========================CHƯƠNG I -Khái niệm Luật dân sự Việt Nam
CHƯƠNG I
KHÁI NIỆM VỀ LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
A. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU CHỈNH CỦA LUẬT DÂN SỰ
Để quản lí xã hội bằng pháp luật và không ngừng nâng cao tính thực thi của các văn
bản pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta chủ trương
xây dựng một hệ thống pháp luật ngày càng hoàn chỉnh, phản ánh tốt hơn đường lối của
Đảng trong công cuộc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay. Với mục tiêu đó, động lực chính của sự phát triển là vì con người, do
con người, đặt con người vào vị trí trung tâm, giải phóng sức sản xuất, khơi dậy mọi tiềm
năng của mỗi cá nhân, mỗi tập thể lao động và của cả cộng đồng dân tộc; động viên và
tạo mọi điều kiện cho mọi người Việt Nam phát huy ý chí tự lực, tự cường, cần kiệm xây
dựng tổ quốc, ra sức làm giàu cho mình và cho đất nước. Trong đó, mọi người được tự do
kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp.
Hệ thống pháp luật của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm
nhiều ngành luật, điều chỉnh các quan hệ xã hội đa dạng, phức tạp. Trong đó, mỗi ngành
luật điều chỉnh những nhóm quan hệ xã hội nhất định. Những nhóm quan hệ xã hội do
một ngành luật điều chỉnh được gọi là đối tượng điều chỉnh của ngành luật đó. Để điều
chỉnh các quan hệ xã hội, Nhà nước sử dụng các biện pháp tác động khác nhau, hướng
cho các quan hệ xã hội phát sinh, thay đổi, chấm dứt phù hợp với ý chí của Nhà nước.
Phương pháp tác động của Nhà nước lên các quan hệ xã hội có những đặc thù khác nhau
phụ thuộc vào các quan hệ xã hội cần điều chỉnh bằng pháp luật.
I. ĐỐI TƯỢNG ĐIỀU CHỈNH CỦA LUẬT DÂN SỰ
Đối tượng điều chỉnh của luật dân sự là những nhóm quan về nhân thân và tài sản
trong quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (Điều 1 Bộ
luật dân sự - BLDS năm 2005). Với quy định này, luật dân sự nói chung và BLDS năm
2005 nói riêng đã mở rộng phạm vi điều chỉnh đến các quan hệ thuộc lĩnh vực luật tư và
trở thành luật chung có thể được áp dụng trong các lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động. Trong trường hợp các văn bản pháp luật chuyên biệt
không quy định trực tiếp để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực đó thì các quy
định của BLDS năm 2005 sẽ điều chỉnh.
1. Quan hệ tài sản
Quan hệ tài sản là quan hệ giữa người với người thông qua một tài sản. Quan hệ tài
sản bao giờ cũng gắn với một tài sản nhất định được thể hiện dưới dạng này hay dạng
khác.
Tài sản (được khái quát chung ở Điều 163 BLDS năm 2005) bao gồm: Vật, tiền, giấy
tờ có giá và các quyền tài sản. Quan niệm về tài sản không chỉ bó hẹp ở những vật vô tri
mà còn hàm chứa nội dung xã hội là những quan hệ xã hội liên quan đến một tài sản.
Tài sản không chỉ bao gồm vật thuộc về ai, do ai chiếm hữu, sử dụng, định đoạt mà
còn bao gồm cả việc dịch chuyển những tài sản đó từ chủ thể này sang chủ thể khác,
============================================================
1
========================CHƯƠNG I -Khái niệm Luật dân sự Việt Nam
quyền yêu cầu của một hay nhiều chủ thể và nghĩa vụ tương ứng với các quyền yêu cầu
đó của một hay nhiều chủ thể khác trong quan hệ nghĩa vụ cũng được coi là tài sản. Quan
hệ tài sản rất đa dạng và phức tạp bởi các yếu tố cấu thành nên các quan hệ đó bao gồm:
chủ thể tham gia, khách thể được tác động và nội dung của các quan hệ đó.
- Quan hệ tài sản phát sinh giữa các chủ thể là những quan hệ kinh tế cụ thể trong quá
trình sản xuất, phân phối, lưu thông và tiêu thụ sản phẩm cũng như cung ứng dịch vụ
trong xã hội. Quan hệ tài sản luôn gắn liền với quan hệ sản xuất và phù hợp với quan hệ
sản xuất vốn là hạ tầng của xã hội. Quan hệ sản xuất tồn tại không phụ thuộc vào ý chí
của con người mà nó phát sinh, phát triển theo những quy luật khách quan. Nhưng những
quy luật này được nhận thức và phản ánh thông qua những quy phạm pháp luật lại mang
tính chủ quan chủ quan - ý chí của giai cấp thống trị phản ánh sự tồn tại xã hội thông qua
các quy phạm pháp luật. Mỗi chủ thể tham gia vào một quan hệ kinh tế cụ thể đều đặt ra
những mục đích và với động cơ nhất định. Bởi vậy, quan hệ tài sản mà các chủ thể tham
gia mang ý chí của các chủ thể, phù hợp với ý chí của các chủ thể tham gia và phải phù
hợp với ý chí của Nhà nước thông qua các quy phạm pháp luật dân sự. Nhà nước dùng
các quy phạm pháp luật dân sự tác động lên các quan hệ kinh tế, hướng cho các quan hệ
này phát sinh, thay đổi theo ý chí của Nhà nước. Vì vậy, sự tác động của Nhà nước thông
qua các quy phạm pháp luật dân sự có ý nghĩa quan trọng trong việc định hướng cho các
quan hệ tài sản phát triển. Nếu sự định hướng phù hợp với những quy luật khách quan
của sự phát triển thì sẽ thúc đẩy quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất phát triển và
ngược lại sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Có thể nói rằng quan hệ tài sản là biểu hiện ý chí của chủ thể, của nhà nước về quan hệ
sản xuất trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Trong giai đoạn hiện nay, khi chúng ta đang
xây dựng và hình thành nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu và hình
thức kinh doanh thì việc xác định các quan hệ tài sản phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất là một định hướng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, có tác dụng thúc
đẩy mạnh mẽ nền sản xuất xã hội.
- Quan hệ tài sản do luật dân sự điều chỉnh mang tính chất hàng hóa và tiền tệ. Định
hướng chiến lược của nước ta hiện nay là phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa (Điều 15 Hiến pháp năm 1992).
Trong mô hình kinh tế này, các tài sản được thể hiện dưới dạng hàng hóa và được quy
thành tiền. Sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ để bán, để trao đổi là đặc trưng của nền sản
xuất này. Nó tạo động lực cho mọi cá nhân và tổ chức, khơi dậy mọi tiềm năng của họ,
phát huy ý chí tự lực, tự cường ra sức làm giàu cho mình và cho đất nước. Nhưng nền
kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị trường cũng có những mặt trái của nó (cạnh tranh không
lành mạnh, phân hoá giàu nghèo…). Cho nên, khuyến khích tính năng động, sáng tạo đi
đôi với thiết lập trật tự kỉ cương trong hoạt động kinh tế, bảo đảm cho mọi đơn vị kinh tế,
không phân biệt quan hệ sở hữu đều hoạt động theo cơ chế tự chủ kinh doanh, hợp tác và
cạnh tranh với nhau, bình đẳng trước pháp luật. Bởi vậy, cần phải có hành lang pháp lí
vừa mềm dẻo, linh hoạt, vừa chặt chẽ mới có thể đáp ứng được các yêu cầu trên. Hơn nữa
chúng ta đang trong quá trình hội nhập quốc tế trên nhiều lĩnh vực, do vậy pháp luật nói
chung và pháp luật dân sự nói riêng còn phải tương thích với pháp luật của các nước trên
thế giới và trong khu vực.
============================================================
2
========================CHƯƠNG I -Khái niệm Luật dân sự Việt Nam
- Quy luật của nền kinh tế thị trường trong sản xuất xã hội chi phối các quan hệ tài sản
mà một trong các biểu hiện của nó là quan hệ tiền - hàng. Sự trao đổi hàng hóa và dịch vụ
trong nền kinh tế thị trường chủ yếu thông qua hình thức tiền - hàng. Khái niệm hàng hóa
càng ngày càng được mở rộng cùng với sự chuyên môn hóa của nền sản xuất, cùng với
sự phát triển của khoa học - kĩ thuật và quan niệm xã hội về các đối tượng trao đổi.
- Sự đền bù tương đương trong trao đổi là biểu hiện của quan hệ hàng hóa và tiền tệ,
là đặc trưng của quan hệ dân sự theo nghĩa rộng. Nhưng không phải tất cả sự dịch chuyển
tài sản, dịch vụ đều có sự đền bù tương đương như: cho, tặng, thừa kế, sử dụng các tác
phẩm văn học nghệ thuật Nhưng các quan hệ này không phải là quan hệ cơ bản và
không phổ biến trong trao đổi; nó không chỉ đơn thuần là quan hệ pháp luật mà còn bị chi
phối bởi nhiều quan hệ xã hội khác (truyền thống, phong tục ).
2. Quan hệ nhân thân
Cùng với quan hệ tài sản, luật dân sự còn điều chỉnh các quan hệ nhân thân (Điều 1
BLDS năm 2005). Quan hệ nhân thân là quan hệ giữa người với người về một giá trị
nhân thân của cá nhân hay các tổ chức. Việc xác định một giá trị nhân thân là quyền nhân
thân phải được pháp luật thừa nhận như một quyền tuyệt đối của một cá nhân, tổ chức.
Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với một chủ thể, về nguyên tắc không thể
chuyển giao cho chủ thể khác. Đó là một quyền dân sự tuyệt đối, mọi người đều có nghĩa
vụ tôn trọng quyền nhân thân của người khác.
Các quyền nhân thân được nhiều ngành luật điều chỉnh. Luật hành chính quy định về
trình tự, thủ tục để xác định các quyền nhân thân như: phong các danh hiệu cao quý của
Nhà nước; tặng thưởng các loại huân, huy chương; công nhận các chức danh Luật hình
sự bảo vệ các giá trị nhân thân bằng cách quy định: những hành vi nào khi xâm phạm đến
những giá trị nhân thân nào được coi là tội phạm (như các tội: Vu khống, làm nhục người
khác, làm hàng giả ).
Luật dân sự điều chỉnh các quan hệ nhân thân bằng cách quy định những giá trị nhân
thân nào được coi là quyền nhân thân, trình tự thực hiện, giới hạn của các quyền nhân
thân đó, đồng thời quy định các biện pháp thực hiện, bảo vệ các quyền nhân thân (Điều
25 BLDS năm 2005).
Các quan hệ nhân thân xuất phát từ quyền nhân thân do luật dân sự điều chỉnh có thể
chia làm hai nhóm:
- Quan hệ nhân thân gắn với tài sản;
- Quan hệ nhân thân không gắn với tài sản.
Những quan hệ nhân thân do luật dân sự điều chỉnh có những đặc điểm sau:
- Quyền nhân thân luôn gắn liền với một chủ thể nhất định và không thể dịch chuyển
được cho các chủ thể khác. Tuy nhiên, trong những trường hợp nhất định có thể được
dịch chuyển. Những trường hợp cá biệt này phải do pháp luật quy định (quyền công bố
tác phẩm của tác giả các tác phẩm, các đối tượng sở hữu công nghiệp ).
- Quyền nhân thân không xác định được bằng tiền - Giá trị nhân thân và tiền tệ không
phải là những đại lượng tương đương và không thể trao đổi ngang giá. Các quyền nhân
============================================================
3
========================CHƯƠNG I -Khái niệm Luật dân sự Việt Nam
thân không gắn với tài sản như danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân, danh dự, uy tín
của tổ chức; quyền đối với họ, tên; thay đổi họ tên; quyền xác định dân tộc, thay đổi dân
tộc; quyền đối với hình ảnh; với bí mật đời tư; quyền kết hôn, li hôn… (từ Điều 24 đến
Điều 51 BLDS). Luật dân sự ghi nhận những giá trị nhân thân được coi là quyền nhân
thân và quy định các biện pháp bảo vệ các giá trị nhân thân đó. Mỗi chủ thể có những giá
trị nhân thân khác nhau nhưng được bảo vệ như nhau khi các giá trị đó bị xâm phạm. Khi
quyền nhân thân bị xâm phạm thì chủ thể có quyền tự mình cải chính, yêu cầu người có
hành vi xâm phạm hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền buộc người vi phạm
chấm dứt hành vi vi phạm: xin lỗi, cải chính công khai; tự mình cải chính trên các
phương tiện thông tin đại chúng; yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu toà án buộc người
vi phạm phải bồi thường một khoản tiền để bù đắp những tổn thất về tinh thần.
Các quan hệ nhân thân gắn với tài sản là những giá trị nhân thân khi được xác lập làm
phát sinh các quyền tài sản. Quyền nhân thân là tiền đề làm phát sinh các quyền tài sản
khi có những sự kiện pháp lí nhất định như tác giả các tác phẩm văn học, nghệ thuật,
khoa học kĩ thuật; quyền tác giả các sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp
được hưởng tiền nhuận bút; thù lao; được hưởng tiền do áp dụng các đối tượng sở hữu
công nghiệp nêu trên.
II. PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU CHỈNH CỦA LUẬT DÂN SỰ
Pháp luật không tạo ra các quan hệ xã hội mà chỉ điều chỉnh các quan hệ xã hội. Cơ
chế điều chỉnh các quan hệ xã hội rất phức tạp bao gồm một hệ thống cơ quan, tổ chức sử
dụng các biện pháp, cách thức tác động vào hành vi của các chủ thể, định hướng cách xử
sự của các chủ thể tham gia vào các quan hệ đó. Tùy theo các nhóm quan hệ xã hội cần
điều chỉnh mà Nhà nước lựa chọn các biện pháp tác động khác nhau lên các quan hệ đó.
Phương pháp điều chỉnh của luật dân sự là những cách thức, biện pháp mà Nhà nước
tác động lên các quan hệ tài sản, các quan hệ nhân thân làm cho các quan hệ này phát
sinh, thay đổi, chấm dứt theo ý chí của Nhà nước phù hợp với ba lợi ích (nhà nước, xã
hội và cá nhân).
Luật dân sự điều chỉnh các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân theo nghĩa rộng bao
gồm các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động trong
nền kinh tế thị trường. Ở đó, các cá nhân, tổ chức không phụ thuộc vào hình thức sở hữu,
hoạt động theo cơ chế tự chủ kinh doanh, hợp tác và cạnh tranh với nhau.
Phương pháp điều chỉnh của luật dân sự có những đặc điểm sau:
- Các chủ thể tham gia các quan hệ tài sản và các quan hệ nhân thân do luật dân sự
điều chỉnh độc lập về tổ chức và tài sản, bình đẳng với nhau về địa vị pháp lí. Độc lập về
tổ chức và tài sản là tiền đề tạo ra sự bình đẳng trong các quan hệ mà các chủ thể tham
gia. Bởi các quan hệ tài sản mà luật dân sự điều chỉnh mang tính chất hàng hóa - tiền tệ
và đền bù tương đương là đặc trưng khi trao đổi. Nếu không độc lập về tài sản và bình
đẳng về địa vị pháp lí thì sẽ không tạo ra sự đền bù tương đương. Sự bình đẳng và độc
lập được thể hiện ngay cả trong trường hợp các chủ thể có các mối quan hệ khác mà họ
không bình đẳng (trong quan hệ hành chính, lao động ) và chính sự bình đẳng, độc lập
của các chủ thể mới tạo được tiền đề cho sự tự định đoạt sau này.
============================================================
4
========================CHƯƠNG I -Khái niệm Luật dân sự Việt Nam
- Tự định đoạt của các chủ thể trong việc tham gia các quan hệ tài sản. Khi tham gia
vào các quan hệ tài sản, mỗi chủ thể đều đặt ra những mục đích với những động cơ nhất
định. Bởi vậy, việc lựa chọn một quan hệ cụ thể do các chủ thể tự quyết định, căn cứ vào
khả năng, điều kiện, mục đích mà họ tham gia vào các quan hệ đó. Khi tham gia vào các
quan hệ cụ thể, các chủ thể tùy ý theo ý chí của mình lựa chọn đối tác sẽ tham gia, nội
dung quan hệ mà họ tham gia, cách thức, biện pháp thực hiện các quyền và nghĩa vụ.
Trong nhiều trường hợp, các chủ thể có thể tự đặt ra các biện pháp bảo đảm, hình thức và
phạm vi trách nhiệm, cách thức áp dụng trách nhiệm khi bên này hay bên kia không thực
hiện hay thực hiện không đúng thoả thuận.
Tuy nhiên, việc tự định đoạt của các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ không
đồng nghĩa với tự do, tùy tiện trong việc tạo lập, thay đổi, chấm dứt các quan hệ đó. Đặc
điểm chung các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân là đa dạng, phức tạp. Bởi vậy, các
quy phạm pháp luật không thể dự liệu hết được các quan hệ đang tồn tại và phát triển.
Cho nên, pháp luật đưa ra những giới hạn, vạch ra những hành lang an toàn, cần thiết,
trong đó các chủ thể có quyền tự do hành động. Giới hạn đó được xác định bởi các nguyên
tắc được quy định trong BLDS và thể hiện rõ nét nhất ở Điều 10 BLDS năm 2005: “Việc
xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà
nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác”. Khi vi phạm nguyên tắc
này, làm thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể khác sẽ bị coi là vi phạm pháp
luật dẫn đến hậu quả pháp lí, phải bồi thường thiệt hại. Quyền tự định đoạt của chủ thể bị
hạn chế bởi hành lang pháp lí do pháp luật quy định. Cam kết, thoả thuận là tự nguyện
nhưng sau khi đã tự nguyện cam kết, thoả thuận các chủ thể buộc phải tham gia vào quan
hệ dân sự đó. Mặt khác, trong một số trường hợp nhằm bảo vệ quyền lợi của một số chủ
thể nhất định, pháp luật đã hạn chế quyền tự định đoạt đó (như quy định về điều kiện
chuyển quyền sử dụng đất, về người được hưởng di sản không phụ thuộc nội dung của di
chúc ).
- Xuất phát từ sự bình đẳng giữa các chủ thể, quyền tự định đoạt của họ khi tham gia
các quan hệ dân sự, cho nên, đặc trưng của phương pháp giải quyết các tranh chấp dân sự
là hòa giải. Đây là nguyên tắc được quy định tại Điều 12 BLDS - Nguyên tắc hòa giải.
