Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Đi Tìm Điều Huyền Bí (IN SEARCH OF THE MIRACULOUS) Tập 1 - I OSHO Phần 9 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.4 KB, 20 trang )

|
313
|
314

cách để tạo ra tình huống tâm lí kì lạ nơi sự tách biệt có
thể xảy ra.

Tuy nhiên điều tự nhiên là người hành hương của
một con đường đặc biệt không thể nghĩ được rằng cùng
tình huống này có thể được tạo ra bởi các phương cách
khác nữa. Ông tu sĩ của Gurdjieff chẳng biết gì về
pranayam. Và ông ấy sẽ tự làm hại mình nếu ông ấy
thực hành điều gì đó giống nó; nó sẽ thực sự gây hại
cho ông ấy. Trong trường hợp của ông ấy, cái hại có thể
là đau khổ. Điều đó cũng giống như dùng bánh xe bò
kéo thế vào cho xe máy - điều đó sẽ là nguy hiểm. Bây
giờ nếu một người thức đêm mà thực hành pranayam,
người đó nhất định phát điên ngay lập tức, tẩu hoả nhập
ma. Người đó sẽ đi ra ngoài tâm trí mình ngay trong
đêm. Và có những lí do chính đáng cho điều đó.

Con người của bạn không thể chịu đựng được tác
động tổ hợp của hai bài tập - thức đêm và pranayam. Đó
là lí do tại sao người Jaina đã không dùng pranayam,
bởi vì họ đã tạo ra cái kì lạ đó qua việc nhịn ăn. Nếu họ
tổ hợp việc nhịn ăn với pranayam, họ sẽ trong rắc rối
sâu sắc - nguy hiểm này thực sự là lớn. Pranayam không
hữu dụng theo bất kì cái gì đối với người Jaina; sư Jaina
sẽ nói rằng nó tất cả đều vô dụng. Nhưng ông ấy không
biết rằng bằng việc phủ nhận pranayam ông ấy chỉ


muốn nói rằng nó không có chỗ trong loại kỉ luật tâm
linh của ông ấy. Nhịn ăn làm cho ông ấy điều pranayam
làm cho người khác.

Chính bởi lí do này mà người Jaina đã không quan
tâm tới
asanas
của yoga và phần còn lại của nó, bởi vì
chúng có thể gây hại trầm trọng cho người đang trải qua
việc nhịn ăn dài ngày. Những người tới với asanas yoga
đều cần thức ăn rất nhẹ và béo như sữa, bơ và
ghee
,
đem lại thoả mãn sâu sắc. Việc nhịn ăn đi ngược lại
điều đó.

Nhịn ăn làm cho bạn khô đi và cằn cỗi từ bên trong.
Nhịn ăn kích thích cơn đói của bạn, và nó sẽ làm hỏng
việc thực hiện asanas trong trạng thái đói cồn cào. Ngọn
lửa của cơn đói có thể dâng lên não bạn và bạn có thể
phát điên. Cho nên sư Jaina sẽ bảo bạn rằng
yogasanas

chẳng có gì bản chất về chúng cả, chúng vô giá trị.

Nhưng với con đường dùng chúng, các asanas yoga
này có giá trị mênh mông. Được thực hiện với đúng loại
đồ ăn kiêng, chúng có thể có tác dụng đáng ngạc nhiên.
Điều cần thiết là thân thể ở trong trạng thái mềm mại và
uyển chuyển, dường như nó được tra dầu mỡ tốt - do đó

mới có tầm quan trọng của thức ăn nhẹ và béo - bởi vì
từng xương và gân và thần kinh đều sẽ phải trải qua
thao tác và biến đổi lớn lao. Thân thể sẽ vỡ ra nếu nó
không đủ mềm mại và uyển chuyển. Nó phải linh hoạt
và uyển chuyển vượt trội.

Bây giờ những asanas yoga này không là gì ngoài
những tư thế hay cử chỉ thân thể kì lạ mà chúng ta
thường không chấp nhận. Và chúng ta chẳng có ý tưởng
gì về cách tất cả các tư thế thân thể chúng được nối mật
thiết với tâm trí chúng ta.

Khi một người lo âu và lo nghĩ, người đó bắt đầu
gãi đầu. Người ta có thể hỏi tại sao người đó gãi đầu -
cái gì có đó có liên quan tới lo âu của người đó? Nhưng
nếu bạn ngăn cản người đó không cho làm như vậy, bạn
sẽ thấy rằng người đó không thể lo nghĩ được. Để ở
trong trạng thái lo nghĩ, người đó sẽ bắt buộc phải đưa
tay lên đầu. Và nếu bạn kìm người đó không cho làm
như vậy, người đó sẽ thấy khó mà lo nghĩ được. Mọi lo
âu đều có những liên kết thể chất cần thiết nào đó với
|
315
|
316

nó; điều cần thiết là các cơ của tay bạn phải ở vào một
tư thế đặc biệt trong mối quan hệ với thần kinh của bạn.
Lo âu của người đó có thể được kích hoạt chỉ khi thân
thể người đó lấy tư thế được yêu cầu.


Tất cả các asanas yoga và ấn
mudras
đều tuân theo
những hình mẫu của các trạng thái khác nhau của tâm
trí chúng ta. Và chúng là kết quả của vô số thực nghiệm
và kinh nghiệm.

Như tôi đã nói với các bạn sáng nay, asanas và
mudras, tư thế và điệu bộ thân thể, tự chúng được tạo
nên trong quá trình thiền mà các bạn đang làm ở đây.
Sau hàng nghìn thực nghiệm người ta đã tìm ra loại
mudra (ấn) nào được hình thành trong trạng thái đặc
biệt của tâm trí. Thế rồi quá trình ngược lại cũng có thể
được soạn thảo ra, theo đó bạn có thể đạt tới một trạng
thái đặc biệt của tâm trí bằng việc thực hiện ấn tương
ứng với nó.

Chẳng hạn, Phật ngồi theo một cách đặc biệt; và
nếu bạn có thể ngồi theo cách đó, sẽ dễ dàng hơn cho
bạn đạt tới trạng thái tâm trí mà Phật có, bởi vì mọi
trạng thái của tâm trí đều có gắn với một tư thế tương
ứng của thân thể. Nếu bạn có thể bước đi như Phật
bước, nếu bạn có thể ngồi như Phật ngồi, nếu bạn có thể
thở như Phật thở, sẽ dễ dàng hơn cho bạn để đạt tới
trạng thái tâm trí của ông ấy. Hay đảo lại, nếu bạn có
thể đạt tới trạng thái tâm trí của Phật, bạn sẽ thấy sự
tương tự rất lớn giữa cách thức của bạn và cách thức
của Phật trong bước đi và ngồi.


Cả hai điều này đi song song với nhau.
Bây giờ những người như Gurdjieff - người theo
một nghĩa nào đó là người đã bật gốc rễ - không thể biết
điều đó được, bởi vì họ đã không có truyền thống nào
đằng sau mình, quay lại hàng nghìn năm. Hơn nữa,
Gurdjieff trong quá trình đi lang thang của mình đã gặp
gần hai chục tá các nhà huyền môn thuộc vào các
trường phái khác nhau. Và chính từ những nguồn đa
dạng như vậy mà ông ấy đã thu thập được nhận biết của
mình. Nhận biết của ông ấy bao gồm một số phần thuộc
vào một số công cụ tâm linh - mỗi một trong chúng đều
hoàn toàn khác nhau.

Những phần này là đúng ở chỗ riêng của chúng,
nhưng khi tất cả chúng đều được trộn lộn xộn với nhau
thì chúng tạo ra một sự sắp xếp rất kì lạ. Đó là lí do tại
sao đôi khi một kĩ thuật của Gurdjieff có tác dụng trên
ai đó, nhưng nó chẳng bao giờ có tác dụng đầy đủ cho
bất kì ai. Do đó, không một người nào trong những
người đã làm việc với Gurdjieff có thể đạt tới sự hoàn
thành đầy đủ. Điều đó đơn giản là không thể được, bởi
vì khi ai đó bắt đầu làm việc với Gurdjieff và cái gì đó
bật ra, người đó trở nên quan tâm tới công việc này và
đi vào con đường, cái là một mớ pha trộn các con
đường đa dạng. Cho nên, chẳng mấy chốc các kĩ thuật
khác bắt đầu vận hành lên người đó theo cách thức đảo
ngược lại. Điều này là vậy bởi vì Gurdjieff không có hệ
thống kỉ luật tâm linh đầy đủ. Người ta phải nói rằng đó
là đa hệ, và đồng thời không đầy đủ. Nhiều mối nối cần
thiết đang bị thiếu, ngay cả trong dây chuyền này của

một đa hệ thống.

Phần lớn thông tin của Gurdjieff đã được thu thập
từ người Sufi. Ông ấy không có tri thức về yoga Tây
Tạng, và khi có liên quan tới
hatha
yoga, thì điều đó là
không thích hợp. Bên cạnh đó, tất cả mọi thông tin của
ông ấy về hatha yoga đều tới từ những địch thủ của kỉ
luật này, nó tới từ các tu sĩ Sufi. Gurdjieff không phải là
|
317
|
318

người tinh thông về hatha yoga. Tất cả mọi tri thức của
ông ấy về yoga hay kundalini đều được suy ra từ các
nguồn thù địch, hay từ những người đã là lữ khách của
những con đường đối lập.

Cho nên điều Gurdjieff nói về cơ sở của thông tin
này là không nhất quán theo nhiều cách. Chẳng hạn, cái
nhìn của ông ấy về kundalini hoàn toàn ngớ ngẩn. Ông
ấy không biết gì về nó cả. Ông ấy cứ gọi nó là "bộ đệm
kunda." Bộ đệm này không phải là thuật ngữ khéo chọn.
Ông ấy ngụ ý nói rằng chính bởi vì kundalini mà bạn
không đạt tới tri thức; nó có tác dụng như bộ đệm, như
rào chắn giữa bạn và điều tối thượng. Cho nên cần phải
siêu việt lên trên nó bằng việc phá huỷ nó. Theo
Gurdjieff không cần phải đánh thức kundalini chút nào.

Bây giờ ông ấy không biết mình đang nói gì.

Tất nhiên có bộ đệm giống như những thứ trong cá
tính chúng ta, và chính bởi vì chúng mà chúng ta có thể
chịu nhiều loại sốc trong cuộc sống. Nhưng kundalini
không phải là bộ đệm. Kundalini là bản thân cú sốc,
nhưng Gurdjieff không có tri thức gì về nó cả. Nó là cú
sốc lớn nhất có thể có. Khi kundalini dâng lên, nó đi tới
bạn như cú sốc mạnh mẽ nhất. Tất nhiên, có những bộ
đệm trong hệ thống của bạn, nhưng chúng là điều khác;
chúng có tác dụng như bộ hấp thu sốc. Và điều cần thiết
là những bộ đệm này bị phá huỷ đi. Nhưng Gurdjieff
coi bản thân kundalini là bộ đệm, bởi vì ông ấy chẳng
biết gì về nó cả. Trong thực tế, ông ấy không có kinh
nghiệm về kundalini, bởi vì ông ấy đã không có cơ hội
biết nó từ những người tinh thông kundalini yoga. Đó là
lí do tại sao nhiều lần những điều không thích hợp xảy
ra.

