Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học: " NGHIÊN CỨU THAY THẾ THỨC ĂN SELCO BẰNG MEN BÁNH MÌ TRONG NUÔI LUÂN TRÙNG (Brachionus plicatilis) THÂM CANH" ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.85 MB, 10 trang )

Tạp chí Nghiên cứu Khoa học 2006: 92-101 Trường Đại học Cần Thơ

92
NGHIÊN CỨU THAY THẾ THỨC ĂN SELCO
BẰNG MEN BÁNH MÌ TRONG
NUÔI LUÂN TRÙNG (Brachionus plicatilis) THÂM CANH
Dương Thị Hoàng Oanh, Trần Công Bình và Trần Tấn Huy
1

ABSTRACT
This study investigated the possibility to use yeast as a cheap food in intensive and
recirculating culture system of rotifer (Brachionus plicatilis). The first experiment was done
to compare the growth rate of rotifers fed with Culture Selco 3000
®
and yeast. The
production and quality of rotifers were determined in the second experiment with 3
different treatments: 1/yeast only; 2/ yeast combined 3% Chlorella and 3/ yeast combined
5% Chlorella. Rotifer with stocking density of 250 ind/mL and 3.000 ind/mL was
maintained in the first and second experiment, respectively. The results indicated that
rotifers fed with Culture Selco 3000
®
and yeast had the same growth rate. In diets of yeast
combined 3-5% Chlorella, rotifers presented higher and more stable harvested productivity
than those fed with Selco 3000
®
. Moreover, the supplimentation of 5% Chlorella to yeast
diet increased significantly LNA and total HUFA contents of cultured rotifers.
Keywords: Brachionus plicatilis, recirculating, intensive, yeast
Title:
Study on the replacement of Selco by yeast in feeding diet of rotifer (Brachionus
plicatilis) in intensive culture system



TÓM TẮT
Nghiên cứu nhằm đánh giá khả năng sử dụng men bánh mì như nguồn thức ăn rẻ tiền để
nuôi luân trùng trong hệ thống thâm canh tuần hoàn. Thí nghiệm 1 được thực hiện nhằm
so sánh tăng trưởng của luân trùng giữa 2 nghiệm thức thức ăn là Culture Selco 3000®
và men bánh mì. Sức sản xuất và chất lượng của luân trùng được xác định trong thí
nghiệm thứ 2 với các nghiệm thức là: 1/men bánh mì; 2/ men bánh mì kết hợp với 3% tảo
Chlorella và 3/men bánh mì kết hợp với 5% tảo Chlorella. Mật độ luân trùng trong thí
nghiệm 1 là 250 ct/mL và thí nghiệm 2 là 3.000 ct/mL. Kết quả cho thấy luân trùng được
cho ăn bằng men bánh mì có sức tăng trưởng tương đương với luân trùng nuôi bằng
Selco 3000®. Luân trùng được cho ăn bằng men bánh mì có bổ sung 3-5% tảo Chlorella
cho năng suất thu hoạch cao và ổn định tương đương với luân trùng được nuôi bằng
Selco®. Hơn nữa, việc bổ sung 5% tảo vào thức ăn men bánh mì giúp làm tăng một cách
có ý nghĩa hàm lượng LNA và HUFA tổng cộng của luân trùng.
Từ khóa: Brachionus plicatilis, tuần hoàn, thâm canh, men bánh mì
1 GIỚI THIỆU
Hệ thống nuôi luân trùng thâm canh tuần hoàn sử dụng thức ăn nhân tạo đầu tiên
được phát triển tại Đại Học Gent (Suantika et al., 2000). Thức ăn nhân tạo được sử
dụng cho hệ thống nuôi này là các loại Culture Selco (Culture selco High, Culture
selco 2000, Culture selco 3000) do công ty INVE (Bỉ) cung cấp. Ưu điểm của kỹ
thuật này là sử dụng thức ăn nhân tạo được chế tạo công nghiệp và cho năng suất
luân trùng rất cao và ổn định hơn so với nuôi từng đợt. Tuy nhiên, thức ăn này lại


1
Bộ môn T huỷ Sinh Học Ứng Dụng, Khoa Thuỷ Sản, Đại Học Cần Thơ
Tạp chí Nghiên cứu Khoa học 2006: 92-101 Trường Đại học Cần Thơ