Việc thực hiện hay từ chối một quyền tài sản của các chủ thể thuộc phạm vi tự định đoạt
của họ (tuy nhiên, chỉ trong trường hợp quyền của họ không đồng thời là nghĩa vụ mà
pháp luật quy định). Cho nên, việc giải quyết các tranh chấp dân sự do các bên tự thoả
thuận. Nếu không thể thoả thuận hoặc hòa giải được, toà án chỉ giải quyết trong phạm vi
yêu cầu của nguyên đơn.
- Các quan hệ mà luật dân sự điều chỉnh chủ yếu là các quan hệ tài sản mang tính chất
hàng hóa và tiền tệ, việc vi phạm nghĩa vụ của một bên trong quan hệ đó dẫn đến thiệt hại
về tài sản đối với bên kia. Bởi vậy, trách nhiệm dân sự trước tiên là trách nhiệm tài sản.
Trách nhiệm của bên vi phạm đối với bên bị vi phạm và hậu quả của việc áp dụng trách
nhiệm là phục hồi tình trạng tài sản của bên bị thiệt hại. Trong quan hệ dân sự, các chủ
thể có quyền tự định đoạt. Cho nên, họ có thể quy định trách nhiệm và phương thức áp
dụng trách nhiệm cùng hậu quả của nó (những thoả thuận này phải phù hợp với pháp
luật). Bởi vậy, trách nhiệm dân sự không chỉ do pháp luật quy định mà còn do các bên
============================================================
5
========================CHƯƠNG I -Khái niệm Luật dân sự Việt Nam
thoả thuận về điều kiện phát sinh và hậu quả của nó.
III. ĐỊNH NGHĨA LUẬT DÂN SỰ, PHÂN BIỆT LUẬT DÂN SỰ VỚI CÁC
NGÀNH LUẬT KHÁC
Theo truyền thống trong khoa học pháp lí, một ngành luật được xác định và phân biệt
với ngành luật khác căn cứ vào đối tượng điều chỉnh và các đặc điểm phương pháp điều
chỉnh của nó. Dựa vào đối tượng điều chỉnh và những nét đặc trưng cơ bản của phương
pháp điều chỉnh của luật dân sự có thể định nghĩa luật dân sự như sau:
Luật dân sự là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam - tổng hợp các quy
phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ tài sản mang tính chất hàng hóa-tiền tệ và các
quan hệ nhân thân trên cơ sở bình đẳng, độc lập của các chủ thể khi tham gia vào các
quan hệ đó.
Việc phân biệt ngành luật này với ngành luật khác cũng dựa vào đối tượng điều chỉnh,
phương pháp điều chỉnh và những đặc điểm của nó.
+ Chúng ta dễ dàng phân biệt luật dân sự với luật hành chính. Luật hành chính điều
chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực điều hành và quản lí nhà nước. Các chủ thể tham
gia không bình đẳng về địa vị pháp lí và không thể thoả thuận trong việc xác lập, thay
đổi, chấm dứt quan hệ hành chính mà được xác lập dựa trên các quy định của pháp luật.
+ Luật hình sự có nhiệm vụ bảo vệ các quan hệ xã hội bằng cách quy định những
hành vi nào bị coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội đồng thời quy định hình phạt tương
ứng với mức độ nguy hiểm của hành vi đó. Mặc dù việc áp dụng các biện pháp cưỡng
chế do luật hình sự quy định là sự cưỡng chế của Nhà nước nhưng những biện pháp này
trước tiên là trách nhiệm của cá nhân với xã hội, với Nhà nước nói chung. Chức năng
chủ yếu của hình phạt là trừng phạt và giáo dục; còn trong dân sự, trách nhiệm tài sản
trước tiên là trách nhiệm của chủ thể này đối với chủ thể khác và mục đích chủ yếu của
nó là phục hồi tình trạng tài sản của bên bị thiệt hại.
+ Luật dân sự được coi là luật chung trong lĩnh vực luật tư, bao gồm các quy định liên
quan đến quyền lợi của chủ thể và về nguyên tắc có thể thay đổi bằng sự thoả thuận của
các bên. Do sự phát triển của xã hội cũng như khoa học pháp lí, trên cơ sở của luật dân sự
đã phát triển thêm những lĩnh vực pháp luật khác (như luật thương mại). Trong các giao
lưu dân sự, có những quan hệ được coi là quan hệ thương mại. Đây là những quan hệ đặc
thù được điều chỉnh bởi luật thương mại. Khi điều chỉnh các quan hệ thương mại, nếu
không có quy phạm pháp luật trực tiếp điều chỉnh thì áp dụng các quy định của BLDS
năm 2005 để điều chỉnh các quan hệ đó.
+ Luật lao động được tách ra từ luật dân sự khi sức lao đông trở thành hàng hoá trong
xã hội tư bản. Đối tượng điều chỉnh của luật lao động là bản thân quá trình lao động mà
không phải là kết quả của quá trình đó giữa người lao động và người sử dụng lao động.
Khi các quan hệ lao động không có quy phạm pháp luật trực tiếp điều chỉnh thì sẽ áp
dụng các quy định của BLDS năm 2005 để điều chỉnh các quan hệ đó.
+ Luật hôn nhân và gia đình được tách ra từ luật dân sự - điều chỉnh các quan hệ nhân
thân và tài sản giữa vợ - chồng và các thành viên trong gia đình, trong đó quan hệ nhân
============================================================
6
========================CHƯƠNG I -Khái niệm Luật dân sự Việt Nam
thân giữa vợ - chồng là trung tâm, quyết định các quan hệ khác. Các quan hệ tài sản mà
luật hôn nhân và gia đình điều chỉnh giữa các chủ thể không độc lập về tài sản và không
thể áp dụng nguyên tắc đền bù tương đương. Tài sản của vợ, chồng tạo ra trong thời kì
hôn nhân là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng. Luật dân sự điều chỉnh
các quan hệ tài sản riêng của vợ, chồng và các thành viên khác trong gia đình. Trong
trường hợp không có quy định trong luật hôn nhân và gia đình, sẽ sử dụng các quy định
trong BLDS năm 2005 để điều chỉnh các quan hệ đó.
+ Luật tố tụng dân sự được coi là luật hình thức của luật dân sự và luật hôn nhân và
gia đình, luật kinh tế, luật lao động; quy định trình tự, thủ tục giải quyết các tranh chấp
dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động. Luật tố tụng dan sự điều chỉnh các quan
hệ giữa các chủ thể tham gia tố tụng.
B. NGUỒN CỦA LUẬT DÂN SỰ
I. KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI NGUỒN CỦA LUẬT DÂN SỰ
1. Khái niệm nguồn của luật dân sự
Nguồn của pháp luật đã được nghiên cứu trong lí luận chung về nhà nước và pháp
luật. Về mặt xã hội học, nguồn của pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị đưa lên thành
luật mà nội dung được xác định bởi các điều kiện chính trị, kinh tế tồn tại trong xã hội
cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật. Pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị đưa
thành luật, thể hiện quan điểm giai cấp về hình mẫu xã hội, trong đó các quan hệ xã hội
nào được điều chỉnh bằng pháp luật và với phương thức nào là do giai cấp thống trị quy
định thông qua hoạt động lập pháp của nhà nước.
Mỗi ngành luật là tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định cách thức xử sự của các
chủ thể tham gia vào các quan hệ đó phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị. Trong
điều kiện của chúng ta hiện nay - Đảng "là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội "
(Điều 4 Hiến pháp năm 1992), là đại biểu trung thành của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động, của dân tộc thì pháp luật là sự thể chế hóa đường lối của Đảng trong từng giai
đoạn cách mạng. Đường lối, chủ trương của Đảng được các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền thể chế hóa bằng quá trình lập pháp. Bởi vậy, "Nhà nước ta phải có đủ quyền lực
và đủ khả năng định ra luật pháp và tổ chức, quản lí mọi mặt đời sống bằng pháp
luật”.
(1)
Nguồn của luật dân sự hiểu theo nghĩa hẹp là những văn bản pháp luật (hình thức của
pháp luật) do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ tài
sản và các quan hệ nhân thân. Một văn bản được coi là nguồn của luật dân sự phải đáp
ứng những yêu cầu sau đây:
- Văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành;
- Chứa đựng các quy phạm pháp luật dân sự;
- Phải ban hành theo trình tự, thủ tục do luật định.
2. Phân loại nguồn của luật dân sự
Theo nguyên tắc chung, các quy phạm pháp luật dân sự đều có hiệu lực bắt buộc thi
hành. Nhưng căn cứ vào hình thức của văn bản, cơ quan ban hành và hiệu lực pháp luật
(1)
. Văn kiện Đại hội Đảng thời kì đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, H., 2006, tr. 328.
============================================================
7
========================CHƯƠNG I -Khái niệm Luật dân sự Việt Nam
của văn bản, nguồn của luật dân sự có thể được chia thành các loại sau:
- Hiến pháp;
- BLDS;
- Các luật, bộ luật liên quan;
- Các văn bản dưới luật.
a. Hiến pháp
Hiến pháp là đạo luật cơ bản, đạo luật gốc của một quốc gia, là "xương sống, trụ cột"
của hệ thống pháp luật, là cơ sở xây dựng các văn bản pháp luật khác. Hiến pháp là đạo
luật cơ bản của hệ thống pháp luật, căn cứ vào quy định của Hiến pháp, các ngành luật cụ
thể hóa bằng các quy định để tác động tới các quan hệ mà nó có nhiệm vụ điều chỉnh.
