Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Thủ thuật sử dụng máy tính: Kiện Toàn Bảo Mật Cho Apache - Phần 1 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.12 KB, 20 trang )

Kiện Toàn Bảo Mật Cho Apache - Phần 1
Bảo mật Apache: từng bước.
Artur Maj
Tài liệu này theo dạng chỉ dẫn từng bước cách cài đặt và chỉnh lý Apache
1.3.x web server với mục đích xử lý và phòng tránh các trường hợp đột nhập
lúc những yếu điểm của chương trình này được khám phá.
Chức năng
Trước khi bắt đầu kiện toàn bảo mật Apache, chúng ta phải xác định rõ chức
năng cần thiết nào của server sẽ được xử dụng. Tính đa năng của Apache tạo
ra những khó khăn để thực hiện một mô thức tổng quát với mục đích kiện
toàn bảo mật cho server trong mọi trường hợp có thể được. Ðây là lý do tài
liệu này dựa trên các chức năng sau:
* Web server có thể truy cập từ Internet; và,
* Chỉ những trang HTML tĩnh (static HTML pages) sẽ được phục vụ,
* Server hỗ trợ tên miền cho cơ chế dịch vụ ảo,
* Các trang web đã ấn định chỉ có thể truy cập từ các cụm IP addresses hoặc
người dùng (khai báo căn bản),
* Server sẽ tường trình trọn bộ các thỉnh cầu (bao gồm những thông tin về
các web browsers).
Ðiều đáng nhấn mạnh ở đây là mô hình trên không hỗ trợ PHP, JSP, CGI
hoặc bất cứ công nghệ nào khác có thể tạo cơ hội tương tác đến các dịch vụ
Web. Ứng dụng cho những công nghệ trên có thể dẫn đến những đe dọa to
lớn cho vấn đề bảo mật, dù chỉ là một đoạn script nhỏ, kín đáo cũng có thể
giảm thiểu mức triệt để bảo mật của server. Tại sao? trước hết, các ứng trình
ASP/CGI có thể chứa những yếu điểm bảo mật (ví dụ SQL injection, cross-
site-scripting). Kế tiếp, chính các kỹ nghệ ấy có thể nguy hiểm (các yếu
điểm trong PHP, các module của Perl v v ). Ðó là lý do tại sao tôi mạnh mẽ
đề nghị xử dụng những công nghệ ấy chỉ khi nào nhu cầu tương tác với một
web site hoàn toàn cần thiết mà thôi.
Lời bàn và mở rộng:
Việc kiện toàn bảo mật cho một web server liên quan đến nhiều thủ thuật ở


nhiều mức độ khác nhau. Tác giả chuộng nguyên tắc "tối thiểu" để giảm
thiểu những lỗ hổng bảo mật có thể hiện diện trên một web server. Lý thuyết
mà nói, nguyên tắc này đưa đến những ứng dụng và chỉnh định chặt chẽ hơn
cho vấn đề bảo mật. Tuy nhiên, hoạt tính và nhu cầu làm việc của một web
server không thể dừng lại ở khuôn khổ "tối thiểu" và bị áp đặt trong giới hạn
các trang static HTML được. Thiết kế một chương trình làm việc cho web
với yêu cầu đa năng và đa hoạt là một trong những yêu cầu hàng đầu. Một
web site chỉ chuyên chú ở khuôn khổ các trang static HTML không những
giới hạn tính năng của các trang web này một cách đáng kể, mà còn sa lầy
trên mặt thực dụng và giá trị kinh tế lẫn giá thành xây dựng và bảo trì cho
website. Giải pháp tối ưu có lẽ là sự cân bằng giữa kiến thức kiện toàn bảo
mật cho web server cộng với khả năng thiết kế web một cách khoa học và
vững chãi về mặt tính năng, hoạt động lẫn mặt giảm thiểu lỗi thiết kế, lỗi lập
trình.
Một trong những hạn chế hay đúng hơn là lối mòn thường gặp trong các
thiết kế ứng dụng web là việc pha trộn lẫn lộn các phân đoạn làm việc với
nhau. Nói một cách khác, các thiết kế gia và các lập trình viên không đầu tư
đủ thời gian để nghiên cứu, phân tích và áp dụng các mẫu thiết kế hợp lý cho
công trình của mình mà thường đi thẳng vào bước thực hiện. Các bước "đi
thẳng" thường thiếu độ chín chắn trong bước thiết kế, dẫn đến tính năng hạn
hẹp và mở cửa cho các lỗi bảo mật nghiêm trọng. Trên thực tế, sự khác biệt
giữa việc làm cho một web site chạy được và làm cho một web site chạy
được, chạy có hiệu xuất, có khả năng mở rộng và bảo đảm mật tính là
chuyện khác nhau một trời một vực. Thói quen "xào nấu" các lệnh điều tác
cho một hệ điều hành hoặc các lệnh tương tác đến database trực tiếp từ một
trang html trần trụi, nhúng các lệnh điều tác vào php, jsp, asp là chuyện rất
thường gặp. Ðây là một ví dụ điển hình cho cái gọi là "chạy được nhưng
thiếu hiệu xuất, thiếu khả năng mở rộng và mở cửa cho các lỗi bảo mật quan
trọng".
Vì khuôn khổ bài viết không tiện đi sâu vào các mẫu thiết kế cho những ứng

