại từ, vì thế chưa xuất hiện các từ nhân thực
thụ, sáng tác từ mới như một sự thể nghiệm đối với một thể loại văn học vốn dĩ
không thông dụng ở Việt Nam. Và hệ quả kéo theo là thể loại từ ở giai đoạn này
tính ngôn chí và tự sự lấn át tính ngôn tình, chưa đạt mức thuần thục đồng thời có
nhiều biến thái phức tạp về hình thức mà nguyên nhân không phải chỉ là do sự biến
động về văn bản.
Ra đời trong bối cảnh thời đại và văn chương có nhiều thuận lợi, song do
không có sự kế thừa truyền thống, không có sự phát triển mạnh mẽ của đô thị, thị
dân và các trung tâm giải trí, cũng như các yếu tố truyền dẫn cần thiết, bản thân các
tác giả cũng chưa có sự tiềm tâm nghiên cứu thấu đáo về thể loại từ, vì thế tác phẩm
từ giai đoạn này xét về thể thức có xu hướng “bị” tự do hóa, bên cạnh đó dưới sự
chi phối khá mạnh mẽ bởi quan niệm văn chương chức năng của Nho gia, tác phẩm
từ giai đoạn này, xét về nội dung, thủ pháp… còn bị thi hóa một cách rõ nét, khiến
bản sắc thể loại cũng mờ nhạt. Tuy còn nhiều bất cập và hạn chế, sáng tác từ thế kỉ
X đến hết thế kỉ XVIII vẫn có những đóng góp nhất định, làm phong phú thêm cho
kho tàng văn học dân tộc, nhất là các dạng thức cách luật của chúng. Không chỉ vậy,
về phương diện từ sử, thể loại từ giai đoạn thế kỉ XVIII còn có tác dụng quan trọng,
làm bước đệm, tạo đà cho sự phát triển của thể loại từ ở thế kỉ sau.
Chương 4
THỂ LOẠI TỪ VIỆT NAM THẾ KỈ XIX - THỪA TIẾP VÀ PHÁT HUY
4.1. Đội ngũ tác giả
Về đội ngũ tác giả từ giai đoạn thế kỉ XIX, trên đại thể có thể phân làm hai
nhóm lớn: Nhóm thứ nhất bao gồm các tác giả xuất thân từ hệ thống khoa cử Nho
học, nhóm thứ hai là các tác giả không thành công trong khoa cử, hoặc không tham
18
gia khoa cử. Xét một cách tổng quát, đội ngũ tác giả từ giai đoạn thế kỉ XIX phần lớn
không phải là các nhà khoa cử thành danh song đều khá nổi tiếng về tài năng thi ca,
đồng thời một số tác giả như Phạm Thái, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Hành, Đỗ Thiếu
Tuấn, Nguyễn Hoàng Trung… còn thể hiện rõ khí chất của các bậc tài tử phong lưu.
Đó cũng là nét khá tương đồng với đội ngũ tác giả từ giai đoạn thế kỉ XVIII. Điều
đáng chú ý về đội ngũ tác giả từ giai đoạn này có sự góp mặt của một số tác gia
hoàng tộc nhà Nguyễn. Các tác phẩm mang tính lí luận từ học, hoặc từ tập dung
lượng lớn, thuần thục về thủ pháp nghệ thuật đều là trước tác của các tác giả này.
4.2. Các nguồn ảnh hưởng đến việc tác từ
Xét các yếu tố ảnh hưởng đến việc tác từ của các tác giả từ giai đoạn này, về
cơ bản khá giống với các tác giả từ giai đoạn thế kỉ XVIII. Tuy nhiên, điều có thể
thấy khá rõ ràng là vào thế kỉ XIX, nguồn sách vở từ Trung Quốc truyền sang Việt
Nam có phần phong phú hơn các giai đoạn trước, do đó các tác giả Việt Nam có
nhiều điều kiện để tiếp xúc với các tác phẩm từ Trung Quốc, nhất là các tác phẩm từ
thời Thanh, hoặc các sách về từ do người thời Thanh biên soạn, xuất bản. Cho nên
sự phát triển khá mạnh của thể loại từ trong văn học trung đại Việt Nam nửa cuối
thế kỉ XIX có chịu ảnh hưởng nhất định của từ học thời Thanh.