Đối với luật dân sự, Hiến pháp là một nguồn đặc biệt quan trọng mặc dù Hiến pháp
chỉ quy định những vấn đề chung nhất của luật dân sự. Hiến pháp năm 1992 quy định
những nguyên tắc cơ bản của chế độ xã hội Việt Nam ở giai đoạn đầu thời kì quá độ tiến
lên chủ nghĩa xã hội với nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Trong Hiến pháp năm 1992, Chương II và Chương V có những
quy định liên quan nhiều nhất đến luật dân sự:
Chương II - Chế độ kinh tế: Xác định tính chất của nền kinh tế trong giai đoạn hiện
nay là "Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa", xác nhận sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, các hình thức sở hữu:
Nhà nước, tập thể, tư nhân
Chương V - Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân: Ngoài những quyền về chính
trị - xã hội, Hiến pháp còn xác nhận những quyền dân sự cơ bản của công dân, đó là
quyền tự do kinh doanh; quyền sở hữu những thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở;
quyền thừa kế, quyền bình đẳng về năng lực pháp luật của cá nhân; các quyền nhân thân
và quyền tài sản khác
b. Bộ luật dân sự
BLDS Là nguồn chủ yếu, trực tiếp và quan trọng nhất của luật dân sự. BLDS của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội khóa XI kì họp thứ 7 thông
qua ngày 14/6/2005 và được Chủ tịch nước kí lệnh công bố ngày 27/6/2005; có hiệu lực
thi hành từ ngày 01/01/2006 (BLDS năm 2005 được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở BLDS
năm 1995 đã qua đúc rút kinh nghiệm trong 10 năm thi hành và áp dụng BLDS năm
1995) .
Đây là bộ luật lớn nhất của Nhà nước ta về mọi phương diện: Phạm vi điều chỉnh,
thời gian chuẩn bị thông qua, số lượng điều luật BLDS đã thể chế hóa Cương lĩnh chiến
lược phát triển kinh tế xã hội, các nghị quyết của Đảng và cụ thể hóa Hiến pháp năm
1992 nhằm bảo vệ quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân
tộc, góp phần giải phóng sức sản xuất, khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi tầng
lớp dân cư sống và làm việc theo pháp luật, vì sự nghiệp phát triển đất nước, vì mục tiêu
dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh; xây dựng các chuẩn mực pháp lí cho
các tổ chức, cá nhân khi tham gia vào các quan hệ dân sự nhằm tăng cường quản lí xã hội
bằng pháp luật theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện truyền thống đoàn kết, tương
thân tương ái của dân tộc ta. BLDS góp phần hạn chế tranh chấp tiêu cực trong các quan
============================================================
8
========================CHƯƠNG I -Khái niệm Luật dân sự Việt Nam
hệ dân sự, bảo đảm dân chủ, công bằng, ổn định, đoàn kết trong nội bộ nhân dân, mỗi
người vì cộng đồng và cộng đồng vì mỗi người. Đồng thời, việc ban hành BLDS là thực
hiện một bước quan trọng pháp điển hóa pháp luật dân sự, khắc phục tình trạng tản mạn,
không đầy đủ của pháp luật trong lĩnh vực dân sự, nhằm phát huy vai trò tác dụng của
pháp luật dân sự trong việc đẩy mạnh các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
doanh, thương mại, lao động, tạo cơ sở thuận lợi cho việc áp dụng thi hành pháp luật.
BLDS cũng là sự kế thừa và phát triển của pháp luật dân sự của ông cha ta và những tinh
hoa của pháp luật dân sự trên thế giới vận dụng vào điều kiện cụ thể của chúng ta hiện
nay.
Nội dung chủ yếu của BLDS năm 2005: BLDS được kết cấu bởi bảy phần với 777
điều.
Phần thứ I: Những quy định chung được kết cấu bởi 9 chương với 162 điều.
Nội dung chủ yếu của phần này là xác định phạm vi điều chỉnh của BLDS năm 2005,
địa vị pháp của cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác với tư cách là chủ thể khi
tham gia các quan hệ dân sự. Đồng thời quy định những nguyên tắc cơ bản trong việc xác
lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự, giải quyết các tranh chấp và áp dụng luật
dân sự; quy định các căn cứ xác lập quyền và nghĩa vụ dân sự, là nền tảng của các quy
định cụ thể trong toàn Bộ luật. Ngoài ra còn quy định các quyền nhân thân của cá nhân
như họ tên…, nơi cư trú, tuyên bố chết, quy định về giao dịch dân sự, về đại diện, thời
hạn, thời hiệu.
Những quy định trong phần này mang tính chất chung, xuyên suốt toàn bộ nội dung của
BLDS và được cụ thể hóa tiếp theo trong tất cả các phần của BLDS nhằm bảo đảm tính
thống nhất về nội dung, tránh tình trạng trùng lặp không cần thiết.
Phần thứ hai: Tài sản và quyền sở hữu.
Phần này gồm 7 chương, 117 điều (từ Điều 163 đến Điều 279), quy định những
nguyên tắc cơ bản của quyền sở hữu, các loại tài sản, các hình thức sở hữu, nội dung
quyền sở hữu, các căn cứ xác lập, chấm dứt quyền sở hữu và bảo vệ quyền sở hữu. Đồng
thời chương XVI với tiêu đề "Những quy định khác về quyền sở hữu" quy định về giới
hạn của quyền sở hữu, những nghĩa vụ của chủ sở hữu khi thực hiện các quyền năng của
mình.
Xuất phát từ vai trò chi phối của cơ sở kinh tế hạ tầng đối với pháp luật, BLDS khẳng
định vị trí trung tâm của chế định quyền sở hữu trong các chế định luật dân sự. Trong
mọi xã hội, phương thức chiếm hữu của cải vật chất và chế độ sở hữu có ý nghĩa quyết
định. BLDS cụ thể hóa quy định về chế độ sở hữu mà Hiến pháp năm 1992 đã khẳng
định, tạo cơ sở pháp lí cho các quy định cụ thể ở các phần tiếp theo của BLDS và các văn
bản pháp luật khác về quan hệ tài sản. Những quy định ở phần này thể hiện tính định
hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm được quyền sở hữu của cá nhân, pháp nhân và các chủ
thể khác, khuyến khích phát triển tài sản, mở rộng đầu tư và phát triển sản xuất, kinh
doanh.
Phần thứ ba: Nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự.
Phần này gồm 5 chương, 351 điều (từ Điều 280 đến Điều 630). Đây là phần có số
điều luật lớn nhất của BLDS, quy định những căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ dân sự;
nguyên tắc xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt nghĩa vụ dân sự; các biện pháp bảo đảm
============================================================
9
========================CHƯƠNG I -Khái niệm Luật dân sự Việt Nam
thực hiện nghĩa vụ dân sự và trách nhiệm dân sự nói chung và trách nhiệm dân sự đối với
từng loại nghĩa vụ riêng biệt. Với tư cách là căn cứ chủ yếu, thông dụng và hợp pháp làm
phát sinh nghĩa vụ dân sự, hợp đồng dân sự được quy định tương xứng phù hợp với quy
mô của nó, bao gồm những quy định chung về hợp đồng và một số hợp đồng dân sự
thông dụng trong đời sống dân sự thường ngày.
Nghĩa vụ dân sự là loại quan hệ dân sự mang tính chất “động”, liên quan đến việc
dịch chuyển tài sản, dịch vụ từ chủ thể này sang chủ thể khác. Đối tượng của nghĩa vụ có
thể là tài sản, một việc phải làm hoặc không được làm. Tài sản và công việc được làm,
không được làm là những đối tượng của nghĩa vụ rất đa dạng, phức tạp, cho nên, các quy
định trong phần này của BLDS chủ yếu là những quy định khung có tính chất định tính
mà không thiên về định lượng. Bởi vậy, các nguyên tắc cơ bản được quy định là những
định hướng cho việc xác lập, thực hiện nghĩa vụ và xuyên suốt phần này của BLDS.
Những nguyên tắc cơ bản đó là:
- Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác có quyền tự do giao kết hợp đồng nhưng không
trái pháp luật và đạo đức xã hội trên cơ sở bình đẳng với nhau và bình đẳng trước pháp luật;
- Người có nghĩa vụ dân sự phải thực hiện nghĩa vụ của mình một cách trung thực,
theo tinh thần hợp tác, đúng cam kết, không trái pháp luật và đạo đức xã hội;
- Người nào hưởng lợi mà không có căn cứ thì phải hoàn trả lại;
- Người nào vi phạm quyền dân sự của người khác thì phải chịu trách nhiệm dân sự,
nếu gây thiệt hại phải bồi thường.
Những nguyên tắc cơ bản và các quy định trong phần này nhằm bảo đảm quyền và lợi
ích hợp pháp của các chủ thể tham gia quan hệ dân sự; bảo vệ lợi ích của Nhà nước và lợi
ích công cộng; góp phần đáp ứng các nhu cầu vật chất, tinh thần của nhân dân; đẩy mạnh
giao lưu dân sự trong nước cũng như với ngoài nước đồng thời giải phóng mọi lực lượng
sản xuất nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội ở nước ta.
Phần thứ tư: Thừa kế.
