Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Cẩm nang doanh nhân phần 5 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.89 KB, 10 trang )

Cẩm nang doanh nhân
Cái giá bạn phải trả sẽ lớn hơn rất nhiều lần số tiền mà bạn đầu tư thay đổi
công nghệ và áp dụng kỹ thuật tiên tiến trong sản xuất, đặc biệt khi sự thay
đổi đó xuất phát từ nhu cầu của thị trường và sự thay đổi thị hiếu của khách
hàng. Mercedes là một trong số những ví dụ minh chứng cho việc chậm đổi
mới theo thời cuộc. Khi mà cuối năm 2005, nhiều khách hàng muốn tìm kiếm
trên thị trường một loại xe mới và việc sản xuất các loại xe có thể sử dụng
nhiên liệu thay thế đã được nhiều hãng sản xuất xe hơi quan tâm, thì trong
chiến lược kinh doanh của Mercedes không hề mảy may đề cập đến vấn đề
này. Thậm chí, nhà quản lý một đại lý xe ô-tô hiệu Mercedes khi được khách
hàng hỏi: “Mercedes-Benz có chiến lược sản xuất các loại xe sử dụng nhiên
liệu thay thế không?”, đã trả lời chắc như đinh đóng cột rằng họ sẽ tiếp tục
theo đuổi chiến lược sản xuất ô-tô sử dụng nhiên liệu truyền thống trong
nhiều năm nữa.

Công ty bạn có đang theo đuổi một chiến lược kinh doanh mù quáng kiểu đó
không? Nếu bạn nhận ra được xu hướng của thị trường và k
ịp thời thay đổi
theo nó càng sớm, thì lợi ích mà bạn gặt hái được sẽ càng nhiều.

6. Những nhà lãnh đạo chủ chốt trong công ty bạn không muốn thay
đổi cách làm việc để phù hợp với thời đại mới.

Cách suy nghĩ của mỗi cá nhân trong việc tổ chức, điều hành các hoạt động
kinh doanh thường mang tính độc lập và khó có sự can thiệp từ bên ngoài
khiến họ thay đổi cách nghĩ và cách làm. Khi một nhà lãnh đạo nhất quy
ết
không thay đổi phương thức kinh doanh đã bị coi là lạc hậu, thì tính kiên định
trong trường hợp này trở thành yếu tố khiến công ty dễ bị bán hoặc sáp
nhập.


Nếu công ty bạn đang phải đứng trước những sự lựa chọn hoặc phải bán,
hoặc phải sáp nhập, hoặc phải chấp nhận đổi mới, những dấu hiệu dưới đây
cho thấy đội ngũ lãnh đạo hiện tại của bạn chưa sẵn sàng cho sự chuyển đổi
mang tính chiến lược trong kinh doanh:

- Khách hàng yêu cầu để tránh những tổn thất không cần thiết, hai đối thủ
cạnh tranh nên liên minh và liên kết, biến thù thành bạn, cùng nhau chia sẻ
thị trường, nhưng cả hai công ty không sẵn lòng làm điều đó.

- Những người lãnh đạo vẫn dung túng và không cương quyết đối với những
hành vi gây tổn hại đến công việc.

- Những người sáng lập công ty không dám quyết để thực hiện một chiến
lược kinh doanh mà khả năng thành công là chắc chắn. Họ phân vân, do dự
vì nếu thực hiện nó sẽ ảnh lợi ích của nhân viên hay làm thay đổi chế độ hưu
trí

- Công ty không đạt được mục tiêu như đã dự kiến sau vài năm liên tục

Cẩm nang doanh nhân
7. Bạn cho rằng sự tăng trưởng và các suy tính chiến lược chỉ dành
cho các công ty lớn.

Đã bao nhiêu lần bạn tự bảo rằng cần “lập kế hoạch và tầm nhìn chiến lược
kinh doanh là quan trọng” nhưng bạn lại chần chừ vì nó sẽ ngốn của bạn rất
nhiều thời gian. Nếu điều đó tiếp diễn hết ngày này qua ngày khác mà bản kế
hoạch và chiến lược kinh doanh vẫn chỉ là ý tưởng, thì công ty bạn đang
trong tình thế nan giải. Như vậy, tự bạn sẽ đánh mất niềm tin vào bản thân
và rất đáng tiếc nếu sự mất niềm tin đó được truyền sang đội ngũ nhân viên
của bạn.