4.3. Động cơ sáng tác và một số quan niệm từ học
4.3.1. Động cơ sáng tác
Về mục đích ứng dụng, tác phẩm từ giai đoạn này được dùng để miêu tả
phong cảnh, chúc tụng, giao đãi, thể hiện tình cảm cá nhân, niềm thương xuân bi thu,
li sầu biệt hận, thậm chí được dùng để thờ tự tổ tiên (như trường hợp tác phẩm từ
khắc trên biển gỗ ở nhà thờ Đại tông dòng họ Nguyễn Huy tại Trường Lưu); tác
phẩm từ cũng được dùng trong hoạt động ngoại giao, hoặc ứng dụng trong các tiểu
thuyết để thể hiện cái tài tình của nhân vật, đồng thời thông qua đó thể hiện tài năng
thơ ca của tác giả. Qua đó có thể thấy quan niệm, thái độ của các tác giả từ giai đoạn
này là khá phức tạp và không đồng nhất. Từ phạm vi ứng dụng từ khá rộng, sự phong
phú về đội ngũ tác giả và tác phẩm, cùng sự xuất hiện của các từ tập chuyên biệt và
các sách chuyên trước về từ, có thể khẳng định ở thế kỉ XIX, đặc biệt là nửa sau thế
kỉ XIX, thể loại từ đã thu hút sự chú ý của nhiều tác giả lớn, trong đó có một số tác
giả đã thực sự dụng công tìm hiểu và trước tác theo thể loại này. Điều đó tạo ra sự
thay đổi quan trọng, và nét khu biệt với thực trạng sáng tác từ các giai đoạn trước.
4.3.2. Một số quan niệm từ học của các tác gia hoàng tộc triều Nguyễn
4.3.2.1. Về việc điền từ
Miên Trinh coi từ là hậu duệ của thơ, cũng thuộc phạm vi của thi giáo. Ông
khẳng định điền từ là khá đơn giản nhưng “không dễ làm cho hay”. Tuy Miên Trinh
không tẩy chay thể loại này song hết sức e dè, cho từ “như có hại cho đạo vậy”, hay
khi viết lời bạt cho sách Từ tuyển, ông cũng không tránh khỏi việc liên hệ tạt ngang
đến thói dâm ô của nước Trịnh nước Vệ, còn khi được biết việc Nguyễn Miên Khoan
làm sách Từ thoại và đưa một số sáng tác từ của mình vào sách này, đồng thời thêm
19
một số lời phẩm bình, Miên Trinh sợ đến “túa mồ hôi” và ra sức giải thích, sợ bị hiểu
nhầm là mình ham điền từ, “đầu têu” cho các học trò noi theo. Còn Miên Thẩm sau
khi sáng tác Cổ duệ từ cũng chỉ coi đó như “mấy ngàn lời tiểu thuyết mua vui”.
4.3.2.2. Về tiến trình phát triển của thể loại từ
Nhân trả lời Tự Đức một số vấn đề liên quan đến việc điền từ, Miên Trinh
trình bày một số nét phác về từ sử. Tuy nhiên, dường như do chỉ căn cứ vào sách Từ
tổng (của Chu Di Tôn thời Thanh) nên nhận xét về từ sử của ông không hoàn toàn
chuẩn xác. Đối với thể loại từ thời Thanh, Miên Trinh và Miên Thẩm không tỏ ra có
nhiều hứng thú.