Phần này gồm 4 chương, 57 điều (từ Điều 634 đến 689) quy định việc dịch chuyển di
sản của người chết cho những người còn sống; về người để lại di sản, người hưởng di
sản; những nguyên tắc của việc dịch chuyển di sản và các trình tự dịch chuyển di sản;
thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. BLDS quy định những nguyên tắc cơ
bản của thừa kế là bình đẳng, quyền tự định đoạt của người có di sản để lại và của
người hưởng di sản. Nhằm bảo vệ quyền tự định đoạt của người có di sản, Bộ luật quy
định về việc thừa kế theo di chúc và các hình thức của di chúc, quyền của người lập di
chúc trong việc định đoạt tài sản của họ thông qua di chúc. Người thừa kế có quyền
nhận hay không nhận di sản thừa kế, nếu nhận di sản họ phải thực hiện nghĩa vụ của
người chết để lại trong phạm vi di sản đã nhận. Phần này cũng xác định những trường
hợp thừa kế theo luật, những người thừa kế và các hàng thừa kế; thừa kế thế vị và thừa
kế của những người liên quan. Ngoài ra, còn quy định về trình tự thanh toán di sản và
cách thức phân chia di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Phần thứ năm: Những quy định về chuyển quyền sử dụng đất.
Phần này gồm 8 chương, 48 điều (từ Điều 688 đến Điều 735). Đất đai là loại tài sản
đặc biệt thuộc chế độ sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lí. Luật đất đai năm
2003 quy định cá nhân, hộ gia đình có quyền sử dụng đất lâu dài, ổn định và có các
============================================================
10
========================CHƯƠNG I -Khái niệm Luật dân sự Việt Nam
quyền: chuyển nhượng, chuyển đổi, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho, góp vốn, thế chấp và
thừa kế quyền sử dụng đất. Khi quyền sử dụng đất được xác lập theo quy định của luật
đất đai thì các quyền đó là các quyền dân sự đặc thù. Phần thứ năm quy định những quy
tắc chung; những hợp đồng cũng như việc thừa kế quyền sử dụng đất.
Quy định chung về điều kiện, hình thức, thủ tục chuyển quyền sử dụng đất và cụ thể cho
từng loại chuyển quyền sử dụng đất có những đặc thù riêng. Những quy định về chuyển
quyền sử dụng đất là chế định mới trong luật dân sự. Những quy định này nhằm bảo vệ
quyền của những người có quyền sử dụng đất là cá nhân, hộ gia đình, phù hợp với các quan
hệ thực tế đang tồn tại nhưng cũng bảo vệ quyền lợi của Nhà nước và sự kiểm soát của Nhà
nước đối với loại tài sản đặc biệt này.
Phần thứ sáu: Quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ, gồm 3 chương, 22
điều (từ Điều 736 đến Điều 757).
Nội dung phần này quy định những quyền cơ bản của người tạo ra sản phẩm trí tuệ -
loại tài sản vô hình; đó là tác phẩm và các đối tượng sở hữu công nghiệp. Phần này quy
định các quyền nhân thân, quyền tài sản của tác giả; quyền của chủ sở hữu tác phẩm; quy
định về văn bằng bảo hộ và các quyền nghĩa vụ của những chủ thể liên quan; quy định về
trình tự, thủ tục chuyển giao các sản phẩm trí tuệ từ chủ thể này sang chủ thể khác thông
qua hợp đồng sử dụng tác phẩm và hợp đồng chuyển giao công nghệ. BLDS quy định
quyền tác giả, quyền chủ văn bằng bảo hộ từ góc độ là một quyền dân sự, còn các vấn đề
liên quan đến lĩnh vực quản lí nhà nước như: thủ tục đăng kí quyền tác giả và quyền sở
hữu công nghiệp hoặc xử lí vi phạm được quy định trong các văn bản pháp luật khác.
Phần thứ bảy: Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Gồm 20 điều (từ Điều 758 đến
Điều 777).
Phần này quy định về thẩm quyền và pháp luật được áp dụng khi giải quyết các tranh
chấp dân sự (hiểu theo nghĩa rộng) có yếu tố nước ngoài xảy ra.
c. Luật
Khi BLDS được ban hành với tư cách là nguồn chủ yếu quan trọng thì các đạo luật
khác có giá trị như là nguồn bổ trợ. Bởi vì, BLDS có quy định: Nếu pháp luật có quy định
hoặc trong BLDS chỉ dẫn rõ một đạo luật nào đó được áp dụng thì áp dụng quy định đó.
Với ý nghĩa đó, các luật như Luật hôn nhân và gia đình, Luật công ti, Luật doanh nghiệp ,
Luật phá sản doanh nghiệp, Luật đất đai, Luật bảo vệ và chăm sóc trẻ em, Luật về bảo vệ
và phát triển rừng là nguồn của luật dân sự.
d. Nghị quyết của Quốc hội
Văn bản do Quốc hội ban hành, có hiệu lực như văn bản pháp luật. Kể từ khi ban
hành BLDS, Quốc hội đã ban hành 2 nghị quyết có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với
luật dân sự. Nghị quyết ngày 28/10/1995 về việc thi hành BLDS. Nghị quyết đã liệt kê
những văn bản pháp luật hết hiệu lực khi BLDS bắt đầu có hiệu lực và quy định phạm vi
áp dụng BLDS để giải quyết các tranh chấp phát sinh trước ngày BLDS có hiệu lực; Nghị
quyết 58 ngày 20/8/1998 về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01/7/1991
có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến giao dịch dân sự
về nhà ở giai đoạn trước ngày 01/7/1991, nội dung có tính đến mọi mặt xã hội đối với
vấn đề nhà ở. Cùng với việc thông qua và công bố BLDS năm 2005 Quốc hội đã ban
============================================================
11
========================CHƯƠNG I -Khái niệm Luật dân sự Việt Nam
hành Nghị quyết số 45/2005/QH 11 về việc thi hành BLDS năm 2005.
đ. Các văn bản dưới luật
+ Pháp lệnh: Là văn bản do Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành. Trước đây, khi chưa
ban hành BLDS thì pháp lệnh là loại nguồn quan trọng phổ biến của luật dân sự. Nhưng
đến nay, các pháp lệnh đó không còn hiệu lực. Các pháp lệnh sau này có thể được ban hành
để giải thích, hướng dẫn cụ thể những quy định của BLDS hoặc pháp lệnh sẽ quy định
những lĩnh vực mà luật chưa đủ chín muồi để ban hành.
+ Nghị định của Chính phủ; quyết định của Thủ tướng Chính phủ; thông tư, chỉ thị của
các bộ, các cơ quan ngang bộ.
Các loại văn bản này có ý nghĩa với từng loại quan hệ trong một lĩnh vực cụ thể; có
nhiệm vụ hướng dẫn, giải thích những quy định của BLDS. Những quy định của các bộ,
cơ quan ngang bộ được áp dụng giải quyết cho các quan hệ tương ứng.
+ Nghị quyết Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, các báo cáo tổng kết của
Toà án nhân dân tối cao.
Xét về chức năng, toà án các cấp là cơ quan xét xử (Điều1 - Luật tổ chức toà án), không
phải là cơ quan ban hành các văn bản pháp luật. Nhưng trong một thời gian dài, hệ thống
các văn bản pháp luật dân sự thiếu và không đồng bộ mà việc giải quyết các tranh chấp dân
sự là cần thiết và không thể trì hoãn được. Để giúp các toà án cấp dưới giải quyết tranh
chấp, Toà án nhân dân tối cao đã ban hành các thông tư hướng dẫn giải quyết các tranh
chấp trong những lĩnh vực nhất định như Thông tư 173 (1972) về bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng; Thông tư 81 (1981) giải quyết các tranh chấp về thừa kế Khi chưa có
các văn bản pháp luật điều tiết, áp dụng các thông tư này để giải quyết các tranh chấp là
xác đáng. Hệ thống pháp luật dân sự ngày càng hoàn thiện nhưng việc áp dụng các văn bản
pháp luật của các cơ quan xét xử khác nhau nhiều khi không thống nhất. Nhằm thống nhất
việc áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự, Hội đồng thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao tổng kết thực tiễn xét xử ban hành các nghị quyết hướng dẫn giải
quyết các vụ, việc hình sự, kinh tế… trong đó có nghị quyết về các vấn đề dân sự. Ngoài
ra, hàng năm Toà án nhân dân tối cao tổng kết rút kinh nghiệm và thống nhất việc áp dụng
pháp luật trong hoạt động xét xử. Những loại văn bản này không là nguồn của luật dân sự
nhưng nó kịp thời khắc phục những lỗ hổng trong luật dân sự, hướng dẫn giải quyết những
vụ việc cụ thể.
II. QUY PHẠM PHÁP LUẬT DÂN SỰ
Pháp luật dân sự gồm hệ thống các quy phạm pháp luật dân sự điều chỉnh các quan hệ
tài sản và các quan hệ nhân thân. Các quy phạm pháp luật dân sự vừa có tính hệ thống
vừa có tính độc lập tương đối.
1. Cấu tạo quy phạm pháp luật dân sự
Quy phạm pháp luật dân sự được cấu tạo bởi các phần: giả định, quy định và chế tài
(xem Giáo trình lí luận nhà nước và pháp luật).
Quy phạm pháp luật dân sự và điều luật trong văn bản pháp luật dân sự không đồng
nghĩa với nhau. Có thể một điều luật chứa đầy đủ các cấu thành của quy phạm song cũng
có thể chỉ có một bộ phận (giả định, quy định, chế tài). Cũng có thể chế tài được quy định
ở phần khác, thậm chí ở văn bản pháp luật khác.
