Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa đường biển tại Bảo Minh Hà Nội - 4 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.5 KB, 17 trang )

trong nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường
biển nói riêng, nếu hiệu quả của công tác giải quyết khiếu nại bồi thường
nâng lên thì góp phần giảm khoản chi, từ đó tăng lợi nhuận và cũng là hiệu
quả kinh doanh.
Theo số liệu thống kê của Bộ Tài chính về tình hình tổn thất lớn hàng hoá từ
1995 đến 1999, trong 27 vụ tổn thất, Bảo Minh có 12 vụ chiếm 44,4%, tổng
số tiền bồi thường là 18.974.228 USD, trong đó Bảo Minh đã bồi thường
8.165.183 USD, bằng 43% tổng số tiền bồi thường, cao hơn rất nhiều so với
Bảo Việt là 7.092.955 USD, PIJICO là 587.072 USD, Bảo Long là
1.973.867 USD và PVIC là 355.140 USD.
Để hiểu rõ hơn kết quả chi bồi thường tổn thất trong bảo hiểm hàng hoá xuất
nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở Bảo Minh Hà Nội, ta hãy nghiên
cứu tình hình thực hiện công tác này qua bảng sau:
Bảng 4: Tỷ lệ bồi thường của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
vận chuyển bằng đường biển
Năm Tổng thu phí (triệu đồng) Chi bồi thường (triệu đồng)Tỷ lệ bồi
thường (%)
1999 8.041,08 4.582,50 56,98
2000 9.650,16 4.811,63 49,86
2001 11.773,2 5.196,56 44,13
2002 13.812,3 5.875,75 42,54
2003 15.011,2 6.262,67 41,72
2004 17.021,2 6.583,72 38,67
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
(Nguồn: Số liệu thống kê của Bảo Minh Hà Nội)
Qua số liệu trên cho thấy tỉ lệ bồi thường có xu hướng giảm qua các năm:
56,98% năm 1999 xuống còn 38,67% năm 2004, nhưng số tiền thực chi bồi
thường lại tăng lên qua các năm. Tốc độ tăng bồi thường nhỏ hơn tốc độ tăng
của doanh thu phí bảo hiểm và kim ngạch bảo hiểm. Điều này không hàm ý
rằng việc bồi thường của Công ty Bảo Minh Hà Nội là dây dưa nợ đọng, ở
đây nó nói lên chất lượng của công tác đề phòng hạn chế tổn thất ngày càng


tốt, đồng thời các công đoạn từ khai thác, giám định bồi thường được nâng
cao, nó đảm bảo hợp lý quyền lợi của người được bảo hiểm, nâng cao uy tín
cho Công ty cũng như Tổng Công ty và số lượng khách hàng đến với Tổng
Công ty ngày càng nhiều.
Nếu chỉ nhìn vào cột chi bồi thường thì thấy chi bồi thường tổn thất của
Tổng Công ty tăng lên nhưng khi xem phần kim ngạch bảo hiểm thì thấy
ngay việc tăng tổn thất của Công ty là do sự tăng lên của kim ngạch bảo
hiểm. Từ đây cho thấy hiệu quả của công tác giám định bồi thường được
nâng cao lên đảm bảo quyền hợp lý của khách hàng, nâng cao uy tín của
Công ty cũng như của Tổng Công ty.
3. Kết quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận
chuyển bằng đường biển ở Công ty Bảo Minh Hà Nội.
Sau gần 6 năm hoạt động trên địa bàn Hà Nội từ tháng 6/1995, nghiệp vụ
bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở Bảo Minh
Hà Nội đã thu được nhiều kết quả. Nếu như 6 tháng cuối năm 1995 doanh
thu của doanh nghiệp chỉ là 2004 triệu đồng, sang năm 1996 doanh thu đạt
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
6204,29 triệu, năm 1997 con số là 6415 triệu, năm 1998 là 8041,88 triệu và
năm 2000 là 1173,20 triệu. Điều này chứng tỏ số lượng hàng hoá xuất nhập
khẩu được bảo hiểm tại Công ty ngày càng tăng. Doanh thu từ nghiệp vụ
mang lại chiếm 16-17% doanh thu từ tất cả các nghiệp vụ
Trước hết ta thấy khoản chi chủ yếu mà công ty chi cho doanh nghiệp vụ này
là khoản chi bồi thường, tỷ lệ chi bồi thường của một số năm như sau: năm
1998 là 75,85%, năm 1999 là 65,92% và năm 2000 là 61,79%. Nhìn vào con
số này ta thấy tỉ lệ chi bồi thường giảm rõ rệt, có thể nguyên nhân là do tỷ lệ
chi cho các khoản khác tăng lên trong tổng chi. Cụ thể các khoản chi này
được thể hiện trong bảng sau:
Bảng 6: Cơ cấu các khoản chi của Công ty Bảo Minh Hà Nội
Cơ cấu các khoản 1998 1999 2000 2001 2002 2003
1. Chi bồi thường 75,85 65,92 61,79 65,50 53,11 40,72