4.3.2.3. Về từ nhạc và mối quan hệ giữa từ với âm nhạc
Miên Trinh cho rằng “Thơ từ chính là sự hô ứng của âm nhạc” (Thi từ hợp nhạc
sớ). Ông rất mực đề cao thể thức và công dụng của âm nhạc, coi “Vốn dĩ thánh nhân
chế tác ra âm nhạc, là để hàm dưỡng tính tình, giáo dục nhân tài, thờ quỷ thần, hòa hợp
trên dưới, dùng khi chúc tụng, dùng khi sự vụ quốc gia… thể thức và công hiệu của nó
rất mực rộng lớn và thâm thiết”. Miên Trinh đề cao Kinh Nhạc (một cuốn kinh điển
của Nho gia, đã thất truyền sau sự kiện “phần thư khanh nho” thời Tần), đồng nhất nó
với từ nhạc. Cách kiến giải của ông về từ nhạc nhiều nhầm lẫn và võ đoán.
4.3.2.4. Về thao tác điền từ và từ luật
Nếu Miên Trinh coi điền từ là “không phí sức lắm” thì Tự Đức lại cho từ luật
khắt khe, bó buộc người làm, khó triển khai. Miên Trinh không phân biệt rõ giữa
cách luật của thơ với cách luật của từ, nhất là về phương diện gieo vần, cho cách
gieo vần của từ không chặt chẽ, gần với thơ cổ phong. Miên Trinh và Tự Đức đều
công khai thừa nhận mình không am hiểu về từ, nhất là về từ luật.
Trong số các tác giả hoàng tộc nhà Nguyễn có sáng tác, bàn luận về từ, ngoài
Miên thẩm, các tác giả có học vấn cao và có nhiều điều kiện tiếp xúc với sách vở về
từ như Tự Đức, Miên Trinh đều không tỏ ra am hiểu về từ. Sự thực này không
chứng tỏ rằng từ học quá phức tạp đến mức họ không thể thấu hiểu, mà là họ không
thực sự quan tâm đến thể loại từ, thậm chí còn giữ thái độ thận trọng, e dè, coi từ là
thể loại dung tục, có hại cho nền thi giáo. Từ các trường hợp cụ thể và rất tiêu biểu
này, có thể nhận thấy các nhà nho Việt Nam nói chung dường như không mặn mà
với thể loại từ, không dụng công tìm hiểu nó một cách thấu đáo và hệ quả tất yếu
là không thường xuyên sáng tác theo thể từ. Xem xét quan điểm của Miên Thẩm,
Miên Trinh, Tự Đức đối với thể loại từ, kết hợp khảo sát quan điểm của một số tác
giả từ khác trong văn học trung đại Việt Nam như Phùng Khắc Khoan, Ngô Thì
Sĩ… có thể nhận thấy bên cạnh các yếu tố như sự hạn chế trong việc tiếp thu hệ
thống từ nhạc, sự phát triển của kinh tế đô thị và tầng lớp thị dân… thì chính sự e
ngại của nhà nho đối với thể loại từ cũng là một yếu tố đặc biệt quan trọng khiến thể
loại này ít có điều kiện phát triển mạnh mẽ.
20
4.5. Thể thức
4.5.1. Các điệu thức đã được tiếp thu
Tổng kết toàn bộ từ sử Việt Nam, giai đoạn từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XVII,
tác giả Việt Nam sử dụng 4 điệu từ; giai đoạn thế kỉ XVIII, các tác giả Việt Nam sử
dụng 54 điệu; giai đoạn thế kỉ XIX, các tác giả sử dụng 108 điệu, trong đó riêng Cổ
duệ từ của Miên Thẩm đã gồm 114 bài với tất cả 82 điệu.
Trong số các điệu từ được các tác giả từ Việt Nam sử dụng giai đoạn này, có 2
điệu từ do tác giả Việt Nam tự chế tác, vốn chưa được ghi nhận trong các sách về từ phổ,
từ luật. Đó là các bài từ điệu Giang Nam và bài Xuân đình lan của Hồ Xuân Hương.
Về điệu thức, ở giai đoạn này dường như còn có tác giả Việt Nam tự viết nhạc và
điền lời để tạo ra điệu thức mới. Đó là trường hợp của Nguyễn Hành. Cuối sách Minh
quyên thi tập của ông có một bài mang tên Môn tiền quá (門前過), trong sách ghi là
Tự độ khúc (自度曲). Tự độ khúc là khái niệm từ học chỉ việc một tác giả nào đó tự
viết nhạc rồi điền lời vào bản nhạc đó để tạo ra điệu từ mới.