============================================================
12
========================CHƯƠNG I -Khái niệm Luật dân sự Việt Nam
2. Các loại quy phạm pháp luật dân sự
Quy phạm pháp luật dân sự là những quy định của Nhà nước về cách xử sự của các
chủ thể trong những điều kiện và hoàn cảnh nhất định. Điều kiện và hoàn cảnh rất đa
dạng. Cho nên, cách xử sự của các chủ thể cũng rất phong phú và đa dạng. Trong nhiều
trường hợp, pháp luật không chỉ dự liệu những xử sự cụ thể mà còn đưa ra khung, giới
hạn của các xử sự đó hoặc chỉ đưa ra khung pháp lí mà trong phạm vi khung đó các chủ
thể có thể tùy ý lựa chọn cách thức xử sự phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh sao cho
có lợi nhất. Tùy theo cách thức quy định trong các quy phạm, người ta có thể phân chia
các quy phạm luật dân sự thành những loại quy phạm sau:
a. Quy phạm định nghĩa
Là những quy phạm trong đó nêu ra khái niệm và nêu nội dung khái niệm đó. Quy phạm
định nghĩa xác định phạm vi một sự kiện và giới hạn áp dụng sự kiện đó. Thông thường quy
phạm, điều luật dạng này thể hiện dưới dạng “X là ” Ví dụ: "Đại diện là ” (Điều 139
BLDS); "thời hạn là " (Điều 149 BLDS); "thời hiệu là " (Điều 154 BLDS);
b. Quy phạm mệnh lệnh
Là loại quy phạm nêu ra cách xử sự bắt buộc của chủ thể tham gia vào quan hệ dân
sự. Xử sự này có thể là một hành vi bắt buộc phải thực hiện, thông thường được diễn tả
từ các điều luật dưới dạng "phải" Ví dụ: “Trong trường hợp pháp luật quy định giao
dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản, phải có công chứng hoặc chứng thực, phải
đăng kí hoặc xin phép thì phải tuân theo các quy định đó” (Điều 124 BLDS năm 2005).
Loại quy phạm này có những trường hợp thể hiện dưới dạng duy nhất một sự kiện, ví dụ:
"Đại diện theo pháp luật của pháp nhân chấm dứt khi pháp nhân chấm dứt". Quy phạm
mệnh lệnh cũng được thể hiện dưới dạng quy định một hành vi bị cấm không được làm,
ví dụ: "Việc xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích
của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác" (Điều 10
BLDS năm 2005).
Về nguyên tắc, quy phạm mệnh lệnh là những quy định dứt khoát, các bên tham gia
không thể thoả thuận để thay đổi các quy phạm đó. Những loại quy phạm này không phổ
biến, không đặc trưng cho các quy phạm pháp luật dân sự bởi các quan hệ dân sự rất đa
dạng, phong phú (về chủ thể, khách thể, nội dung). Thông thường, những quy phạm mệnh
lệnh được quy định trong trường hợp: nếu làm khác đi thì không chỉ ảnh hưởng đến lợi ích
của bên kia mà còn ảnh hưởng đến lợi ích chung của xã hội, Nhà nước, đến quyền và lợi
ích của người khác.
c. Quy phạm tùy nghi lựa chọn
Là những quy phạm nêu nhiều cách xử sự khác nhau, trong đó các chủ thể tham gia
có thể lựa chọn một trong các cách đã nêu. Ví dụ: "Trong trường hợp bên bán giao vật
với số lượng nhiều hơn số lượng đã thoả thuận, thì bên mua có quyền không nhận phần
dôi ra; nếu nhận, thì phải thanh toán theo giá thoả thuận phần dôi ra" (khoản 1 Điều
435 BLDS). Trong trường hợp này, pháp luật đưa ra các cách xử sự khác nhau và người
có quyền có thể lựa chọn một trong các cách đó. Loại quy phạm này là dạng "trung
chuyển" giữa quy phạm mệnh lệnh và quy phạm tùy nghi (tiểu mục d). Bởi vì, ở đó các
chủ thể chỉ được phép lựa chọn trong các cách xử sự đã được quy định. Mặt khác, nó
============================================================
13
========================CHƯƠNG I -Khái niệm Luật dân sự Việt Nam
cũng tạo cho các chủ thể các cách lựa chọn khác nhau, tạo điều kiện các chủ thể phát
huy được quyền tự định đoạt của mình.
d. Quy phạm tùy nghi
Khác với các quy phạm đã nêu trên (dự liệu bắt buộc, dự liệu lựa chọn có hạn chế),
các quy phạm tùy nghi theo thoả thuận cho phép các chủ thể tự định đoạt. Giới hạn sự tự
định đoạt này bị hạn chế bởi các nguyên tắc của pháp luật nói chung và luật dân sự nói
riêng. Ví dụ: "Địa điểm thực hiện nghĩa vụ do các bên thoả thuận" (Điều 284 BLDS).
Thoả thuận là cốt lõi của mọi hợp đồng dân sự, ở đây các chủ thể được toàn quyền quyết
định về quan hệ mà họ tham gia. Loại quy phạm này phổ biến trong các quy phạm pháp
luật dân sự. Ngay cả trong trường hợp pháp luật có quy định một cách xử sự nào đó thì
trước tiên phải được áp dụng theo sự thoả thuận của các bên và được thể hiện dưới dạng
" Nếu không có thoả thuận khác ", "bên thế chấp có quyền yêu cầu bán đấu giá tài sản
thế chấp để thực hiện nghĩa vụ nếu các bên không có thoả thuận khác". Như vậy, việc thoả
thuận có thể giống, có thể khác các quy định của pháp luật.
III. ÁP DỤNG LUẬT DÂN SỰ, ÁP DỤNG TẬP QUÁN VÀ ÁP DỤNG TƯƠNG
TỰ PHÁP LUẬT
1. Áp dụng luật dân sự
Luật dân sự là hệ thống các quy phạm. Các quy phạm này là những hình mẫu, hành
lang pháp lí để các chủ thể khi hành xử phải tuân theo. Đó là các chuẩn mực ứng xử, giới
hạn các chuẩn mực của các chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự. Về phương diện xã hội,
việc thực thi pháp luật của các chủ thể tuân theo các "chuẩn mực ứng xử" đó khi tham gia
vào các quan hệ dân sự phụ thuộc vào các yếu tố sau:
- Bản thân nội dung các quy phạm pháp luật. Các quy phạm có thực sự phù hợp và
phản ánh đúng các điều kiện kinh tế trong xã hội hay không;
- Ý thức pháp luật của các chủ thể tham gia cũng như ý thức pháp luật của các thành
viên khác trong xã hội;
- Điều kiện, khả năng áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Tự bản thân các quy phạm pháp luật không thể "sống" nếu không được áp dụng trong
thực tế cuộc sống. Vì vậy, việc áp dụng pháp luật dân sự trong cuộc sống là việc rất quan
trọng để biến các quy phạm pháp luật trở thành công cụ thực sự, tích cực điều chỉnh các
quan hệ xã hội.
Áp dụng luật dân sự là những hoạt động cụ thể của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
căn cứ vào những sự kiện thực tế đã xảy ra, dựa vào những quy phạm pháp luật phù hợp
với sự kiện thực tế đó để đưa ra quyết định phù hợp với thực tế và những quy định của
pháp luật. Những quyết định được cơ quan có thẩm quyền đưa ra có thể là:
- Công nhận hay bác bỏ một quyền dân sự nào đó đối với một chủ thể (quyền sở hữu,
quyền thừa kế, quyền đòi nợ );
- Xác lập một nghĩa vụ cho một chủ thể nhất định (bồi thường thiệt hại, trả nợ, giao vật, trả
tiền, chấm dứt hành vi vi phạm );
- Áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết để bảo vệ quyền, lợi ích của chủ thể
khác, của Nhà nước (tịch thu tài sản, phạt vi phạm, quyết định bán đấu giá ).
============================================================
14
========================CHƯƠNG I -Khái niệm Luật dân sự Việt Nam
2. Áp dụng tập quán và áp dụng tương tự pháp luật
Luật dân sự điều chỉnh các quan hệ đa dạng, phức tạp về nhiều phương diện: chủ thể,
khách thể, nội dung; hơn nữa, những quan hệ này không ngừng phát triển cùng với sự
phát triển của xã hội nói chung và khoa học kĩ thuật nói riêng. Vì vậy, khi ban hành các
văn bản pháp luật, nhà lập pháp không dự liệu hết được các quan hệ xã hội cần thiết phải
điều chỉnh bằng pháp luật. Việc này tạo lỗ hổng trong pháp luật dân sự. Hơn nữa, các quy
định của pháp luật tồn tại ở dạng tĩnh tương đối (chỉ thay đổi khi bị sửa đổi) nhưng các
quan hệ xã hội lại biến đổi không ngừng. Bởi vậy, sẽ tồn tại những trường hợp không có
quy phạm pháp luật điều chỉnh một quan hệ xã hội đang tồn tại (như không có các quy
định về thu mua, về hụi, họ ). Để khắc phục hiện tượng này nhằm để các quan hệ xã hội
được điều chỉnh bằng pháp luật, BLDS đưa ra nguyên tắc áp dụng áp dụng tập quán,
tương tự pháp luật (Điều 3 BLDS).
Áp dụng tập quán là sử dụng các xử sự được cộng đồng địa phương, dân tộc thừa
nhận như là chuẩn mực ứng xử đối với các thành viên trong cộng đồng dân tộc, địa
phương đó (như việc áp dụng các đơn vị đo lường giạ lúa; chục ở miền Nam; chia thịt thú
rừng ở các vùng dân tộc ).
