Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa đường biển tại Bảo Minh Hà Nội - 2 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.25 KB, 17 trang )

Các nội dung khác: giống như điều kiện bảo hiểm B và C.
3.4. Hợp đồng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường
biển.
a. Khái niệm và tính chất của hợp đồng bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm là một văn bản trong đó người bảo hiểm cam kết bồi
thường cho người được bảo hiểm những mất mát, thiệt hại của đối tượng bảo
hiểm do một rủi ro được bảo hiểm gây nên còn người được bảo hiểm cam
kết trả phí bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm là giấy tờ có giá trị pháp lý cao, nó quy định quyền lợi
và nghĩa vụ của các bên và là cơ sở quan trọng để giải quyết tranh chấp,
khiếu nại sau này.
Hợp đồng bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường biển mang tính chất là
một hợp đồng bồi thường (contract of indemnity) và là một hợp đồng tín
nhiệm (contract of good faith). Thể hiện như sau:
- Khi tổn thất xảy ra do các rủi ro được bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm
sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm nhằm khôi phục lại vị thế tài chính
của họ. Đây là tính chất bồi thường của hợp đồng bảo hiểm.
- Tính chất tín nhiệm thể hiện ở chỗ:
+ Phải có lợi ích bảo hiểm (Insurable interest) mới ký kết hợp đồng bảo
hiểm. Lợi ích bảo hiểm không nhất thiết phải ký kết hợp đồng nhưng phải có
khi xảy ra tổn thất.
+ Người được bảo hiểm phải thông báo mọi chi tiết về hàng hoá, mọi thay
đổi làm tăng hoặc giảm rủi ro cho người bảo hiểm biết.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
+ Khi ký kết hợp đồng bảo hiểm, nếu hàng hoá đã bị tổn thất mà người được
bảo hiểm đã biết thì hợp đồng bảo hiểm sẽ vô hiệu lực, ngược lại người được
bảo hiểm chưa biết hợp đồng bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm coi như được ký kết khi người bảo hiểm chấp nhận văn
bản. Văn bản đó là đơn bảo hiểm hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm. Chúng là
chứng từ có thể lưu thông được (Negotiable) và có thể chuyển nhượng được
cho người khác bằng cách ký hậu.


b. Các loại hợp đồng bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm được chia làm 2 loại: hợp đồng bảo hiểm chuyến và hợp
đồng bảo hiểm bao.
* Hợp đồng bảo hiểm chuyến (Voyage Policy):
Hợp đồng bảo hiểm chuyến là hợp đồng bảo hiểm cho một chuyến hàng từ
một nơi này đến một nơi khác ghi trên hợp đồng bảo hiểm. Trách nhiệm của
người bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm bắt đầu và kết thúc theo điều khoản
"từ kho đến kho". Hợp đồng bảo hiểm chuyến thể hiện bằng đơn bảo hiểm
hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm do công ty bảo hiểm cấp. Đơn bảo hiểm và
giấy chứng nhận bảo hiểm đều có giá trị pháp lý như nhau nhưng về hình
thức và cách sử dụng có khác nhau.
Nội dung của đơn bảo hiểm gồm hai mặt:
Mặt 1 ghi các chi tiết về hàng hoá, tàu, hành trình, người bảo hiểm và người
được bảo hiểm, thường gồm các nội dung sau đây:
- Tên, địa chỉ của người bảo hiểm và người được bảo hiểm.
- Tên hàng, số lượng, trọng lượng, số vận tải.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
- Tên tàu, ngày khởi hành.
- Cảng đi, cảng đến, cảng chuyển tải.
- Giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm.
- Điều kiện bảo hiểm (ghi rõ theo quy tắc nào, của nước nào).
- Tỷ lệ phí bảo hiểm, phí bảo hiểm.
- Nơi và cách thức bồi thường.
- Ngày tháng, chữ ký của công ty bảo hiểm, phương thức và địa điểm trả tiền
bồi thường. Trong trường hợp nơi đến của khách hàng ghi trong đơn bảo
hiểm là một địa điểm nằm sâu trong nội địa, nghĩa là sau khi đến cảng cuối
cùng phải chuyển tiếp bằng phương tiện khác đến địa điểm đã định và đến
đây mới hết trách nhiệm của người bảo hiểm, trong trường hợp này phải tăng
thêm phụ phí bảo hiểm vì ngoài rủi ro trên đoạn đường phụ trong toàn bộ
hành trình được bảo hiểm.