Những người như Gurdjieff và Krishnamurti đã là
nạn nhân của những sự không thích hợp như vậy. Sự
không thích hợp là ở chỗ họ đã không thể có tri thức có
hệ thống về những bí mật nằm đằng sau các thuật ngữ
và năng lượng như kundalini. Trong thực tế, tri thức
như vậy là rất khó thu được. Nó đơn giản không có thể
có trong một kiếp sống. Nó xảy ra chỉ trong trường hợp
một số hiếm hoi các cá nhân, những người học và
trưởng thành giữa hàng tá trường phái trong quá trình
hàng tá kiếp sống; bằng không thì điều đó là không thể
được. Nếu ai đó trưởng thành giữa hàng tá trường phái -

điều hiển nhiên phải mất hàng tá kiếp sống - chỉ thế thì
mới có khả năng là trong kiếp sống cuối cùng của mình
người đó sẽ tìm thấy sự tổng hợp giữa những kỉ luật tâm
linh đa dạng. Bằng không thì không thể tìm ra được sự
tổng hợp.

Điều thông thường là ở chỗ một người đạt tới chỗ
cao nhất thông qua một trường phái, và thế rồi người đó
không cần lấy việc sinh thành khác nữa. Mục đích của
người đó được đạt tới, cuộc sống của người đó được
hoàn thành. Do đó sự tổng hợp không xảy ra. Về sau,
tôi đã nghĩ rằng sự tổng hợp giữa các kỉ luật tâm linh đa
dạng của toàn thế giới là điều có thể, và đó là cái gì đó
đáng làm. Tất cả các kỉ luật đều phải được tiếp cận tới
từ các đầu khác nhau và thế rồi được gắn lại. Mọi nơi
điều tối thượng xảy ra đều như nhau; chỉ phương pháp
là khác.
Bây giờ một Thiền sư ném người tìm kiếm qua cửa
sổ. Điều này chỉ tạo ra một không gian của điều kì lạ
trong người tìm kiếm chứ không gì khác. Nhưng Thiền
sư sẽ nói rằng không có nhu cầu về pranayam và rằng
bhastrika
này là pranayam - thấp dưới như việc thở - là
vô dụng. Có lí do cho ông ấy nói như vậy. Người ta có
|
319
|
320

thể hỏi rằng liệu bhastrika không thể làm được điều đó

sao. Làm sao việc ném một người qua cửa sổ có thể có
tác dụng được? Nếu bạn đi và bảo Phật hay Mahavira
rằng ai đó đạt tới hiểu biết sau khi bị ném qua cửa sổ,
các ông ấy sẽ nói bạn điên. Mọi ngày mọi người vẫn
ngã xuống từ mái nhà hay từ ngọn cây và chẳng người
nào trong số họ đạt tới hiểu biết cả.

Nhưng ngã là một điều và bị ném ra là điều hoàn
toàn khác. Ngã từ mái nhà cũng giống như ai đó phát
điên; nhưng khi vài người nâng thân thể một người lên
và ném người đó ra khỏi cửa sổ, và người đó biết rằng
mình bị ném ra, thế thì người đó sẽ nhanh chóng trải
qua kinh nghiệm về sự kì lạ về toàn bộ vấn đề. Người
đó mọi lúc đều nhận biết và tự hỏi về toàn bộ tình
huống khi người đó bị ném ra, và khi người đó ngã ra
trên đất. Và đó là khoảnh khắc mà người đó trở nên tách
rời khỏi thân thể.

Một Thiền sư khác lấy cây thiền trượng của mình và
đánh vào đầu người tìm kiếm. Điều này cũng kì lạ.
Người tìm kiếm này đã đi tới ông ấy để làm an bình tâm
trí, còn thầy đánh người đó bằng chiếc thiền trượng của
mình. Điều này bỗng nhiên tạo ra một khoảnh khắc của
sự kì lạ cho người tìm kiếm. Nhưng nó sẽ không như
vậy ở Ấn Độ. Nếu bạn đánh ai đó ở đây, người đó sẽ
đánh lại bạn; người đó sẽ sẵn sàng cho việc đánh lại.
Điều đó sẽ chỉ xảy ra ở Nhật Bản, bởi vì thực tế này đã
tìm thấy chỗ cho mình ở nước đó. Mọi người đều nhận
biết rằng các Thiền sư có thể làm điều gì đó vĩ đại qua
việc đánh người tìm kiếm.


Nếu bạn đi tới một thánh nhân và lập tức khi thấy
bạn ông ấy bắt đầu xúc phạm mẹ và chị bạn bằng lời thô
tục, ông ấy sẽ thành công tạo ra một tình huống hoàn
toàn kì lạ cho bạn. Bạn tới ông ấy trong tin rằng ông ấy
là người biết chân lí, và ông ấy ném lời thô tục vào bạn!
Tương phản làm sao! Nhưng điều này là được chỉ nếu
bạn có nhận biết nào đó về nó; bằng không bạn sẽ gặp
khó khăn. Bạn có thể cho rằng mình đã tới lầm người và
bạn sẽ không tới gặp ông ấy nữa.

Nhưng trong một số trường phái, ngay cả quở trách
và lời chửi rủa đã được dùng để tạo ra sự kì lạ. Có một
fakir ở một làng nhỏ tên là Saikheda ở gần Gadarwara.
Các bạn có thể chẳng bao giờ biết ông ấy sẽ đón nhận
bạn thế nào khi bạn tới ông ấy. Ông ấy có thể dùng lời
thô tục với bạn, và ông ấy có thể làm bất cứ cái gì kì
quái và điên khùng. Có thể ông ấy sẽ đứng dậy trong sự
hiện diện của khách thăm của mình và bắt đầu đái. Bạn
sẽ hoàn toàn bị sốc. Điều đó tạo ra cái được gọi là
không gian của điều kì lạ trong bạn.

Ngoài điều đó, ông ấy thậm chí còn định đánh bạn
về mặt thể chất. Và trong cố gắng đánh bạn, ông ấy có
thể rượt đuổi bạn hàng dặm đường. Nhưng những người
hiểu ông ấy được lợi nhiều chỉ bằng việc tới thăm ông
ấy. Những người không hiểu, họ xua đuổi ông ấy như
người điên. Mà ông ấy chẳng liên quan gì tới những
người không hiểu ông ấy. Nhưng ông ấy chắc chắn có
ích cho những người muốn hiểu ông ấy. Bây giờ người

mà ông ấy đuổi theo hàng dặm đường chắc chắn thấy
mình ở trong một không gian rất kì lạ. Cứ thử nghĩ tới
tình huống này: một người bị ông ấy rượt và cả nghìn
người đang quan sát cảnh tượng đó. Chắc chắn một bầu
không khí kì lạ được tạo ra.

Điều này có thể được làm bằng nhiều trường phái,
kĩ thuật và hệ thống khác. Nhưng khó khăn là ở chỗ mọi
trường phái như vậy không nhận biết rằng các trường
|
321
|
322

phái khác đang làm cùng điều đó theo cách riêng của
họ.

Vậy mà có khó khăn khác trong vấn đề này. Cho dù
ai đó biết, như tôi biết, rằng cùng kết quả có thể được
đạt tới bằng các kĩ thuật khác nào đó, thì người đó sẽ
không nói ra điều đó. Khi tôi đang giải thích một hệ
thống đặc biệt, tôi phải trình bày nó là cao nhất; bằng
không thì sẽ không có hiệu quả. Cho dù tôi biết rằng
điều này có thể được đạt tới bằng các phương pháp khác
nào đó, tôi sẽ không nói như vậy khi tôi đang nói về
một hệ thống đặc biệt. Thế thì tôi sẽ nói rằng điều này
có thể được đạt tới chỉ qua hệ thống này thôi và không
qua cái gì khác. Và có lí do cho việc làm như vậy. Bạn
không thông minh tới mức bạn có thể hiểu nó trong
đúng cảnh quan của nó. Nếu tôi nói rằng tất cả các

trường phái đều có thể làm được điều đó, các bạn sẽ bị
lẫn lộn. Các bạn sẽ kết luận rằng chẳng trường phái nào
có thể làm được điều đó thực. Bên cạnh đó, tất cả các
trường phái này mâu thuẫn nhau đến mức bạn sẽ bắt
đầu tự hỏi làm sao nó có thể thế được. Lẫn lộn của bạn
thậm chí sẽ còn bị lẫn lộn hơn.

Đó là lí do tại sao nhiều lần người trí huệ, những
người biết, phải nói theo ngôn ngữ của người dốt nát.
Họ phải quả quyết rằng "Đây là con đường duy nhất,
không có đường nào ngoài con đường này." Bởi lí do
này tôi tự thấy mình gặp khó khăn lớn, vì tôi biết rõ
rằng điều đó có thể được đạt tới.

|
323
|
324


12
Kundalini sẽ biến đổi
bạn






Người hỏi: Thầy đã nói hôm qua rằng kunda của

chúng ta hay bể năng lượng là không tách rời và
khác biệt lẫn nhau; chúng thực sự là một kunda vũ
trụ. Nhưng khi có liên quan tới người tìm kiếm thì
năng lượng của người đó sẽ dâng lên từ kunda của
riêng người đó chứ không từ kunda của người khác.
Vậy nên kunda có thực là một không? Xin Thầy giải
thích.


Nó giống thế này: Bạn có một cái giếng trong nhà
mình và tôi có cái giếng khác trong nhà tôi. Hiển nhiên,
hai cái giếng này dường như tách rời lẫn nhau. Nhưng
dòng nước ngầm mà hai cái giếng này lấy nước ra là
một. Và dòng nước ngầm này, đến lượt nó, được nối với
đại dương ở xa.

Nếu bạn đi theo luồng nước là nguồn cho nước
giếng của bạn, bạn sẽ không chỉ bắt gặp chiếc giếng của
tôi và tất cả giếng khác, bạn chung cuộc sẽ bắt gặp bản
thân đại dương vĩ đại. Theo cùng cách này, trong hoàn
cảnh của kundalini cá nhân có đó chỉ ở lúc đầu của cuộc
hành trình - vì cuộc hành trình này đi tới việc chấm dứt
cá nhân nữa, đi tới sự chấm dứt của người đó. Thế thì
chỉ có cái tất cả, cái toàn thể, cái tuyệt đối, cái một, hay
bất kì cái gì bạn gọi nó.