Áp dụng tương tự pháp luật là dùng những quy phạm pháp luật đang có hiệu lực đối
với những quan hệ tương tự như quan hệ cần xử lí để điều chỉnh quan hệ cần xử lí đó
nhưng không có quy phạm trực tiếp điều chỉnh quan hệ đó (như dùng quan hệ vay để xử lí
quan hệ hụi họ hay dùng các quan hệ về dịch vụ để điều chỉnh quan hệ đổi công cho
nhau ).
- Áp dụng tương tự pháp luật có thể được thể hiện dưới dạng:
+ Có quan hệ A thuộc lĩnh vực luật dân sự điều chỉnh nhưng không có quy phạm A;
+ Có quan hệ B, có quy phạm B
trực tiếp điều chỉnh, quan hệ B tương tự như A thuộc
lĩnh vực do luật dân sự điều chỉnh. Trong trường hợp này có thể dùng quy phạm B để
điều chỉnh quan hệ A.
Nếu không có các quy phạm tương tự, không xác định được các quy phạm cần áp
dụng mà phải dùng những nguyên tắc chung của pháp luật để giải quyết thì việc áp dụng
đó cũng là áp dụng tương tự pháp luật.
Trong một số trường hợp đối tượng đang xem xét thuộc phạm vi điều chỉnh của nhiều
ngành luật và mỗi ngành luật điều chỉnh một giác độ khác nhau, ví dụ tranh chấp về
chuyển quyền sử dụng đất. Để giải quyết tranh chấp này cần phải xem xét những ngàng
luật nào điều chỉnh quan hệ trên. Luật dân sự điều chỉnh sự chuyển dịch các quyền của
người sử dụng đất, luật đất đai điều chỉnh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất…
Trường hợp này sẽ áp dụng quy phạm của nhiều ngành luật để điều chỉnh. Đây là áp
dụng pháp luật để giải quyết trang chấp.
Nhưng việc áp dụng tương tự pháp luật, áp dụng tập quán để giải quyết các tranh chấp
dân sự không được trái với các nguyên tắc chung được quy định trong BLDS.
Tóm lại, việc áp dụng tương tự pháp luật phải có các điều kiện sau:
- Quan hệ đang tranh chấp thuộc lĩnh vực luật dân sự điều chỉnh;
- Trong pháp luật dân sự chưa có quy phạm trực tiếp điều chỉnh;
============================================================
15
========================CHƯƠNG I -Khái niệm Luật dân sự Việt Nam
- Với các quy phạm và chế định hiện có không thể giải quyết được tranh chấp đó;
- Có tập quán được cộng đồng thừa nhận như chuẩn mực ứng xử trong các trường hợp
đó;
- Hiện có các quy phạm (chế định) khác trong luật dân sự điều chỉnh các quan hệ
tương tự (gần giống các quan hệ cần điều chỉnh).
Việc áp dụng tập quán, áp dụng tương tự pháp luật nhằm khắc phục những lỗ hổng
trong pháp luật dân sự đó là trên thực tế có các quan hệ pháp luật dân sự phát sinh nhưng
không có các quy phạm pháp luật điều chỉnh, tuy nhiên, cần phải giải quyết tranh chấp
đó, cho nên phải áp dụng tương tự pháp luật. Việc áp dụng này cũng sẽ tạo tiền đề để các
nhà lập pháp hoàn thiện và bổ sung hệ thống pháp luật.
C. NHIỆM VỤ, NGUYÊN TẮC CỦA LUẬT DÂN SỰ
I. NHIỆM VỤ CỦA LUẬT DÂN SỰ
Luật dân sự là ngành luật với vai trò điều chỉnh các quan hệ tài sản mang tính chất
hàng hóa và tiền tệ và các quan hệ nhân thân trong "nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa". Các thành phần kinh tế với
các hình thức sản xuất kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập
thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể làm nền tảng. Với tư cách là
công cụ, phương tiện điều tiết các quan hệ xã hội để thực hiện nhiệm vụ chính trị mà
Hiến pháp thể chế hóa đường lối do Đảng vạch ra, vì vậy, nhiệm vụ của luật dân sự
không thể tách rời với nhiệm vụ của cách mạng nói chung và pháp luật nói riêng. Điều 1
BLDS quy định:
“Bộ luật dân sự có nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức,
lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, bảo đảm sự bình đẳng và an toàn pháp lí trong
quan hệ dân sự, góp phần tạo điều kiện đáp ứng các nhu cầu vật chất và tình thần của
nhân dân, thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội".
BLDS là một bộ phận quan trọng của pháp luật dân sự, cho nên, nhiệm vụ được quy
định cho BLDS có thể được coi là nhiệm vụ của ngành luật dân sự nói chung. Những
nhiệm vụ của luật dân sự là:
- Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; lợi ích của Nhà nước; lợi ích
công cộng. Luật dân sự quy định các quyền, các lợi ích của các chủ thể trong giao lưu
dân sự. Thông qua việc quy định các quyền và nghĩa vụ này, các chủ thể biết được những
quyền của mình để yêu cầu bảo vệ hoặc tự bảo vệ quyền của họ. Mặt khác, các chủ thể
cũng nhận thức được giới hạn các quyền của họ để không xâm phạm đến quyền của
người khác, không xâm hại đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước
- Bảo đảm sự bình đẳng và an toàn pháp lí trong quan hệ dân sự. Bình đẳng giữa các
chủ thể là đặc điểm quan trọng trong phương pháp điều chỉnh của luật dân sự, vì nó tạo
điều kiện cho các chủ thể thực hiện tốt quyền dân sự của mình trong một quan hệ pháp
luật dân sự nhất định. Hiện nay, trong cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, việc ghi nhận bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, bình
đẳng giữa các hình thức sở hữu là tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế, tạo cho mọi
cá nhân "khơi dậy mọi tiềm năng, động viên và tạo điều kiện cho mọi người Việt Nam
phát huy ý chí tự lực tự cường, ra sức làm giàu cho mình và cho Tổ quốc " (Văn kiện Đại
============================================================
16
========================CHƯƠNG I -Khái niệm Luật dân sự Việt Nam
hội VIII). Bình đẳng giữa các chủ thể được thể hiện là bình đẳng giữa quyền và nghĩa vụ
của các bên, các chủ thể khi tham gia vào quan hệ; bình đẳng về trách nhiệm nếu vi phạm
các nghĩa vụ của họ.
BLDS bảo đảm sự an toàn pháp lí bằng cách quy định những "hành lang pháp lí",
"những giới hạn" mà trong những hành lang đó, các chủ thể được tự do hành động.
Những quyền và lợi ích hợp pháp được tạo bởi các hành vi trong hành lang đó, những
giới hạn đó được Nhà nước bảo đảm, hậu thuẫn.
- Góp phần tạo điều kiện đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân, thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Việc mở rộng các quyền của các chủ thể là tất yếu
khách quan do nhu cầu khách quan của sự phát triển xã hội. Luật dân sự không chỉ quy
định các quyền tài sản, các quyền nhân thân của cá nhân và tổ chức mà còn quy định
những biện pháp, cách thức để các chủ thể có thể đáp ứng các quyền đó. Biến quyền dân
sự khách quan thành một quyền dân sự cụ thể của một chủ thể nhất định.
- Giáo dục con người mới xã hội chủ nghĩa, nâng cao nhận thức pháp luật cho nhân
dân. Trách nhiệm dân sự là trách nhiệm mang tính chất tài sản để khôi phục tình trạng tài
sản của người bị thiệt hại. Do vậy, các chế tài dân sự không chỉ nhằm bảo vệ quyền lợi
của bên bị thiệt hại mà còn có tác dụng giáo dục các chủ thể khác tuân thủ các quy định
của pháp luật dân sự, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác.
Các nhiệm vụ của luật dân sự là một thể thống nhất, được thể hiện trong các chế định
riêng biệt của luật dân sự. Khi điều tiết các quan hệ, tự nó đã bảo vệ các quan hệ đó và giáo
dục chủ thể bằng các biện pháp cưỡng chế có thể được áp dụng.
Với tư cách là công cụ điều tiết các quan hệ xã hội, phục vụ nhiệm vụ chính trị trong
từng giai đoạn cụ thể của cách mạng, cho nên khi nhiệm vụ cách mạng thay đổi thì nhiệm vụ
của nó cũng thay đổi hoặc với nhiệm vụ đó nhưng có nội dung mới được thực hiện trong
điều kiện và hoàn cảnh mới.
II. NHỮNG NGUYÊN TẮC CỦA LUẬT DÂN SỰ
1. Khái niệm chung về nguyên tắc của luật dân sự
Nguyên tắc của một ngành luật là những khung pháp lí chung, những quy tắc chung
được pháp luật ghi nhận có tác dụng định hướng và chỉ đạo cho toàn bộ các quy phạm
pháp luật của ngành luật đó. Các nguyên tắc của một ngành luật không chỉ là những quy
phạm khi điều tiết mà còn là phương châm chỉ đạo khi áp dụng pháp luật, đặc biệt là áp
dụng tương tự pháp luật. Việc định ra các nguyên tắc của luật dân sự dựa trên cơ sở
những nguyên tắc chung của luật pháp, căn cứ vào đối tượng và phương pháp điều chỉnh
của luật dân sự.