93
rất đắt tiền nên không thích hợp với điều kiện sản xuất tại Việt Nam. Việc nghiên

cứu thay thế thức ăn này bằng men bánh mì trong nuôi luân trùng tuần hoàn là rất
cần thiết nhằm sử dụng ưu thế của hệ thống tuần hoàn với men bánh mì sẵn có và
rẻ tiền để hạ giá thành sản xuất luân trùng trong các tại sản xuất giống hải sản ở
Việt Nam.
2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Đối tượng thí nghiệm
Luân trùng nước lợ (Brachionus plicatilis) có nguồn gốc từ Bỉ được nuôi và giữ
giống tại phòng thí nghiệm nuôi thức ăn tự nhiên thuộc Bộ môn Thủy sinh học ứng
dụng. Quá trình nhân giống được tiến hành trong hệ thống nước tĩnh. Mật độ ban
đầu là 50 ct/mL. Khi luân trùng đạt đến mật độ 300-500 ct/mL thì có thể thu hoạch
để làm thí nghiệm
2.2 Bố trí thí nghiệm
2.2.1 Thí nghiệm 1: So sánh tăng trưởng của quần thể luân trùng trong hệ thống
thâm canh tuần hoàn được nuôi bằng Culture Selco 3000
®
và men bánh mì
Thí nghiệm được thực hiện trong phòng điều hoà nhiệt độ ở 25°C. Mật độ thả luân
trùng ban đầu 250 ct/mL. Thí nghiệm gồm 2 nghiệm thức, mỗi nghiệm thức có 3
lần lặp lại.
- Nghiệm thức 1 (CS3000): sử dụng thức ăn Culture Selco3000
®

- Nghiệm thức 2 (Men): sử dụng men bánh mì.
Các yếu tố thủy hóa được theo dõi hàng ngày bao gồm TAN và N-NO
2
-

Thức ăn được cho luân trùng ăn bằng máy cho ăn tự động và được tính theo công
thức do Suantika et al. (2000) đề nghị áp dụng cho thức ăn nhân tạo Culture Selco®
trong hệ thống nuôi luân trùng mật độ cao (3000 ct/mL) có thu hoạch hàng ngày:

- m(g) = 0.035D
t

0,415
* V
- m : lượng men bánh mì cho bể luân trùng trong một ngày (g)
- D
t
: Mật độ luân trùng tại thời điểm t (ct/mL).
- V: Thể tích bể nuôi (L).
2.2.2 Thí nghiệm 2: Xác định sức sản xuất và chất lượng của luân trùng sử dụng
thức ăn rẻ tiền là men bánh mì và tảo cho hệ thống nuôi luân trùng thâm
canh tuần hoàn
Mục tiêu của thí nghiệm nhằm tìm ra tỉ lệ cho ăn kết hợp giữa men bánh mì và tảo
thích hợp nhất đế có thể ứng dụng nuôi luân trùng trong hệ thống tuần hoàn kết
hợp với bể cá-tảo sau này, trên cơ sở so sánh năng suất, chất lượng của luân trùng
khi ăn men bánh mì và tảo ở các tỉ lệ kết hợp khác nhau.
Bố trí thí nghiệm
Ba nghiệm thức được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên, mỗi nghiệm thức có 3 lần lặp
lại.
Tạp chí Nghiên cứu Khoa học 2006: 92-101 Trường Đại học Cần Thơ

94
Luân trùng được bố trí trong bể 25 lít với mật độ 3.000 cá thể/mL, luân trùng được
cho ăn tảo cô đặc và men bánh mì bằng máy cho ăn tự động theo tỉ lệ ở từng
nghiệm thức (Bảng 1). Nước từ bể nuôi luân trùng sẽ qua lưới lọc chảy vào bể
lắng, từ đây nước được bơm sang thiết bị tách đạm để loại bỏ ra khỏi hệ thống một
số protein không tan trong nước, xác tảo chết và cặn bã trước khi nước đi vào bể
lọc sinh học và quay trở lại bể luân trùng.Mật độ luân trùng được theo dõi hàng
ngày và một phần luân trùng sẽ được thu hoạch để đưa mật độ của chúng trở lại

mức duy trì (3000ct/mL).
Bảng 1: Mô tả tóm tắt thí nghiệm 2
Tên nghiệm thức Mật độ luân
trùng duy trì
Mô tả nghiệm thức
NT Men (đối chứng) Cho luân trùng ăn hoàn toàn
bằng men bánh mì
NT 3% tảo Cho luân trùng 3% tảo + 97%
men bánh mì
Thí nghiệm 2
(thực hiện trong
phòng, ăn tảo cô
đặc)
NT 5% tảo
3000 ct/mL
Cho luân trùng 5% tảo + 95%
men bánh mì
2.3 Phương pháp thu thập số liệu
2.3.1 Thủy lý
- Nhiệt độ và ánh sáng được đo 2 lần/ngày vào 8 giờ sáng và 2 giờ chiều bằng
nhiệt kế thủy ngân và light meter LT lutron (LX-103, Taiwan).
- pH (đo bằng máy pH Scan2, Eutech, Singapore) được đo 1 lần/ngày vào buổi sáng
- Nồng độ muối: đo 1 lần/ngày bằng salinometer lúc 8 h.
2.3.2 Thủy hóa
Các chỉ tiêu thủy hóa được thu 1 ngày/lần vào buổi sáng.
Chỉ tiêu Phương pháp phân tích
TAN Indo-phenol blue
N-NO
3
-

