Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Bàn về việc thu thuế VAT ở khu vực kinh tế cá thể Quận Ba ĐÌnh - 5 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.42 KB, 10 trang )



hoặc Ban quản lý các chợ) thì vào sổ và chuyển cho bộ phận nghiệp vụ để chấm
bộ những hộ nghỉ kinh doanh, bộ phận nghiệp vụ cũng nhận được danh sách điều
chỉnh doanh thu của các hộ kinh doanh sau khi đã có có sự phê duyệt của lãnh
đạo chi cục để chấm vào bộ. Sau khi bộ phận nghiệp vụ đã chấm bộ phải trình
lãnh đạo chi cục duyệt bộ và ra thông báo nộp thuế cho các hộ kinh doanh. Cán
bộ quản lý địa bàn nhận thông báo nộp thuế ở bộ phận nghiệp vụ và phát cho các
hộ kinh doanh yêu cầu nộp thuế theo thông báo và hạn nộp , địa điểm nộp đã
được quy định. Nếu các hộ trây ì không nộp thuế thì sẽ ra thông báo lần 2, lần 3
hoặc nếu cần thiết có thể lập hồ sơ để thực hiện cưỡng chế theo luật định.
Biểu hiện đầu tiên của khâu nộp tiền thuế trước hết là ở số thuế thu được
trong kỳ và số nợ đọng trong kỳ.
Biểu số 7: Tình hình thực hiện kế hoạch thu thuế Giá trị gia tăng ở khu vực kinh
tế cá thể trên địa bàn Quận Ba Đình.
Đơn vị tính: 1.000 đồng
Dựa vào số liệu của biểu tình hình thực hiện kế hoạch trên ta nhận thấy
công tác thu thuế GTGT của năm 1999 có phần giảm sút so với công tác thu thuế
Doanh thu năm 1998 trước đây.
Năm 1998 Chi cục thuế Ba Đình hoàn thành vượt mức kế hoạch thu thuế
doanh thu đối với hộ kinh tế cá thể ( đạt 109,67%) .
Năm 1999 với 3 tháng đầu triển khai thu thuế Giá trị gia tăng đơn vị lại
không hoàn thành kế hoạch ( chỉ đạt 87,39%) mặc dù số thuế thu được quý I năm
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -


1999 là 3.495.581.000 đồng, vượt hơn rất nhiều so với số thuế Doanh thu thu
được của 3 tháng đầu năm 1998.
Nhưng xét về mặt kế hoạch thì đơn vị vẫn không hoàn thành với kế hoạch
được giao. Đó là do kế hoạch đặt ra quá cao so với nguồn thu thực tế mà Chi cục
Ba Đình có khả năng, vấn đề này đã được kiểm điểm rút kinh nghiệm. Mặt khác


do mới đưa thuế Giá trị gia tăng vào thực hiện nên Chi cục thuế còn gặp rất nhiều
khó khăn cả về phía chủ quan và phiá khách quan.
Cũng nhìn vào biểu ta thấy số thu thuế Giá trị gia tăng ngày càng cao so
với thuế doanh thu.
Năm 1998 : số thu thuế doanh thu chiếm 65,61% .
Năm 1999 : số thu thuế Giá trị gia tăng chiếm 78,05% trong tổng số thực
thu thuế ở khu vực kinh tế cá thể. Đây là một biểu hiện tốt do số nợ giảm dần.
Năm 1998 đòi nợ được 2.263.183.000 đồng, chiếm 34,39%
Năm 1999 đòi nợ được 767.281.000 đồng, chiếm 21,95%
Kết quả này là do công tác quản lý tốt nên số thuế thu được nhiều hơn, nhưng để
có lời khẳng định chính xác phải xem xét tình hình nợ đọng qua các năm. Trước
hết ta h•y để cập đến tình hình quản lý thu nộp thuế đối với hộ kinh tế cá thể trên
địa bàn Quận Ba Đình.
Biểu số 8: Tình hình thu nộp thuế Giá trị gia tăng của các hộ kinh tế cá thể
trên địa bàn quận Ba Đình.
Đơn vị tính: 1.000 đồng
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -


Với số liệu trên ta thấy số thuế nộp vào kho bạc so với số thuế ghi thu đạt
chưa cao. Cụ thể:
Năm 1998 so với số thuế phải thu đạt 92,6%.
Năm 1999 so với số thuế phải thu đạt 96,4%.
Như vậy qua các năm số thuế thu được ngày càng nhiều, tốc độ thu năm
1999 lớn hơn so với năm 1998. Điều này chứng tỏ các cán bộ thuế đã làm tốt
công tác đôn đốc thu nộp thuế, hoạt động ngày càng có hiệu quả. Mặt khác các
cán bộ thu thuế đã bám sát địa bàn nhiều hơn, qua đó đã thu được nhiều hộ kinh
doanh sản xuất trên địa bàn nằm ngoài sổ bộ và có biện pháp thu tốt hơn.
Qua các năm, số thuế thu được ngày càng tăng. Nhìn vào số liệu so sánh
giữa ghi thu và thực thu cả về số tuyệt đối và số tương đối ta thấy số nợ đọng

hoặc không thu được hoặc ít ra là tạm thời chưa thu được giảm đi rõ rệt. Số liệu
đó ngày càng minh chứng cho việc thu thuế có hiệu quả bởi khoảng cách này
đáng ra phải tăng lên do số hộ kinh doanh tăng lên.
Cụ thể việc đưa kho bạc xuống tận địa bàn để thu tiền thuế kết hợp với
việc tách bộ phận tính thuế và phát hành thông báo, bộ phận đôn đốc thu nộp tiền
thuế và bộ phận thanh tra xử lý đã phối hợp ăn ý, hỗ trợ, kiểm tra lẫn nhau để đẩy
nhanh công tác thu nộp tiền thuế và hạn chế những tiêu cực có thể phát sinh.
Hàng tháng vào những ngày quy định kho bạc đến các điểm thu, Chi cục
thuế cũng cử cán bộ ở bộ phận nghiệp vụ viết ngay giấy nộp tiền cho các hộ kinh
doanh trực tiếp đến nộp thuế tại đIểm thu, đây cũng là một biện pháp đẩy nhanh
công tác thu nộp thuế, hạn chế tiêu cực. Đồng thời Chi cục thuế cũng phối hợp
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -


với UBND các phường, Ban quản lý các chợ và các phương tiện thông tin đại
chúng để đẩy nhanh tốc độ thu nộp tiền thuế.
Quản lý thu nộp tiền thuế tốt sẽ giảm được số nợ đọng, chính vì thế nợ
đọng thuế nhiều hay ít là biểu hiện của công tác quản lý thu nộp tốt hay xấu.
Biểu số 9: Theo dõi tình hình nợ đọng thuế Giá trị gia tăng ở khu vực kinh
tế cá thể trên địa bàn Quận Ba Đình.
Đơn vị tính: 1.000 đồng
Nhìn vào biểu trên, có thể thấy rằng tình hình nợ đọng qua các năm vẫn
tồn tại và luôn là một vấn đề nan giải trong công tác thu nộp thuế nói chung và
thuế Giá trị gia tăng nói riêng.
Qua 2 năm 1998 và 1999, ta có tỷ lệ nợ đọng thuế Giá trị gia tăng
( thuế Doanh thu) sau:
Sản xuất
Dịch vụ
Thương nghiệp
Ăn uống

Trung bình
Có thể thấy rõ số nợ đọng:
Năm 1998 chiếm 7,4% tương ứng với số tiền là 523.412.000 đồng.
Quý I năm 1999 chiếm 3,6% tương ứng với số tiền 131.002 đồng.
Như vậy qua các năm các hộ cá thể đã chiếm dụng số vốn của Nhà nước
là đáng kể, tập trung hầu hết vào nghành thương nghiệp và ăn uống. Cho nên kết
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -


hợp với khâu quản lý về số hộ và doanh thu thì cán bộ thuế phải tập trung quan
tâm chú ý hơn vào hai ngành này bởi thất thoát tiền thuế và dây dưa tiền thuế tập
trung nhiều vào hai ngành này. Qua đó ta cũng thấy biện pháp quản lý và thu nợ
đọng qua các năm của cán bộ thuế chưa thật tốt nên số nợ từ năm này sang năm
khác cứ chồng chất hơn.
Tóm lại qua việc phân tích tình hình quản lý thu thuế Giá trị gia tăng, tình
hình nợ đọng qua các năm ở khu vực kinh tế cá thể trên địa bàn Quân Ba Đình có
thể rút ra được một vài nhận xét về công tác này:
Các cán bộ thuế đã có sự cố gắng nỗ lực trong quản lý, Chi cục thuế Ba
Đình đã tạo điều kiện cho cán bộ thuế làm việc nhưng không làm giảm hiệu quả
làm việc của cán bộ thuế. Cán bộ thuế đã cố gắng chuyên sâu vào việc đôn đốc
thu nộp tiền thuế. Việc nộp tiền thuế qua kho bạc đã làm giảm bớt khó khăn cho
cán bộ thuế, thủ tục đơn giản hơn nhiều. Tuy nhiên, cần phải bồi dưỡng thêm
trình độ cho các cán bộ thu để tăng hiệu quả công việc.
Công tác quản lý thu có nhiều thay đổi với chiều hướng tốt, cán bộ thuế năng
động nhiệt tình tích cực bám sát địa bàn và kiểm tra các hộ kinh doanh, phát hiện
nhiều vụ trốn thuế và có biện pháp tích cực để nhanh chóng thu hồi lại cho
NSNN. Các cán bộ thuế bình quân mỗi người phải quản lý từ 60 đến 70 hộ thậm
chí có những người quản lý hơn 100 hộ (trong đó có cả những hộ lớn) đều cố
gắng hoàn thành nhiệm cụ được giao, kịp thời phối hợp với các ban ngành có liên
quan như UBND phường, Ban quản lý chợ, công an, quản lý thị trường vv để

nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác thu.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -


Các cán bộ thuế tự bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ thực hiện việc
tuyên truyền giải thích phối hợp với các bộ phận tính và ra thông báo thuế, bộ
phận thanh tra để nâng cao chất lượng thu thuế và chống tiêu cực. Thường xuyên
họp bàn rút kinh nghiệm để công tác quản lý thu thuế đạt kết quả cao nhất.
Nhưng bên cạnh nhưng thành tích đó, công tác quản lý thu thuế ở Chi cục
thuế Ba Đình còn những yếu kém sau:
• Về công tác quản lý đối tượng nộp thuế:
Quản lý chưa chặt, số hộ chưa quản lý được còn nhiều. Năm 1998 còn
229 hộ chưa quản lý được, năm 1999 còn 421 hộ chưa quản lý được. Ngoài ra
việc quản lý các hộ kinh doanh ngoài sổ bộ đã đưa vào sổ chưa đạt kết quả cao,
tỷ lệ thu được những hộ này còn thấp.
Nguyên nhân thất thu là do công tác điều tra hộ kinh doanh không được
phối hợp chặt chẽ với cơ quan thuế và các ngành có liên quan, việc phân loại hộ
chưa được tốt nên việc xác định biện pháp thu không đạt kết quả cao. Việc xác
định hộ kinh doanh còn mang tính chất kế hoạch thu kiểu trên rót xuống, dưới cố
gắng thực hiện để lấy thành tích mà không có sự quan tâm đúng mức.
• Về công tác quản lý căn cứ tính thuế:
Ta thấy dù năm 1999 triển khai luật thuế Giá trị gia tăng Chi cục đã có sự
điều chỉnh doanh thu tính thuế nhưng vẫn chưa sát thực tế. Việc quản lý những
hộ lớn nói chung còn lỏng lẻo, đơn thuần, mức thu còn thấp chủ yếu dựa vào kê
khai sổ sách kế toán để tính thuế, còn thiếu kiểm tra thường xuyên nên còn để
mất thuế.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -


Nguyên nhân là do các cán bộ thuế tuy có bám sát địa bàn nhưng mới chỉ

chú trọng vào lượng hộ kinh doanh mà chưa thực sự quan tâm tới quy mô kinh
doanh. Không kiểm tra thường xuyên việc ghi chép sổ sách nên dẫn đến ghi
không đúng và còn làm thất thoát hoá đơn. Không bám sát địa bàn và kịp thời
điều chỉnh doanh thu tính thuế theo sự biến động của giá cả, thời vụ và qui mô
kinh doanh nên cũng làm thất thu thuế. Mặt khác cán bộ thuế nhiều khi còn thiếu
tinh thần trách nhiệm trong công việc được giao cũng làm thất thu tiền thuế.
• Trong khâu quản lý thu nộp:
Trong khâu quản lý thu nộp vẫn còn những hạn chế nhất định, còn để tình trạng
nợ đọng xảy ra nhiều và kéo dài qua các năm. Số nợ đọng chiếm từ 3-8% tổng số
thuế ghi thu hàng năm.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do cán bộ thuế còn yếu về nghiệp
vụ, không đủ khả năng tuyên truyền, vận động, giải thích, còn lúng túng khi đề ra
mức thu và ghi thu. Còn gây nhiều thắc mắc trong dân, công tác tuyên truyền
chưa được coi trọng đúng mức.
Ngoài ra việc thu nộp vẫn còn có các tồn tại là do pháp luật thuế của chúng ta
chưa nghiêm, nhiều trường hợp vi phạm các chính sách thuế không được xử lý
thích đáng, trường hợp hành hung người thi hành công vụ vẫn xảy ra dẫn đến tình
trạng coi thường pháp luật, mặt khác chưa có sự quan tâm đúng mức của các
ngành các cấp, chưa có sự phối hợp nhịp nhàng giữa cán bộ thuế và UBND các
phường, Ban quản lý các chợ và cơ quan liên ngành khác. Công tác quản lý thu
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -


thuế phần lớn còn mang tính bị động hơn là chủ động. Việc sử dụng hình thức
thu còn có lúc tuỳ tiện dẫn đến thất thu thuế.
Chính vì các lý do nêu trên mà việc đòi hỏi phải tăng cường quản lý thu
thuế đối với khu vực kinh tế cá thể trên địa bàn Quận Ba Đình, việc vạch ra
phương hướng để tăng cường quản lý thu thuế là rất cần thiết với địa bàn Quận
Ba Đình gồm rất nhiều phường và các chợ.
Phần III: Một số phương hướng tăng cường công tác quản lý thuế Giá trị gia tăng

ở khu vực kinh tế cá thể trên địa bàn Quận Ba Đình.
Thuế là nguồn thu chủ yếu của Nhà nước trong cơ chế kinh tế thị trường nhằm
đáp ứng yêu cầu vốn cần thiết thực hiện các nhiệm vụ kinh tế xã hội của nhà
nước. Hàng năm nhà nước phải tiến hành xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoặch
thuế. Kế hoặch thuế xét về mặt lý luận là dự kiến quá trình phân phối và tổ chức
động viên một bộ phận GDP của xã hội cho nhà nước thông qua thuế. Xét về mặt
thực tiễn, kế hoặch thuế là quá trình dự đoán, tính toán và tổ chức động viên
nguồn thu bằng thuế trên phạm vi cả nước Quá trình xây dựng và quản lý kế
hoặch thuế hết sức cần thiết ở nước ta.
Trước hết để thực hiện các chương trình phát triển kinh tế xã hội nhà nước đã
hoặch định đòi hỏi phải có lượng vốn cần thiết được huy động từ trong nội bộ
nền kinh tế. Do đó, cần thiết phải xác định được khả năng tương đối chắc chắn về
lượng vốn có thể huy động được bằng thuế để nhà nước chủ động bố trí sử dụng
vốn. Đồng thời phối hợp với việc huy động nguồn thu khác để giải quyết vấn đề
cân đối ngân sách một vấn đề hết sức quan trọng đối với mỗi quốc gia.Từ yêu cần
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -


tất yếu cấp thiết đó đòi hỏi phải thực hiện kế hoặch thuế. Mặt khác trong cơ chế
thị trường nhà nước phát huy vai trò quản lý kinh tế vĩ mô thông qua các công cụ
hành chính, kinh tế, pháp luật. Kế hoặch thuế là một trong những công cụ quản lý
của nhà nước vừa động viên từ hoạt động kinh tế xã hội vừa phản ánh khả năng
kinh tế và sự vận động của kinh tế để có các biện pháp điều chỉnh kinh tế hợp lý.
Từ sự cần thiết khách quan của kế hoặch thuế đòi hỏi công tác quản lý thuế phải
ngày càng được nâng cao, ổn định, phát huy hết khả năng và tác dụng của một bộ
phận tài chính quan trọng của nước nhà.
Qua thời gian nghiên cứu phân tích tình hình thực hiện thu thuế Giá trị gia tăng ở
thành phần kinh tế cá thể trên địa bàn quận Ba Đình trong 3 tháng đầu năm 1999,
chúng ta đ• thấy được phần nào tình hình chung cũng như ưu-nhược điểm trong
quá trình thực hiện luật thuế mới này. Với tình hình đó ta có thể tìm ra những

nguyên nhân tồn tại thuộc công tác quản lý đối tượng nộp thuế, quản lý căn cứ
tính thuế và công tác thu nộp, quản lý cán bộ.
Sau thời gian nghiên cứu tình hình thực tế trên địa bàn Quận Ba Đình, tôi xin nêu
ra một số phương hướng và biện pháp nhằm tăng cường quản lý thu thuế Giá trị
gia tăng đối với thành phần kinh tế cá thể trên địa bàn Quận Ba Đình.
I . Quản lý đối tượng nộp thuế:
Để quản lý được đối tượng nộp thuế, đòi hỏi cán bộ thuế phải tích cực bám sát
địa bàn để quản lý được hộ kinh doanh đã đưa vào sổ bộ, thường xuyên phát
hiện hộ mới ra kinh doanh để đưa vào quản lý. Phối hợp với các cơ quan điều tra
thống kê, cơ quan cấp đăng ký kinh doanh để tạo điều kiện cho hộ kinh doanh
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -


thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của mình đối với Nhà nước. Phải quy rõ trách nhiệm
vật chất với từng cán bộ quản lý, thường xuyên phối hợp với phường để kiểm tra
số hộ nghỉ kinh doanh, phát hiện hộ nghỉ giả Có biện pháp thật cứng rắn với hộ
cố tình vi phạm như xử phạt hành chính, thậm chí truy tố trước pháp luật. Với
những hộ thường xuyên chấp hành tốt nghĩa vụ nộp thuế thì các đội thuế phường
phải tổng kết hàng tháng để cuối năm trình lên Chi cục có hình thức khen thưởng
động viên kịp thời.
A. Quản lý những hộ đã quản lý được:
1. Các hộ kinh doanh được theo dõi trên sổ bộ phải được xắp xếp theo mã số từng
địa bàn, ngành nghề, phương pháp nộp thuế ( kê khai hay ấn định). Các cán bộ
thuế phải thường xuyên theo dõi tình hình hoạt động kinh doanh của các hộ mà
mình quản lý, khi hộ có đơn xin nghỉ thì cán bộ thuế có thể cùng với cơ quan liên
ngành theo dõi, kiểm tra và cũng có thể để tự các hộ theo dõi lẫn nhau. Điều này
là rất có thể thực hiện được vì trong cơ chế thị trường một hộ mới ra kinh doanh
hay nghỉ kinh doanh rất có tác động tới các hộ khác khi họ cùng kinh doanh một
ngành nghề.
2. Các hộ có đơn xin nghỉ kinh doanh này chỉ được chấm nghỉ khi có lý do chính

đáng và trong đơn phải có mục “ Nếu vi phạm thì sẽ bị xử lý ra sao? ”. Đơn này
phải được UBND phường ký đóng dấu và phải được chuyển về Chi cục thuế
đúng thời hạn quy định để kiểm tra một cách kịp thời. Đồng thời cán bộ quản lý
thu thuế tại địa bàn nào phải chịu trách nhiệm phát hiện xử lý kịp thời những hộ
xin nghỉ mà vẫn kinh doanh.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

×