dụng web, các bạn nên nghiên cứu thêm về những thiết kế này ở một số
URL sau tùy theo công nghệ bạn đang dùng:
/> /> /> /> /> /> />Bạn có thể dùng google để search thêm các tài liệu về MVC với keyword:
"MVC Pattern" hoặc tham khảo một số tài liệu chuyên ngành từ các website
lớn như hoặc .
Những trù bị bảo mật
Một trong những nhân tố quan trọng nhất cho mọi công trình điện toán là
việc xác thực các trù bị bảo mật. Ðiều này phải được thoả mãn trước khi
công trình được ứng tạo. Các trù bị bảo mật cho web server của chúng ta
như sau:
* Hệ điều hành phải được kiện toàn càng chặt chẽ càng tốt, bao gồm việc
phòng bị cho những tấn công từ bên ngoài lẫn bên trong,
* Server không được cung cấp bất cứ dịch vụ nào khác ngoại trừ HTTP:
(80/TCP),
*
Truy cập từ xa đến server phải được khiển tác bởi tường lửa, thiết bị này
chặn trọn bộ những tiếp nối cho lối ra và cho phép những tiếp nối cho lối
vào đến cổng 80/TCP của web server mà thôi,
*
Web server Apache là dịch vụ duy nhất hiện hữu trên hệ thống,
*
Chỉ có những modules nào tuyệt đối cần thiết mới được cho phép hoạt động,
*
Các trang web dùng cho công tác chẩn xét và tự động hoá mục lục phải được
tắt bỏ,
*
Srver nên giảm thiểu tối đa vấn đề tiết lộ những thông tin của chính server
(mật tính qua ẩn tính),
*
Apache server phải chạy bằng UID/GID riêng biệt (tín chỉ cá nhân, tín chỉ

nhóm), không được dùng bất cứ process nào khác của hệ thống,
*
Các process của Apache phải có giới hạn nhất định đến hệ thư mục
(chrooting); và,
*
Không có bất cứ chương trình dạng shell nào hiện hữu trong môi trường
chrooted (/bin/sh, /bin/csh, v v ).
Lời bàn và mở rộng:
Một lần nữa tác giả đẩy mạnh tính "tối thiểu". Tuy nhiên, điểm khác biệt
trong tính "tối thiểu" ở phần này thuộc bình diện môi trường hơn là giảm
thiểu hoạt tính của web server Apache.
Bước kiện toàn bằng cách chỉ cho phép port 80/TCP trên server chạy
Apache là thao tác căn bản cần phải làm vì nếu tấn công, tin tặc chỉ có một
cổng để tấn công và để phòng thủ, người bảo vệ chỉ tập trung đến một cổng.
Hơn thế, với cơ chế kiểm soát của tường lửa như tác giả đề nghị, tính bảo
mật chắc chắn sẽ được nâng cao. Ở đây tác giả không đề cập một cách cụ thể
loại tường lửa nào nên dùng vì quy trình chọn lựa, chỉnh định một tường lửa
cho thích hợp phụ thuộc vào nhiều yếu tố khá phức tạp. Ðể mở rộng chi tiết
này, tôi tin rằng sự hiện diện của một stateful firewall vừa có khả năng kiểm
soát state ở tầng IP vừa có khả năng kiểm soát nội dung ở tầng application là
cách tốt nhất. Nếu điều kiện tài chính cho phép, một stateful firewall như
CheckPoint FW-1 hoặc Cisco PIX có thể đóng vai trò quan trọng này. Nếu
điều kiện tài chính không cho phép, phương pháp tích hợp một số chương
trình mở nguồn để đạt được khả năng tương tự vẫn có thể được, tuy nhiên sẽ
mất nhiều nhân lực và thời gian hơn để điều chỉnh và thử nghiệm nếu chưa
có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực này.
Cài đặt hệ điều hành
Trước khi cài đặt Apache, chúng ta phải chọn lấy một hệ điều hành, đó là
môi trường Apache sẽ hoạt động. Ở đây chúng ta có khá nhiều chọn lựa vì
Apache có thể được biên dịch và cài đặt trên hầu hết các hệ điều hành. Phần

