Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học: "TÍNH ĐỘC LẬP CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG - CHÌA KHÓA ĐỂ ỔN ĐỊNH GIÁ, KINH NGHIỆM CỦA NEW ZEALAND VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT ĐỐI VỚI VIỆT NAM" ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (387.55 KB, 25 trang )

TÍNH ĐỘC LẬP CỦA NGÂN HÀNG TRUNG
ƯƠNG - CHÌA KHÓA ĐỂ ỔN ĐỊNH GIÁ,
KINH NGHIỆM
CỦA NEW ZEALAND VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT
ĐỐI VỚI VIỆT NAM
CENTRAL BANK INDEPENDENCE – A KEY
TO PRICE STABILITY- THE EXPERIENCE OF
NEW ZEALAND AND SOME SUGGESTED
SOLUTIONS FOR VIET NAM


ĐẶNG HỮU MẪN
Trường Đại học Kinh tế, Đại
học Đà Nẵng


TÓM TẮT
Ổn định giá cả, ổn định sức mua của đồng tiền là
nhiệm vụ đầu tiên và quan trọng nhất của một ngân
hàng trung ương (NHTW). Duy trì mức lạm phát
thấp và hợp lý trong một khoảng thời gian dài là
dấu hiệu cho sự hoạt động hiệu quả một NHTW.
Nhiều học giả đã cho rằng một phần lớn trong kết
quả của sự giảm lạm phát từ nửa đầu thập kỷ 80 của
thế kỷ XX trên toàn thế giới có sự đóng góp quan
trọng của những mô hình NHTW độc lập. Bài viết
không xem xét toàn bộ những nội dung trong tính
độc lập của NHTW, thay vào đó, tác giả chỉ nghiên
cứu để tiếp cận vấn đề này ở mức độ sơ lược và cơ
bản nhất với mục đích phát hiện ra những vấn đề
chính trong tính độc lập của NHTW, từ đó chứng


minh được vai trò của nó đối với sự ổn định giá của
một quốc gia thông qua một minh chứng điển hình
nhất. Tác giả cũng đưa ra một số đề xuất như là một
tiếng nói đóng góp thêm vào nhiệm vụ ổn định giá
cả ở Việt Nam hiện nay.
ABSTRACT
Stabilizing prices and money purchasing power is
the first and most important task of a Central Bank.
Maintaining low levels of inflation and sensible in
long periods is a sign of an effective Central Bank.
A large number of scholars indicate that a large
fraction of the worldwide inflation decline since the
early 1980s has been contributed by independent
central bank models. The paper does not explore all
details of Central Bank independence, instead the
writer only approaches this problem at a
fundamental level in order to find out the major
problems in Central Bank independence. On this
basis, it aims to prove its role in stabilizing prices
for a country through the most typical evidence.
The writer also provides some suggestions as a
contribution to the price stabilization task for Viet
Nam.


1. Giới thiệu
1.1. Ổn định giá cả và vì sao mục tiêu ổn định giá
cả lại đặt lên hàng đầu?
- Thứ nhất, vấn đề ổn định giá trị của đồng tiền là
một điều kiện cần nếu muốn có sự tăng trưởng bền