Trong giai đoạn này còn xuất hiện một hiện tượng thú vị mà các giai đoạn
khác chưa từng có. Đó là trường hợp sử dụng chữ Nôm để điền từ. Trong Sơ kính
tân trang, Phạm Thái sáng tác 4 bài từ chữ Nôm theo hai điệu Tây giang nguyệt và
Nhất tiễn mai. Cả bốn bài đều đạt đến trình độ điêu luyện. Đây không chỉ là trường
hợp đặc biệt mà còn là bước đột phá trong từ sử Việt Nam, thể hiện công phu điền
từ, và khả năng Việt hóa thành công đối với thể loại từ bằng cách sử dụng chính
ngôn ngữ dân tộc để điền từ trên cơ sở tương đồng về loại hình ngôn ngữ. Đó là
điều các tác giả trung đại đã từng thành công với các thể thơ cận thể và thể phú. Có
thể coi các sáng tác từ của Phạm Thái đã tạo ra một lối đi riêng, một ngã rẽ cho thể
loại từ ở Việt Nam, hứa hẹn nhiều thành tựu. Tiếc rằng trong từ sử Việt Nam thời
trung đại, không ai tiếp tục điền từ theo hướng này, và do đó Phạm Thái trở thành
một biệt lệ.
4.5.2. Mức độ chuẩn xác về từ luật và nguyên nhân dẫn đến sự sai lệch về
cách luật
Đến giai đoạn thế kỉ XIX, nhiều tác giả đã dụng công khá sâu sắc vào việc
điền từ, do đó thể thức của tác phẩm ổn định và đảm bảo hơn các giai đoạn trước.
Thêm nữa xét về văn bản, các trước tác giai đoạn này cách nay chưa xa, điều đó
khiến diện mạo tác phẩm không bị biến dạng quá lớn.
4.6. Nội dung và phong cách nghệ thuật
Nếu như thể loại từ do các tác giả Việt Nam sáng tác ở các giai đoạn trước có
thể phân chia tương đối đồng đều theo các mảng thuyết lí, tự sự, trữ tình, tả cảnh thì
nội dung thể loại từ giai đoạn thế kỉ XIX có xu hướng thu hẹp hơn.
21
Truyền thống ứng dụng từ trong hoạt động ngoại giao khởi đầu từ Ngô Chân
Lưu (thế kỉ X), Lê Quang Viện (thế kỉ XVIII) và Phan Huy Ích (cuối thế kỉ XVIII)
đến giai đoạn này tiếp tục được kế thừa qua các sáng tác của Ngô Thì Hương.
Nguyễn Hành dùng tác phẩm từ để diễn đạt tâm trạng khắc khoải nhớ quê xa
của kẻ lữ khách đồng thời cũng dùng từ để thể hiện niềm hoài cổ, đặc biệt là những
bài từ viết khi đang ở Thăng Long. Đỗ Lệnh Thiện dùng từ để diễn tả nỗi đau “quốc
phá gia vong”.
Sáng tác từ giai đoạn này có nhiều bài được dùng để nói tình yêu nam nữ, tiêu
biểu như một số tác phẩm của Đỗ Lệnh Thiện, Phạm Thái, Hồ Xuân Hương, Nguyễn
Hoàng Trung, Miên Thẩm, các bài từ trong Việt Nam kì phùng sự lục, Đồng song
kí Trong một số tác phẩm, khao khát yêu đương, khao khát ái ân được thể hiện một
cách mạnh mẽ và hiển ngôn.