Salicilate
N-NO
2
-
1-naphthylamine
TKN (tổng đạm Kjedahl) Kjedahl so màu bằng Indo- phenol blue
P-PO
4
3-
Molibden blue
TP (tổng lân) Kjedahl so màu bằng molibden blue.
2.3.3 Sinh học
- Mật độ tảo được xác định hàng ngày bằng buồng đếm Burker
- Số tế bào/mL = ((n1 + n2)/160) * 10
6
* d
n1: số tế bào tảo ở buồng đếm thứ nhất
n2: số tế bào tảo ở buồng đếm thứ hai
d : hệ số pha loãng
- Mật độ luân trùng: được xác định hằng ngày vào buổi sáng
Tạp chí Nghiên cứu Khoa học 2006: 92-101 Trường Đại học Cần Thơ

95
- Hệ số trứng: HST(%) = n/N
n: Số cá thể luân trùng mang trứng
N: Tổng số luân trùng đếm được
- Tốc độ tăng trưởng tương đối (SGR-Specific growth rate) của luân trùng được
tính theo công thức:
SGR = (ln Nt – ln No)/t
SGR: Tốc độ tăng trưởng tương đối của luân trùng

Nt: Mật độ luân trùng, tảo tại thời gian t (ct/mL)
No: Mật độ luân trùng, tảo ban đầu.
t: Thời gian nuôi (ngày)
- Phân tích HUFA mẫu luân trùng: thu 2 mẫu ở thí nghiệm 2, 1 mẫu khi bắt đầu
thu hoạch (thu vào ngày thứ 4) và 1 mẫu khi kết thúc thí nghiệm (ngày thứ 16).
Mẫu HUFA được gửi phân tích tại Đại Học Gent, Bỉ.
2.3.4 Xử lý số liệu
Số liệu được xử lý với chương trình Excel và xử lý thống kê bằng phần mềm
Statistica, version 6. Tất cả các số liệu đều được kiểm tra tính đồng nhất và phân
phối chuẩn trước khi đưa vào xử lý one-way ANOVA. Sự khác biệt giữa các
nghiệm thức được kiểm tra bằng Tukey HSD test.
3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 Các yếu tố thủy lý hóa
Thí nghiệm kéo dài trong khoảng 14 ngày (thí nghiệm 2) đến 16 ngày (thí nghiệm
1). Giá trị trung bình của các yếu tố thủy lý hóa ở hai thí nghiệm được trình bày
trong Bảng 1 và 2. Giá trị pH trung bình trong các thí nghiệm thấp hơn khoảng tối
thích cho sinh trưởng của luân trùng (pH = 7,5-8,5) nhưng vẫn còn trong khoảng
thuận lợi cho đời sống của chúng (pH = 5-10). Các yếu tố thủy lý khác của cả hai
thí nghiệm đều nằm trong khoảng thích hợp cho sự phát triển của luân trùng
Bảng 2: Giá trị trung bình các yếu tố thủy lý ở thí nghiệm 1 và 2
Chỉ tiêu Thí nghiệm 1 Thí nghiệm 2
Nhiệt độ (°C) 25,0 ± 0,0 25,95 ± 0,68
PH 7,19 ± 0,51 7,40±0,81
Độ mặn (‰) 25,0 ± 0,0 25,2±0,9
Giá trị trung bình của các yếu tố thủy hóa đều nằm trong khoảng thích hợp của
luân trùng và không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa các nghiệm thức (P>0,05)
(Bảng 3). Hàm lượng các chất dinh dưỡng gốc đạm đều có khuynh hướng tăng
theo thời gian nuôi do sự tích tụ chất thải và thức ăn dư thừa trong hệ thống tuần
hoàn vượt quá khả năng của lọc sinh học. Với điều kiện pH và nhiệt độ của các thí
nghiệm này (Bảng 2), nồng độ NH

3
độc hại không vượt quá 0,096ppm (1,92% của
tổng lượng TAN), nằm trong khoảng an toàn cho sự phát triển của luân trùng. Như
Tạp chí Nghiên cứu Khoa học 2006: 92-101 Trường Đại học Cần Thơ