Cho nên tại điểm bắt đầu của cuộc hành trình này
bạn là tách biệt và tôi là tách biệt, nhưng đến đích, điểm
tối thượng, thì không có bạn không có tôi. Chúng ta chỉ
là những mảnh mẩu hay bộ phận vẫn có đó ở đích của

cuộc hành trình.

Cho nên khi kundalini tự biểu lộ bản thân nó trong
bạn, ban đầu nó sẽ dường như thuộc về bạn - cá nhân.
Nó sẽ là của bạn. Một cách tự nhiên, bạn sẽ thấy bản
thân mình đứng bên bờ giếng của mình. Nhưng khi
kundalini đi lên và bành trướng, dần dần bạn sẽ thấy
rằng giếng của mình được nối với tất cả các giếng khác
nữa. Và kinh nghiệm này càng được làm sâu sắc hơn thì
cái giếng cá nhân của bạn sẽ càng biến mất đi, và tại
chỗ của nó đại dương sẽ đi vào hiện hữu. Và chính
trong kinh nghiệm tối thượng này mà bạn sẽ có khả
năng nói rằng
kunda
này thuộc về tất cả.

Chính theo nghĩa này mà tôi nói rằng kunda là một
và phổ dụng; nó là bể năng lượng vũ trụ.

Đó là cách tất cả chúng ta, như chúng ta hiện thế,
dường như là các cá nhân tách biệt. Hiểu điều đó theo
cách khác. Nếu một chiếc lá trên cây bỗng nhiên trở nên
có ý thức và nhận biết, thế thì chiếc lá bên cạnh sẽ
dường như là lá khác. Làm sao nó có thể biết cái lá treo
|
325
|
326

ở cành khác của cây đó là chính nó? Cứ gạt sang bên

chiếc lá trên cành khác đi; nó không thể nghĩ về lá khác
trên cành của nó là chính nó. Có thể chiếc lá này ở xa
nó hơn chút ít; thậm chí lá bên phải nó cũng dường như
là lá khác. Nó sẽ là như vậy bởi vì tâm thức của chiếc lá
này là cá nhân.

Nhưng nếu chiếc lá này đi vào trong lãnh thổ riêng
của nó, nó sẽ sớm thấy rằng chiếc lá bên cạnh đang treo
trên cùng một thân cây, cũng thân cây của nó, và rằng
chúng cả hai đều nhận được nhựa sống từ cùng cội
nguồn. Nếu chiếc lá này đi sâu hơn nó sẽ biết rằng
không chỉ thân cây riêng của nó, ngay cả thây cây bên
cạnh cũng là một phần của cùng một cây và chính sinh
lực của chúng là một và như nhau. Và nếu nó đạt tới
chính gốc rễ của cây thì nó sẽ biết rằng tất cả các cành
của nó và tất cả lá của nó đều, giống như bản thân nó, là
một phần của một và cùng một cây đó.

Và nếu chiếc lá này tiếp tục cuộc hành trình của nó
và đi vào trung tâm của bản thân đất - đất mà từ đó cây
bên cạnh đã mọc lên - thế thì nó sẽ nhận biết rằng cùng
với cây riêng của nó, tất cả các cây khác đều là con của
cùng một mẹ - mẹ đất. Và trong trường hợp này cuộc
phiêu lưu của chiếc lá còn đi xa hơn, đến cùng nó sẽ
khám phá ra rằng chung cuộc toàn thể vũ trụ không là gì
ngoài sự mở rộng riêng của nó, sự phân nhánh riêng của
nó. Cho nên chiếc lá tí hon này chỉ là một đầu của sự
tồn tại mênh mông này.

Một chiếc lá là một cá nhân tách biệt khi nó trở

thành ý thức như một phần, và nó sẽ dừng là cá nhân
khi nó trở thành ý thức như cái toàn thể.

Việc kinh nghiệm đầu tiên của bạn về đánh thức
kundalini sẽ là kinh nghiệm về
atman
, hay linh hồn; và
việc kinh nghiệm tối thượng của nó sẽ là kinh nghiệm
về
paramatman
, hay bản thân Thượng đế. Và nếu bạn
dừng lại với chính việc đánh thức đầu tiên và không
thăm dò thêm nữa, và nếu bạn dựng hàng rào quanh
chiếc giếng nhận biết của bạn, bạn sẽ trì trệ như atman,
như linh hồn. Đó là cách một số tôn giáo bị mắc kẹt với
linh hồn - họ không vượt ra ngoài nó. Nhưng atman hay
linh hồn không phải là kinh nghiệm tối thượng; các tôn
giáo này chỉ bao quát một nửa cuộc hành trình. Nếu bạn
đi xa thêm, linh hồn cũng sẽ biến mất và thế thì chỉ
Thượng đế hay cái toàn thể sẽ còn lại.

Và như tôi đã nói trước đây, nếu các bạn phiêu lưu
xa thêm chút ít, ngay cả Thượng đế cũng sẽ biến mất và
cái sẽ còn lại cuối cùng sẽ là niết bàn hay cái trống
rỗng. Hay, chúng ta có thể nói rằng cái không sẽ còn lại.
Cho nên những người phiêu lưu lấy một bước ra ngoài
Thượng đế đạt tới niết bàn. Chính họ nói về cái hư
không tối thượng hay cái trống rỗng tuyệt đối. Họ nói
rằng chẳng cái gì còn lại ở đó; chung cuộc không có gì
cả, hay có bản thân cái không.


Chân lí là ở chỗ khi các bạn nhận ra tất cả, thì các
bạn cũng nhận ra cái không hay tính không đồng thời.
Cái tuyệt đối là cái không nữa.

Chúng ta tiếp cận nó theo cách khác. Cái không và
cái toàn thể, cái không và cái tất cả, cái trống rỗng và
cái tuyệt đối là hai cái tên của cùng một điều. Chúng là
đổi lẫn cho nhau được; chúng ngụ ý cùng một điều. Cái
không cũng là cái toàn thể. Cái trống rỗng cũng là cái
toàn thể. Cái không cũng là mọi thứ.

Bạn đã bao giờ thấy một nửa trống rỗng hay một
nửa cái không chưa? Bạn không thể chia cái không ra
làm hai nửa được. Bạn không thể chẻ cái không ra
|
327
|
328

được; nó sẽ không còn là cái không nữa nếu bạn thành
công. Bạn có thể chia hai cho hai; bạn cũng có thể chia
một ra làm hai. Nhưng bạn không thể chia cái không ra
được; đó là điều không thể được. Bạn thậm chí không
thể vẽ cái không hay hư không lên một mẩu giấy. Dấu
hiệu số không được vẽ trên giấy là biểu tượng. Ngay khi
bạn vẽ nó ra, nó không còn là hư không, bởi vì bạn vẽ
vòng tròn nó, giới hạn nó bằng đường nào đó. Nếu bạn
hỏi Euclid, ông ấy sẽ nói rằng cái không là cái không có
chiều dài không có chiều rộng. Không thành vấn đề

chuyện bạn vẽ nó nhỏ đến đâu, ngay cả điểm nhỏ nhất
có thể được cũng vẫn sẽ có chút ít chiều dài và chiều
rộng. Cho nên dấu hiệu số không được vẽ trên giấy chỉ
là biểu tượng, nó không thực. Nếu nó có chiều dài và
chiều rộng, nó không thể là số không.

Do đó Upanishads có thể nói rằng nếu bạn khấu trừ
hư không từ hư không, thì hư không vẫn còn lại - điều
này có nghĩa là bạn không thể trừ được cái gì từ nó. Đến
cuối bạn sẽ thấy rằng bạn không thể lấy được cái gì từ
cái trống rỗng cả. Tất cả mọi nỗ lực của bạn để đánh
cắp từ nó sẽ đều vô hiệu. Bạn không thể loại bỏ được nó
mà cũng không thể lẩn trốn cùng nó. Nó là không thể
thu lại được; nó là không thể di chuyển được; nó bao
giờ cũng theo cách tuyệt đối.

Điều đúng trong hoàn cảnh cái không hay hư không
cũng đúng trong hoàn cảnh của cái toàn thể hay cái
tuyệt đối. Trong thực tế, bạn không thể quan niệm nổi
về cái toàn thể ngoại trừ bằng cách thức của cái trống
rỗng. Cái toàn thể ngụ ý rằng không cái gì có thể được
thêm vào nó, và cái không hay cái trống rỗng ngụ ý
rằng không cái gì có thể được khấu trừ từ nó. Không có
cách nào đi xa hơn từ cái tuyệt đối, và không có khả
năng nhúng chìm sâu hơn vào cái hư không sâu nhất.
Bạn không thể phân chia hoặc cái toàn thể hoặc cái hư
không thành bộ phận; chúng là không phân chia được.

Và cái toàn thể không thể bị giới hạn, bởi vì bất kì
cái gì bị giới hạn thì không thể là cái toàn thể được. Bị

giới hạn có nghĩa là cái gì đó vẫn còn ở ngoài biên giới,
và do đó nó không thể có tính toàn thể. Thế thì nó còn
kém hơn cái toàn thể. Nếu biên giới của nhà bạn bắt đầu
tại chỗ biên giới của nhà tôi chấm dứt, điều đó có nghĩa
là nhà tôi không phải là cái toàn thể; nếu nó là cái toàn
thể thì nó phải bao gồm cả nhà bạn nữa. Cho nên không
thể có giới hạn cho cái toàn thể; nó là vô giới hạn. Ai có
thể giới hạn nó được? Cần có một hàng xóm, một cơ
quan bên ngoài để làm như vậy. Nhưng cái không là ở
bên ngoài cái toàn thể. Cái toàn thể là một mình; nó
không có hàng xóm bất kì loại gì.

Nhớ lấy, bao giờ cũng cần hai để tạo ra biên giới
giữa chúng; hai tạo ra biên giới. Có biên giới nơi tôi
chấm dứt và ai đó khác bắt đầu. Nếu không ai khác bắt
đầu, nếu chỉ tôi có đó, thế thì tôi sẽ không chấm dứt; tôi
không thể bị giới hạn. Cho nên cả cái toàn thể cũng
không có giới hạn. Ai có đó để giới hạn nó? Theo cùng
cách này thì cái hư không, cái trống rỗng, cũng có thể
không có giới hạn, không biên giới; bởi vì nếu nó có thể
bị giới hạn, nó là cái gì đó - thế thì nó không thể là cái
không được. Chỉ cái gì đó mới có thể bị giới hạn.

