Tải bản đầy đủ (.doc) (54 trang)

Đề tài: Điều tra kinh tế xã hội và đánh giá hiện trạng nuôi trồng thuỷ sản của các xã Lộc Điền và Lộc An, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (308.16 KB, 54 trang )

BÁO CÁO THỰC TẬP
Đề tài:
Điều tra kinh tế xã hội và đánh giá hiện trạng
nuôi trồng thuỷ sản của các xã Lộc Điền và Lộc
An, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế
MỤC LỤC
BÁO CÁO THỰC TẬP 1
Đề tài: 1
Điều tra kinh tế xã hội và đánh giá hiện trạng nuôi trồng thuỷ sản của các xã Lộc Điền và
Lộc An, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế 1
MỤC LỤC 2
PHẦN 1 3
MỞ ĐẦU 3
PHẦN 2 6
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 6
PHẦN 3 15
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 15
PHẦN 4 17
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 17
Tần suất thay nước 35
Các yếu tố kiểm tra 35
Lượng nước thay 35
Thiết bị sử dụng 35
PHẦN NĂM : KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 44
PHẦN SÁU : TÀI LIỆU THAM KHẢO 46
PHẦN 1
MỞ ĐẦU
Hiện nay, ngành nuôi trồng thuỷ sản đang ngày càng phát triển và đã trở
thành một nền kinh tế quan trọng của đất nước. Trong những năm qua ngành thuỷ
sản không những đã góp phần giúp nhân dân xoá đói giảm nghèo mà còn vươn lên
làm giàu trên chính diện tích canh tác hiệu quả thấp trước đây. Ngành này đã đóng


góp một tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu khá lớn trong các mặt hàng xuất khẩu nông
sản, gia tăng nguồn thu ngoại tệ phục vụ cho xây dựng và phát triển của đất nước.
Thừa Thiên Huế là một tỉnh duyên hải miền trung có điều kiện tự nhiên khá
thuận lợi cho sự phát triển các hoạt động thuỷ sản nhất là nghề nuôi trồng thuỷ
sản.Với địa hình bờ biển kéo dài, có hệ đầm phá Tam Giang – Cầu Hai rộng lớn,
nhiều sông, hồ, thời tiết ấm áp thích hợp cho sự phát triển của các đối tượng thuỷ sản
và thuận lợi cho việc hình thành nên các mô hình nuôi trồng thuỷ sản phong phú.
Lộc An và Lộc Điền là hai xã thuộc huyện Phú Lộc nằm ở phía nam của
tỉnh. Hai xã có vị trí nằm tiếp giáp với đầm phá Tam Giang – Cầu Hai về phí
đông, giao thông thuận lợi với đường quốc lộ 1A chạy qua, nguồn lao động dồi
dào… là những lợi thế để phát triển nghề nuôi trồng thuỷ sản trên địa bàn. Thực
tế trong những năm qua cho thấy hoạt động nuôi trồng thuỷ sản phát triển khá
nhanh trên địa bàn huyện Phú Lộc nói chung và hai xã Lộc An và Lộc Điền nói
riêng. Bước đầu hoạt động này đã mang lại những thành quả nhất định tuy nhiên
qua đó cũng nảy sinh nhiều vấn đề trong quá trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản
nơi đây có thể kể đến một trong những tình trạng chủ yếu đó là tình hình dịch
bệnh thường xuyên xảy ra làm thiệt hại không nhỏ tiền của của nhân dân. Để hiểu
rõ hơn những vấn đề này chúng tôi chọn đề tài : “Điều tra kinh tế xã hội và đánh
giá hiện trạng nuôi trồng thuỷ sản của các xã Lộc Điền và Lộc An, huyện Phú
Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế” nhằm thấy được tình hình nuôi trồng thuỷ sản của
hai xã, nguyên nhân, cũng như đề xuất một số giải pháp khắc phục và nâng cao
hiệu quả sản xuất.
Mục tiêu của đề tài:
- Nắm được tình hình kinh tế - xã hội của hai xã tiến hành nghiên cứu.
- Nắm được tình hình nuôi trồng thuỷ sản, so sánh hiệu quả kinh tế từ hoạt
động nuôi trồng của hai xã và tìm ra mô hình nuôi hiệu quả.
- Bước đầu xác định nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp khắc phục và
nâng cao hiệu quả sản xuất.
PHẦN 2
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

2.1. Tình hình nuôi trồng thủy sản trên thế giới
2.1.1. Tình hình chung
Trong thời gian gần đây, nuôi trồng thuỷ sản liên tục tăng mức đóng góp
vào sản lượng thuỷ sản trên thế giới, từ chỗ chỉ chiếm 7,3% sản lượng trong năm
1970, hiện nay đã lên tới 33,92% (Trong tổng số 142,1 triệu tấn thuỷ sản thế giới
sản xuất được trong năm 2001, nuôi trồng thuỷ sản đạt 48,42 triệu tấn). Các loài
cá nước ngọt vẫn chiếm ưu thế trong nuôi trồng thủy sản. Sản lượng năm 2001 đạt
20,80 triệu tấn, chiếm 85,2% tổng sản lượng cá nuôi đạt giá trị 22,122 tỷ USD.
Tiếp theo là cá di cư hai chiều (2,543 triệu tấn, chiếm 10,4%, trị giá 7,435 tỷ
USD) và cá biển (1,091 triệu tấn, chiếm 4,1%, trị giá 4,088 tỷ USD). Mức tăng
trung bình của các nhóm trên gần giống nhau, cụ thể là trong giai đoạn 1970-
2000, cá nước ngọt có mức tăng trung bình hàng năm là 9,9%, trong khi cá di cư
đạt 10,6% và cá biển đạt 10,6%. [14]
Bảng 2.1 :Sản lượng và giá trị của một số loài
Nhóm cá Sản lượng
(tấn)
Trị giá
(USD)
Chép (2001) 16.427.266 15.986.670.000
Rô phi (2001) 1.385.223 2.002.162.000
Da trơn (2000) 421.709 655.419.500
Hồi (2000) 1.533.824 4.875.552.400
Măng (2000) 461.857 715.091.100
Chình (2000) 232.815 975.005.700
Cá biển (2001) 1.091.085 4.088.894
( Nguồn: Bộ Thủy sản)
Nuôi tôm luôn chiếm ưu thế trong nuôi giáp xác và trong nuôi trồng thủy
sản, tính đến năm 2003, sản lượng nuôi tôm trên thế giới đạt 1.804.932 tấn trong
đó có 666.071 tấn tôm sú, 723.858 tấn tôm thẻ chân trắng, còn lại là các đối tượng
khác (FAO,2004). Cũng theo FAO, báo cáo “Tình hình nuôi trồng thủy sản trên