Các nguyên tắc của luật dân sự được ghi nhận tại Chương II - Phần thứ nhất của BLDS:
"Những nguyên tắc cơ bản". Trong luật dân sự còn tồn tại các nguyên tắc riêng cho từng chế
định của luật dân sự. Những nguyên tắc chung được quy định tại Chương II - Phần thứ
nhất có giá trị áp dụng đối với tất cả các chế định, quy phạm pháp luật dân sự. Những
nguyên tắc riêng là những nguyên tắc được quy định trong từng phần, từng chế định cụ thể,
cũng có thể nhắc lại nguyên tắc chung trong các phần, các chế định riêng biệt của luật dân
sự.
============================================================
17
========================CHƯƠNG I -Khái niệm Luật dân sự Việt Nam
Những nguyên tắc chung của pháp luật được nghiên cứu trong chương trình lí luận về
nhà nước và pháp luật, những nguyên tắc đó vẫn được áp dụng cho luật dân sự cũng như
các ngành luật khác. Trong phần này chỉ đề cập những nguyên tắc chung được quy định ở
Chương II - Phần thứ nhất của BLDS. BLDS đã quy định một hệ thống các nguyên tắc cơ
bản trong việc xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ và dân sự. Đó là nhưng quy định mang
những quan điểm chủ đạo, quán triệt trong toàn bộ nội dung của Bộ luật. Những nguyên
tắc này là sự kế thừa và phát triển những nguyên tắc đã được quy định trong các văn bản
pháp luật trước đó đồng thời thể hiện rõ quy định của Hiến pháp năm 1992 về quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân. Trong phần này quy định 10 nguyên tắc cơ bản của BLDS
nói riêng và pháp luật dân sự nói chung.
2. Các nguyên tắc của luật dân sự Việt Nam
BLDS ghi nhận một loạt các nguyên tắc của pháp luật dân sự trong đó có những
nguyên tắc đã được xác định ở các văn bản pháp luật trước đó, có những nguyên tắc lần
đầu tiên được ghi nhận.
a. Nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thoả thuận (Điều 4 BLDS)
Các bên tham gia quan hệ dân sự có quyền tự do cam kết, thoả thuận phù hợp với
pháp luật trong việc xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự. Mọi cam kết và thoả
thuận hợp pháp được pháp luật bảo hộ. Ví dụ như: Trong hợp đồng, các bên có thoả
thuận về các phương thức thực hiện nghĩa vụ, các thoả thuận đó có giá trị pháp lí đối với
các bên tham gia hợp đồng.
Khi cam kết, thoả thuận các bên hoàn toàn tự nguyện, không được ai dùng bất cứ thủ
đoạn nào nhằm buộc một người cam kết, thoả thuận trái với ý chí của người đó. Mọi cam
kết, thoả thuận không có sự tự nguyện của các bên có thể bị tuyên bố là vô hiệu.
b. Nguyên tắc bình đẳng (Điều 5 BLDS)
Trong quan hệ dân sự các chủ thể đều bình đẳng, không được lấy bất cứ một lí do nào
về sự khác biệt để đối xử không bình đẳng. Các chủ thể bình đẳng về năng lực pháp luật,
bình đẳng giữa các hình thức sở hữu khi giao kết hợp đồng dân sự; bình đẳng về để lại và
hưởng di sản thừa kế. Bình đẳng của các chủ thể được thể hiện ở các điểm sau:
- Bình đẳng trong việc tham gia vào các quan hệ dân sự không phụ thuộc vào giới tính
và các địa vị xã hội khác;
- Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ khi chúng được xác lập. Các bên phải thực hiện nghĩa
vụ đối với những người có quyền;
- Bình đẳng về trách nhiệm dân sự nếu bên có nghĩa vụ không thực hiện, thực hiện
không đúng nghĩa vụ đều phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền.
c. Nguyên tắc thiện chí, trung thực (Điều 6 BLDS)
Trong quan hệ dân sự các bên phải hợp tác, giúp đỡ nhau để tạo lập và thực hiện các
quyền và nghĩa vụ dân sự. Mỗi bên không chỉ quan tâm đến quyền và lợi ích của mình
mà còn phải quan tâm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, của Nhà nước và
xã hội. Ngoài ra đòi hỏi các bên phải tìm mọi biện pháp cần thiết để khắc phục và hạn
chế thiệt hại. Tuy nhiên, trong quan hệ dân sự các bên được suy đoán là trung thực, thiện
chí. Nếu một bên cho rằng bên kia không trung thực, thiện chí phải có chứng cứ.
============================================================
18
========================CHƯƠNG I -Khái niệm Luật dân sự Việt Nam
d. Nguyên tắc chịu trách nhiệm dân sự (Điều 7 BLDS)
Trách nhiệm dân sự là một loại trách nhiệm pháp lí nhưng trước tiên là trách nhiệm
của người vi phạm đối với người bị vi phạm. Người có nghĩa vụ phải thực hiện nghiêm
chỉnh nghĩa vụ của họ nếu các quyền và nghĩa vụ đó phát sinh từ các căn cứ hợp pháp.
Nếu không thực hiện phải tự chịu trách nhiệm và có thể bị cưỡng chế thi hành nghĩa vụ
và phải bồi thường thiệt hại (nếu có). Mỗi chủ thể tham gia phải tự chịu trách nhiệm về
hành vi của mình.
đ. Nguyên tắc tôn trọng đạo đức, truyền thống tốt đẹp của dân tộc (Điều 8 BLDS)
Đạo đức và truyền thống tốt đẹp của xã hội là cơ sở xã hội của pháp luật. Một nền
pháp luật chỉ tồn tại và bền vững khi phù hợp với đạo đức và truyền thống tốt đẹp của
dân tộc. Việc xác lập, thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự cũng phải dựa trên nền tảng
của đạo đức và truyền thống đó trên tinh thần tương thân, tương ái “mình vì mọi người,
mọi người vì mình” nhằm tạo điều kiện cho những người, những cộng đồng chưa có
những điều kiện thực tế có thể thực hiện được các quyền và nghĩa vụ dân sự của họ.
e. Nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ các quyền dân sự (Điều 9 BLDS)
Quyền sở hữu và các quyền tài sản khác là những quyền quan trọng nhất của công
dân cũng như tổ chức trong giao lưu dân sự, kinh tế; là cốt lõi trong các quyền dân sự của
các chủ thể và chi phối các quyền năng khác. Mọi chủ thể có nghĩa vụ tôn trọng quyền sở
hữu, quyền tài sản của các chủ thể khác. Khi có hành vi xâm phạm đến tài sản của người
khác, ngoài việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế (hình sự, hành chính ) cơ quan nhà
nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp dân sự nhằm phục hồi tình trạng tài sản của
người bị xâm phạm, bảo đảm quyền sở hữu tài sản của các chủ thể thực hiện một cách
bình đẳng. Quyền nhân thân do pháp luật quy định phải được tôn trọng và bảo vệ.
Không ai được xâm phạm đến các quyền nhân thân của các chủ thể khác. BLDS quy
định những quyền nhân thân quan trọng nhất, trong đó nhiều quyền nhân thân lần đầu
tiên được ghi nhận. Mọi hành vi vi phạm phải được chấm dứt và người vi phạm phải
phục hồi giá trị nhân thân của người bị vi phạm và có thể phải bồi thường một khoản
tiền bù đắp tổn thất tinh thần cho người bị vi phạm.
f. Nguyên tắc tôn trọng lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp
pháp của người khác (Điều 10 BLDS)
"Việc xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích
của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác" (Điều 10
BLDS). Việc xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự nhằm thoả mãn các nhu cầu vật
chất, tinh thần của các chủ thể tham gia vào các quan hệ đó. Tuy nhiên, việc thực hiện
các hành vi dân sự không thể tiến hành tuỳ tiện mà phải thực hiện trong một khuôn khổ,
một giới hạn nhất định. Quyền của một chủ thể bị giới hạn bởi quyền của các chủ thể
khác, lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng. Khi các chủ thể thực hiện các quyền và
nghĩa vụ dân sự của mình mà gây thiệt hại cho các chủ thể khác thì phải chịu trách nhiệm
bồi thường thiệt hại cho các chủ thể bị hại đó.
g. Nguyên tắc tuân thủ pháp luật (Điều 11 BLDS)
Đây là nguyên tắc không chỉ áp dụng riêng của pháp luật dân sự mà cả hệ thống pháp
luật nói chung. Các quyền nghĩa vụ dân sự phải được xác lập theo các căn cứ, trình tự thủ
============================================================
19
========================CHƯƠNG I -Khái niệm Luật dân sự Việt Nam
tục do pháp luật quy định. Tuy nhiên, do đặc thù của quan hệ dân sự, pháp luật cho phép
các bên cam kết, thoả thuận về việc xác lập quyền, nghĩa vụ và cả trách nhiệm, biện pháp
áp dụng trách nhiệm khi bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ, thực hiện không
đúng nghĩa vụ của họ. Việc các bên cam kết, thoả thuận phải được thực hiện trong khuôn
khổ do pháp luật quy định.
h. Nguyên tắc hoà giải (Điều 12 BLDS)
Trong quan hệ dân sự, việc hoà giải giữa các bên phù hợp với quy định của pháp luật
được khuyến khích. Không ai được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực khi tham gia
quan hệ dân sự, giải quyết các tranh chấp dân sự.
Các nguyên tắc được quy định tại Chương I - Phần thứ nhất của BLDS là một hệ
thống chỉnh thể. Bởi vậy, phải xem xét nó như một thể thống nhất khi áp dụng pháp luật,
giải thích pháp luật.
============================================================
20