Cho nên nếu bạn hiểu điều đó đúng thì bạn sẽ biết
rằng cái hư không và cái toàn thể là hai cách để nói về
cùng một điều. Và người hành hương tôn giáo có thể
theo cả hai con đường: hoặc bạn trở thành cái toàn thể
hoặc bạn trở thành cái không. Cả hai cách đều đưa bạn
tới định mệnh của mình, là định mệnh của tất cả.


|
329
|
330

Người đi theo con đường của cái toàn thể, người
đang trong tình yêu với cái toàn thể, cái tích cực, người
đó sẽ nói: "Tôi là
brahman
, tôi là cái tuyệt đối." Người
đó sẽ nói rằng mình là Thượng đế, người đó là tất cả
mọi điều đang có đấy. Người đó sẽ nói rằng không có gì
ở ngoài mình, và rằng không có "ngài". Người đó bao
gồm tất cả các "ngài" bên trong người đó. Nếu điều đó
là có thể cho bạn để là vô hạn như vậy, thì bạn đã đạt
tới điều cao nhất.

Nhưng trong tính toán cuối cùng, ngay cả cái "tôi"
này cũng phải ra đi, bởi vì nếu không có "ngài", thì làm
sao bạn có thể nói "Tôi đây; tôi là brahman sao"? "Tôi"
có thể có nghĩa chỉ nếu trong hoàn cảnh của "ngài";
không có "ngài", "tôi" đơn giản không liên quan.

Và khi bạn là cái tuyệt đối, thì chẳng có nghĩa mấy
mà nói, "tôi là cái tuyệt đối", bởi vì phát biểu này thừa
nhận sự tồn tại của cả hai - brahman và bạn. Và chung
cuộc với việc ra đi của "tôi", ngay cả brahman hay điều
tuyệt đối sẽ trở thành vô nghĩa. Người ta sẽ phải trở
thành không nói được nên lời; người đó sẽ hoàn toàn im
lặng.


Theo cách này bạn triệt tiêu bản thân mình hoàn
toàn đến mức bạn nói, "tôi không hiện hữu." Trong
trường hợp này bạn nói, "tôi là brahman," hay "tôi là tất
cả," và trong trường hợp khác bạn nói "tôi là cái không;
mọi thứ đều là trống rỗng tuyệt đối." Con đường này
cũng sẽ đưa bạn tới cùng định mệnh tối thượng. Và khi
bạn đã tới đó bạn sẽ không thể nói ngay cả điều này -
rằng bạn không hiện hữu. Nói "Tôi không hiện hữu" cần
sự hiện diện của cái "tôi". Cho nên ngay cả điều này
cũng sẽ biến mất.

Bạn thậm chí không thể nói được rằng mọi thứ là
trống rỗng, tất cả đều hư không. Nói rằng tất cả đều hư
không, thì cần cả hai "tất cả" và "trống rỗng" đều có
trong sự tồn tại. Thế thì quá trình duy nhất mở ra cho
bạn là ở chỗ bạn trở thành không nói được, bạn trở
thành im lặng. Bạn bắt đầu từ đâu - dù là từ cái toàn thể
hay từ cái hư không, cái không - điều đó sẽ đem bạn tới
im lặng tối cao nơi bạn sẽ chẳng có gì để nói cả.

Do đó, chỗ người ta bắt đầu cuộc hành trình của
mình không phải là vấn đề chính. Cái cần được xem xét
là đích tới, nơi người ta cuối cùng đạt tới. Nơi người ta
chung cuộc đạt tới là vấn đề cơ bản.

Định mệnh chung cuộc này có thể được biết tới và
nhận ra. Và nếu người ta đã đạt tới nó, thế thì bất kì con
đường nào người đó đã theo cũng đều là đường phải.
Không con đường nào là phải và không con đường nào

là trái theo nghĩa tuyệt đối. Bất kì cái gì đưa bạn tới
đích của mình đều là đường phải. Và đích là một và
cùng một.

Nhưng bất kì khi nào bạn bắt đầu bạn bao giờ cũng
bắt đầu bằng "tôi". Kinh nghiệm trước đây bao giờ cũng
sẽ là manh tính định hướng "tôi", bởi vì đó là tình
huống cho sẵn của chúng ta; đó là chỗ chúng ta hiện
hữu và nguồn gốc chúng ta bắt đầu. Dù chúng ta đánh
thức kundalini hay chúng ta đi vào trong thiền hay
chúng ta đi vào im lặng, kinh nghiệm khởi đầu phải là
mang tính cá nhân, nó phải là hướng vào "tôi". Bất kì
cái gì sẽ xảy ra ở giai đoạn khởi đầu sẽ xảy ra cho
chúng ta như các cá nhân, bởi vì chúng ta là những cá
nhân ở lúc bắt đầu cuộc hành trình. Nhưng khi chúng ta
đi sâu thêm, cá nhân sẽ biến mất dần. Kinh nghiệm càng
sâu sắc, sự ăn mòn tính cá nhân, bản ngã sẽ càng lớn.
|
331
|
332

Nhưng nếu chúng ta đi lạc khỏi cuộc hành trình bên
trong và vẩn vơ lung tung, thế thì cá nhân sẽ tồn tại và
cứ phát triển lên mãi.

Chẳng hạn, một người đang đứng trên bờ giếng.
Nếu người đó đi vào trong giếng và cứ đi ngày một sâu
hơn và sâu hơn, người đó một ngày nào đó đạt tới đại
dương. Chung cuộc người đó sẽ biết rằng không có

những điều như vậy, như cái giếng. Cái giếng thực sự là
gì? Nó chỉ là một lỗ hổng; nó là lỗ hổng trong đất để
qua nó người ta lọt vào đại dương; nó là lối mở nhỏ vào
đại dương lớn.

Ý nghĩa của giếng là gì? Nó là lối mở nhỏ, lối đi
qua đó bạn đi tới tiếp xúc với biển. Bạn sai nếu bạn nghĩ
về giếng dưới dạng nước; nước trong giếng là bản thân
đại dương; nó tới từ đại dương. Giếng chỉ là trung gian
qua đó bạn thấy biển. Và khi lối mở này được làm rộng
ra, tầm nhìn về biển sẽ được mở rộng theo cùng chừng
mực.

Nhưng nếu bạn đi ra khỏi giếng và lạc lối từ nó dần
dần, bạn sẽ mất đi cái nhìn về nước nữa. Thế thì bạn sẽ
thấy trơ trụi bờ giếng và miệng giếng; bạn sẽ chẳng bao
giờ có khả năng tìm ra bất kì liên kết nào giữa giếng và
đại dương. Và thế thì bạn sẽ từ chối tin rằng chúng là
một và như nhau.

Trong khi cuộc hành trình nội tâm sẽ đưa bạn tới sự
thống nhất và cái một, cuộc hành trình ngoại diên sẽ
làm điều ngược lại; nó sẽ đem bạn tới phân chia và đa
dạng. Nó sẽ đem bạn tới cái nhiều.

Nhưng sự kiện còn lại là vào lúc bắt đầu của tất cả
mọi kinh nghiệm có chiếc giếng, cá nhân, và đến cuối
cùng có đại dương, cái vô cá nhân hay Thượng đế.
Chính theo nghĩa này mà tôi nói rằng kunda của năng
lượng là một, vũ trụ, phổ quát. Nếu bạn chìm sâu, kunda

sẽ dừng là của bạn; thế thì sẽ có duy nhất kunda vũ trụ.
Thế thì trong thực tế, chẳng cái gì sẽ là của bạn cả. Nó
là vậy trong chính bản chất của mọi điều.


Người hỏi: Thầy nói rằng tất cả cái gọi là giếng cá
nhân đều là một và chúng đã được nối với đại
dương vốn là trống rỗng. Nếu vậy, nhu cầu gì có đó
để phải qua sadhana hay kỉ luật tâm linh để là một
với cái trống rỗng hay cái hư không?


Bạn hỏi câu hỏi này bởi vì bạn nghĩ cái trống rỗng
là không có gì cả. Và tại sao ai đó phải làm cái gì chỉ để
đạt được cái không? Người ta phải làm cái gì đó nếu có
cái gì đó cần đạt tới. Bạn đánh đồng trống rỗng với
không có gì. Thế thì
sadhana
hay nỗ lực trở thành
không cần thiết cho bạn. Với bạn, nỗ lực là xứng đáng
tiến hành nếu bạn phải trở thành cái gì đó. Sao cố gắng
vì cái không có gì?

Nhưng bạn không biết rằng cái trống rỗng có nghĩa
là cái toàn thể. Bạn không biết rằng cái hư không là tất
cả mọi thứ có đó. Nó không ngụ ý không có gì; nó ngụ
ý cái tuyệt đối. Nhưng ngay bây giờ bạn không thể hiểu
nổi làm sao cái trống rỗng có thể là cái toàn thể, cái
tuyệt đối. Giếng có thể cũng nói, "Nếu tôi phải đi ra đại
dương chỉ để biết rằng tôi không là gì cả, thế thì sao tôi

phải đi?" Giếng là phải khi nói vậy. Và nó là phải khi từ
chối đi ra biển nếu điều đó ngụ ý rằng chung cuộc cái
giếng không tồn tại.

|
333
|
334

Nhưng với thực tại hay chân lí điều đó không tạo ra
khác biệt gì nếu bạn không đi. Sự kiện là ở chỗ bạn
không có. Dù bạn có đi ra đại dương hay bạn không đi,
điều đó không làm thay đổi được thực tại. Thực tại là
bạn không phải là cái giếng; bạn là bản thân đại dương.
Bạn có thể chọn vẫn còn là cái giếng nhưng sự kiện là ở
chỗ bạn không hiện hữu; điều dối trá là bạn hiện hữu.
Và điều dối trá này sẽ tiếp tục làm đau bạn, ám ảnh bạn.
Nó sẽ tiếp tục làm cho cuộc sống của bạn bất hạnh và
khổ. Và nó sẽ giữ bạn trong xiềng xích, trong tù túng.
Trong dối trá này không có khả năng nào cho bất kì
niềm vui và phúc lạc nào.

Đúng là cái giếng khi đạt tới biển thì sẽ biến mất,
nhưng cùng với nó mọi khổ sở của nó, mọi lo âu của nó
cũng sẽ biến mất. Bởi vì tất cả mọi khổ sở và lo âu đều
gắn chặt không rời với việc nó là cái giếng, là cá nhân,
là bản ngã. Với người khác dường như là cái giếng đã
mất bản thân nó bởi việc đi vào đại dương; nó không trở
thành cái gì đó. Nhưng cái giếng sẽ không nghĩ vậy đâu.
Cái giếng sẽ nói, "Ai nói rằng tôi bị mất đi? Tôi đã trở

thành bản thân đại dương đấy chứ." Chính là cái giếng
hàng xóm, cái còn chưa tới thăm biển cả, chính nó mới
nói, "Anh định đi đâu vậy đồ ngốc? Sao anh đi tới nơi
anh sẽ thôi hiện hữu?" Nhưng biển đang đó sẽ nói, "Ai
nói điều đó nghĩa là không có gì? Đúng là tôi sẽ chết đi
như cái giếng, nhưng tôi sẽ được sinh ra như bản thân
đại dương."