Trong các tác giả từ giai đoạn này, Đào Tấn và Miên Thẩm là các tác giả có
dụng công sâu sắc nhất vào việc điền từ, trở thành các từ nhân thực thụ. Sáng tác của
hai tác giả này đạt độ thuần thục về bút pháp, giàu cảnh giới nghệ thuật. Có thể coi
Đào Tấn là một trong những tác giả từ Việt Nam đã gạt bỏ được quan niệm coi từ là
thể loại văn học dung tục, thấp kém. Trong bài từ điệu Giá cô thiên ông viết: “Tòng
kim thu thập ti hòa trúc / Bất tác phong hoa tuyết nguyệt ca” (Từ nay gom hết đàn
cùng sáo / Chẳng viết phong hoa tuyết nguyệt ca), có thể coi là tuyên ngôn nghệ
thuật của Đào Tấn được thể hiện qua tác phẩm từ. Trong bài từ điệu Ỷ la hương, ông
cũng viết: “Hận thư sinh đa phụ thời gian/ Hoàn tác thậm đoạn trường thi cú” (Giận
thư sinh luống phụ thời gian/ Viết chi lắm những câu đứt ruột). Có thể vì quan niệm
đó, Đào Tấn không dùng từ để nói về phong hoa tuyết nguyệt, hay chuyện yêu đương
tình ái, mà nội dung các tác phẩm của ông xoay quanh hai mảng chính là lữ khách
hoài hương và ưu tư quốc nạn, cả hai đều được thống suất bằng niềm bi cảm. Đọc tác
phẩm từ của Đào công có thể thấy niềm cô đơn rợn ngợp, nỗi sầu li hận, nỗi đau vì
đất nước bị xâm lăng mà bản thân mình bất lực. Xét về phong cách nghệ thuật, tác
phẩm từ của Đào Tấn cũng phân làm hai mảng. Mảng thứ nhất là các bài về tâm
trạng cô đơn khắc khoải, nỗi sầu li biệt, tư hương hoài hữu của kẻ lữ khách ngóng
quê xa… Mảng này thiên về phong cách của phái uyển ước, giàu hình ảnh và cảm
xúc. Ở nội dung thứ hai, về niềm ưu tư quốc nạn, sáng tác của Đào Tấn nghiêng theo
phong cách từ của phái hào phóng, giọng điệu mạnh mẽ, kiểu “Sông dài ngàn dặm
lưu dấu tích anh hùng” (điệu Điệp luyến hoa), hay “Bi phẫn ngập lòng / Tám phương
gió lộng / Muôn dặm trường thành khóc” (điệu Thanh ngọc án)… tuy không có cái
thế giới nghệ thuật tên đạn bời bời như trong một số tác phẩm của từ gia Tân Khí Tật
thời Nam Tống song cũng đầy vẻ bi tráng.
Còn Miên Thẩm tự coi mình tiền thân là Thiết Cước đạo nhân - một vị đạo sĩ
thích ăn hoa mai với tuyết, cho cái lạnh, cái thanh khiết ngấm tận gan phổi. Nhưng
đó chỉ là ý hướng, trên thực tế, Miên Thẩm không phải là một đạo sĩ lánh đời, phiêu
diêu ngoài cõi tục, mà là một vị hoàng thân quốc thích theo kiểu “Bán thị u nhân bán
vương giả” (Một nửa là người ở chốn u tịch, một nửa là bậc vương giả - Bài từ vịnh
hoa lan, điệu Thâu thanh mộc lan hoa). Cho nên trong tác phẩm từ của ông vừa có
22
cái ý vị của cuộc sống phiêu diêu thoát tục tìm thú vui nơi sơn thủy, vừa có nét
phong lưu đa tình. Miên Thẩm sùng mộ phong cách từ của Khương Quỳ thời Nam
Tống, chuộng bút ý thanh không. Trong lời tựa Cổ duệ từ ông viết: “…nhã tục năng
phân, mà bút ý thanh không, tự nhiên cao giá” (Cổ duệ từ tự). Trong Từ nguyên,
Trương Viêm cho rằng: “Từ cốt ở thanh không, không coi trọng sự chất thực. Thanh
không thì cổ nhã cao kì, chất thực thì ngưng trệ u tối”. Biểu hiện của thanh không xét
về nội dung là cổ kính tao nhã, xét về bút pháp phải truy cầu sự cao kì. Thanh không
đối lập với chất thực. Chất thực là nệ vào việc mô tả sự thực, một khi nệ vào sự thực
thì ý cảnh bị giới hạn, không đạt đến mức thanh thoát. Cho nên các bài từ trong Cổ
duệ từ, Miên Thẩm chú trọng việc “khử hình thủ thần”, cốt truy cầu ý cảnh rộng lớn,
phiêu diêu thoát tục, cũng giống như Trương Viêm từng suy tôn từ của Khương Quỳ
“Như mây nội lẻ bay, qua lại không dấu”, “chẳng những thanh không mà còn tao
nhã, đọc lên khiến người ta tinh thần bay xa” (Từ nguyên).