8. Bạn đang đấu tranh để chuyển đổi từ mô hình lãnh đạo thực tiễn
sang mô hình lãnh đạo có tầm nhìn chiến lược.

Những thói quen và kỹ năng lúc đầu đã giúp nhà lãnh đạo kiếm được hàng
triệu đô-la, nhưng sau đó chính chúng lại ngăn cản họ kiếm được gấp 10 lần
như thế nữa. Rất nhiều chuyên gia giỏi sau một thời gian làm việc cho công
ty kinh doanh nào đó, đã quyết định ra ngoài thành lập một công ty riêng
giống như công ty mà họ đã làm việc. Sau một thời gian kiếm được chút ít
tiền bạc, họ vẫn tiếp tục đi theo lối mòn cũ. Điều này giới hạn khả năng đổi
mới chiến lược tăng trưởng trong tương lai.

9. Bạn liên tục áp dụng những ý tưởng thú vị (ví dụ những dự án và ý
tưởng mới).

Khi nhà lãnh đạo liên tục đưa ra những kế hoạch và chiến lược mới, đội ngũ
nhân viên sẽ mất phương hướng. Họ rất khó khăn để hiểu “Cái gì là quan
trọng nhất trong công việc kinh doanh hiện tại của công ty? Nhân viên cần
tập trung đầu tư vào lĩnh vực nào? Công việc mà họ đang làm có góp phần
mang lại sự thành công chung của công ty không? Nếu chỉ nhìn bề ngoài của
các ý tưởng mà không biết phân tích lợi hại, tính hiệu quả khi áp dụng ý
tưởng đó vào kinh doanh, nhà lãnh đạo sẽ trở thành kẻ đầu tiên phá hoại
những thành quả mà họ đã biết bao công sức xây đắp nên.

10.Bạn tiếp tục kinh doanh và đầu tư vào những sản phẩm không
mang lại lợi nhuận.

Rất nhiều nhà sáng lập đã gắn bó tình cảm sâu sắc với lịch sử thành công
trong quá khứ. Đó là tình cảm tự nhiên của con người, giống như cách mà
bạn thương yêu con cái và không muốn rời xa chúng.


Tuy nhiên, tình yêu rất dễ biến thành sự mù quáng và ngăn cản bạn tập hợp
những phản hồi thường xuyên từ thị trường, và tận dụng những cơ hội mới
trong kinh doanh. Đó chính là khi cần phải lựa chọn và giao phó những dự án
mới cho những người có khả năng thực hiện tốt hơn. Hay là việc ngừng bán
những sản phẩm hiện không còn thu được lợi nhuận. Những hành động tiếc
nuối lúc này sẽ bỏ lỡ cơ hội xâm nhập vào một thị trường mới có lợi nhuận
cao hơn.
Cẩm nang doanh nhân

Nếu bạn gặp phải một trong mười điều trên thì đó là dấu hiệu báo cho bạn
biết đã đến thời điểm phải chuyển đổi mô hình kinh doanh của mình. Vì vậy,
hãy lựa chọn những bước đi tiếp theo đúng đắn cho hoạt động kinh doanh
của bạn.
Cẩm nang doanh nhân
John Sperling- Apollo Group
Huyền thoại ở Apollo Group

Đối với nhiều người, việc John Sperling vượt lên trên số phận nghiệt ngã để
trở thành nhà trí thức, doanh nhân thành đạt là cả một huyền thoại. Ông đã
đưa Tập đoàn Apollo Group và trường University of Phoenix thành tổ chức
giáo dục tầm cỡ quốc tế.

Chỉ tính riêng trong năm 2005, tổng doanh thu của Apollo Group đã lên tới
con số 2.251 tỷ USD với hàng trăm chi nhánh lớn nhỏ hoạt động tại các khu
vực trên thế giới. Từ một cậu bé từng phải chịu quá nhiều thiệt thòi trong
cuộc sống, John Sperling cố gắng trở thành một nhà giáo, nhà kinh doanh tài
ba và là một trong những người giầu nhất thế giới, sở hữu khối tài sản cá
nhân 1,5 tỷ USD.