2. Chi hoa hồng 1,70 1,5 1,9 0,74 1,02 1,3
3. Chi quản lý + thuế + khác 17,32 26,19 28,43 27,32 42,07 56,82
4. Chi giám định 3,99 5,18 6,35 5,88 3,45 2,43
5. Chi đề phòng hạn chế tổn thất 1,14 1,21 1,52 0,56 0,35 0,21
(Nguồn: Số liệu tổng kết của Bảo Minh Hà Nội)
Trước kia là về các khoản chi hoa hồng cho đại lý và cộng tác viên cũng tăng
lên: năm 1998, tỷ lệ chi hoa hồng là 1,70%, cho đến năm 2000 thì tỷ lệ này
là 1,9% như vậy tỷ lệ hoa hồng cũng có ảnh hưởng đến sự giảm tỷ lệ chi bồi
thường. Việc chi hoa hồng bảo hiểm cho các đại lý cộng tác viên, Công ty
Bảo Minh Hà Nội đã áp dụng đúng quy định của Bộ Tài chính ban hành kèm
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
theo Thông tư số 76/TC/TCNH ngày 25/10/1996 mức tối đa là 2% cho
nghiệp vụ này. Thời gian qua để khuyến khích các đại lý và cộng tác viên
công ty đã áp dụng mức cao nhất là 2%. Với tỷ lệ này có thể tính được doanh
thu mà đại lý mang lại.
Doanh thu đại lý 1998 = 5148 triệu đồng
Doanh thu đại lý 1999 = 5045,5 triệu đồng
Doanh thu đại lý 2000 = 7989 triệu đồng
Doanh thu đại lý 2001 = 2768,5 triệu đồng
Doanh thu đại lý 2002 = 3012 triệu đồng
Doanh thu đại lý 2003 = 3109 triệu đồng
Doanh thu đại lý 2004 = 3206 triệu đồng
Nếu so sánh doanh thu đại lý mang lại với tổng doanh thu thì năm 1998 là
64,01% năm 1999 là 56,01%, năm 2000 tăng vọt lên 67,86%. Điều này
chứng tỏ hệ thống đại lý và cộng tác viên của Công ty hoạt động tốt lên.
Nhưng trong ba năm 2002, 2003 và 2004 doanh thu do đại lý mang lại có sự
giảm sút lớn như vậy là vì tỷ lệ tái tục hợp đồng đối với khách hàng cũ là rất
cao, như vậy không hẳn là sự hoạt động của các đại lý kém đi.
Khoản chi thứ hai cũng chiếm tỷ trọng cao trong tổng phí là chi quản lý.
Khoản chi này chiếm tỷ trọng lần lượt qua các năm là 10,64%; 10,57%;