Mặt 2 in sẵn quy tắc, thể lệ bảo hiểm của Công ty bảo hiểm có liên quan.
Giấy chứng nhận bảo hiểm chỉ có nội dung như mặt 1 của đơn bảo hiểm.
Để thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ, ngày ghi trên đơn bảo
hiểm và giấy chứng nhận bảo hiểm không được muộn hơn ngày xếp hàng lên
tàu hoặc ngày nhận hàng để chở, loại tiền phải giống loại tiền trong thư tín
dụng trừ khi có quy định khác.
Khi xuất trình để thanh toán, phải xuất trình trọn bộ (Full set) hoặc một bản
gốc duy nhất (A sole original) cho ngân hàng.
* Hợp đồng bảo hiểm bao (còn gọi là hợp đồng bảo hiểm mở) - (Open
policy, Floating policy, Open cover).
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Hợp đồng bảo hiểm bao là hợp đồng bảo hiểm nhiều chuyến hàng trong một
thời gian nhất định, thường là một năm. Đối với các chủ hàng có khối lượng
hàng hoá xuất nhập khẩu lớn và ổn định, thông thường họ ký kết với công ty
bảo hiểm một hợp đồng bảo hiểm bao, trong đó người bảo hiểm cam kết sẽ
bảo hiểm tất cả các chuyến hàng xuất nhập khẩu trong năm.
Trong hợp đồng bảo hiểm bao hai bên chỉ thoả thuận với nhau những vấn đề
chung như: tên hàng được bảo hiểm, loại tàu chở hàng, cách tính giá trị bảo
hiểm, số tiền bảo hiểm tối đa cho mỗi chuyến và điều kiện bảo hiểm, cách
thức thanh toán phí bảo hiểm và tiền bồi thường cấp chứng từ bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm bao có lợi ích cho cả người bảo hiểm và người được bảo
hiểm. Người bảo hiểm đảm bảo tu được khoản chi phí bảo hiểm trong thời
hạn bảo hiểm. Người được bảo hiểm vẫn được bồi thường nếu tàu đã bị tai
nạn rồi mà chưa kịp thông báo bảo hiểm, phí bảo hiểm rẻ hơn.
Trong hợp đồng bảo hiểm bao có thể quy định một hạn ngạch của số tiền bảo
hiểm (Floating policy), khi hết số tiền bảo hiểm đó hợp đồng sẽ hết hiệu lực.
Trong hợp đồng bảo hiểm bắt buộc phải có 3 điều kiện cơ bản sau:
- Điều kiện xếp hạng tàu được thuê chuyên chở hàng hoá sẽ được bảo hiểm.
Tàu phải có cấp hạng cao và nếu do 10 hãng đăng kiểm nổi tiếng trên thế
giới cấp mới được chấp nhận một cách tuyệt đối. Tàu có khả năng đi biển