96
vậy, hoàn toàn không có sự khác biệt về chất lượng nước ở các nghiệm thức nuôi
luân trùng với các khấu phần ăn khác nhau trong hệ thống tuần hoàn.
Bảng 3: Hàm lượng trung bình của các yếu tố thủy hóa ở thí nghiệm 1 và 2
Thí nghiệm 1 Thí nghiệm 2 Chỉ tiêu
NT men NT CS3000 NT men NT 3% tảo NT 5% tảo
TAN (ppm)
1,19 ± 0,57 1,19 ± 0,57 1,99 ± 0,20
a
1,88 ± 0,17
a
1,87 ± 0,18
a

N-NO
2
-
(ppm)
1,08 ± 0,76 0,93 ± 0,49 0,47 ± 0,04
a
0,52 ± 0,06
a
0,52 ± 0,11
a


N-NO
3
-
(ppm)
2,26 ± 0,19
a
2,42 ± 0,04
a
2,53 ± 0,06
a

Ghi chú: các trị số trên cùng một hàng của cùng một thí nghiệm với ký tự gi ống nhau để chỉ sự sai biệt không có
ý nghĩa thống kê (P>0,05, Tukey HSD test)
3.2 Sự phát triển của luân trùng
Ở thí nghiệm 1, sự phát triển của luân trùng gia tăng liên tục trong 16 ngày nuôi
(Hình 1). Mật độ luân trùng sau 16 ngày nuôi của NT Men và NT CS3000 lần lượt
là 8.467 ± 126 ct/mL và 8.550 ± 85 ct/mL. Hệ số trứng trung bình trong suốt thời
gian thí nghiệm của NT men và NT CS3000 lần lượt là 18,4 ± 5,4% và 18,5 ±
5,1%. Phân tích thống kê cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa (P> 0,05) giữa
2 nghiệm thức cả về mật độ luân trùng hàng ngày, hệ số trứng trung bình và tốc độ
tăng trưởng đặc thù (Bảng 4).
0
2000
4000
6000
8000
10000
12345678910111213141516
Ngày
Mật độ (ct/ml)

0
5
10
15
20
25
30
35
Hệ số trứng (%)
Mật độ Men Mật độ CS3000 HST Men HST CS3000

Hình 1: Sự phát triển quần thể luân trùng trong thí nghiệm 1 (HST: hệ số trứng)
Trong thí nghiệm 2, mật độ và năng suất thu hoạch luân trùng hàng ngày trong suốt
thời gian nuôi ở từng nghiệm thức được trình bày trong Hình 2. Sau khi thả ở mật độ
3000 ct/mL, luân trùng phải mất khoảng 3 ngày để thích nghi với môi trường và ổn
định quần thể. Quần thể luân trùng ở cả 3 nghiệm thức đạt và vượt mật độ duy trì
3000 ct/mL vào ngày thứ 3 và cho thu hoạch tương đối ổn định kể từ ngày thứ 4 trở đi
với tỉ lệ thu hoạch trung bình hàng ngày là 14,4 ± 6,2%, 19,9 ± 4,2% và 21,0 ± 0,8%
sinh khối quần thể lần lượt cho NT Men, NT 3% tảo và NT 5% tảo (Bảng 3). Kết quả
từ Bảng 3 cho thấy năng suất thu hoạch, tốc độ tăng trưởng và hệ số trứng trung bình
của luân trùng cao nhất ở NT 5% tảo và thấp nhất ở NT Men. Tuy nhiên sự khác biệt
này chưa có ý nghĩa thống kê trừ hệ số trứng trung bình của NT Men thấp hơn có ý
nghĩa so với các NT 3% tảo và NT 5% tảo. Một điểm cần lưu ý là ở nghiệm thức cho
ăn men bánh mì, luân trùng bị nhiễm trùng tiêm mao sớm làm cho quần thể luân trùng
tàn nhanh hơn các nghiệm thức khác (Hình 2)
Tạp chí Nghiên cứu Khoa học 2006: 92-101 Trường Đại học Cần Thơ

97




Hình 2: Mật độ và năng suất luân trùng ở thí nghiệm 2
Bảng 3: Các chỉ tiêu năng suất và tăng trưởng của luân trùng ở thí nghiệm 2
Thí nghiệm 1 Thí nghiệm 2
Các chỉ tiêu
NT Men NT CS3000 NT Men NT 3% tảo NT 5% tảo
Năng suất trung bình
hàng ngày (ct/mL/ngày)
433±185a 596±125a 630±23a
Tỉ lệ thu hoạch (%) 14,4±6,2a 19,9±4,2a 21,0±0,8a
S G R 0,198±0,004a 0,191±0,004a 0,12±0,07a 0,18±0,04a 0,19±0,01a
Tổng năng suất (ct/mL) 5.130±2.062a 6.557±1.375a 6.953±271a
Mật độ cuối TN
(ct/mL)
8.467±126a 8.550±85a
Hệ số trứng trung bình
(%)
18,4±5,4a 18,5±5,1a 18,5±0,4a 20,2±1,1b 21,0±0,1b
Ghi chú: các trị số trên cùng một hàng của cùng một thí nghiệm với ký tự gi ống nhau để chỉ sự sai biệt không có
ý nghĩa thống kê
Tạp chí Nghiên cứu Khoa học 2006: 92-101 Trường Đại học Cần Thơ