còn lại của tài liệu này chỉ dẫn cách bảo mật Apache server trên nền
FreeBSD (4.7), tuy nhiên các phương pháp được mô tả ở đây có thể ứng
dụng trong hầu hết các hệ điều hành UNIX/LINUX. Chỉ có một hệ điều
hành duy nhất tôi không giới thiệu là MS Windows - lý do chính là vì hệ
điều hành này bị giới hạn khả năng kiện toàn bảo mật cho Apache.
Bước đầu tiên trong vấn đề bảo mật Web server là kiện toàn hệ điều hành.
Các thảo luận kiện toàn hệ điều hành vượt quá khuôn khổ tài liệu này. Tuy
vậy, có rất nhiều tài liệu trên Net miêu tả cách thực hiện vấn đề ấy. Ðộc giả
được khuyến khích khai phá các vấn đề liên hệ đến phạm vi này.
Sau khi hệ thống được cài đặt và kiện toàn, chúng ta cần thêm một nhóm và
một người dùng thông thường gọi là "apache" tương tự như thế này (một ví
dụ từ FreeBDS):
pw groupadd apache
pw useradd apache -c "Apache Server" -d /dev/null -g apache -s
/sbin/nologin
Theo mặc định, các process thuộc Apache chạy với chủ quyền của người
dùng nobody (ngoại trừ process chính phải chạy với chủ quyền root) và GID
thuộc nhóm nogroup. Ðiều này có thể dẫn đến những đe dọa bảo mật
nghiêm trọng. Trong trường hợp đột nhập thành công, tin tặc có thể lấy được
quyền truy dụng đến những process khác chạy cùng UID/GID. Bởi thế, giải
pháp tối ưu là cho Apache chạy bằng UID/GID từ nhóm riêng biệt, chuyên
chú đến software ấy thôi.
Lời bàn và mở rộng:
Ðối với những ai quen dùng *nix hẳn không lạ gì với khái niệm UID/GID
thuộc chế độ "file permission". Tuy nhiên, chi tiết này nên mở rộng một tí
cho những bạn đọc chưa quen thuộc với UID/GID. Phần tạo nhóm (group)
và người dùng (user) riêng cho Apache ở trên có hai chi tiết cần chú ý là:
-d /dev/null: không cho phép user Apache có thư mục $HOME nhưng những
user bình thường khác
-s /sbin/nologin: không cho user Apache dùng bất cứ một shell nào cả. Có