Tuổi thơ đầy gian khó

John Sperling đã từng phải trải qua một tuổi thơ đầy ắp những gian nan, vất
vả như trong các câu chuyện cổ tích. Ông sinh năm 1921 tại Missouri Ozarks,
Mỹ, trong một gia đình nghèo có 6 anh chị em. Gia đình John Sperling nghèo
tới mức cả nhà chỉ sống trong một túp lều nhỏ với một cuộc sống thường
nhật thiếu đủ mọi thứ.

Những khó khăn này vẫn chưa thấm vào đâu vì từ khi sinh ra, John Sperling
đã phải chịu đựng tính độc đoán của người mẹ, cộng thêm những trận đòn
thường xuyên của người cha.


John Sperling.


Mới 7 tuổi, John Sperling đã mắc chứng viêm phổi cấp tính và phải nằm liệt
giường trong 6 tháng liền. Hậu quả của căn bệnh này là nhiều năm sau đó,
khi đã qua khỏi, John Sperling vẫn luôn bị kiệt sức, làm gì cũng run chân run
Cẩm nang doanh nhân
tay, đến nói cũng lắp bắp. Cho tới bây giờ, khi suy tưởng tới thời thơ ấu khốn
khổ của mình, John Sperling đã phải thốt ra rằng: “Tôi chẳng học được điều
gì ở tuổi thơ của mình ngoại trừ ý thức tiết kiệm đến mức tằn tiện để có thể
thoát khỏi cuộc sống khó khăn đó và đi ra thế giới bên ngoài”.

Cho dù phải chịu đựng cuộc sống khó khăn chồng chất, sức khỏe không tốt,
ngay cả đọc sách cũng khó, nhưng ông vẫn không từ bỏ ý chí quyết tâm
trong học tập. Tốt nghiệp trung học, vì không có tiền học tiếp, John Sperling
đã xin vào làm nhân viên bốc dỡ hàng tại một thuyền buôn vượt biển chạy
tuyến đường biển giữa Thượng Hải, Nhật Bản, Panama và New York với một

cuộc sống cũng không kém phần gian khổ.

Sau 2 năm lênh đênh trên biển, với một khoản tiền nhỏ tiết kiệm được, John
Sperling đã quyết định nghỉ việc và đóng học phí xin vào học tại trường
Oregon’s Reed College tại Portland. Trong thời gian học, John Sperling tiếp
tục xin vào làm việc tại xưởng đóng tầu Columbia River và cậu hoàn toàn
không có một sợi dây liên lạc nào với gia đình hay bất cứ một khái niệm nào
về con đường kinh doanh sau này. Lúc đó trong đầu John Sperling chỉ có một
ý nghĩ: “Học là lối thoát duy nhất cho sự tồn tại của mình”.

Cố gắng thi đỗ vào trường Cambridge University, sau những năm tháng vất
vả, vừa học vừa kiếm tiền để tự nuôi sống bản thân, John Sperling đã tốt
nghiệp và được nhận vào làm giảng viên tình nguyện của trường San Jose
State University tại Bang San Jose. Cũng tại trường San Jose State University,
ông đã gia nhập Hiệp hội Giảng viên (AFT) và sau đó bằng uy tín, nhiệt huyết
và tài năng của mình, ông đã được bầu vào vị trí lãnh đạo của Hiệp hội.

Làm việc tại San Jose State University, John Sperling đã khẳng định được tài
năng của mình trong lĩnh vực giảng dạy và được các đồng nghiệp và học trò
nể phục. Tới năm 1972, ông quyết định chuyển tới làm việc cho chương trình
tổ chức các cuộc hội thảo cho cảnh sát về vấn đề phạm pháp của trẻ em lứa
tuổi vị thành niên.

Mặc dù rất bận rộn tại công việc chuẩn bị và sắp xếp chương trình hội thảo
nhưng với lòng say mê và nhiệt huyết của một nhà giáo, John Sperling vẫn
theo sát các vấn đề liên quan tới giáo dục. Đứng trước tình trạng thất nghiệp
ngày một nhiều và một phần lý do đó gây nên tình trạng vi phạm pháp luật,
John Sperling đã nảy sinh ý định nghiên cứu để xây dựng một chương trình
đào tạo dành cho những người tới độ tuổi lao động nhưng chưa có cơ hội
được đào tạo nghề. Chỉ một thời gian không lâu sau đó, chương trình đã

hoàn thành và được đưa vào ứng dụng thử trong thực tế.