98
3.3 Chất lượng luân trùng
Hàm lượng acid béo của luân trùng ở đầu (ngày thứ 4, bắt đầu thu hoạch luân
trùng) và cuối chu kỳ nuôi (ngày thứ 14 trước khi kết thúc thí nghiệm) của các
nghiệm thức được trình bày ở Bảng 4. Hàm lượng của các acid béo thiết yếu và
∑HUFA ở NT Men là thấp nhất trong các nghiệm thức trong cả hai đợt thu mẫu và
sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (P<0,05) ở ngày thứ 14. Tuy nhiên, ở ngày
thứ 4 sự khác biệt về mặt thống kê chỉ thấy ở LA, LNA, ARA và ∑HUFA nhưng

chưa thấy ở EPA và DHA. Nhìn chung, có sự ảnh hưởng rõ rệt của tảo đến hàm
lượng các acid béo (n-6), LNA và ∑HUFA. Tỉ lệ DHA/EPA cao nhất ở NT Men
và thấp nhất ở NT 5% tảo và sự khác biệt có ý nghĩa giữa hai nghiệm thức này xảy
ra ở ngày thứ 14.
Hàm lượng các acid béo, ∑HUFA và tỉ lệ DHA/EPA của luân trùng giữa NT 3%
tảo và NT 5% tảo không có sự khác biệt trừ trường hợp của LNA. Hàm lượng
LNA cao nhất ở NT 5% tảo và có khác biệt có ý nghĩa giữa các nghiệm thức ở cả
hai đợt thu mẫu.
Bảng 4: Hàm lượng một số acid béo thiết yếu, tổng HUFA, tỉ lệ DHA/EPA của luân trùng ở
những ngày đầu và cuối thí nghiệm 2
NT Men NT 3% tảo NT 5% tảo
Acid béo
Ngày 4
(mg/g DW)
Ngày 14
(mg/g DW)
Ngày 4
(mg/g DW)
Ngày 14
(mg/g DW)
Ngày 4
(mg/g DW)
Ngày 14
(mg/g DW)
LA
(18:2n-6)
2,86±0,38
a
3,25±0,18
a

4,46±0,08
a
5,01±0,60
a
5,05±0,33
a
5,61±0,73
a

LNA
(18:3n-3)
0,08±0,01
a
0,21±0,11
a
0,77±0,06
a
1,07±0,14
b
1,14±0,05
a
1,51±0,06
b

ARA
(20:4n-6)
0,34±0,06
a
0,19±0,13
a

0,54±0,05
a
0,58±0,11
a
0,56±0,05
a
0,60±0,07
a

EPA
(20:5n-3)
0,18±0,02
a
0,14±0,06
a
0,21±0,04
a
0,28±0,12
a
0,20±0,10
a
0,40±0,05
b

DHA
(22:6n-3)
0,27±0,06
a
0,29±0,09
a

0,28±0,07
a
0,47±0,05
b
0,27±0,06
a
0,37±0,06
a

∑HUFA 2,90±0,16
b
2,17±0,36
a
3,62±0,16
a
4,21±0,51
a
4,00±0,26
a
4,94±0,20
b

DHA/EP
A
1,53±0,49
a
2,16±0,37
a
1,31±0,19
a

1,87±0,75
a
1,72±1,18
a
0,93±0,25
a

Ghi chú:
Các trị số trên cùng một hàng của cùng 1 nghiệm thức với ký tự gi ống nhau để chỉ sự sai biệt không có ý nghĩa thống
kê (P>0,05, Tukey HSD test)
LA: linoleic acid; LNA: linolenic acid; ARA: arachidonic acid; EPA: eicosapentaenoic acid; DHA: docosahexaenoic
acid; HUFA: highly unsaturated fatty acid.
Ở NT Men, hàm lượng các acid béo thiết yếu không có sự khác biệt ở luân trùng
thu hoạch vào ngày thứ 4 và ngày thứ 14 trong cùng một nghiệm thức. Ở NT 3%
và NT 5% tảo, hàm lượng các acid béo và ∑HUFA có khuynh hướng tăng từ ngày
thứ 4 đến ngày thứ 14 nhưng sự gia tăng này hầu hết không có ý nghĩa thống kê
(Bảng 4). ∑HUFA tăng theo mức độ tảo cho ăn và thời gian sử dụng tảo trong khi
hàm lượng EPA, DHA và tỉ lệ DHA/EPA biến động không rõ ràng so với mức độ
tảo cho ăn trong các nghiệm thức.
Tạp chí Nghiên cứu Khoa học 2006: 92-101 Trường Đại học Cần Thơ