thế giới” năm 2007, sản lượng tôm nuôi trên thế giới đạt vào khoảng 3,3 triệu tấn.
[14]. Tuy tôm nuôi mới chỉ chiếm 4,3% sản lượng và 15,3% giá trị trong cơ cấu
các sản phẩm nuôi trồng thủy sản (FAO,2003) nhưng có một vai trò đặt biệt quan
trọng trong thương mại thủy sản thế giới, đặt biệt là các nước đang phát triển. [1].
2.1.2. Tình hình nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam
Hoạt động nuôi trồng thủy sản ở nước ta thực sự khởi sắc từ năm 1990
và đến năm 2000 – 2002 thì bùng phát cả về diện tích lẫn đối tượng nuôi.
Việc mở rộng diện tích nuôi trồng thủy sản được tiến hành chủ yếu trên các
vùng đất ngập nước ven biển, trong các thủy vực nước mặn ven bờ, trên các
vùng cát trũng thấp ven biển miền Trung và một phần diện tích từ canh tác
nông nghiệp kém hiệu quả đã được chuyển sang nuôi trồng thủy sản. Diện
tích nuôi trồng thủy sản năm 2001 là 993.264 ha trong đó diện tích nuôi nước
ngọt là 408.700 ha, diện tích nuôi mặn, lợ là 584.500 ha; Năm 2002 là
955.000 ha trong đó diện tích nuôi nước ngọt là 425.000 ha, diện tích nuôi
mặn, lợ là 530.000 ha. Do thay đổi cơ cấu và đối tượng nuôi trồng thủy sản đã
dẫn đến tăng nhanh sản lượng nuôi trồng thủy sản và đóng góp phần đáng kể
cho ngành chế biến hải sản xuất khẩu. Sản lượng thủy sản năm 2001 đạt
891.695 tấn, năm 2002 đạt 976.100 tấn, tăng 9,47% so với năm 2001.[1]
Bảng 2.2. Các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội chủ yếu của ngành thủy
sản đến năm 2010.
Mục tiêu Đơn vị
Năm
2001 2005 2010
1.Tổng sản lượng thủy sản.
Bao gồm:
- Nghề cá biển
- Nghề nuôi trồng thủy sản
1000 tấn
1000 tấn
1000 tấn

2257
1367
2245
1300
3400
1400
2.Giá trị xuất khẩu Tỷ USD 1,76 3 4,5
(Nguồn: Báo cáo thảo luận hội nghị đánh giá kết quả thực hiện chương trình
phát triển thuỷ sản giai đoạn 2000- 2005 và biện pháp thực hiện đến năm 2010)
Xu hướng nuôi đang chuyển từ phương thức nuôi quảng canh sang nuôi
bán thâm canh. Nhiều vùng nuôi tập trung theo kiểu thâm canh công nghiệp và
sản xuất hàng hóa lớn đã hình thành. Hình thức và đối tượng nuôi cũng khá phong
phú, nhưng ở vùng nước lợ chủ yếu là tôm và một số loài nhuyễn thể có giá trị
xuất khẩu. Sản phẩm nuôi mặn, lợ đã mang lại giá trị xuất khẩu rất cao cho nền
kinh tế quốc dân và thu nhập đáng kể cho người lao động. Hình thức nuôi lồng bè
trên biển cũng đang là hướng mở mới cho ngành Thủy sản, với các loài tôm hùm,
cá giò, cá mú, cá tráp, trai ngọc…[5]. Đối với nuôi thủy sản nước ngọt, hình thức
nuôi lồng bè và kết hợp với khai thác cá trên sông đang ngày càng phổ biến. Hình
thức này đã tận dụng được diện tích mặt nước, tạo được việc làm và tăng thu
nhập. Ở các tỉnh phía Bắc và miền Trung đối tượng nuôi lồng chủ yếu là trắm cỏ
với quy mô lồng nuôi khoảng 12 – 24 m
3
, năng suất 450 – 600 kg/lồng. Ở các tỉnh
phía Nam đối tượng nuôi chủ yếu là cá basa, cá lóc, cá bống tượng và cá he. Nuôi
các đối tượng loài đặc sản có giá trị kinh tế cao như: ba ba, tôm càng xanh, cá sấu,
lươn, ếch…đang được mở rộng và làm tăng giá trị kinh tế của các mô hình nuôi
nước ngọt [1]. Về vấn đề nuôi tôm, trong thời gian qua, diện tích và sản lượng
tôm nuôi của nước ta liên tục tăng, số liệu được trình bày trong bảng sau đây:
Bảng 2.3: Diện tích và sản lượng từ năm 2003 đến năm 2005. [4].
Năm Diện tích