vững. Không một nền kinh tế nào có thể tăng trưởng
bền vững nếu phải đối mặt với mức lạm phát quá cao.
- Thứ hai, sự đánh đổi giữa tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ
thất nghiệp diễn ra không lâu dài. Đường cong Phillips
mô tả mối quan hệ thực nghiệm về tỷ lệ thất nghiệp thấp
hay tỷ lệ tăng trưởng cao có thể đạt được trong ngắn hạn
thông qua chính sách mở rộng và tỷ lệ lạm phát cao.
Tuy nhiên, trong dài hạn, sự tăng trưởng kinh tế và giảm
thất nghiệp không được duy trì, bởi vì năng lực của nền
kinh tế có giới hạn, trong khi đó, tỷ lệ lạm phát có thể
tiếp tục tăng.
- Thứ ba, ổn định giá cả sẽ thúc đẩy hệ thống kinh
tế hoạt động hiệu quả hơn và do đó làm tăng được mức
sống của xã hội. Nếu giá cả không ổn định sẽ khiến cho
xã hội phải gánh chịu một số phí tổn kinh tế mà chi phí
cơ hội là một ví dụ rõ ràng nhất.
Ngoài ra, tình trạng giá cả bất ổn còn có thể khiến
các quyết định đầu tư sản xuất trở nên khó khăn hơn,
lòng tin của công chúng đối với hệ thống tài chính tiền
tệ sụt giảm, các áp lực về tiền lương, thuế khóa tăng lên
nhanh chóng,
1.2. Tính độc lập của NHTW (Central Bank
Independence)
Trong suốt những năm 90 của thế kỷ XX, tính độc
lập của NHTW được xem như là nền tảng của những cải
cách về mặt thể chế để giảm sự can thiệp bất hợp lý của
chính trị đến quá trình xây dựng và điều hành chính
sách tiền tệ (CSTT) nhằm đạt được mục tiêu ổn định giá
cả. Lý do dẫn đến cuộc cải tổ này đó là việc xây dựng
và điều hành CSTT mà có sự can thiệp chính trị thường

chỉ đạt được những mục tiêu ngắn hạn. Điều này sẽ làm
gia tăng tính tạm thời và không bền vững của kinh tế vĩ
mô, đặt biệt là nguy cơ bùng nổ lạm phát và theo đó hạn
chế tăng trưởng kinh tế và làm gia tăng tỷ lệ thất nghiệp.
Tính độc lập của NHTW được thể hiện thông qua
việc xác định rõ cơ chế hoạch định CSTT là như thế
nào, NHTW có được toàn quyền quyết định việc sử
dụng các công cụ để thực thi CSTT hay không cũng như
nêu rõ trách nhiệm của NHTW nói chung và Thống đốc
nói riêng trong trường hợp mục tiêu không đạt được như
đã đặt ra.
Xem xét tính độc lập của NHTW là một vấn đề lớn,
đòi hỏi phải được nghiên cứu thật chuyên sâu, rạch ròi.
Tuy nhiên, trong phạm vi bài báo này, tác giả chỉ nghiên
cứu để tiếp cận vấn đề này ở mức độ sơ lược và cơ bản
nhất với mục đích là phát hiện ra những vấn đề chính
trong tính độc lập của NHTW để từ đó chứng minh
được vai trò của nó đối với sự ổn định giá của một quốc
gia.

2. Kinh nghiệm của Ngân hàng Dự trữ New Zealand
2.1. Giới thiệu khái quát
Trong bài báo này, tác giả dựa vào những số liệu và
kết quả nghiên cứu về mối quan hệ giữa tính độc lập của
NHTW với mức độ lạm phát được đăng trên Tạp chí
Khoa học Kinh tế Economic Commentary (thuộc Ngân
hàng Dự trữ New Zealand - NHTW của New Zealand)
để chứng minh cho vấn đề cần thảo luận.
Công trình nghiên cứu của Economic Commentary
có thể được tóm tắt như sau:

- Hoạt động nghiên cứu khảo sát ở 2 giai đoạn, giai
đoạn thứ nhất 1955-1988 và giai đoạn thứ hai 1988-
2000.
- Đối tượng nghiên cứu là hầu hết các quốc gia
thuộc Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD. Sự
phát triển kinh tế đã tăng số lượng các quốc gia Công
nghiệp, vì vậy độ rộng của mẫu nghiên cứu ở giai đoạn
sau là lớn hơn nhiều.
- Công trình nghiên cứu lấy New Zealand (cụ thể là
Ngân hàng Dự trữ New Zealand) làm trung tâm để xem
xét, so sánh và đánh giá. Không phải ngẫu nhiên mà
người ta lấy New Zealand làm trung tâm nghiên cứu.
Lịch sử cho thấy New Zealand là một trong số các quốc
gia đầu tiên và thành công nhất của OECD trong việc
bình ổn giá cả, thực hiện chính sách lạm phát mục tiêu
và là quốc gia có những bước cải cách căn bản đầu tiên
trong hoạt động của NHTW. Vấn đề này sẽ được tác giả
trình bày rõ hơn ở phần sau.
- Biểu đồ 1: mô tả sự biến động mức lạm phát qua
các giai đoạn.
- Biểu đồ 2: thể hiện sự thay đổi tính độc lập của
NHTW mỗi quốc gia trong 2 giai đoạn khác nhau. Để
đo lường tính độc lập, ở 2 khoảng thời gian này các nhà
nghiên cứu đã lựa chọn một vài nhân tố chung bao gồm:
độc lập về mặt nhân sự (Personnel independence), độc
lập về mặt tài chính (Financial independence) và độc lập
về mặt chính sách (Policy independence), riêng độc lập
về mặt chính sách bao gồm độc lập về mục tiêu (Goal
independence) và độc lập trong sử dụng các công cụ
(Instrument independence). Từ đó, họ lượng hóa tính

độc lập này thông qua Điểm số độc lập (Independence
Score).
- Biểu đồ 3: khảo sát mối quan hệ giữa tính độc lập
của NHTW với tỷ lệ lạm phát. Trục hoành biểu diễn
Điểm số độc lập, trục tung phản ánh tỷ lệ lạm phát.




















Hầu hết những quốc
gia Công nghiệp đều đã
đạt được một sự giảm
lạm phát rõ rệt: tỷ lệ
giảm hàng năm trung

bình từ 5,6% trong giai
đoạn 1955-1988 xuống
còn 2,7% trong giai
đoạn 1988-2000 (xem
biểu đồ 1). Một trong
những câu chuyện thành
công khác thường nhất
là New Zealand, với
7,6% trong khoảng thời
gian đầu xuống còn
2,7% trong giai đoạn
sau. Nhiều học giả đã
quy sự cải tiến này cho
chính sách lạm phát mục
tiêu mà New Zealand đã
thực hiện vào năm 1989,
nhưng điều này sẽ là
phiến diện nếu chỉ tin
vào một mình sự ảnh
hưởng của chính sách
lạm phát mục tiêu.

Quay trở lại thời điểm năm 1989, hoạt động của
Ngân hàng Dự trữ New Zealand đã có bước đột phá với
2 cải cách lớn: thứ nhất, Ngân hàng Dự trữ được độc lập
nhiều hơn với Chính phủ. Thứ hai, đã thiết lập được một
chính sách lạm phát mục tiêu rõ ràng mà sau này nhiều
quốc gia đã lần lượt áp dụng. Xét về sự độc lập tối thiểu
của một NHTW, Ngân hàng Dự trữ New Zealand lúc
bấy giờ đứng vào tốp đầu tiên.