một số trường hợp dùng -s /bin/true thay vì nologin ở trên, true là một lệnh
không thực thi gì cả và hoàn toàn vô hại.
Lý do không cho phép user Apache có thư mục $HOME và không được cấp
một "shell" nào cả vì nếu account Apache này bị nhân nhượng, tin tặc cũng
không có cơ hội tiếp cận với system ở mức độ cần thiết cho thủ thuật gia
tăng chủ quyền. Trên môi trường *nix nói chung, "shell" là giao diện giữa
người dùng và hệ thống, không có shell thì không có cơ hội tiếp cận xa hơn.
Chuẩn bị software[/]
Bước kế tiếp là bước tải phiên bản Apache mới nhất từ web site Apache
(). Chỉ có một số chọn lựa tiện ích được phép
hoạt động trong quá trình biên dịch mà thôi, bởi thể, quyết định tải mã
nguồn về biên dịch thay vì tải bản nhị phân (binary) là điều hết sức
quan trọng.
Sau khi tải software về, chúng ta phải xả nén. Kế tiếp, chúng ta quyết
định modules nào được phép hoạt động. Bản tường trình tổng quan về
các modules hiện hữu cho phiên bản mới nhất của Apache 1.3.x (1.3.27
[1]) có ở: />[b]Những modules của Apache
Chọn lựa các modules là một trong những bước quan trọng nhất trong vấn
đề bảo mật Apache. Chúng ta nên theo luật: càng ít càng tốt. Ðể thoả mãn
chức năng và những trù bị bảo mật, các modules sau cần được cho phép:
Tên module
httpd_core: Chứa các chức năng cốt lõi của Apache, cần thiết cho bất cứ
Apache nào.
mod_access: Cung cấp chế độ khiển tác dựa trên tên máy, địa chỉ IP, hoặc
các tính chất yêu cầu thuộc về các clients. Bởi vì module này cần cho các chỉ
phối (directive) "order", "allow" và "deny", nó cần được cho phép.
mod_auth: Cần thiết để ứng dụng vấn đề khai báo người dùng cho việc sử
dụng các hồ sơ nguyên bản (khai báo căn bản cho HTTP), được chỉ định
trong chức năng trù bị.
mod_dir: Cần thiết để tìm kiếm và phục vụ các hồ sơ thư mục:

"index.html", "default.htm", v v
mod_log_config: Cần thiết để ứng hiệu báo cáo những yêu cầu thực hiện
đến server.
mod_mime: Cần thiết để chỉnh lý nhóm chữ cái, mã hoá nội dung, tùy tác,
ngôn ngữ nội dung và các loại MIME đại diện cho các loại tài liệu.
Tất cả các modules khác của Apache phải được tắt bỏ. Chúng ta có thể tắt bỏ
chúng một cách an toàn bởi vì chúng ta không cần đến chúng. Do tắt bỏ
những modules không cần thiết, chúng ta tránh được trường hợp có thể bị
đột phá khi những yếu điểm bảo mật vừa được khám phá thuộc về một trong
những modules này.
Cũng nên nhắc đến là có hai modules của Apache có thể nguy hiểm hơn các
modules khác là: mod_autoindex và mod_info. Module thứ nhất cung cấp
chức năng tự động sắp xếp thư mục và module này được phép chạy theo
mặc định. Có thể dễ dàng dùng nó để xác định xem Apache được dùng trên
một server nào đó hay không (ví dụ: http://server_name/icons/) và để lấy nội
dung của các thư mục trên Web server dẫu không có các mục lục trong
những thư mục này. Module thứ nhì, mod_info không nên cho phép truy cập
từ Internet chính vì lý do nó tiết lộ cấu hình của Apache.
Câu hỏi kế tiếp là làm sao biên dịch các modules. Phương pháp tĩnh được
xem là lựa chọn tốt hơn hết. Nếu những yếu điểm của Apache vừa được
khám phá, có lẽ chúng ta sẽ không những tái biên dịch các modules bị lỗi mà
sẽ tái biên dịch trọn bộ software. Chọn phương pháp tĩnh, chúng ta triệt tiêu
nhu cầu của thêm một module nữa - mod_so.
Lời bàn và mở rộng:
Chọn lựa các modules cho Apache server thích hợp với từng nhu cầu là một
việc khó khăn và mất thời gian. Chọn lựa đúng module và bảo đảm tính bảo
mật lại càng khó khăn hơn. Ðể xác định module nào cần thiết và bảo đảm,
việc chọn lựa và theo dõi "bug track" cho từng module là một điều rất cần
thiết. Hiện nay có trên 200 modules lớn nhỏ, đủ loại chức năng cho Apache
server. Bạn nên tham khảo thông tin ở website này cho công tác lựa chọn:

/>Website trên có sẵn search engine giúp bạn trong việc khảo sát và lựa chọn
modules.
Biên dịch software
Trước tiên - nếu có bất cứ miếng vá (patch) nào cho bảo mật thì phải thực
hiện ngay. Sau đó, server được biên dịch và cài đặt như sau:
Code:
./configure prefix=/usr/local/apache disable-module=all server-
uid=apache server-gid=apache enable-module=access enable-
module=log_config enable-module=dir enable-module=mime enable-
module=auth
(lệnh trên trải dài trong 1 dòng, không tách rời ra thành nhiều dòng)
make
su
umask 022
make install
chown -R root:sys /usr/local/apache
Lời bàn và mở rộng:
Ðối với các bạn chưa làm quen hoặc chỉ mới bắt đầu làm quen đến *nix,
khái niệm biên dịch software có lẽ khá mới mẻ và lạ lẫm. Tuy nhiên, cảm
giác này chỉ ở bước đầu trong quá trình làm quen mà thôi. Hầu như các bước
trong phân đoạn "biên dịch software" cho các software khác nhau đều tương
tự như nhau.
Ðiều lý thú trong vấn đề "biên dịch software" trên phương diện bảo mật ở
đây, ngoài cơ hội có thể xem mã nguồn, tìm lỗi, tìm lổ hổng từ mã nguồn,
bạn còn có cơ hội thiết lập và biên dịch software mình cần theo ý muốn.
Trong đoạn lệnh ./configure ở trên minh hoạ cụ thể tính "tự do" ở chỗ bạn có
toàn quyền muốn thêm hoặc bớt module tùy thích. Tính linh động trong vấn
đề biên dịch software và tính đóng kín khi dùng một "installshield" trở nên
hiển nhiên khi đem ra so sánh. Khi bạn phải cài một software gồm các
binaries đã được biên dịch (theo khuôn khổ nào đó) sẵn, bạn không có nhiều

cơ hội quyết định hoặc chọn lựa theo ý muốn nữa. Ðây là một trong những
nguyên tắc khá quan trọng cho những ai quan tâm hoặc làm việc trực tiếp
đến vấn đề bảo mật.
Ðổi "root" của server
Bước kế tiếp giới hạn các process của Apache truy dụng vào các hệ thống hồ
sơ. Chúng ta có thể thực hiện vấn đề này bằng cách "chrooting" phần
daemon chính của server (httpd). Tổng thể mà nói, thủ thuật "chrooting" có
nghĩa là tạo một cấu trúc nguồn thư mục mới, dời chuyển các hồ sơ daemon
vào đó và chạy các daemon thích ứng trong môi trường mới này. Nhờ vào
đó, daemon (và cái process con) chỉ sẽ truy dụng đến cấu trúc thư mục mới.
Chúng ta bắt đầu chu trình này bằng cách tạo ra một thư mục mới bên trong
thư mục /chroot/httpd:
mkdir -p /chroot/httpd/dev
mkdir -p /chroot/httpd/etc
mkdir -p /chroot/httpd/var/run
mkdir -p /chroot/httpd/usr/lib
mkdir -p /chroot/httpd/usr/libexec
mkdir -p /chroot/httpd/usr/local/apache/bin
mkdir -p /chroot/httpd/usr/local/apache/logs
mkdir -p /chroot/httpd/usr/local/apache/conf
mkdir -p /chroot/httpd/www
Chủ nhân của các thư mục trên phải là root và quyền truy dụng nên chỉnh lý
ở mức 0755. Kế tiếp, chúng ta tạo hồ sơ thiết bị đặc biệt /dev/null:
ls -al /dev/null
(crw-rw-rw- 1 root wheel 2, 2 Mar 14 12:53 /dev/null)
mknod /chroot/httpd/dev/null c 2 2
chown root:sys /chroot/httpd/dev/null
chmod 666 /chroot/httpd/dev/null
Một phương pháp khác cần dùng để tạo thiết bị /chroot/httpd/dev/log, thiết
bị này cần thiết để server làm việc đúng mức. Trong trường hợp hệ thống