(nghìn ha)
Sản lượng
(nghìn tấn)
2000 324,1 93,5
2001 454,9 154,9
2002 509,6 186,2
2003 574,9 237,9
2004 598 281,8
2005 528,3 327,2
(Nguồn: Báo cáo thảo luận hội nghị đánh giá kết quả thực hiện chương trình
phát triển thuỷ sản giai đoạn 2000- 2005 và biện pháp thực hiện đến năm 2010)
Tuy nhiên, nghề nuôi tôm ở nước ta vài năm trở lại đây trở nên bấp bênh,
môi trường nuôi ngày càng ô nhiễm, dịch bệnh xảy ra thường xuyên và lây lan
trên diện rộng. Nguyên nhân của việc bùng phát dịch bệnh, năng suất thấp xuất
phát từ việc phát triển nuôi một cách tự phát, quy hoạch vùng nuôi không hợp lý
không đảm bảo cho sự phát triển bền vững.[7]
2.1.3. Tình hình nuôi trồng thủy sản ở Thừa Thiên Huế
Thừa Thiên Huế, một tỉnh duyên hải miền Trung, có hệ thống đầm phá ven
biển rộng lớn (gần 22.000 ha) được xếp vào loại lớn của thế giới. Hệ thống đầm
phá Tam Giang, Cầu Hai, Lăng Cô chạy dọc suốt 5 huyện ven biển Thừa Thiên
Huế, từ Phong Điền, Hương Trà, Quảng Điền, Phú Vang, Phú Lộc là một vùng
đầm phá nước lợ với hệ sinh thái sông biển phong phú và đặc sắc, là điều kiện tự
nhiên rất thuận lợi cho nhiều loài thủy sinh phát triển. Một lợi thế cho nhiều ngành
nghề nông, lâm, ngư nghệp, mà đặc biệt là nghề nuôi trồng thủy sản. Trong giai
đoạn từ năm 1998 đến năm 2003, diện tích nuôi tôm vùng đầm phá ven biển Thừa
Thiên Huế tăng nhanh, nhất là những năm 2000-2003. Năm 2000 diện tích nuôi là
2.021 ha chiếm khoảng 66,77% diện tích nuôi trồng thủy sản. Năm 2003 các trị số
tương ứng là 3.875 ha, chiếm khoảng 80,45%; tăng 207,46% so với năm 2000.[6]
Cùng với sự gia tăng về diện tích nghề nuôi tôm vùng đầm phá đã không
ngừng áp dụng kỹ thuật và những hình thức nuôi tiến bộ nên năng suất tôm tăng

khá, từ 0,208 tấn/ha ở năm 1998 lên 0,858 tấn/ha ở năm 2003, tương ứng tăng
412,5%. Từ đó sản lượng nuôi tôm tăng, năm 2003 đạt 9.149 tấn, tăng 11,66 lần
so với năm 1998. Đây chính là nguồn nguyên liệu tôm cho chế biến, xuất khẩu và
tiêu dùng nội địa.
Các huyện Phú Vang, Phú Lộc phát triển nuôi tôm nhanh hơn các huyện
khác. Vùng đầm phá huyện Phú Lộc tăng diện tích bình quân hằng năm là
42,192%/năm và sản lượng tăng 109,84%/năm trong thời gian trên. Phong Điền
không mở rộng diện tích nhưng đầu tư thâm canh nên sản lượng tôm nuôi ở năm
2003 tăng 9,67 lần so với năm 1998. Năm 2009, theo báo cáo của các đơn vị và
địa phương trong tỉnh, kết quả thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch về nuôi trồng thủy
sản trong 10 tháng và ước lượng cả năm 2009 như sau: [6]
* Về diện tích.
Tính đến hết tháng 8 tổng diện tích nuôi trồng thuỷ sản trên toàn Tỉnh thực
hiện là : 5.670,25 ha đạt 94,95% so với kế hoạch. Trong đó:
+ Diện tích nuôi nước lợ, mặn: 3.823,46 ha, đạt 92,51% so với kế hoạch gồm:
- Diện tích nuôi chuyên tôm: 1.424,3ha/2.430,2ha, đạt 58,61%;
- Diện tích nuôi xen ghép: 2.213,73ha/1.532,5ha, đạt 144,45%;
- Diện tích nuôi tôm chân trắng: 185,43ha/185,43ha, đạt 100%.
- Nuôi lồng nước lợ thực hiện được: 1.523 lồng đạt 152,30% .
Đến nay, diện tích nuôi xen ghép phát triển khá mạnh đạt 144,45 % so với kế
hoạch và tăng 45,21% so với cùng kỳ năm 2008, có được điều này là do bà con
ngư dân đã thấy được hiệu quả bền vững từ hình thức nuôi này. Năm nay một số
hồ nuôi tôm bỏ hoang đã được bà con ngư dân chuyển sang nuôi xen ghép như
Quảng Điền, Phú Lộc, Phú Vang, Hương Trà. Diện tích nuôi chuyên tôm giảm
mạnh chỉ đạt 58,61% so với kế hoạch vì chuyển sang nuôi xen ghép.
+ Về nuôi tôm chân trắng : Đến nay diện tích nuôi tôm chân trắng trên cát phát
triển khá mạnh đạt 185,43 ha, diện tích quay vòng 3 vụ đạt 237,85 ha. Diện tích
tăng là do hiệu quả từ việc nuôi tôm chân trắng mang lại. Tuy nhiên nuôi tôm
chân trắng đòi hỏi vốn đầu tư lớn và quy trình kỹ thuật khắt khe. Vừa qua tại
Phong Điền một số hộ nuôi ở xã Điền Hương và Phong Hải đã xảy ra hiện tượng