bình thường và tuổi tàu thấp hơn 15 năm.
- Điều kiện về giá trị bảo hiểm, người được bảo hiểm phải kê khai giá trị
hàng theo từng chuyến về số kiện, giá CIF hoặc giá FOB, số hợp đồng mua
bán, số thư tín dụng L/C, ngày mở giá trị L/C, số vận đơn B/L.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
- Điều kiện về quan hệ tinh thần thiện chí nghĩa là đã mua bảo hiểm bao của
người bảo hiểm nào thì trong thời gian đó không được phép mua bảo hiểm
hàng hoá của người khác.
Trong thời gian có hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm bao, mỗi lần vận chuyển
hàng hoá người tham gia vận chuyển phải gửi giấy báo vận chuyển cho
người bảo hiểm. Sau khi cấp đơn bảo hiểm thấy có điều gì cần phải bổ sung
thì thông báo cho công ty bảo hiểm, công ty bảo hiểm sẽ cấp giấy bảo hiểm
bổ sung, giấy này có giá trị bằng đơn bảo hiểm và không thể tách rời khỏi
đơn bảo hiểm.
3.5. Công tác giám định – bồi thường tổn thất:
a. Công tác giám định tổn thất
Giám định tổn thất là việc làm của các chuyên viên giám định, của người bảo
hiểm hoặc của các Công ty giám định được người bảo hiểm uỷ quyền nhằm
xác định mức độ và nguyên nhân của tổn thất, làm cơ sở cho việc bồi
thường. Giám định tổn thất được tiến hành khi hàng hoá bị hư hỏng, đổ vỡ,
thiếu hụt, giảm phẩm chất, thối… ở cảng đến hoặc tại cảng dọc đường và do
người được bảo hiểm yêu cầu. Những tổn thất như do tầu đắm, hàng mất,
giao thiếu hàng hoặc không giao thì cũng không cần phải giám định và cũng
không thể giám định được.
Mục đích của giám định tổn thất là:
- Xác định loại tổn thất, nguyên nhân gây ra tổn thất cho hàng hoá.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Giám định giúp xác rõ loại tổn thất là do hư hỏng, đổ vỡ, thiếu hụt hay ẩm
mốc… Nguyên nhân tổn thất có nhiều loại, có thể do bốc xếp cẩu thả, do
đâm va, bão lụt, do thông giờ không tốt, do bản thân hàng bị ẩm ướt…

- Xác định trách nhiệm tổn thất thuộc về ai.
Giám định chính xác, trung thực kết quả nói lên người phải chịu trách nhiệm
và bồi thường tổn thất cho hàng hoá, khiến họ không thể từ chối trách nhiệm
của mình. Đó có thể là người mua, người bán, người vận tải, người bảo hiểm
hoặc cơ quan giao nhận cảng.

- Giám định tổn thất là cơ sở tiến hành khiếu nại đòi bồi thường và giải quyết
khiếu nại.
Yêu cầu của công tác giám định tổn thất phải:
- Kịp thời đầy đủ, trung thực và kết quả nhằm xác định chính xác nguyên
nhân tổn thất.
- Bám sát hiện trường để phản ánh được cụ thể tình hình tổn thất của tài sản
bảo hiểm.
- Có ý kiến tham gia với người nhận hàng trong các khâu: cứu chữa, xử lý
hàng hư hỏng, để phòng và giảm nhẹ tổn thất, bốc dỡ giao nhận, yêu cầu về
bao bì hàng hoá khiếu nại người thứ ba có trách nhiệm đối với hàng hoá tổn
thất.
b. Công tác bồi thường tổn thất.
Sau khi lập được biên bản giám định, người bảo hiểm tiến hành giám định
bồi thường. Đây là công đoạn rất quan trọng và nhạy cảm vì nó gắn liền với
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
lợi ích của cả người được bảo hiểm và người bảo hiểm vì vậy việc giám định
bồi thường phải đáp ứng được một số nguyên tắc sau.
- Nhanh chóng, kịp thời: để giúp khách hàng nhanh chóng khôi phục hoạt
động kinh doanh một cách hiệu quả nhất.
- Kết quả chính xác: Phải tuân theo những điều kiện, điều khoản của hợp
đồng bảo hiểm và thực tế thiệt hại.
- Công bằng, trung thực: Phải dựa trên tình huống tai nạn, quan hệ hợp tác
mà giám định bồi thường linh hoạt, thoả mãn những yêu cầu hợp lý của
khách hàng.