FreeBSD, cần thêm dòng sau đây vào /etc/rc.conf:
syslogd_flags="-l /chroot/httpd/dev/log"
Chúng ta phải tái khởi động hệ thống hoặc chính syslogd daemon để ứng tác
các thay đổi. Ðể tạo thiết bị /chroot/httpd/dev/log trên các hệ điều hành khác,
chúng ta phải xem các phần chỉ dẫn thích đáng (man syslogd).
Bước kế tiếp là bước sao chép chương trình httpd chính vào cấu trúc cây
mới tạo ở trên, bao gồm các hồ sơ nhị phân và các thư viện cần thiết. Ðể
thực hiện bước này, chúng ta phải chuẩn bị danh sách của các hồ sơ cần
thiết. Chúng ta có thể tạo nên danh sách ấy bằng cách sử dụng lệnh như sau
(tùy theo mỗi hệ điều hành mà các hồ sơ này hiện diện hay không):
Lệnh
Code:
ldd (All): Lists dynamic dependencies of executable files or shared libraries
ktrace/ktruss/kdump (*BSD): Enables kernel process tracing, Displays
kernel trace data
sotruss (Solaris): Traces shared library procedure calls
strace/ltrace (Linux): Traces system calls and signals
strings (All): Finds the printable strings in binary files
trace (AIX): Records selected system events
trace (freeware) (HP-UX <10.20): Print system call and kernal traces of
processes
truss (FreeBSD, Solaris, AIX 5L, SCO Unixware): Traces system calls and
signals
tusc (freeware) (HP-UX>11): Traces the system calls a process invokes in
HP-UX 11
Ví dụ dùng các lệnh ldd, strings và truss như sau:
localhost# ldd /usr/local/apache/bin/httpd
/usr/local/apache/bin/httpd:
libcrypt.so.2 => /usr/lib/libcrypt.so.2 (0x280bd000)
libc.so.4 => /usr/lib/libc.so.4 (0x280d6000)

localhost# strings /usr/local/apache/bin/httpd | grep lib
/usr/libexec/ld-elf.so.1
libcrypt.so.2
libc.so.4
localhost# truss /usr/local/apache/bin/httpd | grep open
( )
open("/var/run/ld-elf.so.hints",0,00) = 3 (0x3)
open("/usr/lib/libcrypt.so.2",0,027757775370) = 3 (0x3)
open("/usr/lib/libc.so.4",0,027757775370) = 3 (0x3)
open("/etc/spwd.db",0,00) = 3 (0x3)
open("/etc/group",0,0666) = 3 (0x3)
open("/usr/local/apache/conf/httpd.conf",0,0666) = 3 (0x3)
( )
Các lệnh trên nên được áp dụng không cho chương trình httpd mà còn cho
trọn bộ các thư viện và các nhị phân cần thiết (các thư viện thường đòi hỏi
các thư viện khác). Ðối với trường hợp hệ thống FreeBSD, các hồ sau cần
được sao chép vào cấu trúc thư mục mới:
cp /usr/local/apache/bin/httpd /chroot/httpd/usr/local/apache/bin/
cp /var/run/ld-elf.so.hints /chroot/httpd/var/run/
cp /usr/lib/libcrypt.so.2 /chroot/httpd/usr/lib/
cp /usr/lib/libc.so.4 /chroot/httpd/usr/lib/
cp /usr/libexec/ld-elf.so.1 /chroot/httpd/usr/libexec/
Bằng cách sử dụng lệnh truss, chúng ta cũng có thể khám phá được các hồ
sơ chỉnh dụng sau cần được hiện diện trong môi trường chrooted:
cp /etc/hosts /chroot/httpd/etc/
cp /etc/host.conf /chroot/httpd/etc/
cp /etc/resolv.conf /chroot/httpd/etc/
cp /etc/group /chroot/httpd/etc/
cp /etc/master.passwd /chroot/httpd/etc/passwords
cp /usr/local/apache/conf/mime.types