tôm chết khi mới nuôi gần hai tháng là do chất lượng con giống và quy trình kỹ
thuật chưa đảm bảo. Chi cục Nuôi trồng thuỷ sản đã nhiều lần nhắc nhở chính
quyền địa phương và người nuôi phải có ao xử lý nước cấp và nước thải nhưng
chưa được sự quan tâm đúng mức của chính quyền và bà con.
+ Về diện tích nuôi nước ngọt đến nay: 1.846,79ha/1.838,64ha, đạt
100,44%. Trong đó nuôi chuyên cá 1.599,61 ha, nuôi cá - lúa 229,08 ha và
nuôi cá – sen 18,1 ha. Riêng cá lồng đã đưa vào nuôi 2.155 lồng đạt gần
90,32% so với kế hoạch
.
* Về sản lượng thu hoạch:
Tổng sản lượng thu hoạch đến thời điểm hiện nay là 6.762,65 tấn đạt 79,56%
[6]. Trong đó:
+ Sản lượng nước lợ : 4.268,76 tấn đạt 78,52%
- Sản lượng Tôm sú, rảo : 1.875 tấn
- Sản lượng tôm chân trắng : 1.447,36 tấn
- Sản lượng Cá nước lợ : 435 tấn
- Sản lượng Cua, ghẹ : 165,5 tấn
Hiện nay sản lượng nhuyễn thể như vẹm, hàu chưa thống kê được, 3 tấn là
sản lượng của ốc hương.
- Sản lượng rong câu : 342,5 tấn
- Sản lượng nước ngọt : 2.493,89 tấn đạt 71,25%.
* Về năng suất :
Bảng 2.4: Năng suất nuôi chuyên tôm trong ao [6]
STT Tên Huyện
Năng suất bình quân
(tấn/ha/vụ)
Ghi chú
1 Phú Vang 1,10
Bình quân năng suất của
tôm sú và chân trắng.

2 Phú Lộc 0,48
Năng suất bình quân tính cả
diện tích nuôi xen ghép
3 Hương Trà 0,50
Năng suất bình quân tính cả
diện tích nuôi xen ghép
4 Quảng Điền 0,38
Năng suất bình quân tính cả
diện tích nuôi xen ghép.
5 Phong Điền 7,49
Bình quân năng suất của
tôm sú và chân trắng.
6 Doanh nghiệp 11,00
Nuôi tôm chân trắng trên
cát
(Nguồn: Báo cáo tổng kết tình hình nuôi trồng thủy sản tỉnh Thừa Thiên Huế)
2.3.2. Tình hình nuôi trồng thủy sản xã Lộc An và Lộc Điền .
Trong những năm gần đây dưới sự chỉ đạo phát triển của ủy ban nhân dân
xã Lộc Điền và Lộc An tình hình nuôi trồng thủy sản của hai xã đã có những phát
triển đáng kể, diện tích và sản lượng không ngừng tăng lên, trong đó xã Lộc Điền
có diện tích 179 ha đạt 106,5% kế hoạch tăng 11 ha so với năm 2008, năng suất
bình quân ước tính đạt 1 tấn/ha sản lượng nuôi trồng 179 tấn tôm, cá các loại đạt
91,66% kế hoạch giá trị sản xuất ước 8,8 tỷ đồng, diện tích tôm bị bệnh chết 24,5
ha chiếm tỷ lệ 15,31%. Lộc An nuôi trồng thủy sản chủ yếu là nuôi cá nước ngọt
năm 2009 tổng diện tích nuôi là 67,1 ha trong đó có 50,4 ha là nuôi cá nước ngọt;
31,4 ha nuôi cá; 31,7 ha nuôi cá lúa; 3,9 ha là sen cá; riêng nuôi cá lồng có 67 lồng
chủ yếu là trắm cỏ, diện tích nuôi tôm là 16,7 ha. Đối với cá nuôi ao cho năng suất
0,9 tấn/ha, đối với cá lồng năng suất bình quân 0,25 tấn/lồng. Sản lượng nuôi
trong năm qua đạt 143 tấn tôm, cá trong đó tôm 17 tấn còn lại là cá, tổng giá trị
sản xuất ước tính 5,8 tỷ đồng đạt 89,78% kế hoạch.[10][12]

Nhìn chung ở hai xã Lộc Điền và Lộc An đang có những chuyển biến tích
cực trong nuôi trồng thủy sản đem lại thu nhập đáng kể, đạt được thành công
trong xóa đói giảm nghèo cho nhân dân. Ở đây, nhiều mô hình nuôi thủy sản
thành công ngày càng nhiều, điển hình là [8]:
Bảng 2.5 Danh sách các hộ nuôi thủy sản điển hình của huyện phú Lộc
T
Đơn vị Hộ nuôi
DT
(ha)
Vụ 1 Vụ 2 Cả năm
SL
(tấn)
Lãi
(Tr.đ)
SL
(tấn)
Lãi
(Tr.đ)
SL
(tấn
)
Lãi
(Tr.đ)
I Lộc Điền
1 Nguyễn Văn
Bình
5 15 250 250
2 Đặng Thoan 1,7 3,5 130 130
3 Trần Đáo 1,7 3 80 80
4 Trương Nối 1,9 1,5 40 40