99
3.4 Thảo luận
Việc dùng thức ăn có thành phần chính là men bánh mì để thay thế thức ăn công
nghiệp đặc chế cho luân trùng (nhằm mục tiêu hạ giá thành sản xuất luân trùng)
cần phải được xem xét về mặt năng suất và chất lượng luân trùng.
Năng suất nuôi luân trùng phụ thuộc nhiều vào chất lượng môi trường nuôi và chất
lượng thức ăn trong khi chất lượng luân trùng lại phụ thuộc hoàn toàn vào chất
lượng thức ăn của chúng.
Kết quả thí nghiệm đã khẳng định rằng sự phát triển của luân trùng không chỉ phụ

thuộc vào chất lượng thức ăn mà phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng nước trong các
hệ thống nuôi. Trong thí nghiệm 1, luân trùng ăn hoàn toàn bằng men bánh mì tăng
trưởng không sai khác gì so với luân trùng nuôi bằng thức ăn đặc chế Culture
Selco3000
®
. Thí nghiệm được thực hiện trong phòng điều hoà nhiệt độ với các yếu
tố thủy lý được giữ ổn định, hệ thống lọc sinh học tuần hoàn có kết hợp với bộ tách
bọt và ozone hoạt động tốt nên TAN và N-NO
2
-
được giữ ở mức rất thấp, các chất
cặn bả lơ lững được loại thải hiệu quả nên chất lượng nước trong bể nuôi luân trùng
của NT Men và NT CS3000 đều tốt và không có sự khác biệt. Đây có lẽ là lý do làm
cho tốc độ phát triển của luân trùng ở 2 nghiệm thức tương đương nhau trong suốt
16 ngày nuôi (Hình 2). Tương tự, ở thí nghiệm 2, chất lượng nước tốt trong các bể
nuôi luân trùng ở cả 3 nghiệm thức dẫn đến năng suất thu hoạch luân trùng sau 14
ngày nuôi không có sự khác biệt có ý nghĩa (Bảng 3). Tuy nhiên, vào cuối chu kỳ
nuôi, chất lượng nước trong các bể luân trùng của NT Men suy giảm nhanh hơn các
bể nuôi thí nghiệm khác, trùng tiêm mao xuất hiện nhiều hơn trong các bể ở NT
Men làm luân trùng của nghiệm thức này suy tàn nhanh hơn các nghiệm thức có bổ
sung tảo (Hình 3). Điều này phù hợp với nhận định của Hirayama (1987) và Komis
(1992) cho rằng nếu chỉ cho luân trùng ăn hoàn toàn bằng men bánh mì thì năng suất
không ổn định và quần thể luân trùng mau tàn mà nguyên nhân chủ yếu là do khó
quản lý chất lượng nước nuôi. Hoff & Snell (2004) cũng cho rằng cho luân trùng ăn
bằng men bánh mì rất khó giải quyết việc dư thừa thức ăn làm cho thành bể nuôi có
độ nhớt cao, nước có mùi hôi và thức ăn dư đóng thành cục trôi nổi trong nước. Mặc
dù hệ thống tuần hoàn với tốc độ tuần hoàn 500%/ngày có thể loại bỏ tương đối hiệu
quả chất thải và thức ăn thừa trong bể luân trùng nên không có hiện tượng thức ăn
dư đóng thành cục trôi nổi trong nước như mô tả, nhưng lượng thức ăn dư thừa
nhiều hơn trong NT Men của thí nghiệm 2 có lẽ là nguyên nhân làm cho trùng tiêm

mao phát triển nhiều hơn trong nghiệm thức này.
Ngoài chất lượng nước nuôi, chất lượng và số lượng thức ăn cũng đóng vai trò
quan trọng quyết định sự tăng trưởng của luân trùng. Việc bổ sung thêm tảo vào
thành phần thức ăn chính là men bánh mì ở thí nghiệm 2 có khuynh hướng ổn định
lượng thu hoạch hàng ngày, cải thiện được năng suất nuôi luân trùng (Hình 3),
nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê. Trong khi đó, hệ số trứng trung
bình của luân trùng ở các nghiệm thức có bổ sung tảo cao hơn có ý nghĩa so với
NT Men (P<0,05). Như vậy, năng suất luân trùng trong hệ thống thâm canh tuần
hoàn này có thể được cải thiện tốt hơn nếu tỉ lệ bổ sung tảo cao hơn 5%.
Năng suất thu hoạch trung bình hằng ngày của NT 3% tảo và 5% tảo lần lượt là
596±125 ct/mL và 630±23 ct/mL chiếm 19,9% và 21% quần thể luân trùng duy trì
Tạp chí Nghiên cứu Khoa học 2006: 92-101 Trường Đại học Cần Thơ