14,3%; 16,3%; 16,19%; 31,48% và 38,07%. Đây là những khoản chi như trả
lương cho công nhân viên, chi phí ký kết hợp đồng, chi phí theo dõi quản lý
hợp đồng, thu phí. Việc tăng này có thể do sự tăng lên về kim ngạch bảo
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
hiểm kéo theo tăng lên về chi phí quản lý. Tỷ lệ tăng lên của chi quản lý
cũng góp phần làm giảm tỷ lệ chi bồi thường trong tổng chi.
Từ việc áp dụng các biện pháp kinh doanh có hiệu quả cùng đội ngũ cán bộ
phòng hàng hải trẻ, khoẻ, nhiệt tình, có chuyên môn cao, doanh thu phí của
Tổng Công ty trong nghiệp vụ này đã có sự tăng trưởng vượt bậc. Năm 1999
tăng 20% so với năm 1998, năm 2001 tăng 17,22% so với năm 2000, năm
2002 tiếp tục tăng 8,77% so với năm 2001, năm 2003 tăng 8,51% so với năm
2002, năm 2004 tăng 8,63%. Đây là một sự cố gắng nỗ lực của toàn bộ các
cán bộ của Tổng Công ty vì ngày càng có sự cạnh tranh trên thị trường bảo
hiểm càng lớn. Cùng với sự tăng lên của doanh thu phí, tốc độ tăng lợi nhuận
của chi nhánh cũng có cao. Sự tăng trưởng này có sự đột biến từ năm 2000
khi lợi nhuận của Công ty năm 2000 tăng 933,06 triệu đồng so với năm
1999, năm 2002 tăng 2999,79 triệu đồng so với năm 2001 về số tuyệt đối
hay tăng 89,19%, năm 2003 tăng 2768,28 triệu đồng so với năm 2002 hay
tăng 45,5% và năm 2004 tưng 2856,05 triệu đồng so với năm 2003 hay tăng
57,13%.
Nhìn tổng quát ta thấy cả chi phí và doanh thu của Công ty đều tăng nhưng
để đánh giá được hiệu quả của hoạt động kinh doanh thì ta căn cứ vào chỉ
tiêu doanh thu trên chi phí và lợi nhuận trên chi phí. Qua các năm 1998,
1999, 2000 cứ một đồng chi phí bỏ ra thì lợi nhuận của Tổng Công ty thu
được lần lượt là 0,33 đồng, 0,45 đồng và 0,51 đồng. Nhưng đến năm 2001 và
2002 thì Tổng Công ty đạt kết quả rất cao ở chỉ tiêu này. Năm 2001 cứ một
đồng chi phí bỏ ra Tổng Công ty thu được 1,86 đồng doanh thu hay 0,86
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
đồng lợi nhuận. Năm 2002, cứ một đồng chi phí bỏ ra Tổng Công ty thu
được 2,62 đồng doanh thu hay 1,62 đồng lợi nhuận. Năm 2003 cứ một đồng

chi phí thu được 2,82 đồng doanh thu và 1,081 đồng lợi nhuận. Năm 2004 cứ
một đồng chi phí thu được 2,92% đồng doanh thu và 1,091 đồng lợi nhuận.
Để đạt được kết quả khả quan như trên thì Tổng Công ty cũng như Công ty
đã tạo ra sự đoàn kết nhất trí và có một quyết tâm cao từ Ban giám đốc đến
tất cả các đội ngũ cán bộ nhân viên trong Tổng Công ty. Tổng Công ty đã
mạnh dạn giao nhiệm vụ, mở rộng quyền hạn và tin tưởng ở đội ngũ cán bộ
của mình để tạo tâm lý tốt nhất giúp họ làm việc có năng suất và hiệu quả
cao.
Một điều kiện quan trọng hơn nữa để đạt được hiệu quả tăng trưởng cao như
hiện nay là dựa vào chất lượng và thái độ phục vụ khách hàng chu đáo nhiệt
tình của Công ty, từ đó tạo được lòng tin của khách hàng đối với công ty và
Tổng công ty. Việc giải quyết khiếu nại đòi bồi thường tổn thất cho khách
hàng cũng ngày một đơn giản và nhanh chóng. Những cố gắng này không
chỉ thúc đẩy việc tái tục hợp đồng với các khách hàng cũ mà còn thu hút các
khách hàng mới đến với Tổng Công ty. Điều này làm giảm các khoản chi và
làm tăng lợi nhuận cho Tổng công ty, tạo những bước phát triển nhanh và
vững chắc, dần dần khẳng định vị thế của Công ty trên thị trường bảo hiểm
trong nước cũng như trên thế giới.
Chương III
Kiến nghị và giải pháp nhằm phát triển nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất
nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại công ty Bảo Minh Hà Nội.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
1. Những thuận lợi và khó khăn của Bảo Minh Hà Nội.
1.1. Những thuận lợi:
Do Đảng và Nhà nước ta đã mở cửa nền kinh tế, hội nhập vào nền kinh tế thế
giới nên kim ngạch xuất nhập khẩu tăng nhanh tạo cơ hội cho các doanh
nghiệp bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển.
Biểu 2: Tình hình xuất nhập khẩu toàn thị trường 2000-2004
(Nguồn: Số liệu tổng kết của Bảo Minh Hà Nội )
Từ năm 2000 đến năm 2001, kim ngạch nhập khẩu đã đạt 11,6 tỷ USD. Năm