II Lộc An
1 Tô Văn Tám 2,26 2,26 150
2 Nguyễn Mai
Cáo
1,18 1,12 120
3 Lê Văn Lượng 1,39 1,2 125
(Nguồn: Báo cáo tổng kết tình hình nuôi trồng thủy sản năm 2009 huyện Phú
Lộc tỉnh Thừa Thiên Huế)
2.3.3. Những thuận lợi và khó khăn chung trong nuôi trồng thủy sản của Lộc
Điền và Lộc An:
Theo nguồn báo cáo tổng kết tình hình nuôi trồng thủy sản năm 2009 của
hai xã Lộc Điền và Lộc An gửi Ủy ban nhân dân huyện Phú Lộc đã chỉ ra
những thuận lợi và khó khăn chung trong nuôi trồng thủy sản :[10][12]
* Thuận lợi :
- Có định hướng, chủ trương và kế hoạch phát triển nuôi trồng thuỷ sản của
huyện và xã.
- Có sự quan tâm và ưu tiên và đầu tư đúng mức của các cấp lãnh đạo và các ban
ngành liên quan.
- Có nhiều diện tích cho nuôi trồng thủy sản.
- Điều kiện tự nhiên thích hợp cho nuôi tôm , cá.
- Người dân đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong ngăn chặn dịch bệnh và bảo vệ
môi trường nuôi trồng thuỷ sản. Ý thức vai trò và trách nhiệm của cộng đồng cao.
* Khó khăn :
- Vấn đề ao lắng, ao xử lý nước cấp vào ao chưa được quan tâm.
- Hệ thống xử lý nước thải còn chưa kiểm soát được.
- Vốn đầu tư hạn chế, ngư dân thiếu vốn đầu tư cho vụ nuôi.
- Dịch bệnh xảy ra nhiều.
- Thị trường đầu ra không ổn định.
- Môi trường ngày càng ô nhiễm.
- Giá cả vật tư cao.

- Cán bộ hợp tác xã còn ít, năng lực không đồng đều, tính năng động còn hạn
chế.
- Trình độ hiểu biết của người dân về nuôi trồng thuỷ sản còn thấp, một số người
còn mang hệ tư tưởng bảo thủ.
Những khó khăn đó xuất phát từ.
* Nguyên nhân :
- Đời sống người dân còn nghèo
- Thiếu giống thủy sản
- Giá cả phụ thuộc thị trường
- Nguồn giống không đảm bảo
- Thiếu qui hoạch tổng thể
- Không có tập huấn hoặc tổ chức tập huấn còn quá ít
Để giải quyết trước mắt những khó khăn còn tồn tại Ủy ban nhân dân
huyện đã đề xuất các giải pháp :
* Giải pháp :
- Tạo điều kiện cho người dân vay vốn sản xuất
- Mở các lớp tập huấn kỹ thuật nuôi trồng thủy sản
- Lập kế hoạch và qui hoạch vùng nuôi rõ ràng
- Nắm rõ thông tin thị trường
- Xây dựng hệ thống xử lý nước
- Hỗ trợ con giống cho người dân sản xuất
PHẦN 3
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3. Đối tượng, thời gian, địa điểm và phương pháp nghiên cứu:
3.1. Đối tượng nghiên cứu.
Các hộ dân nuôi trồng thuỷ sản tại địa điểm nghiên cứu.
3.2. Thời gian nghiên cứu.
Tháng 1 đến tháng 5 năm 2010
3.3. Địa điểm nghiên cứu.
Nghiên cứu được tiến hành tại xã Lộc Điền và xã Lộc An huyện Phú Lộc –

tỉnh Thừa Thiên Huế.
3.4. Nội dung nghiên cứu.
- Điều tra tình hình kinh tế - xã hội của hai xã tiến hành nghiên cứu.
- Điều tra tình hình nuôi trồng thuỷ sản, so sánh hiệu quả kinh tế từ hoạt động
nuôi trồng của hai xã và tìm ra mô hình nuôi hiệu quả.
- Xác định nguyên nhân, đề xuất một số giải pháp khắc phục và nâng cao hiệu
quả sản xuất.
3.5. Phương pháp nghiên cứu.
3.5.1. Phương pháp điều tra.
a. Thu thập thông tin thứ cấp:
Tiếp cận nguồn cơ sở dữ liệu thống kê về nuôi trồng thuỷ sản của các tổ
chức tại địa bàn điều tra bao gồm: Phòng nông nghiệp huyện Phú Lộc, Uỷ ban
Nhân dân xã tiến hành nghiên cứu.
b. Thu thập thông tin sơ cấp:
Phỏng vấn trực tiếp các hộ tham gia nuôi trồng thuỷ sản bằng bảng hỏi điều
tra thiết kế sẵn.
c. Phương pháp chọn mẫu điều tra.
Chọn phỏng vấn 10% số hộ trong danh sách tổng các hộ nuôi trồng thuỷ
sản ở mỗi xã đảm bảo tính đại diện cho tổng số mẫu.
d. Phương pháp tổ chức thực hiện điều tra.
Điều tra thí điểm: Xây dựng bộ bảng hỏi điều tra với trên 30 chỉ tiêu điều tra.
Dùng bản hỏi điều tra thí điểm ngẫu nhiên một số hộ nuôi trong danh sách được
cung cấp, lấy kết quả đối chiếu với mục tiêu và nội dung nghiên cứu. Trên cơ sở
đó điều chỉnh bộ bảng hỏi lần cuối để tiến hành điều tra chính thức.[2]
Điều tra chính thức: Chọn ngẫu nhiên số hộ nuôi trồng thủy sản tương ứng với
10% tổng số hộ nuôi tại mỗi xã để điều tra.
Tiến hành phỏng vấn trực tiếp từng hộ bằng bộ bảng hỏi điều tra hoàn chỉnh.
3.5.4. Phương pháp xử lý số liệu.[3]
Số liệu thu được sẽ được tập hợp và xử lý bằng phần mềm xử lý số liệu
Excell 2003.