Ngoài ra, trong quá trình giám định cần đảm bảo một số yêu cầu sau:
- Tờ trình bồi thường phải thực hiện đầy đủ chi tiết về khiếu nại, nguyên
nhân phạm vi tổn thất, số tiền khiếu nại và số tiền bồi thường cùng ý kiến
nhận xét của cán bộ thường về toàn bộ khiếu nại.
- Trong trường hợp mỗi Công ty tính toán tổn thất đánh giá khiếu nại thì hai
biên bản giám định của Công ty tính toán tổn thất sẽ là cơ sở cho việc giải
quyết bồi thường.
- Nếu số tiền bồi thường vượt quá phân cấp, phải thông báo và xin ý kiến chỉ
đạo của Tổng công ty trước khi giải quyết bồi thường.
chương II: Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
vận chuyển bằng đường biển tại
Công ty Bảo Minh Hà Nội
1. Vài nét về Tổng công ty Bảo Minh và Công ty Bảo Minh Hà Nội.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Có thể nói lịch sử phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập
khẩu ở Việt Nam được gắn liền với sự ra đời và phát triển của ngành bảo
hiểm nước ta. Kể từ khi bảo hiểm Việt Nam ra đời cho đến nay, nghiệp vụ
bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu luôn là một loại hình bảo hiểm chủ yếu
và chiếm tỉ trọng cao trong tổng phí bảo hiểm toàn thị trường. Bảo hiểm
hàng hoá xuất nhập khẩu ở Việt Nam có thể được nhìn nhận theo hai giai
đoạn phát triển.
Thời kỳ bảo hiểm hoạt động theo cơ chế độc quyền Nhà nước. Giai đoạn này
chỉ có một tổ chức bảo hiểm duy nhất là bảo hiểm hoạt động phục vụ bảo
hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu theo nghị định thư. Quy mô và phạm vi bảo
hiểm của thời kỳ này còn rất nhiều hạn chế, hoạt động của thị trường không
có sự cạnh tranh.
Thời kỳ bảo hiểm hoạt động trong nền kinh tế thị trường: Vào những năm
cuối thập niên 80, với chính sách kinh tế mở, cùng với nhịp độ phát triển của
nền kinh tế, ngành bảo hiểm đã có những bước phát triển đáng kể. Đứng
trước yêu cầu đa dạng hoá các loại hình kinh doanh bảo hiểm phục vụ cho

mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển ổn
định và nhằm khai thác tốt hơn tiềm năng bảo hiểm trong nước để đầu tư lại
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nghị định
100/CP ngày 18/12/1993 của Chính phủ về hoạt động kinh doanh bảo hiểm
đã được ban hành. Sau khi Nghị định này ra đời, hoạt động kinh doanh bảo
hiểm theo hướng thị trường mở trên thị trường bảo hiểm Việt Nam đã bắt
đầu phát triển, nhiều công ty bảo hiểm mới ra đời trên thị trường đã có sự
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
cạnh tranh gay gắt giữa các công ty bảo hiểm để giành khách hàng và tăng
doanh thu phí. Nhiều vấn đề mới nảy sinh và bất cập trong thời kỳ này đã
ảnh hưởng đến hoạt động của các công ty bảo hiểm. Nhằm bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của các cá nhân và tổ chức tham gia bảo hiểm, đẩy hoạt
động kinh doanh bảo hiểm, góp phần thúc đẩy và duy trì sự phát triển bền
vững của nền kinh tế - xã hội, Luật kinh doanh bảo hiểm đã được Quốc hội
thông qua ngày 09/12/2000, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/4/2001. Sau khi
Luật này được ban hành, Chính phủ và Bộ Tài chính đã ban hành những văn
bản thi hành Luật nhằm phát huy tối đa hiệu quả của Luật kinh doanh bảo
hiểm.
Bảo Minh là công ty bảo hiểm gốc của Nhà nước đầu tiên được thành lập sau
Nghị định 100/CP. Ra đời trên cơ sở là một chi nhánh của Bảo Việt tại thành
phố Hồ Chí Minh, Công ty bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh (gọi tắt là Bảo
Minh) đã chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/01/1995, được phép hoạt
động trên phạm vi cả nước và quốc tế, đảm nhận kinh doanh mọi loại hình
nghiệp vụ bảo hiểm.
Từ 1995 đến nay, thị trường bảo hiểm Việt Nam có nhiều thay đổi khi có
chính sách mở cửa hoàn toàn, đặc biệt là thị trường bảo hiểm. Thách thức
lớn đối với các công ty bảo hiểm trong nước là phải có đủ khả năng cạnh
tranh quốc tế. Nhằm mục tiêu tạo ra một tổng công ty bảo hiểm phi nhân thọ
mạnh nhất thị trường có đủ khả năng đó, Công ty bảo hiểm thành phố Hồ
Chí Minh (Bảo Minh) đã chính thức chuyển đổi từ doanh nghiệp nhà nước