2002 kim ngạch nhập khẩu tăng 31% so với năm 2001, năm 2002 và năm
2004 tăng 20,6 % so với năm 2003. Hàng nhập khẩu chủ yếu tăng ở các mặt
hàng máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu phục vụ sản xuất trong nước và xuất
khẩu. So với nhập khẩu, xuất khẩu tăng nhanh và dần dần đuổi kịp nhập
khẩu. Năm 2000 kim ngạch xuất khẩu thấp: 9,3 tỷ USD. Năm 2002 xuất
khẩu tăng mạnh kim ngạch đạt 14,3 tỷ USD, tăng 24% so với năm 2001.
Năm 2003 tăng 5,5 % so với 2002 và năm 2004 tăng 9,47% so với năm
2003. Kim ngạch xuất khẩu tăng chủ yếu nhờ giá trị hàng gạo xuất khẩu,
hàng dệt may, thuỷ sản, giầy dép.
Tình hình xuất nhập khẩu khả quan đã đem lại cơ hội phát triển cho các
doanh nghiệp ban hành trong đó có Bảo Minh. Kim ngạch bảo hiểm của
Tổng công ty đã không ngừng tăng lên trong giai đoạn 2000-2004. Tốc độ
tăng kim ngạch bảo hiểm năm 2001 so với năm 2000 là 10%. Năm 2002 đạt
6564 tỷ VNĐ, tốc độ tăng so với năm 2001 là 21%. Năm 2003 đạt 8401,92
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
tỷ VNĐ, tăng 28% so với năm 2002 và năm 2004 đạt 10922,496 tỷ VNĐ
tăng 30% so với năm 2003.
Biểu 3: Kim ngạch bảo hiểm của Bảo Minh
(Nguồn: Số liệu tổng kết của Bảo Minh Hà Nội).
Tiếp theo Nghị định 100/Chính phủ ngày 18/12/1993, luật kinh doanh bảo
hiểm đã được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 09/12/2000 và đặc biệt là
quyết định chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần qua Nghị
định số 64/2002/NĐ-Chính phủ ngày 19/6/2002 của Chính phủ. Đây là bước
tiến quan trọng về luật pháp đối với kinh doanh bảo hiểm giúp các doanh
nghiệp bảo hiểm nói chung và Bảo Minh nói riêng yên tâm khi kinh doanh.
- Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam đã được thành lập và đi vào hoạt động nhằm
bảo vệ quyền lợi và phát triển hợp tác của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt
Nam, trong đó có Bảo Minh.
- Hiệp định thương mại Việt – Mỹ đã được thông qua, điều này có nghĩa là
hàng hoá của chúng ta thâm nhập vào thị trường Mỹ sẽ được hưởng mức