TIỂU KẾT:
Sau một thời gian dài đình trệ, gần như không phát triển, đến thế kỉ XVIII,
thể loại từ xuất hiện trở lại, được sáng tác một cách thường xuyên hơn. Sang thế kỉ
XIX, mặc dù là thời đoạn chế độ quân chủ tập quyền được củng cố, quan niệm văn
học chức năng vẫn chi phối nặng nề đối với sáng tác văn học, tình hình chính trị xã
hội cũng có nhiều bất lợi cho sự phát triển của thể loại từ, song do có sự kế thừa
thành tựu đã đạt được từ giai đoạn trước, đồng thời chịu tác động nhất định của từ
học thời Thanh thông qua các tiếp xúc trực tiếp qua con đường đi sứ, hoặc gián tiếp
qua các thư tịch Trung Quốc truyền vào nước ta, không giống với nhiều thể loại văn
học khác, từ vẫn tiếp tục duy trì được sự phát triển vốn có, không những thế còn
phát triển mạnh hơn các giai đoạn trước, số lượng tác giả, tác phẩm phong phú,
phạm vi ứng dụng rộng, ngoài các tác phẩm từ trong các thi tập, văn tập, hay ứng
dụng trong các tiểu thuyết còn xuất hiện các từ tập chuyên biệt, các sách chuyên
trước về từ, các tác phẩm bàn luận về từ học; bên cạnh các sáng tác bằng chữ Hán
còn có một số bài từ bằng chữ Nôm.
Trong các tác giả sáng tác từ giai đoạn này, các tác gia trong hoàng tộc triều
Nguyễn có đóng góp quan trọng, đặc biệt là Miên Thẩm. Đây cũng là những tác giả có
nhiều điều kiện thuận lợi trong việc tiếp xúc với các tư liệu về từ từ Trung Quốc truyền
sang.
Tác phẩm từ thời này về cơ bản khá chuẩn chỉnh về cách luật, bút pháp thuần
thục, có độ sâu cảm xúc. Sự xuất hiện của hai từ tập chuyên biệt là Mộng Mai từ lục
và Cổ duệ từ cho thấy đã có một số tác giả dành nhiều tâm huyết cho việc điền từ,
trở thành các từ gia thực thụ. Đào Tấn dùng từ để thể hiện tuyên ngôn về nghệ thuật,
Miên Thẩm có ý hướng phát huy từ học thời Nguyễn, truy cứu tác phẩm từ cổ kim,
sáng tác có đường hướng, lề lối, có chủ đích rõ ràng về phong cách nghệ thuật;
Miên Trinh, Tự Đức, Miên Kiền, Miên Khoan ngoài sáng tác còn bàn luận về một
số vấn đề có tính chất lí luận từ học…, đó là những điều chưa từng xuất hiện ở các
23
giai đoạn trước. Việc Đào Tấn dùng từ để thể hiện tuyên ngôn về nghệ thuật và sự
dụng công sâu sắc vào từ cho thấy ông là một trong những tác giả hiếm hoi thời
trung đại gạt bỏ được nỗi ám ảnh rằng từ là một thể loại thấp kém và dung tục.