/chroot/httpd/usr/local/apache/conf/
Nên nhớ rằng từ hồ sơ /chroot/httpd/etc/passwords, chúng ta phải tháo bỏ hết
các dòng ngoại trừ "nobody" và "apache". Tương tự, chúng ta cũng phải
tháo bỏ hết các dòng ngoại trừ "nobody" và "apache" trong
/chroot/httpd/etc/group. Kế tiếp chúng ta phải dựng database cho mật mã
như sau:
cd /chroot/httpd/etc
pwd_mkdb -d /chroot/httpd/etc passwords
rm -rf /chroot/httpd/etc/master.passwd
Bước kế tiếp dùng để thử nghiệm httpd server xem nó chạy đúng mức trong
môi trường chroot mới. Ðể thao tác vấn đề này, chúng ta phải sao chép hồ sơ
chỉnh dụng mặc định của Apache và bản mẫu index.html:
cp /usr/local/apache/conf/httpd.conf /chroot/httpd/usr/local/apache/conf/
cp /usr/local/apache/htdocs/index.html.en
/chroot/httpd/www/index.html
Sau khi sao chép các hồ sơ đề cập trên, chúng ta phải thay đổi chỉ phối
DocumentRoot như được trình bày bên dưới (trong
/chroot/httpd/usr/local/apache/conf/httpd.conf):
DocumentRoot "/www"
Tiếp theo chúng ta có thể thử chạy server:
chroot /chroot/httpd /usr/local/apache/bin/httpd
Nếu có trở ngại gì, tôi đề nghị phương thức phân tích log của Apache một
cách sâu sát (/chroot/httpd/usr/local/apache/logs). Một cách khác là dùng
lệnh sau:
truss chroot /chroot/httpd /usr/local/apache/bin/httpd
Chương trình truss chắc chắn sẽ chỉ ra nguyên nhân của các trở ngại. Sau khi
triệt tiêu những lỗi còn lại, chúng ta có thể thiết lập Apache server.
Lời bàn và mở rộng:
Trên tinh thần bảo mật, đoạn trên là một trong những đoạn có thể cho là
quan trọng nhất trong quá trình thiết lập một Apache web server. Câu hỏi

được đặt ra: "tại sao chroot lại quan trọng đến thế?"
Ðối với những ai đã quen thuộc với cấu trúc filesystem trên một *nix nào
đó, thì trả lời cho câu hỏi này khá dễ dàng. Tuy nhiên, đối với những ai chưa
nắm rõ cấu trúc này thì hơi khó hơn một tí. Từ câu nói ở trên "Tổng thể mà
nói, thủ thuật "chrooting" có nghĩa là tạo một cấu trúc nguồn thư mục mới,
dời chuyển các hồ sơ daemon vào đó và chạy các daemon thích ứng trong
môi trường mới này. Nhờ vào đó, daemon (và cái process con) chỉ sẽ truy
dụng đến cấu trúc thư mục mới." có thể diễn giải như sau:
- cấu trúc filesystem của *nix nói chung (có những điểm tương đồng và dị
biệt, nhưng ở đây chỉ đề cập đến những điểm khái quát mà thôi), root của
filesystem là điểm khởi đầu của một cấu trúc "cây" (tree hierachy):
Code:
/
| bin
| boot
| dev
| etc
| lib
| mnt
| opt
| sbin
| tmp
| usr
| var
|
trong đó / (root của filesystem) chứa các thư mục khác và trong các thư mục
này chứa các loại software, công cụ, thông tin, cấu hình cho cả một *nix
system.
- nếu một user có quyền truy cập đến / (root của filesystem) thì user ấy có cơ
hội truy dụng các thông tin và công cụ trong những thư mục thuộc /. Ðể

giảm thiểu và quản lý quyền truy cập của một user như Apache ở trên là điều
rất khó kiện toàn cho nên "chroot" là phương tiện để ép người dùng chỉ được
quyền truy cập và hoạt động trong một vùng nhất định nào đó, loại bỏ các
trường hợp thiếu sót trong cơ chế quản lý quyền truy dụng.
- sau khi áp đặt "chroot" cho user Apache, thay vì "hắn" có thể thấy và truy
cập vào các thư mục thuộc loại "cấm kị", "hắn" chỉ có thể làm việc trong
khuôn khổ:
Code:
/apache-root
| httpd
| dev
| etc
| var
| | run
| usr
| | lib
| | libexec
| | local
| | | apache
| | | | bin
| | | | logs
| | | | conf
| www
như quá trình xác định trong phần bài viết trên. User Apache không có cơ
hội truy cập vào các thư mục quan trọng như /etc, /bin, /sbin sau khi đã
được "chroot". User Apache chỉ có thể xử dụng những thông tin nào cần
thiết và vừa đủ để web server này hoạt động mà thôi. Thủ thuật "chroot" đôi
khi còn được gọi là "jail" (cầm tù) theo đúng tinh thần chroot.
Designed by FSOSR. Email :

×