thuế quan ưu đãi (khoảng 5-10% mức thuế quan trước đây) nhưng ngược lại
Chính phủ Việt Nam cũng phải mở cửa và mở rộng các loại hình đầu tư của
Mỹ vào Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính, bảo hiểm, ngân hàng.
Điều đó có nghĩa là các doanh nghiệp nói chung, các doanh nghiệp bảo hiểm
nói riêng sẽ chấp nhận một cuộc chơi có thể nói là không cân sức với các tập
đoàn tài chính khổng lồ của Mỹ. Một điểm cần chú ý nữa là chúng ta đã
tham gia vào chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) trong
khuôn khổ tự do AFTA. Một trong những điều khoản cơ bản của CEPT mà
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
các nước thành viên cam kết là sẽ cùng nhau giảm thuế quan đánh vào hàng
hoá nhập khẩu được sản xuất ở bất kỳ một quốc gia thành viên nào trong
trong khối xuống còn 0-5%. Đồng thời loại bỏ những hạn chế định lượng
cũng như hàng rào phi thuế quan khác. Tất cả những điều trên cho thấy một
tương lai rằng trong thời gian tới, khối lượng hàng hoá xuất nhập khẩu của
Việt Nam sẽ tăng lên mạnh mẽ. Đây chính là cơ hội cho các công ty bảo
hiểm Việt Nam phát triển nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu của
mình. Mỗi doanh nghiệp bảo hiểm đều phải có chiến lược phát triển riêng
cho mình dựa trên cơ sở phát huy những lợi thế cạnh tranh hạn chế nhược
điểm của mình. Làm tốt điều này sẽ giúp cho các công ty nâng cao được hiệu
quả kinh doanh, có đủ thế và lực đứng vững trong thị trường cạnh tranh ngày
càng gay gắt bao gồm cả các công ty trong nước và các công ty nước ngoài.
1.2. Những khó khăn.
Trong thời gian qua, mặc dù tình hình xuất nhập khẩu và bảo hiểm hàng hoá
xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển của Việt Nam rất khả quan
nhưng các công ty bảo hiểm Việt Nam chỉ bảo hiểm đượckhoảng 49% đến
45% kim ngạch nhập khẩu, và chỉ khoảng từ 3,83% đến 7% kim ngạch xuất
khẩu.
Bảng 7: Tỷ lệ hàng hoá được bảo hiểm trong kim ngạch xuất nhập khẩu của
Việt Nam (2000-2004).
Năm 2000 2001 2002 2003 2004

Tỷ lệ bảo hiểm hàng xuất khẩu (%) 3.83 4.34 5.19 6.2 7.1
Tỷ lệ bảo hiểm hàng nhập khẩu (%) 19.12 18.96 35.98 40.12 45.21
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
(Nguồn: Số liệu tổng kết của Bảo Minh Hà Nội).
Thị phần bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam thấp là do khách
hàng của doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam không thích mua bảo hiểm
tại Việt Nam, đặc biệt là các khách hàng chủ yếu là Nhật, châu Âu hoặc các
nước Đông Nam á khác. Người Nhật chỉ thích làm việc với người Nhật, chỉ
mua bảo hiểm tại các công ty bảo hiểm của Nhật. Còn khách hàng Tây Âu
thường mua bảo hiểm tại các công ty được xếp hạng tốt trên thế giới. ở các
nước Châu á khác, ví dụ Malaysia, Nhà nước có chính sách ưu đ•i để các
công ty mua bảo hiểm trong nước họ. Vì vậy, nâng cao thị phần bảo hiểm,
giảm kim ngạch bảo hiểm rơi vào tay các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài
là thách thức lớn đối với bảo hiểm Việt Nam nói chung và Bảo Minh nói
riêng.
Bên cạnh việc đưa ra những quy định cụ thể về kinh doanh bảo hiểm, Luật
Kinh doanh bảo hiểm cũng cho phép các thành phần kinh tế khác nhau kể cả
kinh tế tư nhân nước ngoài tham gia vào hoạt động kinh doanh bảo hiểm tại
Việt Nam. Do vậy, sự ra đời của Luật Kinh doanh bảo hiểm đồng nghĩa với
sự ra đời của nhiều đối thủ cạnh tranh gay gắt hơn.
Trong thời gian qua, Bảo Minh đã gặp phải sự cạnh tranh gay gắt của các
doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam và nước ngoài có kinh doanh trong lĩnh
vực phi nhân thọ như:
- Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt) thành lập ngày 17/12/1964,
vốn điều lệ khi thành lập năm 1996 là 692 tỷ đồng.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
- Công ty Cổ phần bảo hiểm Nhà Rồng (Bảo Long) thành lập ngày
11/7/1995, vốn điều lệ 22 tỷ đồng.
- Công ty Cổ phần bảo hiểm Petrolomex (PJCO) thành lập ngày 21/6/1996,
vốn điều lệ 55 tỷ đồng.