100
và kéo dài trong 14 ngày. Kết quả này tương đương với kết quả được Suantika et
al. (2000) công bố, với mật độ ban đầu là 500 ct/mL và mật độ duy trì 3000 ct/mL,
cho ăn hoàn toàn bằng thức ăn Culture Selco High (gọi tắt là CSH – tên ban đầu của
thức ăn đặc chế cho nuôi luân trùng thâm canh CS3000), thí nghiệm kéo dài 32 ngày
(trong đó có 27 ngày thu hoạch) với năng suất thu hoạch trung bình hằng ngày là
605±285 ct/mL chiếm khoảng 20% quần thể luân trùng duy trì. Như vậy, năng suất
thu hoạch hàng ngày của luân trùng được cho ăn bằng men bánh mì có bổ sung thêm
3-5% ở thí nghiệm này không thấp hơn năng suất nuôi hoàn toàn bằng CSH trong
thí nghiệm của Suantika et al. (2000). Nói cách khác, về mặt năng suất, có thể sử
dụng men bánh mì có bổ sung ít nhất 3-5% tảo Chlorella để thay thế thức ăn luân
trùng đặc chế đắc tiền trong nuôi luân trùng thâm canh tuần hoàn. Thời gian sản
xuất của hệ thống hay tính ổn định của hệ thống có lẽ phụ thuộc nhiều vào việc duy
trì chất lượng nước trong hệ thống hơn là chất lượng thức ăn cho luân trùng.
Bên cạnh năng suất nuôi, chất lượng dinh dưỡng của luân trùng mà chủ yếu là hàm
lượng HUFA cũng là yếu tố rất quan trọng. Theo Watanabe et al. (1983), luân
trùng chỉ được cho ăn bằng men bánh mì có chất lượng kém, không thể dùng nuôi

phần lớn ấu trùng cá biển. Vì vậy, các tác giả này đề nghị là khi nuôi luân trùng
bằng men bánh mì nên kết hợp với tảo nhằm giúp nâng cao chất lượng luân trùng
bằng các acid béo cao không no (HUFA) từ tảo. Trong thí nghiệm 2, hàm lượng
acid béo của luân trùng tăng theo mức độ tảo cho luân trùng ăn. Luân trùng được
cho ăn men bánh mì kết hợp tảo Chlorella nước ngọt mặc dù với các mức độ tảo cho
ăn không cao (3-5%) cũng cải thiện một cách có ý nghĩa hàm lượng một số acid béo
thiết yếu, đặc biệt là LNA, nhóm (n-6) gồm LA và ARA, và ∑HUFA so với luân
trùng chỉ cho ăn toàn men bánh mì. Mặc dù ∑HUFA tăng lên có ý nghĩa nhưng sự
gia tăng hàm lượng DHA và EPA lại không rõ ràng. Kết quả này cho thấy tảo
Chlorella nước ngọt rất giàu LNA, giàu (n-6) PUFA và HUFA nhưng nghèo DHA
và EPA. Điều này phù hợp với nhận xét của Hoff và Snell (2004), luân trùng ăn tảo
Chlorella nước ngọt có sinh trưởng tốt nhưng chất lượng dinh dưỡng không cao và
đặc biệt hàm lượng các acid béo thiết yếu (HUFA) của tảo Chlorella nước ngọt thấp
hơn so với tảo nước mặn Nannochloropsis và Isochrysis. Một khảo sát của Takeuchi
(1997) cho thấy sự biến thái của ấu trùng ghẹ xanh được cho ăn luân trùng nuôi
bằng tảo Chlorella nước ngọt không tốt bằng ấu trùng cho ăn luân trùng nuôi bằng
tảo Nannochloropsis vì tảo Chlorella nước ngọt chứa nhiều LNA nhưng thiếu EPA.
Mặc dù LNA là tiền chất để tổng hợp nên EPA và DHA cần thiết cho sinh vật biển
nhưng đối với giáp xác và các loài cá biển, sự tổng hợp này ít hoặc không xảy ra
được vì thiếu enzym ∆-5-desaturase (Sargent et al., 1989).
Một ưu điểm của luân trùng trong các nghiệm thức có bổ sung tảo là có hàm lượng
ARA tăng cao có ý nghĩa so với luân trùng trong NT Men. Hàm lượng ARA trong
luân trùng ở NT Men giảm từ ngày thứ 4 đến ngày thứ 14. Điều này cho thấy, men
bánh mì rất thiếu hụt ARA trong khi tảo Chlorella nước ngọt lại giàu ARA, một
trong ba loại acid béo thiết yếu quan trọng nhất.
Như vậy, bổ sung tảo Chlorella nước ngọt vào khẩu phần ăn chính là men bánh mì
cho luân trùng mặc dù với tỉ lệ thấp (5%) vẫn có thể cải thiện được năng suất và
chất lượng luân trùng. Tuy nhiên, việc cải thiện chất lượng này còn hạn chế do đặc
tính sinh hóa của tảo Chlorella nước ngọt là thiếu DHA và EPA. Kết quả thí
Tạp chí Nghiên cứu Khoa học 2006: 92-101 Trường Đại học Cần Thơ