Nếu tác phẩm từ ở giai đoạn thế kỉ XVIII có thể phân chia khá đồng đều qua
bốn mảng thuyết lí, tự sự, trữ tình, tả cảnh thì nhìn chung tác phẩm từ giai đoạn thế
kỉ XIX nội dung có xu hướng thu hẹp vào các nội dung quốc phá gia vong, li sầu
biệt hận, nam nữ tương tư, được thể hiện bằng ngôn từ hoa mĩ, cảm xúc chân thành,
giọng điệu vừa bi thiết vừa khảng khái, hình tượng tài tử giai nhân có vị trí quan
trọng. Các đặc điểm đó khiến tác phẩm từ giai đoạn này tiếp cận gần hơn với các
đặc trưng thẩm mĩ của thể loại.
Xét tổng quan các yếu tố, có thể thấy giai đoạn thế kỉ XIX là giai đoạn phát
triển cao nhất của thể loại từ ở Việt Nam mà đỉnh cao chính là ở nửa sau thế kỉ XIX.
PHẦN KẾT LUẬN
Qua các phần đã trình bày, thể loại từ trong văn học trung đại Việt Nam đã
được sưu tập, khảo sát, nghiên cứu từ các phương diện: thành tựu sáng tác, sự phân
kì từ sử, đặc điểm về đội ngũ tác giả, các nguồn ảnh hưởng đến việc tác từ, động cơ
sáng tác, quan niệm từ học, thể thức, nội dung và phong cách nghệ thuật của mỗi
giai đoạn Từ những nghiên cứu cụ thể đó, có thể đi đến các kết luận như sau:
Về thực trạng sáng tác: Từ là một thể loại văn học đặc sắc của Trung Quốc,
cùng sự ảnh hưởng của văn hóa, văn học Trung Quốc, từ đã truyền sang các nước
Đông Á khá sớm và trở thành một thể loại văn học có tính chất khu vực.
Tại Việt Nam, từ năm 987 đến hết thế kỉ XIX, khảo biện qua các tư liệu Hán
Nôm trong và ngoài nước, kết hợp với khảo sát điền dã, hiện mới sưu tập được 304
tác phẩm từ của 34 tác giả, tính trung bình khoảng 3 năm mới xuất hiện một bài từ.
So với thành tựu sáng tác từ ở các nước Đông Á khác, thành tựu sáng tác từ ở Việt
Nam thuộc loại khiêm tốn nhất, kế đó đến Nhật Bản, Triều Tiên. Hơn nữa, cũng có
thể thấy khi truyền sang các nước Đông Á, do nhiều nguyên nhân khác nhau, thể loại
từ không có điều kiện phát triển mạnh mẽ; ngay cả giai đoạn phát triển đỉnh cao của
thể loại từ tại các nước Đông Á vẫn “chậm một nhịp” so với Trung Quốc. Do đó, thực
tế sáng tác từ ở Việt Nam không những cho thấy thực trạng chung của thể loại từ ở
Đông Á, mà còn phần nào cho thấy quy luật tiếp nhận thể loại từ ở khu vực này.
Tình trạng kém phát triển của thể loại từ tại Việt Nam bị chi phối bởi nhiều
nguyên nhân khác nhau, trong đó các nguyên nhân chủ yếu là do bản thân từ là một
thể loại văn học phức tạp về phương thức tạo tác và cách luật, thêm vào đó sự học ở
nước ta chủ yếu nhằm hướng vào khoa cử và chế độ quan liêu, vì thế đa số các tác
giả đều bị ảnh hưởng và chi phối sâu sắc bởi quan niệm văn học chức năng ngôn
chí, tải đạo, minh đạo… nên không mặn mà với từ, vốn là một thể loại bị coi là ủy mị,
thấp kém, có hại cho nền thi giáo. Ngoài ra ở Việt Nam thời trung đại, đô thị không
24
phát triển mạnh mẽ, không có đội ngũ thị dân đông đảo cùng hệ thống các ca lâu kĩ
quán, các trung tâm giải trí… nên từ không có môi trường để phát triển thuận lợi.