- Công ty bảo hiểm dầu khí (PVIC) thành lập ngày 23/01/1996, vốn điều lệ 2
triệu USD.
- Công ty liên doanh bảo hiểm Quốc tế Việt Nam (VIA) thành lập ngày
05/08/1996, vốn điều lệ 6 triệu USD, liên doanh giữa Bảo Việt và doanh
nghiệp bảo hiểm lớn nhất của Nhật Bản là Tokio Marine và Fine Marine
Insurance Co.Ltd và doanh nghiệp bảo hiểm lớn của Anh là Commercial
Union.
- Công ty bảo hiểm Liên hiệp (UIC) thành lập ngày 1/11/1997 vốn điều lệ đã
góp 4 triệu USD, liên doanh giữa Bảo Minh và Yasuda Fine anh Marine
Insurance Co.Ltd và Mitsui Marine and Fine Insurance Co.Ltd.
- Công ty liên doanh TNHH Bảo hiểm Việt – úc (BIDV-QBt) thành lập năm
1999, vốn điều lệ đã góp 8 triệu USD.
- Công ty bảo hiểm Allianze – AGP, 100% vốn nước ngoài của Cộng hoà
Liên bang Đức, vốn điều lệ 5 triệu USD.
Ngoài những doanh nghiệp kể trên, hiện nay đã có tới hơn 40 doanh nghiệp
bảo hiểm và môi giới bảo hiểm của Anh, Pháp, Đức, Nhật, Mỹ, Thuỵ Sĩ, úc,
… đặt văn phòng đại diện tại nước ta, tìm kiếm và lôi kéo khách hàng xuất
nhập khẩu Việt Nam.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Vì vậy, trong những năm qua, sự cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp
bảo hiểm khác đã làm thị phần của Bảo Minh có nhiều thăng trầm, đe doạ vị
trí thứ hai của Tổng công ty trên thị trường.
(Nguồn: Số liệu tổng kết của Bảo Minh Hà Nội)
Năm 2000, thị phần của Bảo Minh là thấp nhất 22,28%. Cố gắng nâng cao
thị phần, Bảo Minh đã giảm phí liên tục và nới lỏng các quy định đối với
khách hàng trong khai thác, nhờ đó thị phần năm 2001 tăng lên 24,37%. Tuy
nhiên doanh thu phí bị ảnh hưởng, không những thế, tỉ lệ tổn thất cao làm chi
bồi thường lớn, lợi nhuận thu vì thế thấp. Vì vậy, năm 2002 với việc thực
hiện thị phần của Bảo Minh tăng là 24,6%. Năm 2003, thị phần của Bảo
Minh vẫn tiếp tục tăng 25,9%. Năm 2004, thị phần của Bảo Minh tăng rất

mạnh 28,1% do Bảo Minh đã nâng cao chất lượng sản phẩm của mình, đã
quảng cáo mạnh mẽ trên các thông tin đại chúng.
2. Mục tiêu của Bảo Minh Hà Nội.
Trước những thuận lợi và khó khăn đó, Bảo Minh Hà Nội đã đề ra mục tiêu:
- Giữ vững vị trí thứ hai trên thị trường Bảo Hiểm Việt Nam và không ngừng
mở rộng thị phần.
- Khắc phục những mặt tồn tại của Công ty đồng thời củng cố, hoàn thiện bộ
máy tổ chức, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng.
- Mở rộng quan hệ hợp tác đối ngoại, tăng cường quan hệ hợp tác với các
công ty bảo hiểm nước ngoài.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Để đạt được mục tiêu đó, Bảo Minh Hà Nội phải giành được khách hàng
quen mua bảo hiểm tại các doanh nghiệp nước ngoài và cạnh tranh thành
công với các doanh nghiệp khác của Hà Nội.
3. Kiến nghị:
Việc luật kinh doanh bảo hiểm được Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 8 thông
qua ngày 09/12/2000 là một thành công của các nhà luật pháp. Tiếp theo đó
là nghị định của Chính phủ, thông tư của Bộ Tài chính thể hiện sự quan tâm
của Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm, tạo điều kiện và cơ sở
pháp lý đầy đủ cho các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động cũng như tạo sự
bình đẳng, đảm bảo lợi ích chính đáng và hợp pháp giữa những người bảo
hiểm và người tham gia bảo hiểm. Tuy nhiên, các văn bản pháp quy này phải
đưa vào thực hiện một cách hoàn chỉnh.
3.1. Đối với Nhà nước:
Cùng với việc mở cửa của thị trường bảo hiểm, sự cạnh tranh trên thị trường
bảo hiểm Việt Nam tuy không dài nhưng mức độ và tính chất đã diễn ra rất
gay gắt thậm chí nhiều lúc đã mang tính tiêu cực. Vì thế sự can thiệp của
Nhà nước nhằm định hướng cho ngành bảo hiểm nước ta liên tục phát triển
một cách bền vững và lành mạnh để có thể đủ sức cạnh tranh với các công ty
bảo hiểm 100% vốn nước ngoài trong giai đoạn hiện nay là rất cần thiết.