thành Tổng Công ty Cổ phần Bảo Minh theo Giấy phép thành lập và hoạt
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
động số 27 GP/KDBH ngày 08/9/2004 của Bộ Tài chính. Đây là một công ty
cổ phần gồm 11 cổ đông sáng lập gồm các Tổng Công ty lớn của Nhà nước
như: Tổng Công ty Hàng không, Tổng Công ty Sông Đà, Tổng Công ty
Hàng hải Việt Nam, Tổng Công ty Xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam,
Tổng Công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam .v.v Tiếp đó, Hội đồng Quản
trị Tổng Công ty Cổ phần Bảo Minh đã ban hành điều lệ tổ chức và hoạt
động của Công ty Bảo Minh Hà Nội (gọi tắt là Bảo Minh Hà Nội) là công ty
thành viên của Tổng Công ty Cổ phần Bảo Minh (gọi tắt là Tổng Công ty)
theo số 1063/2004-BM/HĐQT ngày 01/10/2004.
Công ty Bảo Minh Hà Nội trong quá trình hoạt động đã đóng góp một phần
không nhỏ vào sự phát triển của Tổng Công ty. Hiệu quả hoạt động của
Công ty được thể hiện bằng sự đóng góp doanh thu phí vào tổng doanh thu
phí của toàn Tổng Công ty là 20 đến 21%. Hiện nay với hơn 60 cán bộ công
nhân viên, cơ cấu tổ chức của Công ty được chia thành 7 phòng ban, 4 phòng
đại diện và đảm nhận 21 loại hình nghiệp vụ bảo hiểm khác nhau, trong đó
có nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường
biển. Nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu là nghiệp vụ truyền
thống nhưng vẫn được Công ty quan tâm phát triển. Mức độ cạnh tranh của
nghiệp vụ này tuy có gay gắt nhưng nhìn chung có phần bình ổn hơn so với
các doanh nghiệp khác vì hầu hết các mối quan hệ với khách hàng đã được
thiết lập trong thời gian trước đây.
Về cơ cấu tổ chức của Công ty Bảo Minh tại Hà Nội
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Đứng đầu Công ty là Giám đốc (do Tổng Giám đốc bổ nhiệm), chịu
trách nhiệm toàn bộ mọi hoạt động kinh doanh, tổ chức quản lý. Hai phó
giám đốc quản lý từng phần nghiệp vụ của các phòng ban, giúp đỡ Giám đốc
giải quyết các vụ việc liên quan từng phần nghiệp vụ.
1. Phòng Hàng hải bảo hiểm hàng vận chuyển nội địa, hàng hoá xuất nhập

khẩu vận chuyển bằng đường biển, tàu sông, tàu cá…
- Hướng dẫn và chỉ đạo khai thác các nghiệp vụ bảo hiểm hàng hải nói trên
cho các phòng thuộc Tổng Công ty theo phân cấp của Tổng Giám đốc.
- Kiểm tra quản lý toàn bộ đơn bảo hiểm hàng hải do tất cả các phòng, cấp
gửi đến.
- Tổng hợp, báo cáo tổng kết công tác bảo hiểm hàng hải toàn Tổng Công ty
hàng năm.
- Thông qua công tác quản lý, chỉ đạo, kiểm tra, phát hiện những yếu kém,
sơ hở, vi phạm trong kinh doanh, kiến nghị với Giám đốc biện pháp xử lý,
cải tiến quản lý doanh nghiệp.
- Thực hiện các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất, quản lý rủi ro bảo hiểm
hàng hải.
- Tham mưu cho Giám đốc xây dựng kế hoạch doanh thu các nghiệp vụ bảo
hiểm hàng hải.
- Phối hợp với các phòng kinh doanh để hợp tác khai thác bảo hiểm theo
Quy chế hợp tác, chống cạnh tranh nội bộ của Giám đốc Công ty ban hành.
2. Phòng đầu tư kỹ thuật bảo hiểm cho các chương trình xây dựng, đầu tư
của nước ngoài vào Việt Nam, bao gồm cháy, nổ, mất và hư hại tài sản…
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
3. Phòng tổng hợp chịu trách nhiệm hành chính tổng hợp, tổ chức cán bộ.
4. Phòng kế hoạch quản lý nguồn thu chi của Chi nhánh.
5. Phòng đại lý, cộng tác viên quản lý tất cả các đại lý, cộng tác viên của
Công ty tại các địa bàn, các tỉnh và các địa phương. Các văn phòng khai thác
khu vực chịu trách nhiệm khai thác các nghiệp vụ tại địa bàn các quận của
thành phố Hà Nội.
6. Phòng bảo hiểm phi hàng hải: quản lý và khai thác bảo hiểm xe cơ giới,
bảo hiểm tai nạn con người.
7. Phòng bảo hiểm hàng không bảo hiểm cho hành khách và hàng hóa vận
chuyển bằng đường không và của hãng hàng không Quốc gia Việt Nam và
các công ty bay dịch vụ.