Chọn lựa bao giờ cũng là liệu bạn muốn còn là cái
giếng hay bạn muốn trở thành đại dương. Chọn lựa này
là giữa cái nhỏ mọn và cái mênh mông, giữa bộ phận và
toàn thể, giữa tù túng và tự do. Nhưng đó là vấn đề kinh
nghiệm; đó không phải là triết lí chút nào. Và nếu cái
giếng sợ chết đi, nó sẽ phải phục vụ cho mọi mối quan
hệ với đại dương. Bởi vì chừng nào nó còn có quan hệ
với đại dương, nó bao giờ cũng phải đối diện với nguy
hiểm của việc biết rằng nó là chính đại dương.

Thế thì cái giếng sẽ phải phá vỡ mối ràng buộc ngay
cả với tất cả dòng nước ngầm và dòng suối, bởi vì
chung cuộc chúng đi ra cùng đại dương. Cái giếng sẽ
phải nhắm mắt lại với mọi phía và từ chối nhìn vào bên
trong, để cho nó không phải biết về sự vô hiện hữu
riêng của mình và sự hiện hữu của đại dương. Thế thì
nó bao giờ cũng nhìn ra ngoài và không bao giờ nhìn
vào bên trong. Thế thì nó sẽ muốn dòng suối là nhỏ nhất
có thể được; nó thậm chí còn muốn chúng khô đi và
chết đi. Nhưng thế thì trong cuộc hành trình dài bản
thân cái giếng sẽ chết, mặc dầu nó sẽ làm mọi điều để tự
cứu mình. Trong chính nỗ lực để tự cứu mình nó sẽ bỏ

mạng.

Jesus đã nói, "Người tự cứu mình sẽ chết, còn riêng
người sẽ được cứu là người chết đi một cách tự
nguyện."

Cho nên câu hỏi luôn luôn nảy sinh trong tâm trí
chúng ta, "Sao tôi phải đi tới chỗ tôi sẽ chết và biến
mất? Sao phải đi tới đó, nếu cái chết là chắc chắn?"
Nhưng nếu cái chết này là điều chắc chắn, thì nó chính
là điều đang đó. Và làm sao trên trái đất này bạn sẽ cứu
được bản thân mình qua nỗ lực gìn giữ cái ta như vậy?
Nếu đúng là bạn sẽ chết khi đi vào đại dương, thì làm
sao bạn sẽ cứu được bản thân mình như cái giếng, và
được bao lâu? Nếu, theo quan điểm của bạn, việc trở
thành đại dương khổng lồ có nghĩa là chết đi, làm sao
bạn sẽ sống sót như cái giếng nhỏ tí xíu và được bao
lâu? Chẳng mấy chốc thành giếng sẽ vỡ vụn; chẳng mấy
chốc nước của nó sẽ bay hơi, và chẳng mấy chốc nó sẽ
|
335
|
336

bị che phủ bởi bụi và bẩn. Khi bạn không tồn tại như
đại dương bao la, làm sao bạn sẽ tồn tại như cái giếng tí
xíu được? Và được bao lâu?

Đây là cách nỗi sợ chết nảy sinh. Đây là nỗi sợ đeo
đuổi cái giếng. Cái giếng không muốn đi ra biển vì sợ bị

tiêu diệt. Do đó nó giữ một khoảng cách với biển và tiếp
tục là giếng. Nhưng cho dù thế thì nỗi sợ chết vẫn cứ
nắm bắt nó, bởi vì ngay khi nó làm mình xa lánh với
biển, thì cái chết kéo tới gần hơn và gần hơn nữa. Được
nối với đại dương thì còn có hi vọng và cuộc sống cho
cái giếng; cuộc sống của cái giếng không thoát được
việc nối với đại dương. Xa lánh khỏi đại dương cái chết
của nó là chắc chắn.

Đó là lí do tại sao chúng ta tất cả đều sợ chết; chúng
ta sợ rằng chúng ta phải chết và biến mất. Nhưng không
có việc thoát khỏi cái chết; điều đó là chắc chắn. Và chỉ
có hai cách chết. Một là cách bạn lấy bước nhảy vào đại
dương và chết. Loại chết này rất phúc lạc, bởi vì bạn sẽ
không thực chết, bạn sẽ trở thành bản thân đại dương.
Và loại chết khác xảy ra khi bạn cứ ương ngạnh bám lấy
cái giếng, và đằng nào cũng chết. Thế thì bạn trì trệ và
mục nát và chết với nước mắt lưng tròng.

Tâm trí chúng ta tham lam; nó bao giờ cũng theo
đuổi cái lợi nào đó, lợi nhuận nào đó, thành đạt nào đó.
Nó cứ hỏi, "Tôi sẽ được gì nếu tôi đi ra đại dương? Tôi
sẽ đạt được gì nếu tôi tìm kiếm
samadhi
hay niết bàn
hay cái trống rỗng?" Chúng ta bao giờ cũng hỏi chúng
ta sẽ thành đạt được gì, và chúng ta không bao giờ hỏi -
mà là điều người ta nên hỏi - "Làm sao chúng ta đánh
mất bản thân mình trong loài chuột này để được lợi và
thành đạt?" Trên bề mặt của nó, chúng ta đã đạt được

mọi thứ: chúng ta đã đạt được của cải, quyền lực, danh
vọng, mọi thứ. Và trong chính việc theo đuổi này chúng
ta đã đánh mất bản thân mình; chúng ta đã hoàn toàn
đánh mất mình. Chúng ta bây giờ có mọi thứ - ngoại trừ
mỗi bản thân mình.

Nếu các bạn hỏi tôi dưới dạng thành đạt, tôi sẽ nói:
nếu các bạn được chuẩn bị để mất thì các bạn sẽ đạt tới
bản thân mình. Và các bạn sẽ làm mất bản thân mình và
mất hoàn toàn nếu các bạn không được chuẩn bị để mất,
nếu các bạn cố gắng cứu. Đây là nghịch lí; rằng trong
nỗ lực của các bạn để cứu, các bạn sẽ cứu được mọi thứ
trừ bản thân mình. Các bạn sẽ cứu được mọi thứ và các
bạn sẽ làm mất linh hồn mình, điều mới thực là các bạn.



Người hỏi: Thầy nói rằng tỉ lệ của ô xi và các bô
nic thay đổi qua thở sâu. Xin thầy giải thích làm sao
điều này có liên hệ với việc đánh thức kundalini?


Có nhiều liên hệ giữa chúng. Một, chúng ta mang
bên trong mình tiềm năng của cả sống và chết. Trong
khi ô xi của hơi thở biểu thị cho tiềm năng sống của
chúng ta, thì các bô nic biểu thị cho tiềm năng chết. Khi
ô xi của bạn dần giảm đi và biến mất và bạn bị bỏ lại
với một mình các bô nic, bạn sẽ biến thành cái xác.
Điều đó cũng giống như chúng ta đốt một mẩu gỗ - nó
cháy chừng nào ô xi còn sẵn đấy. Có ngọn lửa, có cuộc

sống trong miếng gỗ chừng nào ô xi còn có sẵn cho nó.
Nhưng ngay khi ô xi của nó bị tiêu dùng, nó chết. Nó bị
thu lại thành tro, thành than, cũng là các bon. Các bon
bị bỏ lại sau không là gì ngoài lửa chết.

Cả hai yếu tố này đều vận hành bên trong chúng ta.
Nếu chúng ta có nhiều các bô nic, chúng ta sẽ trượt vào
|
337
|
338

trạng thái hôn mê. Đó là lí do tại sao dễ ngủ trong đêm
hơn ban ngày, bởi vì trong đêm khối lượng các bô nic
tăng lên trong khi lượng ô xi giảm xuống. Đó là cách
chúng ta đi ngủ dễ dàng thế trong đêm và không dễ
dàng đến thế lúc ban ngày. Ban ngày khối lượng ô xi
trong không khí tăng lên bởi vì mặt trời, và mọi thứ
thức dậy và hoạt động. Và với mặt trời lặn, tỉ lệ ô xi
trong không khí giảm xuống đáng kể.

Đó là cách bóng tối và đêm đã trở thành biểu tượng
cho hôn mê và quán tính. Và mặt trời - là biểu tượng
cho ánh sáng và cuộc sống và năng lượng, bởi vì nó
đem tới cuộc sống cùng nó. Ban đêm mọi thứ trở thành
lờ phờ: hoa khép cánh của chúng lại, lá co lại, và tất cả
cuộc sống đi ngủ. Theo một nghĩa nào đó toàn thể trái
đất trong đêm trượt vào một loại cái chết tạm thời. Và
với việc đến của buổi sáng khác, hoa nở ra, cây bắt đầu
lay động, lá trở nên sống động, cuộc sống được thức

dậy, chim tung cánh bay và cả trái đất trở thành ngày
hội. Cái chết tạm thời của thời gian đêm biến mất và
cuộc sống trở lại với trái đất.

Cùng điều đó xảy ra bên trong bạn. Khi lượng ô xi
trong bạn tăng lên, năng lượng tiềm tàng của bạn bắt
đầu thức dậy. Với mọi loại năng lượng tiềm tàng để
đánh thức dậy, ô xi là cái cần phải có. Chúng ta có thể
giữ cho người hấp hối còn sống thêm chút ít bằng sự hỗ
trợ của ô xi. Người đó sẽ chết ngay nếu ống ô xi bị dứt
ra khỏi ngực. Nhưng với ô xi người đó có thể được giữ
cho sống thêm vài ngày, vài tháng, thậm chí vài năm,
bởi vì sinh lực đã bị yếu hoàn toàn của người đó được
làm sống lại bởi ô xi. Chúng ta giữ bản thân cái chết
không tới bằng sự giúp đỡ của ô xi.

Ngày nay hàng nghìn người trên khắp châu Âu và
Mĩ đang được giữ cho sống bằng ô xi được bơm vào họ
từ bên ngoài. Họ đáng ra thì đã chết từ lâu rồi nhưng
nhờ có các bình khí nén ô xi mà vẫn sống. Bây giờ việc
cho phép người mắc bệnh nan y chết đã là một trong
những vấn đề quan trọng ở các nước phương Tây. Việc
cho phép người bệnh chết có nghĩa là con người phải có
quyền được chết khi người đó phải chết. Với sự giúp đỡ
của ô xi, những thiết bị hiện đại, các bác sĩ có thể giữ
cho ai đó sống thật lâu- mặc dầu người đó chết là điều
tốt. Cho nên cho phép người bệnh được chết đã trở
thành vấn đề lớn. Vấn đề của các bác sĩ là ở chỗ nếu bác
sĩ cho phép người đó chết thì bác sĩ sẽ bị mọi người nói
là phạm tội giết người. Đó sẽ là một loại giết người.