Về tiến trình phát triển và phân kì từ sử: Từ sử Việt Nam thời trung đại có thể
phân chia làm 2 giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất từ năm 987 đến hết thế kỉ XVII, là
giai đoạn thể loại từ được tiếp nhận nhưng không phát triển mạnh; giai đoạn thứ hai
từ thế kỉ XVIII đến hết thế kỉ XIX là giai đoạn tái tiếp nhận thể loại từ và phát triển
lên đến đỉnh cao. Có thể nhận thấy sự vận động và phát triển của thể loại từ tại Việt
Nam tuy có những đặc điểm riêng song xét một cách đại thể vẫn khá tương thích
với tiến trình chung của lịch sử văn học.
Về đội ngũ tác giả từ: Nếu như ở Trung Quốc, đội ngũ tác giả từ thuộc nhiều
thành phần xã hội khác nhau thì ở Việt Nam, những tác giả tìm đến với thể loại này
về cơ bản đều là những người giàu cá tính, có học vấn cao: hoặc là các nhà khoa
bảng thành danh, các nhân vật chính trị, hoặc là các bậc tài tử phong lưu (Tất nhiên
sự khu biệt này chỉ có tính chất tương đối). Đa số các tác giả từ cũng là những tác
gia quan trọng trong văn học trung đại. Theo đó, có thể thấy ở Việt Nam thời trung
đại, từ không phải thể loại thông dụng, thể loại này bị chi phối, hạn chế bởi nhiều
yếu tố khác nhau, và vì thế, sáng tác từ như một sự “vượt ngưỡng” về học vấn và cá
tính sáng tạo. So sánh sáng tác của hai nhóm tác giả trên, sáng tác từ của các bậc
phong lưu tài tử có xu hướng tiệm cận hơn với bản sắc thể loại. Vào nửa sau thế kỉ
XIX tuy đã xuất hiện các từ tập chuyên biệt, cho thấy một số tác giả có dụng công
nhất định trong việc điền từ; tuy vậy, tính chất “không chuyên” vẫn là một đặc điểm
quan trọng và khá nổi bật.
Về các nguồn ảnh hưởng đến việc tác từ: nguồn ảnh hưởng đến việc tác từ của
các tác giả Việt Nam có thể quy về các yếu tố chính: do ảnh hưởng từ sự học qua việc
tiếp xúc với các sách vở Trung Quốc, do ảnh hưởng lẫn nhau giữa các tác giả và ảnh
hưởng trực tiếp qua việc đi sứ. Tuy nhiên, nguồn ảnh hưởng không phải là yếu tố
quyết định hoàn toàn đến việc lựa chọn sáng tác theo thể loại từ, bên cạnh đó còn có
các yếu tố khác như môi trường văn hóa và tâm thái tiếp nhận của chủ thể sáng tác.
Về thể thức: Trong văn học trung đại Việt Nam, các tác giả đã sáng tác 304
bài từ, theo 133 điệu. Các điệu từ được tiếp thu đều thuộc loại đơn phiến và song
phiến, là những điệu từ ngắn, dễ triển khai hơn các điệu thuộc loại tam điệp, tứ điệp.
Mỗi một điệu từ tương ứng với một dạng thức cách luật riêng biệt. Do vậy,
tuy số lượng tác phẩm từ Việt Nam không lớn nhưng 133 dạng thức cách luật mà
thể loại này đóng góp, bổ sung cho văn học trung đại lại là con số khổng lồ so với
một số lượng rất hữu hạn của những dạng thức cách luật mà các tác gia trung đại
Việt Nam vốn quen dùng. Các điệu từ được sử dụng đều là các điệu có sự kết hợp
của các câu dài ngắn đan xen, giàu tiết tấu, cách thức gieo vần biến đổi qua từng
điệu, rất khác biệt với thơ cận thể, thậm chí là thơ cổ phong, vì thế trong phạm vi
văn học trung đại Việt Nam, sự xuất hiện của các điệu từ đồng thời là sự xuất hiện
của những dạng thức cách luật tân kì.
25