101
nghiệm khẳng định rằng với hệ thống tuần hoàn hoạt động tốt (nhằm duy trì chất
lượng nước), có thể nuôi luân trùng hoàn toàn bằng men bánh mì hoặc men bánh
mì có bổ sung thêm ít nhất 5% tảo với năng suất cao không thua kém so với nuôi
bằng thức ăn đặc chế. Việc bổ sung tảo này có thể cải thiện đáng kể chất lượng
luân trùng so với chỉ nuôi bằng men nhưng đối với ấu trùng một số loài thủy sản
nước lợ mặn có yêu cầu cao về HUFA, việc giàu hóa luân trùng này là cần thiết.
4 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
- Đối với hệ thống nuôi luân trùng thâm canh tuần hoàn, luân trùng được cho ăn
bằng men bánh mì có sức tăng trưởng tương đương với luân trùng nuôi bằng
thức ăn nhân tạo Selco
®
. Luân trùng được cho ăn bằng men bánh mì có bổ sung
3-5% tảo Chlorella cho năng suất thu hoạch cao và sự ổn định tương đương với
luân trùng được nuôi bằng thức ăn luân trùng đặc chế đắc tiền.
- Khi nuôi luân trùng trong hệ thống thâm canh tuần hoàn với thành phần thức ăn
chính là men bánh mì, việc bổ sung 5% tảo vào thức ăn men bánh mì giúp làm
tăng LNA và ∑HUFA của luân trùng một cách có ý nghĩa so với luân trùng chỉ
cho ăn toàn men bánh mì.
- Tiếp tục nghiên cứu chất lượng luân trùng với các mức độ cho ăn tảo khác nhau
trong hệ thống nuôi luân trùng thâm canh tuần hoàn kết hợp với bể cá-tảo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Hàn Thanh Phong, 2002. Nuôi luân trùng (Brachionus plicatilis) trong hệ thống nuôi kết hợp
tảo - cá rô phi. Chuyên đề tốt nghiệp, Khoa Thủy Sản, Đại học Cần Thơ.
Hirayama, K., 1987. A consideration of why mass culture of the rotifer Brachionus plicatilis
with baker's yeast is unstable. Hydrobiologia 147, pp: 269-270.
Hoff, H. and T. W. Snell (2004). Plankton culture manual. The 6
th
edition. Florida Aqua

Farms, Florida,126 p.
Komis, A., 1992. Improve production and ultilization of the rotifer Brachionus plicatilis
Muller. in European sea bream (Sparus aurata Linnaeus) and sea bass (Dicentrachus
labrax Linnaeus) larviculture. PhD Thesis. University of Gent.
Sargent, J.R., R.J. Henderson and D.R. Tocher, 1989. The lipids. In: J. Halver (eds). Fish
nutrition, 2
nd
edition, Acadermic Press, NY, pp: 152-219.
Suantika, G., 2001. Development of a recirculation systemfor the mass culturing of the rotifer
(Brachionus plicatilis). PhD. thesis. Gent University, Gent, Belgium.
Suantika, G., P. Dhert, M. Nurhudah, P. Sorgeloos, 2000. High-density production of the
rotifer Brachionus plicatilis in a recirculation system: consideration of water quality,
zootechnical and nutritional aspects. Aquaculture Engineering 21, pp 201-214.
Takeuchi, T., 1997. Essential fatty acid requirements of aquatic animals with emphasis on fish
larvae and fingerlings. Reviews in Fisheries Science 5(1), pp: 1-25.
Watanabe, T., C. Kitajima and S. Fujita, 1983. Nutritional values of live organism used in
Japan for mass propagation of fish. A review. Aquaculture 34, pp: 115-143.
Trần Sương Ngọc (2003), “ Bước đầu tìm hiểu khả năng thu sinh khối tảo- luân trùng
(Brachionus plicatilis) trong hệ thống nuôi kết hợp luân trùng, tảo và cá rô phi”, luận văn
thạc sĩ năm 2003 chuyên ngành nuôi trồng thủy sản.

×