Cho nên bác sĩ sẽ giữ cho một người già tám mươi tuổi
tàn tật vẫn sống nhờ ô xi. Nếu bác sĩ không làm như vậy
thì bác sĩ sẽ bị buộc tội giết người, cho nên bác sĩ sẽ giữ
cho năng lượng tàn tạ này sống bằng việc thêm ống ô xi
vào ngực.

Các bài tập thở như
pranayam
,
bhastrika
và điều tôi
gọi là việc thở nhanh và mãnh liệt để làm gì? Bạn thở
trong hơi thở cuộc sống nhiều tới mức tiềm năng của
năng lượng tiềm tàng của bạn được tăng cường và nó
bắt đầu thức tỉnh. Đồng thời, với việc thở sâu và nhanh
hình mẫu quán tính ăn sâu hay giấc ngủ bị phá vỡ.

Các bạn sẽ ngạc nhiên khi nghe câu chuyện tôi sắp
kể cho các bạn.

Quãng bốn năm trước một sư Phật giáo tới tôi từ
Ceylon. Ông ấy đã đi mà không ngủ trong ba năm. Ông
ấy được cho đủ mọi loại thuốc chữa trị, nhưng chẳng có
tác dụng. Thuốc không thể có tác dụng bởi vì
khất sĩ

này đã thực hành
anapanasati
yoga - một loại kỉ luật
|

339
|
340

thở đặc biệt đã thành mốt trong các Phật tử. Nó bao
gồm việc quan sát việc thở sâu của người ta hết ngày nọ
tới ngày kia. Bây giờ người này, người đã dạy cho ông
ta anapanasati yoga không biết rằng nếu người ta quan
sát hơi thở sâu của mình trong hai mươi bốn giờ một
ngày, thì người đó sẽ mất giấc ngủ của mình hoàn toàn.
Thế thì sẽ không thể nào làm cho người đó ngủ được.

Để làm cho vấn đề tồi tệ hơn, khất sĩ này đã được
cho thuốc ngủ trong khi ông ta thực hành anapanasati.
Điều đó tạo ra xung đột lớn trong thân thể ông ấy và
ông ấy thực sự thành đống lộn xộn. Trong khi thuốc
đang cố gắng đưa giấc ngủ vào ông ta, việc quan sát
thường xuyên hơi thở lại giữ cho ông ta thức. Kết quả là
một loại bế tắc, khủng hoảng đã được tạo ra trong thân
thể ông ta, như sẽ xảy ra trong ô tô nếu ga và phanh
được nhấn đồng thời. Hiển nhiên là khất sĩ này trong
khổ sở khủng khiếp.

Ai đó kể cho ông ta về tôi và do vậy ông ta tới.
Ngay khi tôi thấy ông ấy tôi biết rằng ông ta bị mắc giữ
trong một loại điên khùng, ông ta đã tự đẩy mình vào
một tình thế không thể được. Tôi yêu cầu ông ta dừng
anapanasati yoga ngay lập tức. Nhưng ông ta muốn biết
anapanasati có liên quan gì tới việc mất ngủ của ông ta.
Ông ta chẳng có ý tưởng gì rằng nhận biết thường

xuyên về thở sâu đã làm tăng khối lượng ô xi của ông ta
nhiều tới mức giấc ngủ của ông ta đã tan biến. Tôi cũng
bảo ông ta rằng nếu ông ta không thể từ bỏ được
anapanasati, thì ông ta phải dừng uống thuốc an thần và
đi mà không ngủ. Nếu ông ta còn tiếp tục anapanasati,
thì ông ấy có thể dễ dàng thực hiện mà không ngủ; điều
đó sẽ không làm hại gì chút nào cho ông ấy.

Khi khất sĩ này dừng anapanasati chỉ trong tám
ngày, giấc ngủ của ông ta trở lại với ông ta, và ông ta
không dùng thuốc an thần nào.

Bất kì việc tăng các bô nic nào cũng không tránh
khỏi việc tăng giấc ngủ của chúng ta. Và mọi thứ tạo ra
các bon trong thân thể chúng ta đều gửi năng lượng đã
ngủ của chúng ta vào giấc ngủ sâu hơn, nó làm sâu sắc
hơn vô thức của chúng ta. Đó là lí do tại sao, khi dân số
của thế giới tăng lên, việc chia sẻ ô xi của mọi người
giảm xuống theo cùng mức đó. Và điều đó bổ sung cho
vô thức của chúng ta - vốn đã quá nhiều. Một thời điểm
có thể tới sớm khi khả năng đánh thức của chúng ta sẽ ở
vào mức tối thiểu.

Bạn cảm thấy tươi mát vào buổi sáng. Bạn cảm thấy
tươi mát khi bạn đi vào rừng hay tới thăm bãi biển. Và
bạn trở nên lờ phờ và đờ đẫn khi bạn ở bãi chợ, khi bạn
trong đám đông. Tại sao? Đó là vì có nhiều các bô nic
và thiếu ô xi. Đúng là ô xi đang được tạo ra vào mọi
lúc, nhưng khi đám đông tiêu thụ nhiều ô xi hơn, điều
đó đưa tới việc khan hiếm ô xi ở bãi chợ. Đi vào chỗ

đông người - rạp chiếu phim hay đền chùa - và chẳng
mấy chốc bạn sẽ lọt vào vòng bắt giữ của lờ phờ và vô
nhạy cảm. Còn đi lên núi hay ra vườn, hay ra sông, và
bạn sẽ cảm thấy tỉnh táo và sống động và hạnh phúc.

Có ý định lớn trong việc tăng lượng ô xi của bạn.
Nó làm thay đổi sự cân bằng bên trong của bạn; nó làm
cho bạn thức tỉnh và nhận biết hơn, ít buồn ngủ và vô ý
thức hơn. Và nếu khối lượng ô xi tăng lên nhanh chóng
và đột ngột và bất ngờ, nó sẽ tạo ra thay đổi căn bản
trong cân bằng bên trong của bạn. Nó sẽ giống như một
phía của chiếc cân lên cao và phía bên kia chúi xuống
chạm đấ
t. Và nếu thay đổi này được đưa tới trong một
|
341
|
342

cú, bạn sẽ kinh nghiệm nó rất nhanh và đột ngột. Thay
đổi dần dần và chậm chạp bạn khó cảm thấy được.

Đó là lí do tại sao tôi liên tục nhấn mạnh vào việc
thở nhanh và mạnh để cho bạn đem tới thay đổi mau lẹ
đến mức bạn chuyển từ giai đoạn này sang giai đoạn
khác chỉ trong mười phút, và cũng quan sát bản thân
quá trình thay đổi. Chỉ khi sự việc thay đổi mau lẹ và
đột ngột nó mới có thể được quan sát một cách rõ ràng
như vậy.


Chẳng hạn, mỗi người trong chúng ta đều chuyển từ
thời thơ ấu sang thời thanh niên và từ tuổi thanh niên
sang tuổi già, nhưng quá trình này chậm chạp và dần
dần tới mức chúng ta chẳng bao giờ biết đích xác khi
nào chúng ta trở thành thanh niên, khi nào chúng ta trở
thành người già. Nếu ai đó hỏi đích xác ngày tháng khi
nào tôi trở thành già, tôi không thể nói được. Người già
bị lẫn lộn, người đó không hiểu rằng mình bây giờ già
rồi, bởi vì giữa tuổi thanh xuân và tuổi già của người đó
không có lỗ hổng nào cả. Tương tự, đứa trẻ không biết
rằng nó đã đến tuổi; nó tiếp tục cư xử như đứa trẻ.
Trong khi nó trông như người lớn đối với người khác,
thì bản thân nó vẫn còn không nhận biết về sự kiện này.
Trong khi bố mẹ nó trông đợi nó nhận lấy trách nhiệm
của nó trong gia đình, thì nó vẫn coi mình là đứa bé.

Vấn đề là vậy bởi vì việc chuyển đổi từ giai đoạn
này sang giai đoạn khác không xảy ra một cách thình
lình; nó rất im lặng và chậm chạp. Theo cùng cách này
người già tiếp tục cư xử cứ dường như người đó là
thanh niên; người đó không nhận biết rằng thay đổi đã
xảy ra trong đời mình. Và làm sao người đó có thể biết
được?

Chuyển đổi bất thần và đột ngột là cần có để người
ta biết nó. Nếu có một ngày và giờ cố định cho việc
chuyển đổi này xảy ra, sẽ không có chỗ cho lẫn lộn. Và
thế thì sẽ không cần phải nhắc nhở người đã lớn hay
người già về trạng thái đúng của người đó.


Trong thiền tôi nhắm vào thay đổi đột ngột và mạnh
mẽ tới mức bạn biết rõ ràng sự khác biệt giữa tâm thức
ngủ của bạn và thành phần thức tỉnh tương ứng của nó.
Nó phải đi tới như một bước nhảy, bất thình lình, để cho
bạn biết rõ rằng biến đổi đã xảy ra. Việc biết này là có
giá trị; nó sẽ giúp bạn rất nhiều. Bởi lí do này tôi ủng hộ
những kĩ thuật đem lại biến đổi đột ngột và bất thần.
Nếu nó cần thời gian dài, bạn sẽ chẳng bao giờ biết nó.
Và dốt nát này có nguy hiểm của nó. Nguy hiểm là ở
chỗ nếu bạn không biết điều gì đã xảy ra, nó sẽ không
làm sâu sắc cho hiểu biết của bạn như nó đáng làm.

Điều thường xảy ra là ai đó đi tới kinh nghiệm tâm
linh nào đó một cách vô nhận biết và vô nỗ lực, và thay
đổi lại chậm và im lặng tới mức người đó không biết nó
tất cả là cái gì. Thế thì người đó cố gắng diễn giải nó
theo cách thức cũ của mình - mà hầu hết là sai - bởi vì
toàn cảnh cần thiết để hiểu nó bị thiếu. Nhiều lần điều
xảy ra là bạn ở rất gần một kinh nghiệm tâm linh mà
bạn bỏ qua nó, bởi vì bạn diễn giải nó theo cách thả neo
cũ của mình. Tất cả mọi điều này xảy ra chỉ bởi vì thay
đổi xảy ra từ từ và chậm chạp thế.

Tôi biết về một người dễ dàng nâng một con hà mã
lên bằng hai tay. Hà mã là con vật to lớn và nặng đáng
kể. Nông trại súc vật của anh ta có nhiều trâu trong đó.
Người này bắt đầu nâng con hà mã con và tiếp tục nâng
nó hàng ngày trong một thời gian dài. Do đó khi con hà
mã này lớn lên, dần dần khả năng của người đó để nâng
|

343
|
344

nó lên cũng tăng lên theo cùng nhịp. Và bây giờ người
đó có thể nâng bất kì con hà mã lớn nào - điều đơn giản
có vẻ như phép màu! Bản thân người này không nghĩ
điều đó là phép màu, bởi vì người đó đã thu được khả
năng này dần dần qua một thời gian dài. Nhưng tất cả
mọi người khác đều coi đó là phép màu thực, bởi vì họ
có toàn cảnh để nhìn nó. Họ biết bản thân họ không thể
làm được điều người này làm rất dễ dàng.