Các chuyên gia của Tạp chí Economic commentary
đã cho rằng chính sự độc lập cao hơn của Ngân hàng Dự
trữ New Zealand là chìa khóa cho thành công trong
quản lý lạm phát ở New Zealand.
2.2. Thành công của Ngân hàng Dự trữ New
Zealand
Trước năm 1989, Ngân hàng Dự trữ New Zealand
là một “đại lý” của Chính phủ và được trao rất ít sự độc
lập. NHTW này chỉ hoạt động với tư cách là cố vấn cho
Chính phủ New Zealand, vì vậy CSTT của nó như là
một công cụ hoạt động theo ý muốn của Bộ Tài chính.
Biểu đồ 2 minh họa điều này. Lịch sử cho thấy,
New Zealand đã được xếp vào loại những quốc gia có
Điểm số độc lập của NHTW thấp nhất và tỷ lệ lạm phát
của nó đứng vào loại cao nhất trong thế giới các nước
Công nghiệp. Suốt thập niên 70, mức độ lạm phát của
New Zealand luôn ở ngưỡng 2 con số, đôi lúc lên đến
18%. Đáp lại điều đó, để ổn định giá cả, từ những năm
1989, Ngân hàng Dự trữ New Zealand đã có một sự
chuyển mình mạnh mẽ trong điều hành. Điều này thể
hiện qua việc Quốc hội New Zealand đã nhanh chóng
sửa đổi các đạo luật có liên quan, xây dựng và hoàn
thiện các đạo luật mới trong đó khẳng định tiên quyết
rằng “Chức năng chủ yếu của Ngân hàng Dự trữ New
Zealand là trực tiếp xây dựng và hoàn thiện Chính sách
tiền tệ hướng vào việc đạt được các mục tiêu kinh tế và
duy trì sự ổn định giá cả ”
[
Bên cạnh đó, có thể kể ra một số những thay đổi
căn bản trong hoạt động điều hành CSTT của Ngân

hàng Dự trữ New Zealand:
- Để ổn định giá cả, Quốc hội New Zealand đã đưa
Chính sách lạm phát mục tiêu vào trong hiến pháp. Việc
lượng hóa mục tiêu lạm phát là kết quả của sự trao đổi
“công bằng, nghiêm túc” giữa Chính phủ và NHTW.
- NHTW New Zealand được phép xem xét tác động
và đề xuất những kiến nghị để giải quyết những tình
huống có thể ảnh hưởng đến sự ổn định giá, như sự biến
động của kim ngạch xuất nhập khẩu, các loại thuế,
- NHTW New Zealand được thực sự độc lập trong
việc theo đuổi mục tiêu CSTT mà không bị hạn chế về
mặt kỹ thuật, ngoại trừ trường hợp là việc thực hiện
CSTT phải cân nhắc đến tính hiệu quả và sự ổn định của
hệ thống tài chính. Đặc biệt, ngân hàng này được toàn
quyền quyết định các điều kiện tiền tệ (như các khối tiền
M1, M2, M3, lãi suất, tỷ giá, ) trên cơ sở một thỏa ước
với Bộ Tài chính và sự cân nhắc các ý kiến đóng góp
của các cơ quan chức năng khác.
- Trong quá trình quản lý ổn định giá, Ngân hàng
Dự trữ đã rút ra một số kết luận sau đây:
+ “Việc làm giảm lạm phát và duy trì mức lạm phát
mong muốn thấp là tương đối dễ dàng so với việc kiểm
soát chặt chẽ mức lạm phát trong phạm vi khung lạm
phát” [A, 2, p102].
+ Việc theo đuổi quá nhiều mục tiêu sẽ hạn chế
năng lực và tính chủ động của một NHTW, hay nói cách
khác, “việc NHTW tập trung giải quyết quá nhiều trách
nhiệm đối với Chính phủ sẽ làm giảm sút tính linh hoạt
của nó” [1, 1].
Những chủ trương mới này đã cho phép NHTW đề