8. Phòng giám định bồi thường bảo hiểm xe cơ giới: thực hiện giám định các
tổn thất, đánh giá xác định các thiệt hại từ đó quyết định mức bồi thường tổn
thất trong bảo hiểm xe cơ giới.
9. Các phòng bảo hiểm khu vực: đại diện cho Công ty bảo hiểm tại địa
phương, kinh doanh bảo hiểm theo phân công, phân cấp của Giám đốc Công
ty.
Tổ chức thực hiện và quản lý toàn diện về mặt hoạt động của Phòng bảo
hiểm khu vực về tổ chức cán bộ nghiệp vụ, tài chính kế toán, quản trị, kinh
doanh. Theo quy định của Tổng Công ty, quy chế và phân cấp của Giám đốc
Công ty đối với các phòng bảo hiểm các khu vực.
Nhằm tăng cường lợi thế cạnh tranh, giữ vững thị phần đáp ứng nhanh chóng
nhu cầu bảo hiểm của khách hàng, Bảo Minh tiếp tục phát triển mạng lưới
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
đại lý cộng tác viên song song với việc củng cố và hoàn thiện các chi nhánh,
nâng cấp năng suất lao động và trình độ quản lý, đồng thời học hỏi và phát
triển kỹ thuật bảo hiểm nước ngoài. Mục đích cơ bản của Bảo Minh trong
thời gian tới là cố gắng thoát khỏi trì trệ, củng cố lực lượng để phù hợp với
sự chuyển biến của thị trường bảo hiểm trong nước; để thực hiện được mục
đích đó, Bảo Minh đã đưa ra các biện pháp trong thời gian tới là:
* Cải tiến xây dựng theo dõi thực hiện kế hoạch kinh doanh.
- Kế hoạch kinh doanh phải xây dựng trên cơ sở phân tích thị trường, đối thủ
cạnh tranh và tự nhận định về bản thân.
- Xây dựng hệ thống đòn bẩy kinh tế, cải tiến phương pháp phân phối tiền
lương, tiền thưởng, định mức chi phí…
- Giao nhiệm vụ cụ thể cho từng đơn vị, nhân viên.
* Củng cố hệ thống các công ty và mở rộng phát triển hệ thống đại lý bảo
hiểm, thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với các đơn vị hữu quan.
- Nâng cao trình độ các giám đốc, phó giám đốc công ty, trình độ kế toán
viên và cán bộ nghiệp vụ.
- Hoàn chỉnh chương trình cơ sở dữ liệu thống kê CRACL-COSIS.