Chính bởi lí do này mà tôi dạy các bạn cách thiền
động và mạnh mẽ này.

Và ô xi có ý nghĩa lớn. Nó là thứ cực kì quí giá. Bạn
càng rót đầy thân thể mình bằng ô xi, việc chuyển đổi
của bạn từ thân thể sang linh hồn càng nhanh. Nếu bạn
hiểu điều đó đúng, bạn sẽ biết rằng thân thể mình là đầu
chết của bạn; thân thể là phần của bạn biểu lộ ra nó bởi
vì nó là chết. Phần này của bạn, đang chết, đã bị làm
cứng lại và do đó nó là thấy được. Còn linh hồn là phần
khác của bạn vẫn tiếp tục mang tính hay thay đổi và tinh
tế, loãng và nhẹ lâng lâng; nó không thể được giữ chắc.
Một lượng ô xi đủ, điều đem lại việc thức tỉnh và cuộc
sống cho bạn, sẽ tạo ra một khoảng cách rõ rệt giữa thân
thể bạn và linh hồn. Thế thì bạn sẽ biết rõ ràng chúng là
hoàn toàn khác lẫn nhau, mặc dầu chúng là hai phần của
cùng một bản thể - bạn.

Do đó, việc thở đóng vai trò lớn trong việc đánh
thức kundalini.

Kundalini là năng lượng ngủ của bạn. Bạn không
thể đánh thức được nó với sự giúp đỡ của các bô níc.
Thay vì thế, các bon sẽ làm giấc ngủ của nó sâu hơn. Ô
xi là sự trợ giúp lớn lao trong việc đánh thức kundalini.
Đây là lí do mà chúng ta bao giờ cũng coi thiền sáng có
tầm quan trọng lớn lao thế. Lí do là thế này: rằng vào
buổi sáng thậm chí hơi thở nhỏ cũng mang một khối
lượng lớn ô xi cùng nó. Trái đất thường ở vào trạng thái
phi thường và rất duy nhất trong vòng trọn một giờ sau
khi mặt trời mọc, và lấy ưu thế của tình huống này, buổi
sáng đã được chọn là thời gian tốt nhất cho thiền trên
khắp thế giới.

Bạn càng gõ búa mạnh vào kundalini bằng việc thở
nhanh và mãnh liệt, nó sẽ càng nhanh chóng thức dậy.
Nhưng khó khăn là ở chỗ chúng ta không thấy rõ ràng
nó vận hành thế nào, và do đó ý nghĩa của thở sâu bị
mất đi với chúng ta. Chẳng hạn, chiếc đèn đang cháy.
Chúng ta thấy dầu trong bình bằng đất, chúng ta thấy
bấc và diêm thắp sáng nó. Chúng ta cũng thấy ngọn lửa
và ánh sáng nảy sinh từ nó. Nhưng chúng ta không thấy
điều thực: ô xi vốn là phần sống còn của toàn bộ hoạt
động. Thực sự chính ô xi mới đốt cháy và trở thành ánh
sáng. Dầu, bấc, diêm đều không quan trọng đến thế.
Dầu, bấc và diêm là phần thấy được của chiếc đèn,
chúng tạo thành thân của đèn. Nhưng phần không thấy
được, ô xi, cái tạo ra linh hồn của chiếc đèn và cái thực

sự đốt cháy, là không thấy được.

Tôi đã nghe nói rằng một buổi tối một gia đình đi
tới thăm nhà bạn, để lại nhà một đứa bé trông coi nhà.
Có một ngôi đền nhỏ trong ngôi nhà đó và một chiếc
đèn đang cháy trước bức tượng thượng đế nào đó. Đứa
trẻ đã được yêu cầu đặc biệt trông nom cho ngọn đèn đó
không tắt. Trong lúc đó, một cơn gió mạnh bắt đầu quét
qua, và đứa trẻ đâm ra lo lắng về chiếc đèn. Thế là nó
đem cái bát thủy tinh tới và che cho đèn bằng chiếc bát
này. Mặc dầu đèn được bảo vệ kĩ, vậy là ngọn lửa tắt
ngay lập tức. Có lẽ chiếc đèn có thể đã tồn tại được với
cơn gió, nhưng nó không thể tồn tại được khi thiếu ô xi;
nó chết trong một giây.

|
345
|
346

Ô xi, cái thực sự là lực sống còn, là không thấy
được. Điều chúng ta gọi là cuộc sống là quá trình ô xi
hoá; nó cũng giống như việc đốt cháy ngọn đèn. Nói
theo thuật ngữ khoa học, cuộc sống là ô xi đang cháy.
Dù nó là trong con người hay trong cây cối hay trong
ngọn đèn hay trong bản thân mặt trời, bất kì chỗ nào có
việc ô xi hoá thì đều có cuộc sống. Cho nên càng ô xi
hoá nhiều, thì ngọn lửa cuộc sống của bạn càng sáng
hơn. Và kundalini là ngọn lửa của cuộc sống này. Ô xi
hoá làm cao thêm việc bốc lửa và luồng kundalini. Cho

nên ô xi là rất có hiệu quả với kundalini.



Người hỏi: nhiều nhà yoga dùng hang núi rất thiếu
ô xi. Làm sao hang động có ích trong việc đạt tới
samadhi hay thống nhất với cái tuyệt đối?


Thực tế nhiều điều cần có trước khi ai đó có thể đi
vào trong hang để thực hành yoga. Nếu những yêu cầu
này không được đáp ứng, nhà yoga trong hang sẽ không
bao giờ đạt tới được samadhi; người đó thay vì thế sẽ
trải qua việc tăng thêm vô ý thức. Điều người đó sẽ lấy
thay cho samadhi sẽ không là gì ngoài giấc ngủ và vô ý
thức sâu hơn. Một mình người đó có thể dùng cái hang
có nhiều ô xi cho bản thân mình trong việc thực hành
dư thừa pranayam tới mức cái hang đó không thành vấn
đề gì với người đó.

Nếu một người đã trải qua pranayam về chiều sâu,
nếu mọi giọt máu của người đó, mọi thớ thịt của thân
thể người đó đã được cấp đủ ô xi, người đó có thể chôn
vùi mình dưới đất trong tám ngày và bước ra khỏi đó
vẫn còn sống. Lí do là đơn giản thế này: người đó có đủ
ô xi dự trữ để kéo dài cuộc sống người đó trong tám
ngày. Thông thường, chúng ta không có ô xi dư thừa
nào theo mình; chúng ta ít khi quản lí điều đó. Nếu bạn
đi và nằm dưới đất bên cạnh nhà yoga mà không có
thực hành thích hợp về pranayam, bạn sẽ chết vào ngày

thứ tám khi nhà yoga bước ra còn sống. Nhà yoga có dự
trữ lượng ô xi cần để giữ cho người ta sống trong tám
ngày chôn vùi dưới đất. Người như vậy sẽ dùng khéo
cái hang cho việc thiền và sẽ được lợi nhiều. Vì người
đó không có vấn đề gì với ô xi, nên người đó sẽ thu
hoạch được ích lợi khác mà chỉ hang động mới đem lại
cho nhà yoga.

Cái hang hữu dụng bởi vì nó cung cấp nhiều loại
bảo vệ cho người tìm kiếm. Nó không chỉ bảo vệ người
đó khỏi sự ồn ào và hối hả của thế giới bên ngoài; nó
cũng bảo vệ người đó khỏi những rung động đa dạng
gây thương tổn nhà yoga. Cái hang thuộc một loại đá
đặc biệt có nhiều ý nghĩa. Đá đặc biệt, như đá cẩm
thạch, ngăn cản nhiều rung động không cho đưa vào
trong hang. Đó là lí do tại sao đá cẩm thạch được dùng
rộng rãi trong việc xây dựng đền chùa. Bởi vì đá cẩm
thạch mà những rung động nào đó bị giữ lại không vào
trong đền chùa.

Cho nên đá cẩm thạch không chỉ được dùng với
mục đích trang trí đâu - như người ta vẫn hiểu chung
chung như vậy - nó thực sự có ý nghĩa tâm linh lớn đã
được khám phá ra qua thực nghiệm lâu dài. Có những
đá hấp thu những loại rung động đặc biệt nào đó, do vậy
ngăn cản chúng khỏi đi vào đền chùa. Một số đá khác
làm lệch hay đẩy lùi những rung động này. Và có những
đá hấp d
ẫn các rung động có ích cho kỉ luật tâm linh.
Trong quá khứ, hang động với những hình dạng và kích

|
347
|
348

cỡ đặc biệt đã được khắc chạm, bởi vì thiết kế của hang
cũng quan trọng cho sadhana.

Nhưng chúng ta chẳng có ý tưởng gì, bởi vì toàn bộ
khoa học của nó đã bị thất lạc. Khi chúng ta làm ra
chiếc xe ô tô, chúng ta làm ra nó với thiết kế riêng. Điều
này được thực hiện với một mắt dành cho tốc độ của xe.
Chiếc xe phải được thiết kế sao cho nó xé không khí và
không tranh đấu với không khí. Nếu chiếc xe phẳng ở
phía trước, tốc độ của nó sẽ bị gò ép. Phía trước phải
làm sao để nó cắt qua không khí, không bị cản lại như
mũi tên. Và bởi vì chiếc xe cắt qua không khí với tốc độ
cao, nên không khí xô vào chỗ chân không được tạo ra
đằng sau xe, bổ sung thêm cho tốc độ.

Bạn phải đã thấy chiếc cầu bắc qua sông Hằng tại
Allahabad; nó được xây dựng có khó khăn lớn. Dòng
chảy của sông mạnh tới mức nó quét đi mọi cột trụ của
chiếc cầu mà các kĩ sư đã thăm dò với nỗ lực lớn để xây
dựng. Hết cột nọ tới cột kia phải được xây dựng và xây
lại. Nhưng người xây dựng gặp phải một khó khăn đặc
biệt với một cột trụ đặc biệt; gần như không thể xây
được nó. Khi tất cả các cột khác đã sẵn sàng, cái cột này
vẫn tiếp tục thách đố công nghệ hiện đại. Thế rồi các kĩ
sư động tới một kế hoạch khéo léo: Họ thiết kế cây cột

trụ này theo hình dáng chiếc giầy và nó trụ lại dòng
nước mạnh mẽ. Nếu bạn quan sát chiếc giầy của mình
bạn sẽ thấy hình dáng của nó giúp cho bạn trong việc
bước đi; nó cắt qua thông khí. Cho nên cột trụ kiểu
chiếc giầy có thể hấp thu được chấn động của dòng
chảy xô tới của sông Hằng.