Xây dựng thành công Apollo Group

Chương trình giáo dục đặc biệt của John Sperling sau khi được đưa vào ứng
dụng đã nhanh chóng trở thành phương tiện chủ yếu góp phần vào cung cấp
cho thị trường một khối lượng lớn nhân công có trình độ, được đào tạo bài
bản. Ông quyết định gom toàn bộ vốn liếng thành lập nên Tổ chức đào tạo vì
Cẩm nang doanh nhân
lợi nhuận Apollo và tới năm 1976 là trường tư nhân University of Phoenix đặt
tại bang California.

Đúng như dự đoán, ngay trong năm tuyển sinh đầu tiên, số người đăng ký
nhập học tại các chi nhánh của Apollo và University of Phoenix đã đạt con số
hơn 100.000 người. Trên đà phát triển nhanh tới chóng mặt, trong những
năm 80, University of Phoenix đã được công nhận là trường đại học tư nhân
lớn nhất trong hệ thống giáo dục của Mỹ. Mới đây nhất, năm 2006, theo ước
tính, số người theo học tại trường đã đạt con số 280.000 người.

Cùng với thời gian, đối tượng học ngày càng trở nên đa dạng, kiến thức về
các chuyên ngành ngày càng đòi hỏi phải mở rộng và chuyên sâu, John
Sperling đã tiến hành chương trình mở rộng Apollo ra các nước trong và
ngoài khu vực.

Trong những năm 90, khi mạng Internet trên đà phát triển như vũ bão tại Mỹ
và các quốc gia phát triển, John Sperling đã không ngần ngại bỏ ra những
khoản đầu tư lớn vào mua trang thiết bị, kỹ thuật, đào tạo nhân viên và đưa
vào ứng dụng các chương trình đào tạo của Apollo. Thông qua các chương
trình đào tạo trực tuyến uy tín hàng đầu tại Mỹ, số lượng sinh viên tìm đến
đăng ký theo học ngày một tăng lên.


Nhờ bước đi chiến lược đó, tới năm 2005, tổng thu nhập của Apollo đã tăng
lên con số 2.251 tỷ USD. Apollo cũng chính thức vươn lên vị trí là một trong
những tổ chức giáo dục hàng đầu thế giới và lấy tên đầy đủ là Apollo Group.
Cẩm nang doanh nhân
Phương cách đầu tư của các tỷ phú thế giới
Bí quyết đầu tư của các tỷ phú hàng đầu thế giới



Nhìn vào danh sách những tỷ phú hàng đầu thế giới năm 2007 do Tạp chí
Forbes (Mỹ) công bố, nhiều người đặt câu hỏi: "Không biết họ làm thế nào để
trong một ngày có thể làm ra một số tiền mà có cả đời mình cũng không kiếm
được?"


Tỷ phú Carlos Slim. Ảnh: Dân Trí.
Nếu chịu khó nghiên cứu và tìm hiểu, bạn sẽ thấy câu trả lời rất đơn giản. Chỉ
có duy nhất hai cách để đạt được điều này: thứ nhất, hãy gây dựng một công
ty trở nên lớn mạnh, có giá trị hàng tỷ đô la; thứ hai, hãy trở thành một nhà
đầu tư thành công.
Quay trở lại bảng xếp hạng năm 2007, điểm danh top 5 tỷ phú có tài sản lớn
nhất gồm Bill Gates (tài sản ước tính 56 tỷ USD, Warren Buffett (52 tỷ USD),
Carlos Slim (49 tỷ USD), Kamprad (33 tỷ USD) và Lakshmi Mittal (32 tỷ USD).
Trong năm người giàu nhất thế giới này hãy khoan nói về Bill Gates và thử
tìm hiểu hai người đứng ở vị trí thứ hai và thứ ba, Warren Buffett và Carlos
Slim, xem họ đã làm giàu như thế nào?

Chân dung 2 nhà tỷ phú Warren Buffett và Carlos Slim


Cái tên Warren Buffett đã trở nên quá nổi tiếng. Nhưng chắc hẳn ít ai biết
ông được xem là một nhà đầu tư giá trị luôn bình thản trước mọi sự thổi
phồng, cường điệu và kích động trên thị trường. Ông không ngại ngần đầu tư
vào các cổ phiếu được xem là tẻ nhạt, xuống giá, thậm chí, đang ở trong tình
thế xấu nhất.