Trước lúc nhận bảo hiểm phục vụ giám định hiện trường kịp thời, giảm thiểu
nguy cơ, cơ hội tồn tại vấn đề trục lợi.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Khi có sự tổn thất cần làm tốt các khâu: giám định hiện trường, giám định
chính thức, bổ sung; giám định sửa chữa một cách chi tiết, cụ thể mẫn cán,
trung thực.
- Để tránh tình trạng hạ phí làm ảnh hưởng đến tốc độ phát triển của thị
trường, Nhà nước (cụ thể là Bộ Tài chính) cần đưa ra mức phí sàn đối với
từng mặt hàng.
Tăng cường các biện pháp quản lý chặt chẽ các hoạt động kinh doanh của
các doanh nghiệp bảo hiểm, tái bảo hiểm và môi giới bảo hiểm đang hoạt
động trên thị trường Việt Nam, đồng thời khuyến khích các công ty tái bảo
hiểm ở trong nước trước khi tái ra nước ngoài. Một thực tế hiện nay là tỷ lệ
tái bảo hiểm cho các công ty nước ngoài rất cao, phần tái bảo hiểm cho
VINARARE hầu như chỉ vừa đủ theo quy định của Nhà nước. Thực trạng
này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó phải kể đến:
- Khi tái bảo hiểm Nhà nước ra nước ngoài, do tiềm lực tài chính của các
công ty tái bảo hiểm nước ngoài rất mạnh nên các công ty bảo hiểm của Việt
Nam tỏ ra yên tâm hơn, đồng thời khi tái bảo hiểm ra nước ngoài thì lợi
nhuận công ty nhận được thông thường lớn hơn so với khi tái bảo hiểm trong
nước.
- Khi tái bảo hiểm ra nước ngoài, các công ty bảo hiểm còn có thể tranh thủ
được công nghệ, kỹ thuật cao của các công ty đó. Đặc biệt những trường hợp
xảy tổn thất có tính chất phức tạp hoặc tranh chấp liên quan đến phạm vi
quốc tế thì việc giải quyết thông qua các công ty tái bảo hiểm đó thường hiệu
quả hơn.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Vì những lý do trên nên hiện nay tỷ lệ tái bảo hiểm ra nước ngoài trong
nghiệp vụ hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở nước ta
là rất cao, giải quyết vấn đề này cần có sự định hướng phát triển đúng đắn

cũng như những chính sách nhất quán từ phía Nhà nước.
Cải tiến cơ chế quản lý tài chính đối với các doanh nghiệp bảo hiểm Nhà
nước để giúp các doanh nghiệp này tự chủ trong hoạt động kinh doanh.
Mặt khác, trong ngành bảo hiểm việc tố tụng hay xảy ra giữa người được bảo
hiểm và người bảo hiểm, kiểm tra tính chính xác của việc giải quyết khiếu
nại, ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp bảo hiểm. Ngoài ra kiện tụng
còn xảy ra giữa người bảo hiểm với bên thứ ba, thường là chủ tàu. Vì vậy,
tính chính xác của các bản án rất quan trọng đối với các doanh nghiệp bảo
hiểm.
So với các luật khác, luật bảo hiểm vẫn còn chưa hoàn chỉnh. Mặc dù luật
kinh doanh bảo hiểm ra đời là bước ngoặt quan trọng trong ngành bảo hiểm
Việt Nam nhưng nó chỉ là điều chỉnh về mặt kinh doanh thành lập và kiểm
tra của Nhà nước. Việc giải quyết các tố tụng trong bảo hiểm vẫn chưa được
xét đến.
- Pháp luật cần xác định rõ Toà án nào có thẩm quyền xét xử các vụ kiện
trong bảo hiểm.
Việc bắt giữ tàu nước ngoài gây thiệt hại cho doanh nghiệp bảo hiểm quá
khó khăn, làm cho doanh nghiệp bảo hiểm không đòi lại được số tiền đã bồi
thường.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Do đó, Nhà nước cần xem xét bổ sung luật tố tụng trong bảo hiểm và có các
chương trình đào tạo kiến thức về bảo hiểm cho quan toà.
3.2. Đối với Bảo Minh.
a. Về mặt nghiệp vụ:
(*) Công tác khai thác và dịch vụ chăm sóc khách hàng:
Trước sức ép cạnh tranh từ phía các công ty bảo hiểm khác, thị phần của
toàn Tổng công ty Bảo Minh sẽ bị san sẻ, nên Tổng công ty cần phải tìm
kiếm thêm khách hàng cho mình. Sự an toàn trong hoạt động bảo hiểm phụ
thuộc vào số phí thu được, mà số phí thu được lại phụ thuộc vào khả năng
khai thác của các đại lý và các chính sách khách hàng. Chính sách khách