Đó là lí do tại sao hang động có hình dáng và kích
cỡ đặc biệt và loại đá đặc biệt trong chúng.

Người tìm kiếm có thể phóng rung động của mình
tới một giới hạn nào đó của không gian của mình, và
qua thực nghiệm người đó sẽ tự biết mình cần bao nhiêu
không gian để an toàn cho việc thực hiện sadhana của
mình. Chẳng hạn, nếu người đó đi tới biết rằng mình có
thể rót đầy một diện tích sáu mươi tư phít vuông (gần 6
mét vuông) bằng rung động riêng của mình, thì không
gian đó sẽ được xem như an toàn cho người đó. Thế thì
người đó sẽ coi cái hang của mình phải có số lỗ ít nhất -
có lẽ là một sẽ đủ. Và một cửa này phải có hình dạng và
kích cỡ riêng của nó; nó phải bảo toàn rung động của
người tìm kiếm và đồng thời giữ các rung động không
mong muốn khác không cho vào hang.

Nếu một số người tìm kiếm đã dùng một hang đặc
biệt cho sadhana này, cái hang đó thu được ý nghĩa phi
thường, và người tìm kiếm mới có thể rất được lợi bởi
nó. Do đó một số hang đã được dùng trong nhiều năm
không gián đoạn.


Khi lần đầu tiên hang ở Ajanta được khai quật,
chúng tất cả đều đầy bùn. Và điều đó đã được thực hiện
với một ý định, mặc dầu mọi người chịu trách nhiệm
cho công việc khai quật đã chẳng có ý tưởng gì về nó.
Họ ngạc nhiên thấy rằng mọi hang đều đã được chất đầy
và bít kín cẩn thận bằng bùn nhão. Chúng trông hệt như
các tảng đá núi, nơi cây cỏ mọc tự do. Điều trở thành
cần thiết là lấp đầy các hang đó bằng bùn nhão, bởi vì
thời điểm đã tới khi người tìm kiếm trở nên hiếm hoi,
và tính hữu dụng của chúng phải được bảo tồn cho thời
tương lai khi những người tìm kiếm mới có sẵn, những
người sẽ cần tới chúng.

Các hang ở Ajanta chưa bao giờ được ngụ ý dành
cho khách du lịch và người tham quan những người
|
349
|
350

hiện tại đang dùng chúng. Chúng không dành cho khách
thăm quan; khách thăm thực tế đã phá huỷ mọi thứ quí
giá về chúng. Bây giờ chúng không có giá trị tâm linh.

Mặc dầu hang thiếu ô xi, nó có ưu thế khác cho
người tìm kiếm. Và sadhana hay kỉ luật tâm linh là việc
phức hợp; có nhiều khía cạnh của nó. Cái hang là tốt
cho người tìm kiếm cao cấp. Và người tìm kiếm không
phải bị hạn chế ở trong hang hết ngày nọ tới ngày kia;
người đó thỉnh thoảng còn đi ra ngoài. Một phần của

sadhana của người đó được thực hiện bên ngoài hang,
nếu điều đó là cần thiết phải làm như vậy. Người đó
dùng cả hai - không gian bên trong và bên ngoài hang.

Các đền chùa và đền thời Hồi giáo đã được thiết kế
và xây dựng theo chính ý định này; chúng được ngụ ý
bảo tồn những loại rung động và năng lượng đặc biệt,
điều có ích cho sự phát triển của người tìm kiếm.

Thỉnh thoảng các bạn thấy, khi tới thăm một chỗ,
rằng ý nghĩ của các bạn bỗng nhiên thay đổi, mặc dầu
các bạn không biết rằng chỗ đặc biệt này có dúng tay
vào đó. Các bạn cho rằng sự thay đổi đã xuất hiện bởi
chính nó. Nhiều lần các bạn thấy rằng khi tới thăm một
người đặc biệt, các bạn thành người khác - khác với
điều các bạn đã là. Các bạn thấy rằng một khía cạnh
khác của cá tính bạn đã bước ra phía trước. Thế rồi các
bạn cho rằng đấy chỉ là việc thay đổi tâm trạng. Nhưng
vấn đề không đơn giản thế.

Nhiều nghiên cứu đã được tiến hành theo hướng
này. Chẳng hạn, có các kim tự tháp ở Ai Cập. Các điều
tra chuyên sâu đã được thực hiện để tìm ra kim tự tháp
là gì, tại sao chúng được làm ra và để làm gì. Ý định
của việc xây dựng những kim tự tháp khổng lồ như vậy
là gì trong vùng đất hoang khô cằn, trong sa mạc? Bao
nhiêu tiền đã được chi ra cho việc xây dựng của họ?
Bao nhiêu năng lượng con người đã đổ vào để làm ra
chúng? Nếu các cấu trúc khổng lồ như vậy mà chỉ được
ngụ ý để chôn vùi người chết, như chúng dường như

vậy, thế thì đấy là lãng phí khinh suất về tiền bạc và
năng lượng con người.

Chân lí là ở chỗ các kim tự tháp này đã được xây
dựng đặc biệt cho những ý định tâm linh; chúng là chỗ
mà sadhana tâm linh có thể được tiến hành với sự thoải
mái và ưu thế lớn lao. Và nó được dành cho các ý định
tâm linh mà các thi thể chết của những người đặc biệt
được gìn giữ trong chúng.

Ở Tây Tạng, thi thể chết của các
bồ tát
vĩ đại,
những linh hồn cao cấp, một số trong chúng có hàng
nghìn tuổi - đã được gìn giữ trong những hang rất sâu
và bí mật. Thân thể mà Phật đã có không phải là thân
thể thường. Ngay cả thân thể vật lí, với nó linh hồn vĩ
đại của Phật đã được liên kết với trong tám mươi năm,
cũng không phải là vật bình thường. Nó quí giá và vĩ
đại vô cùng. Thân thể này đã hấp thu và đồng hoá
những rung động hiếm hoi của Phật trong tám mươi
năm. Khó mà nói liệu một hiện tượng như thế có xảy ra
trên trái đất này lần nữa không.

Sau khi bị đóng đinh thân thể chết của Jesus đã
được giữ trong hang. Nó được dự định đem đi chôn vào
ngày hôm sau, nhưng người ta không tìm thấy nó nữa.
Điều đó tiếp tục là bí ẩn cho người Ki tô giáo làm sao
thân thể chết của ông ấy biến mất, và điều gì đã xảy ra
cho nó. Có câu chuyện về sự phục sinh của ông ấy nói

rằng các đệ tử của ông ấy đã thấy Jesus vài ngày sau
việc đóng đinh. Nhưng câu hỏi vẫn còn lại: điều gì đã
|
351
|
352

xảy ra cho Jesus sau khi ông ấy được phục sinh và khi
nào ông ấy chết lần nữa?

Nhưng chính điều bí ẩn là chẳng có gì được biết về
Jesus sau việc phục sinh cả. Người Ki tô giáo không có
giải thích bất kì điều gì về Jesus được phục sinh. Sự
kiện là ở chỗ thân thể chết của Jesus quí giá tới mức nó
lập tức phải bị bỏ khỏi hang để đặt vào chỗ nó có thể
được gìn giữ an toàn trong thời gian dài. Và thông tin
này phải được canh giữ bí mật để giữ an toàn cho thân
thể chết. Một người như Jesus thực sự hiếm hoi trong cả
lịch sử.

Cho nên các kim tự tháp này của Ai Cập - kể cả cấu
trúc của chúng, sân của chúng, các tính năng đặc biệt
của chúng - đều có nghĩa và ý nghĩa cao.


(
Tại đây trong câu trả lời cho câu hỏi không nghe
được Osho nói rằng đó là vấn đề khác và Thầy sẽ thảo
luận nó riêng ra.
)





Người hỏi: khi chúng tôi vào thiền sâu, thân thể trở
thành trơ ì và việc thở yếu, điều có thể gây ra thiếu
ô xi trong thân thể. Xin thầy giải thích hiện tượng
này trong hoàn cảnh của thiền và samadhi - như
cực lạc.


Thực tế, khi việc thở đã đạt tới mạnh mẽ đầy đủ của
nó và một lỗ hổng được tạo ra giữa bạn và thân thể bạn,
khi việc ngủ của bạn và phần thức dường như tách biệt
lẫn nhau, thế thì các bạn sẽ bắt đầu đi tới phần thức tỉnh
của mình. Tại giai đoạn này thân thể thôi không cần ô xi
thêm nữa. Bây giờ điều tốt là thân thể đi vào giấc ngủ,
là nó trở thành trơ ì, cũng như chết. Bây giờ sinh lực
của bạn không hướng tới thân thể nữa, thay vì thế nó bắt
đầu chuyển tới linh hồn.

Chính thân thể mới cần ô xi, linh hồn không có nhu
cầu thực về ô xi. Bạn có theo được tôi nói không? Thân
thể cần ô xi; và khi sinh lực của bạn chuyển tới linh
hồn, thân thể cần lượng ô xi tối thiểu - chỉ đủ để giữ cho
nó sống. Nó không cần quá mức tối thiểu, và điều đó sẽ
cản trở tiến bộ của bạn nếu thân thể nhận được nhiều ô
xi tại giai đoạn này.

Do đó điều đáng phải làm là thở chậm lại và trở nên

nhẹ và yếu. Việc thở là hữu dụng để đánh thức năng
lượng, và một khi năng lượng này thức dậy, việc thở
dừng tính hữu ích đó. Bây giờ thân thể bạn có thể tồn tại
với việc thở tối thiểu. Và do vậy sẽ có một khoảnh khắc
nó sẽ đi tới dừng hoàn toàn. Nó phải dừng lại.

Trong thực tế, khi bạn đạt tới điểm cân bằng đúng,
điều chúng ta gọi là samadhi, việc thở sẽ dừng lại.
Nhưng chúng ta không có ý tưởng gì về việc dừng thở
này nghĩa là gì. Nếu bạn muốn biết điều đó ngay bây
giờ bạn có thể dừng việc thở lại, nhưng điều đó sẽ là vô
nghĩa. Các bạn không thể biết được nó bằng kinh
nghiệm qua việc cố ý dừng nó. Điều này sẽ không là
cùng kinh nghiệm mà bạn có trong thiền sâu.

Chúng ta đều quen thuộc với hai cách thở: thở vào
và thở ra. Nhưng một khoảnh khắc tới, và nó tới tại đỉnh
cao của thiền, khi việc thở dừng lại nửa chừng giữa hít
vào và thở ra. Khi khoảnh khắc như vậy tới các bạn sẽ

×