Ngoài việc là chủ nhân của Tập đoàn Berkshire Hathaway, hiện ông đang
nắm giữ cổ phần lớn của Tạp chí Time, công ty quảng cáo hàng đầu của Mỹ
Ogilvy&Mathew, Công ty Interpublic, Hãng nước ngọt Coca-Cola, American
Express, Walt Disney và Gillette… Đó là chưa kể tới một số công ty nho nhỏ
cỡ Geico hay General Re… Và rất có thể vào một ngày nào đó, trong một tình
huống đặc biệt, biết đâu ông còn mua cả những hãng sản xuất đồ lót? Những
công ty và tập đoàn lớn do ông sở hữu và nắm giữ cổ phần, đã vẽ nên bức
chân dung về ông, khó có thể đếm hết.
Cẩm nang doanh nhân

Với Carlos Slim, cách mà ông vươn lên vị trí thứ ba trong bảng xếp hạng này
lại có phần hơi khác. Carlos Slim không chỉ đáng chú ý vì khối lượng tài sản
ước tính lên tới 49 tỷ đô la, mà còn vì ông là người đứng đầu danh sách 10 tỷ
phú kiếm tiền nhiều nhất trong năm. Carlos Slim là “ông trùm” trong lĩnh vực
truyền thông.

Không thỏa mãn với vị trí là nhà cung cấp các dịch vụ truyền thông lớn nhất
Mexico, chủ hãng Telefonos de Mexico (Telmex) này còn có tham vọng mở
rộng chi nhánh ra nhiều nước khác trên thế giới, mà trước hết là thị trường
châu Mỹ La tinh. Năm 2003, Carlos Slim đã mua đứt tập đoàn điện thoại di
động Bell South Sao Paulo của Brazil, đồng thời cũng đang nắm cổ phần chi
phối tập đoàn viễn thông lớn nhất của Brazil là Embratel Participa. Tập đoàn
viễn thông Mỹ MCI đã phải bán số cổ phần mà MCI đang nắm giữ cho Telmex
sau khi tập đoàn viễn thông của Carlos Slim thắng trong một đợt đấu thầu

công khai.

Có thể nói tin học, viễn thông là hai lĩnh vực mà Carlos Slim dành nhiều công
sức để đầu tư vào nhất và chúng cũng đem lại cho ông những kết quả mỹ
mãn. Nếu nhiều người gọi Warren Buffett là người đàn ông có phép lạ với các
đồng đôla, thì Carlos Slim là huyền thoại về người “động vào cái gì, cái đó
biến thành vàng”.

Cách họ làm giàu

Hai người đàn ông này đã “giăng lưới” như thế nào mà có thể kiếm được
nhiều tiền đến vậy, ngay cả trong những lĩnh vực mà trước họ chẳng ai nhìn
thấy tiền đồ phát triển. Họ đã làm được điều đó bằng hai nguyên tắc đơn
giản: Mua những công ty khi giá của nó rẻ và tập trung vào các hoạt động
kinh doanh có tiềm năng phát triển.

Buffett đã tạo ra một khối lượng của cải đáng kể khi ông mua lạ
i 5% tổng số
cổ phiếu của hãng American Express khi hãng này đang rơi vào tình trạng nợ
nần. Trong bức tranh tranh tối trang sáng của thị trường vào năm 1964, ông
đã mua cổ phiếu của hãng này với giá rẻ bất ngờ. Ông nhận ra rằng đây vẫn
là một công ty có thương hiệu mạnh và có cơ hội làm ra tiền. Khi ông mua,
giá mỗi cổ phiếu chỉ có 35 USD, nhưng chỉ năm năm sau, giá của chúng đã
lên đến 189 USD.

Còn đố
i với Slim, cơ hội lớn đầu tiên đã đến với ông vào thời kỳ khủng hoảng
kinh tế diễn ra năm 1982 tại Mexico. Khi đó, các nhà đầu tư nước ngoài tại
nước này tìm cách chạy trốn khỏi đây vì hoảng sợ. Slim đã nhận định rằng:
“Giá trị thấp của rất nhiều công ty tại thời điểm này là bất hợp lý”. Ông đã tìm

cách mua những công ty được rao bán với giá rất rẻ lúc đó và thu về không
biết bao nhiêu lợi nhuận.