PHẦN 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Lộc Điền và Lộc An là hai xã thuộc huyện Phú Lộc với địa thế nằm ven Phá
Tam Giang nên thuận lợi cho phát triển ngành thuỷ sản và cũng là nơi có thế
mạnh về khai thác và nuôi trồng thuỷ sản. Vì là vùng ven Phá Tam Giang nên cả
hai xã đều có tiềm năng rất lớn để phát triển nuôi trồng thuỷ sản nước lợ, diện tích
mặt nước tiềm năng để phát triển nuôi trồng thuỷ sản; đối với xã Lộc Điền là 202
ha, tính đến năm 2008 tổng diện tích đưa vào nuôi trồng là 179 ha, năm 2009 là
190 ha, ở đây chủ yếu là nuôi độc canh tôm sú và một số vùng nuôi xen ghép tôm
với cá kình, cá dìa; riêng xã Lộc An là có diện tích đầm phá nhỏ hơn nhưng lại có
thế mạnh về nuôi cá nước ngọt, trong đó năm 2009 tổng diện tích nuôi trồng là
67,1 ha thì đã có tới 50,4 ha là nuôi trồng thủy sản nước ngọt, phần lớn là nuôi
lồng bè độc canh cá trắm cỏ còn lại là nuôi xen ghép cá lúa, sen cá…
Để đánh giá thực trạng về tình hình nuôi tôm trong những năm qua của hai
xã và so sánh mặt bằng hiệu quả kinh tế đồng thời phân tích tìm hiểu khả năng
phát triển của nuôi trồng thủy sản ở hai xã trên, chúng tôi đã tiến hành điều tra các
thông tin liên quan, làm cơ sở đánh giá bước đầu.
4.1. Điều kiện tự nhiên ở xã Lộc An và Lộc Điền :
4.1.1.Vị trí địa lí, địa hình :
4.1.1.1.Vị trí địa lí
Lộc An và Lộc Điền là hai xã ven vùng đầm phá tỉnh Thừa Thiên Huế,
nằm về phía Nam của huyện Phú Lộc chạy dọc theo phá Cầu Hai.
* Lộc Điền : Phía Đông giáp xã Vinh Giang,Vinh Hà, Vinh Hưng; Phía Tây
xã Lộc Hòa, huyện Nam Đông và phía Nam giáp thị trấn Phú Lộc, phía Bắc giáp
xã Lộc An.
* Lộc An : Phía Bắc giáp xã Lộc Bổn, phía Nam giáp xã Lộc Điền, phía Tây
giáp huyện Nam Đông, phía Đông giáp xã Vinh Giang, Vinh Hà, Vinh Hưng.
Là hai xã ít xa xôi nhất, cách thành phố Huế 30 km về phía Nam có đường
quốc lộ I đi qua trung tâm thuận lợi cho việc đi lại lưu thông, buôn bán. Nằm ở vùng

bán sơn địa gò đồi, đất đai màu mỡ thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp.
4.1.1.2. Địa hình:
Địa hình xã Lộc Điền khá thuận lợi, tổng chiều dài của xã 7 km, với tổng
dân số 16.161 người. Tổng diện tích tự nhiên là 11.586,14 ha, trong đó diện tích
nuôi trồng thủy sản 220 ha, diện tích đất nông nghiệp 10.384 ha. Xã có phần diện
tích nằm trong vùng đầm phá rộng cho nên ở đây đang phát triển nhiều mô hình
nuôi trồng thủy sản nước mặn, là lợi thế phát triển kinh tế của vùng.[11]
Lộc An với tổng chiều dài 5km cùng số dân 13.584 người, diện tích tự
nhiên là 2.705 ha, trong đó tổng diện tích nuôi trồng thủy sản 67,1 ha. Địa hình
của Lộc An với lợi thế bằng phẳng đất đai màu mỡ nhiều ao hồ thuận lợi cho nuôi
cá nước ngọt và các hình thức nuôi xen ghép nước ngọt. Tuy nhiên phần diện tích
đầm phá lại nhỏ hẹp cho nên nuôi trồng thủy sản nước mặn chưa đem lại thu nhập
cao.[9]
Lộc Điền và Lộc An là hai xã thuộc vùng đất cát đầm phá, vùng trũng do
ảnh hưởng thuỷ triều của phá Cầu Hai, là vùng nằm ở trung tâm đầm phá, có tính
đại diện cho cả vùng, có quy mô vừa phải và có qui hoạch rõ ràng.
4.2. Thực trạng tình hình nuôi trồng thủy sản tại xã Lộc Điền và Lộc An:
4.2.1 Đặc điểm hộ điều tra.
Kết quả điều tra 10% hộ nuôi thuỷ sản tại mỗi xã Lộc Điền và Lộc An,
trong đó có 24 hộ ở Lộc Điền và 24 hộ ở Lộc An, tổng cộng chúng tôi đã điều tra
48 hộ đã cho thấy sự đa dạng về tuổi tác, trình độ học vấn, kinh nghiệm nuôi tôm,
cũng như số lượng ao nuôi. Một số đặc điểm chủ yếu của các hộ điều tra được
trình bày ở các thành phần sau:
* Về độ tuổi lao động :
Đa số các chủ nuôi thủy sản ở đây có độ tuổi từ 40 trở lên chiếm phần lớn, số
người tham gia lao động thủy sản của xã Lộc An có độ tuổi trung bình trẻ hơn ở
xã Lộc Điền, điều đó cho thấy hiện nay ở Lộc An đang có xu hướng thanh niên trẻ
ngày càng tham gia nhiều hơn đến lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, đó là một thế
mạnh cho xã Lộc An về nguồn nhân lực cũng như tinh thần lao động của thế hệ
trẻ này, trong tương lai sẽ phát triển mạnh.