- Củng cố và mở rộng tổng đại lý ở các tỉnh.
- Thiết lập mối quan hệ bằng hợp đồng thoả thuận quan hệ hợp tác với các
cơ quan hữu quan như các công ty bảo hiểm, tái bảo hiểm, môi giới bảo
hiểm, các công ty giám định, luật sư…
* Đẩy mạnh công tác đầu tư vốn.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
- Quản lý chặt chẽ vốn đầu tư dài hạn: các công ty liên doanh cổ phần, trái
phiếu… theo lãi suất từ các công ty này.
- Tập trung vốn kịp thời cho các khoản đầu tư ngắn hạn (chủ yếu là gửi ngân
hàng có thời hạn, mua trái phiếu ngắn hạn…).
- Tổ chức tốt hệ thống bảo hiểm nhân thọ cho liên doanh Bảo Minh -CMG.
2. Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận
chuyển bằng đường biển ở Công ty Bảo Minh Hà Nội.
2.1. Công tác khai thác bảo hiểm.
Công tác khai thác là một khâu rất quan trọng trong các doanh nghiệp, các
công ty, khai thác được coi như là đầu vào cho hoạt động sản xuất tạo ra lợi
thế thương mại cuối cùng cho doanh nghiệp, nó quyết định đến sự sống còn
của công ty. Doanh nghiệp bảo hiểm kinh doanh dịch vụ tài chính không có
hoạt động sản xuất cho nên họ chủ yếu tập trung vào khai thác thị trường.
Nếu công ty khai thác tốt tức là bán được nhiều hợp đồng bảo hiểm, mang lại
doanh thu lớn sẽ là cơ sở để tăng lợi nhuận, chiếm lĩnh thị phần, nâng cao vị
thế của mình trên thị trường bảo hiểm. Chính vì tính chất quan trọng của
khâu khai thác mà hầu hết các công ty bảo hiểm phải lập ra các chiến lược
khai thác. Công việc khai thác càng trở nên khó khăn hơn trong điều kiện thị
trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, trước tình hình đó đòi hỏi các công ty
phải tổ chức tốt khâu khai thác. Đối với Bảo Minh mục tiêu và cũng là thước
đo hiệu quả của khâu khai thác là xây dựng và phát triển một thị trường bảo
hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu ổn định lâu dài và tăng trưởng cao, để làm
được điều đó công ty càn phải làm được một số việc sau:
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

Vào đầu năm các nhân viên của phòng bảo hiểm hàng hải phải thu thập được
thông tin về kim ngạch xuất nhập khẩu như chủng loại hàng hoá, số lượng
hàng hoá của từng công ty xuất nhập khẩu, qua đó sẽ tập hợp số liệu để lập
kế hoạch khai thác và định mức thu phí trong năm cho các đối tượng. Đối
với khách hàng mới thì các cán bộ phải tìm cách tiếp cận để tìm hiểu về
ngành hàng, nhóm hàng, cách thức đóng gói chất xếp, luồng vận chuyển.
Các nhân viên phải tìm cách tiếp cận được với những khách hàng này cho họ
thấy sự hiện diện của công ty và giúp họ hiểu hơn về sản phẩm mà công ty
có thể cung cấp. Cụ thể Phòng hàng hải phải chuẩn bị tài lêịu chào phí kèm
theo điều kiện bảo hiểm, các báo cáo tài chính trong số năm gần đây để
chứng minh cho họ thấy vị thế cũng như khả năng tài chính của doanh
nghiệp. Thông qua tư vấn giúp đỡ các công ty xuất nhập khẩu lựa chọn các
điều kiện bảo hiểm phù hợp.
Đối với khách hàng cũ, các khách hàng truyền thống, các nhân viên phải
thuyết phục được họ tiếp tục hợp đồng một cách tự nguyện. Lượng khách
hàng truyền thống này sẽ đảm bảo cho công ty một doanh thu ổn định. Một
công ty bảo hiểm có lượng khách hàng truyền thống chiếm tỉ lệ cao chứng tỏ
chất lượng dịch vụ của công ty là rất tốt và biểu phí phù hợp.
Trong quá trình thực hiện kế hoạch, công ty Bảo Minh Hà Nội thường xuyên
cử nhân viên nhắc nhở khách hàng mua bảo hiểm theo đúng thời gian quy
định, đồng thời hướng dẫn họ mua bảo hiểm hết phần kim ngạch nhập về
theo giá FOB, CIF và phần kim ngạch xuất theo giá CIF. Mặt khác theo dõi
số liệu về hàng hoá xuất nhập khẩu của từng đơn vị và đối chiếu khối lượng
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
khách hàng mua bảo hiểm, nếu tỷ lệ hàng hoá được bảo hiểm so với kim
ngạch mà thấp thì Tổng công ty còn phải tìm ra lý do để có sự điều chỉnh
phù hợp. Tỷ lệ phí là mối quan tâm lớn của khách hàng. Đối với hàng hoá
xuất nhập khẩu giá trị rất lớn chỉ cần một tỷ lệ nhỏ trong phí cũng là một
khoản phí rất lớn. Vấn đề đặt ra cho phòng hàng hải là phải nắm vững cách
thức tính phí, các yếu tố cấu thành nên phí cũng như là đối tượng được bảo