hàng tại Tổng công ty Bảo Minh nói chung và Công ty Bảo Minh Hà Nội nói
riêng được thực hiện như sau:
- Hàng năm, hàng quý công ty có thể tổ chức hội nghị khách hàng. Đây là
dịp tốt để công ty tạo nên ấn tượng của mình với khách hàng. Ngoài ra còn
giúp góp phần hạn chế rủi ro trong kinh doanh.
- Phân loại khách hàng thường xuyên để có những chính sách thích hợp,
khuyến khích, ưu đãi khách hàng về phía có ưu tiên đối với những khách
hàng lớn và khách hàng truyền thống của công ty.
- Tuyên truyền phổ biến chính sách khách hàng đến tất cả các nhân viên
trong công ty, có quy trình về trách nhiệm, có sơ kết, có đề xuất với lãnh
đạo, để đưa công tác khách hàng không ngừng phát triển về chất lượng phục
vụ.
* Củng cố và phát triển đại lý, cộng tác viên.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Hệ thống đại lý, cộng tác viên của Tổng công ty có đảm bảo thì Tổng công
ty mới hoàn thành tốt được kế hoạch đề ra. Tổng công ty và Công ty Bảo
Minh Hà Nội nhận thấy tầm quan trọng của hệ thống đại lý, cộng tác viên
trong việc kinh doanh bảo hiểm nên đã không ngừng phát triển và mở rộng
hệ thống đại lý, đồng thời nâng cao trình độ của các đại lý. Tổng công ty,
Công ty Bảo Minh Hà Nội đã tổ chức các lớp bồi dưỡng, đào tạo các đại lý.
Song cần tập trung vào việc xây dựng quy trình phát triển hệ thống đại lý
mới. Các đơn vị trong toàn Tổng công ty cần phải thấy được tầm quan trọng
của đại lý và thực sự quan tâm đến hoạt động của đại lý, cộng tác viên. Thực
hiện tốt các quy định về quản lý tài chính đối với đại lý, cộng tác viên: ấn
chỉ, hoá đơn, thu nộp phí…
* Chương trình tái bảo hiểm:
Tái bảo hiểm cũng là một công việc quan trọng trong các nghiệp vụ bảo
hiểm, nếu các công ty bảo hiểm tính toán đúng các phương thức và tỷ lệ tái
không những sẽ giúp cho Tổng công ty tránh được phá sản khi có tổn thất
quá lớn xảy ra mà còn giúp cho Tổng công ty tăng lợi nhuận. Đối với Bảo

Minh và Công ty Bảo Minh Hà Nội các chương trình tái cũng đã được Tổng
công ty quan tâm đáng kể nhưng cũng cần phải chú ý đến một số vấn đề sau:
- Tập trung hướng dẫn giúp đỡ lãnh đạo, cán bộ nghiệp vụ kế toán, thống kê
của các địa phương nắm vững nội dung các chương trình tái, tỷ lệ nhượng
tái, thu hoa hồng nhượng tái…
- Thông báo kịp thời tình hình tái cho các đơn vị để làm cơ sở tính toán hiệu
quả.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

×