Trên đây ta cũng thấy rằng ở Lộc Điền và Lộc An độ tuổi trung niên tham
gia nuôi thuỷ sản là chủ yếu, đó là một khó khăn cho việc tiếp thu các kỹ thuật.
Họ cho biết chỉ tham gia các khoá tập huấn về kỹ thuật nuôi thủy sản và rất ít hoặc
không biết áp dụng các biện pháp kỹ thuật đó như thế nào mà họ chỉ nuôi dựa vào
kinh nghiệm nhiều năm của họ, do vậy hiệu quả sản xuất không cao, có hộ còn
thua lỗ liên tục. Như vậy, để thuận lợi cho việc phát triển hoạt động nuôi thuỷ sản,
việc tổ chức các khóa tập huấn về kỹ thuật nuôi thuỷ sản, và trình diễn mô hình
cho người dân cũng là một vấn đề cần lưu ý, đồng thời vận động người dân xây
dựng tính cộng đồng cao hơn để người nuôi có thể áp dụng được các kỹ thuật thực
hành nuôi trồng thủy sản tốt hơn và gìn giữ tốt hơn thành quả chung.
* Về trình độ học vấn:
Nhìn chung các chủ ao nuôi thuỷ sản tại xã Lộc Điền và Lộc An có trình độ
học vấn ở mức thấp, đa số có trình độ từ cấp 1, 2 là chủ yếu. Chỉ có 29,17% hộ
nuôi ở Lộc Điền 16,67% hộ nuôi ở Lôc An đã học hết cấp 3 và có 4,17% hộ
không biết chữ, 8,33% hộ chỉ biết đọc, đều nằm ở xã Lộc Điền. Với trình độ học
vấn như vậy người dân sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận khoa học kỹ
thuật, tiếp nhận thông tin và phát triển sản xuất, cũng như nhận thức của người
nuôi về xu hướng phát triển của nuôi trồng thuỷ sản trong tương lai. Đặc biệt với
các chủ cơ sở sản xuất không biết chữ hoặc chỉ biết đọc họ rất khó tiếp thu những
kỹ thuật mới cũng như nắm bắt thông tin về yêu cầu của thị trường, về chất lượng
sản phẩm, mà đó là việc làm tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai áp dụng
các kỹ thuật nuôi cho đối tượng nuôi của họ.
* Về tỷ lệ người lao động:

Từ sơ đồ bảng vẽ chúng ta nhận thấy tỉ lệ lao động giữa nam và nữ của hai
xã là đồng đều. Trong mỗi gia đình có một lao động nam tham gia lao động thủy sản
thì cũng có một nữ tham gia. Điều này đã chứng minh được vai trò của người phụ nữ
trong nuôi trồng thủy sản, họ ngày càng tham gia nhiều hơn vào lĩnh vực này.
* Về các vấn đề khác :
Bảng 3.1 Một số chỉ tiêu điều tra

Các chỉ tiêu
Xã Lộc An Xã Lộc Điền
Số hộ Chiếm (%) Số hộ Chiếm (%)
Số năm kinh
nghiệm
10 1 4,17 4 16,67
11 0 0 1 4,17
15 0 0 3 12,50
3 3 12,50 1 4,17
4 3 12,50 2 8,33
5 5 20,83 3 12,50
6 4 16,67 4 16,67
7 1 4,17 4 16,67
8 4 16,67 2 8,33
9 3 12,50 0 0
Tập huấn
Không 18 75 16 66,67
Có 6 25 8 33,33
Đánh giá của
người dân
Rất nhiều 2 33,33 5 62,50
Nhiều 3 50,00 3 37,50
Ít 1 16,67 0 0
Nguồn tiếp thu
kinh nghiệm
Sách báo 16 66,67 17 70,83
Cán bộ kỹ thuật 4 16,67 6 25,00
Tập huấn 1 4,67 0 0
Mô hình trình diễn 3 12,50 1 4,17
Qua điều tra từ số liệu trên cho ta thấy số năm kinh nghiệm của các chủ nuôi

thủy sản ở đây dao động từ 3 đến 15 năm, trong đó mặt bằng chung các chủ hộ
đều có số kinh nghiệm từ 3 đến 7 năm như thế cho thấy rằng nuôi trồng thủy sản ở
hai địa phương này thực sự phát triển vài năm trở lại đây. Số hộ có kinh nghiệm
cao từ 10 năm trở lên chỉ chiếm trung bình. Mặt khác điển hình của nghề nuôi
trồng thủy sản là tay nghề kinh nghiệm, trình độ kỹ thuật như thế ngư dân ở hai xã
trên sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong quản lý và xử lý kỹ thuật, các vấn đề về sự
cần thiết trong khâu nuôi…Thứ hai, từ bảng trên cho thấy số hộ tham gia tập huấn
của hai xã là trái ngược nhau, Lộc Điền có 66,67% số hộ được tham gia tập huấn
trong khi Lộc An có tới 75% số hộ không được tham gia tập huấn về nuôi trồng
thủy sản. Lý giải cho điều này qua trực tiếp phỏng vấn và tìm hiểu chúng tôi được
biết xã Lộc Điền đa phần là nuôi trồng thủy sản nước lợ chủ yếu là tôm sú chiếm
85% hộ nuôi thủy sản của xã, do vậy được quan tâm và có nhiều chương trình tập
huấn diễn ra. Trong khi Lộc An với một xã nuôi thủy sản nước lợ không nhiều mà
đa số là nuôi thủy sản nước ngọt vì thế các chương trình tập huấn ít được thường
xuyên tổ chức hơn. Đây là một thiệt thòi lớn chưa được quan tâm đúng mức.
Trong khi tập huấn đem lại nhiều kinh nghiệm nuôi giúp ích rất nhiều cho ngư
dân và nâng cao được hiệu quả sản xuất, thu lại lợi nhuận cao. Phần lớn sau khi
tìm hiểu các hộ nuôi phải tiếp thu kinh nghiệm qua sách báo hoặc bạn bè cùng làm
nghề nuôi thủy sản. Như vậy người phải tự tìm tòi học hỏi trong toàn vụ nuôi của
mình, vì thế hiệu quả sản xuất thường rất thấp. Điều cần thiết ở đây là phải tạo ra
nhiều lớp tập huấn phổ biến kỹ thuật cho các hộ nuôi, như thế sẽ nâng cao được
trình độ tay nghề của người ngư dân hơn.
4.2.2.Thực trạng về ao nuôi và tình hình cải tạo ao trước khi nuôi.
Bảng 3.2 : Thực trạng ao nuôi và tình hình cải tạo ao nuôi
Các thông số
Lộc An Lộc Điền
Số hộ
Tỷ lệ
(%)
Số hộ