hiểm để tính mức phí phù hợp nhất. Đến cuối năm phòng hàng hải tổng kết
tập hợp số liệu để tính ra một số chỉ tiêu hiệu quả khai thác, từ đó đề ra một
chiến lược khai thác cho năm nghiệp vụ mới.
* Cấp đơn bảo hiểm:
Khi nhận được giấy yêu cầu bảo hiểm, phòng hàng hải phải xem xét việc cấp
đơn theo trình tự sau:
a. Kiểm tra chứng từ và đánh giá rủi ro
- Đánh giá rủi ro:
+ Đây là bước nghiên cứu để dự kiến mức độ rủi ro có thể xảy ra đối với lô
hàng và tàu trong suốt hành trình.
+ Đối với tàu chở hàng, các cán bộ khai thác của công ty phải xem xét kỹ
các yếu tố sau:
Thứ nhất: quốc tịch của tàu và chủ tàu. Điều này có ảnh hưởng rất lớn đến
độ an toàn của hành trình. Chẳng hạn tàu có quốc tịch Đông Âu thường xảy
ra tổn thất thấp hơn tàu của các vùng khác.
Thứ hai: là nếu tàu được bảo hiểm thân tàu tại Bảo Minh thì kiểm tra xem
tổng giá trị của tàu và hàng có vượt quá phân cấp 11 triệu USD hay không ?
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Trường hợp vượt quá sẽ thông báo cho phòng tái bảo hiểm để thu xếp
nhượng tái.
Thứ ba: là khả năng tài chính của chủ tàu, nếu chủ tàu có khả năng tài chính
tốt thì ít xảy ra tranh chấp.
Thứ tư: tuổi của tàu. Đối với tàu già, khả năng gây tổn thất sẽ tăng lên thậm
chí không đủ khả năng đi biển. Trong trường hợp này cần thu thêm phụ phí
tàu già. Nếu khách hàng nhập hàng theo giá CIF thì khai thác viên đề nghị
khách hàng áp đặt vấn đề của tàu và bảo lưu quyền đòi lại phí tàu già trên
hợp đồng mua bán. Đối v ới hàng hoá bảo hiểm các nhân viên cần phải xem
xét các vấn đề sau: Vấn đề thứ nhất là loại hàng (bao gồm chủng loại, tính
chất, nội tỳ hàng hoá). Vấn đề thứ hai là phương thức đóng gói, bao bì, chất
xếp hàng hoá, phương thức vận chuyển, ký mã hiệu.

Đối với cảng đi, cảng đến: cũng là yếu tố ảnh hưởng đến nguy cơ xảy ra tổn
thất cho hàng hoá vì nó chứa đựng rất nhiều các yếu tố liên quan như người
bán hàng, người nhận hàng, tình trạng bốc xếp, tập quán của cảng. Qua việc
nghiên cứu cảng đi, cảng đến, nhân viên bảo hiểm biết được những rủi ro
hàng hoá nào có thể gặp đối với hành trình, biết được lô hàng có phải chuyển
tải hay không và chuyển tải ở cảng nào. Từ đó công ty sẽ có biện pháp cần
thiết cũng như khuyến cáo với khách hàng nhằm ngăn ngừa và hạn chế tổn
thất.
Khả năng tài chính của khách hàng: khai thác viên luôn phải theo sát quá
trình thanh toán phí của khách hàng để có thể phân biệt được loại khách
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

×