Đến năm 1990, Carlos Slim cũng mới chỉ được biết đến ở Mexico là chính. Chỉ
đến khi trở thành ông chủ của Tập đoàn viễn thông Telmex lớn nhất châu Mỹ
Cẩm nang doanh nhân
La tinh thì thế giới mới giật mình vì Mexico cũng có một đại gia kinh doanh.
Cơ hội đến với ông khi Nhà nước Mexico quyết định tư nhân hóa công ty điện
thoại và viễn thông quốc gia. Chẳng phải là một chuyên gia kỹ thuật, nhưng
Carlos Slim táo bạo đến liều lĩnh, bỏ hết tiền vốn của mình để lao vào đấu
thầu. Cuối cùng, với 1,7 tỷ đôla, ông đã mua gần như toàn bộ cổ phiếu của
tập đoàn này. Giá khi đó của một cổ phiếu của Telmex có 0,8 cent. Còn bây
giờ giá của chúng trên thị trường chứng khoán đã tăng gấp 45-50 lần so với
thời điểm đó.

Nếu nói về điểm chung của hai nhà tỷ phú Warren Buffett và Carlos Slim, thì
đó là cách tận dụng thời cơ và đi trước đón đầu. Bill Gates, tỷ phú giầu nhất
hành tinh cũng không nằm ngoài quy luật ấy.
Cẩm nang doanh nhân
Nghệ thuật đặt tên công ty như thế nào?
Có cả một bộ môn khoa học về cách đặt tên cho công ty và sản phẩm/dịch
vụ. Ở Việt Nam mọi người còn ít biết đến chuyên ngành khoa học này. Đôi khi
cũng xuất hiện những cái tên thành công nhưng phần nhiều là do các ông
chủ ngẫu nhiên chọn được. Hơn nữa, bộ môn khoa học này còn chứng minh
rằng: khi tạo ra một cái tên cần phải cân nhắc đến rất nhiều yếu tố marketing
khác.

Ai là các khách hàng tiềm năng của bạn? Điểm khác biệt của công ty bạn so
với các đối thủ cạnh tranh khác là gì? Bạn muốn truyền tải thông điệp nào
đến với khách hàng thông qua cái tên của mình? Liệu một cái tên êm ái du

dương đã đủ thỏa mãn những yêu cầu về kinh doanh của công ty? Khi trả lời
các câu hỏi này cộng với việc nắm vững những nguyên tắc chính của khoa
học đặt tên, thì việc tìm được một cái tên thành công không phải là quá phức
tạp. Và sau đây là những nguyên tắc chính của nghệ thuật đặt tên:

Tạo ra ấn tượng dễ chịu

Ấn tượng đầu tiên mà một cái tên cần có là làm cho các khách hàng và đối
tác nảy sinh mong được tiếp cận với công ty của bạn. Ấn tượng được tạo
thành từ cảm giác và những hình ảnh hiện lên trong nhận thức của mọi
người. Ví dụ, nếu một công ty chuyên tổ chức các buổi lễ hội thì với cái tên
“Tết” là rất thích hợp. Chỉ cần nghe thấy từ “Tết”, trong đầu mọi người đã
xuất hiện nhiều hồi tưởng dễ chịu. Những cái tên tương tự có thể tự động tạo
ra một hình ảnh có lợi cho công ty. Khi làm được điều này, có thể coi các ông
chủ đã có trong tay một tấm “bùa hộ mệnh”.

Ngược lại những từ ngữ làm liên tưởng đến s
ự mất mát và đau khổ có thể
làm hỏng uy tín công ty bạn. Thậm chí, một ý tưởng kinh doanh tuyệt vời
cũng chưa chắc đã cứu vãn được. Cũng vì l do này mà bạn phải đặc biệt cẩn
trọng với những với cái tên nước ngoài. Ví dụ, một người để bắt tay vào kinh
doanh đã mua dịch vụ một công ty “có sẵn” mang tên «Red grave», trong khi
bản thân anh ta không biết tiếng Anh và cũng không hề nghĩ đến đi
ều này
khi k ý kết hợp đồng mua bán.

Khi về đến trụ sở công ty, anh ta đưa giấy tờ cho một cộng sự của mình, anh
bạn tái mặt hỏi: “Cậu có bị điên không? «Grave» có nghĩa là nhà mồ”. Lúc

×