Tỷ lệ
(%)
Cải tạo ao
Không 3 13,04 1 10
Có 20 86,96 9 90
Thời gian cày đáy
( ngày )
1 4 16,67 1 4,17
2 12 50,00 8 33,33
3 8 33,33 15 62,50
Thời gian phơi đáy
(ngày)
2 3 12,50 1 4,17
3 9 37,50 1 4,17
4 7 29,17 1 4,17
5 4 16,67 7 29,17
6 0 0,00 1 4,17
7 1 4,17 13 54,17
Vét bùn đáy
Không 4 16,67 1 4,17
Có 20 83,33 23 95,83
Khối lượng vôi
( kg )
150 5 23,81 14 60,87
200 1 4,76 1 4,35
250 2 9,52 0 0,00
300 3 14,29 0 0,00
305 0 0,00 2 8,70
350 4 19,05 1 4,35
400 6 28,57 4 17,39

500 0 0,00 1 4,35
Tên chất diệt tạp
Chlorine 3 12,5 1 4,17
Saponin 16 66,67 23 95,83
Vôi
dolomit
1 4,17 0 0,00
Vôi Hàu 4 16,67 0 0,00
Ao xử lý
Không 24 100,00 24 100,00
Có 0 0,00 0 0,00
Gây màu nước
Không 5 20,83 0 0
Có 19 79,17 24 100
Do phần lớn nuôi theo hình thức quảng canh cải tiến nên ao lắng và ao xử lý
nước thải chưa được người nuôi quan tâm nhiều, vì tốn diện tích nuôi và một lí do
mà người nuôi cho biết là ở những vùng nuôi đáy cát pha bùn thì nước trong ao
thường bị thẩm thấu không giữ được nước; vì vậy khi cần nhiều nước để cấp thì
ao chứa lắng không đủ nước để cấp cho tất cả các ao nên họ không thiết kế ao
lắng. Qua điều tra không có hộ nào trong 48 hộ nuôi của hai xã có ao lắng. Như
thế nước được đưa trực tiếp vào ao nuôi khi thay và cấp nước thì có thể kéo theo
mầm bệnh, và các chất thải ô nhiễm khác không có lợi cho sức khoẻ của động vật
nuôi sẽ làm ảnh hưởng đến năng suất vụ nuôi.
Thời gian cải tạo ao tuỳ điều kiện thời tiết và tuỳ vào sự quản lý của người
kỹ thuật trong trại nuôi mà có thời gian từ 2 - 10 ngày. 90% hộ nuôi ở Lộc Điền
và 86,96% hộ nuôi ở Lộc An cải tạo ao kỹ trước khi thả giống với các công đoạn
như nạo vét bùn đáy, phơi khô ao và đặc biệt các hộ đã chú trọng khử trùng vôi và
diệt tạp, loại vôi được sử dụng phổ biến là vôi sò và vôi nông nghiệp. Liều lượng
sử dụng vôi tuỳ vào độ chua của ao, vào từng khu vực nuôi. Kết quả điều tra được
thể hiện ở bảng:

Bảng 3.3 Các hoá chất khử trùng và diệt tạp sử dụng ở các hộ điều tra
Các hóa chất sử dụng Số hộ Tỷ lệ (%) Liều lượng sử dụng
Dolomit 16 33,33 40-60kg/1000m
2
- Vôi 48 100,0 20-40kg/500 m
2
Hoá chất diệt tạp (Chlorine) 24 50% 15-30 ppm
Chất diệt tạp được sử dụng phổ biến là Chlorine, đây là hoá chất hữu
hiệu để diệt các loài cá tạp trong ao nuôi. Tuy vậy người dân chưa ý thức
được tác hại của những hoá chất sử dụng, làm trơ nền đáy, gây tác hại lâu dài
về sau. Công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức, các kiến thức cơ bản cho
người nuôi nên được tiến hành thường xuyên, thực sự mang lại lợi ích cho
người dân. Đây là nền tảng để góp phần thành công trong phát triển nuôi
trồng thủy sản bền vững, an toàn và hiệu quả.
4.2.3 Nguồn nước cấp và biện pháp xử lý nước.
Bảng 3.4 : Nguồn nước và biện pháp xử lý nước
Các chỉ tiêu Số hộ
Tỷ lệ
(%)
Nguồn nước cấp
- Chung 48 100,0
- Riêng 0 0,0
Chất lượng nước cung cấp cho ao nuôi
Tốt 5 10,42
Xấu 28 58,33
Trung bình 15 31,25
Qua số liệu điều tra cho thấy 100% ao nuôi sử dụng chung nguồn nước
cấp từ đầm phá vào trong ao nuôi và nước từ ao nuôi cũng thải trực tiếp ra
sông vì vậy nếu như nguồn nước chung này nhiễm mầm bệnh hoặc các chất
gây hại cho đối tượng nuôi thì sẽ là điều kiện cho bệnh phát ở diện rộng.

Nguồn nước tại hai xã này tỉ lệ xấu và trung bình cao vì thế rất dễ xảy
ra tình trạng động vật nuôi nhiễm bệnh và cũng chỉ có 26 hộ đã xử lý nguồn
nước ban đầu cấp vào ao nuôi. Họ chủ yếu dùng lưới lọc và đặt dolomite ở
máy cấp nước, chỉ hạn chế được một phần nhỏ các tác nhân gây bệnh và mầm
bệnh có thể lây lan phát triển.
Bảng 3.5: Các hoá chất sử dụng để xử lý nước và chất gây màu nước
Các hoá chất sử dụng Số hộ
Tỷ lệ
(%)

×