ra được chính sách lạm phát mục tiêu tương ứng với
từng thời kỳ và có được những địa vị pháp lý cũng như
tính chủ động cao hơn trong giải quyết các mục tiêu ở
trên. Ngoài ra, nó cũng giới hạn đầy nghiêm khắc những
tình huống, những hoàn cảnh mà một Thống đốc có thể
bị xa thải, hay nói cách khác, việc thay đổi nhiệm kỳ
của Nội Các Chính phủ không ảnh hưởng đến hoạt động
của Ban lãnh đạo NHTW.
Biểu đồ 2 chỉ ra rằng Điểm số độc lập của Ngân
hàng Dự trữ New Zealand đã có sự tăng tốc mạnh mẽ,
từ 25 điểm giai đoạn 1955-1988 lên đến 89 ở giai đoạn
1989-2000 và được xem như là một bước ngoặt lớn. Có
thể thấy rõ, trong thời kỳ thứ nhất Ngân hàng Dự trữ
New Zealand có số điểm thấp nhất trong số các quốc gia
Công nghiệp được nghiên cứu, tuy nhiên ở giai đoạn
sau, nó bức phá lên tốp những NHTW có sự độc lập cao
nhất. Biểu đồ 2 cũng cho thấy, hầu hết những quốc gia
Công nghiệp đang nghiên cứu đều nằm ở nửa trên của
tuyến 45 độ, ngụ ý rằng tính độc lập được xem như là
một xu hướng chung trong những khoảng thời gian càng
tiến gần đến hiện tại.
Chúng ta cũng nhận thấy rằng tỷ lệ lạm phát của
New Zealand đã giảm từ 7,6% (cao hơn mức trung bình
của các quốc gia Công nghiệp) trong giai đoạn thứ nhất
xuống còn 2,7% (dưới mức trung bình) trong thời kỳ
sau. Vậy thì một câu hỏi được đặt ra là bao nhiêu sự
thành công trong kết quả này có sự đóng góp của sự
tăng lên trong mức độ độc lập của NHTW New
Zealand?
Biểu đồ 3 cho thấy trong thời kỳ thứ nhất đã có một

mối quan hệ khắng khít giữa tính độc lập của NHTW và
mức lạm phát (trong nhóm các quốc gia nghiên cứu),
hay nói cách khác, khi NHTW của những nước này có
quá ít tính độc lập thì mức lạm phát chung thường rất
cao và ngược lại. Giai đoạn thứ hai cho thấy mối quan
hệ này đã trở nên kém rõ ràng hơn, tuy nhiên biểu đồ 3
vẫn cho thấy có một mối quan hệ rất mật thiết giữa tính
độc lập và tỷ lệ lạm phát bình quân. Hơn nữa, sự tác
động của tính độc lập của NHTW vào mức lạm phát là
xuyên suốt mọi thời gian, và kết quả này không chỉ
đúng với New Zealand mà còn phù hợp với các quốc gia
còn lại.
Từ những kết quả ở biểu đồ 3, chúng ta có thể
khẳng định chắc chắn rằng sự giảm xuống trong tỷ lệ
lạm phát ở New Zealand (trung bình 4,2%) nhờ chủ yếu
vào sự tăng lên mạnh mẽ tính độc lập của Ngân hàng
Dự trữ New Zealand. Và người ta tính toán rằng nếu
như New Zealand trong giai đoạn thứ nhất có Điểm số
độc lập của NHTW cao như ngày nay thì mức lạm phát
sẽ chỉ là 3,4% thay vì 7,6% như đã tồn tại. Biểu đồ 3
cũng khiến các nhà kinh tế đi đến một sự tổng kết rằng
nếu có sự tăng lên trong tính độc lập của NHTW thì
mức lạm phát chung trên toàn thế giới sẽ giảm từ 5,6%
xuống còn 3,8%. Thực tế, tỷ lệ lạm phát bình quân trên
toàn thế giới là 5,6% (giai đoạn 1955-1988) và 2,7%
(giai đoạn 1988-2000).
Như vậy, với những bằng chứng đưa ra cho thấy
rằng đã có một mối quan hệ về mặt nguyên tắc hết sức
rõ ràng giữa tính độc lập của một NHTW và mức độ
lạm phát trong dài hạn. Một NHTW độc lập là cách thức

hữu hiệu nhất để đảm bảo duy trì một mức lạm phát
thấp và hợp lý.
3. Tính độc lập của NHNN Việt Nam hiện nay và
một số đề xuất
3.1. Tính độc lập của NHNN Việt Nam hiện nay
Điều 3 Luật NHNN khẳng định: “Quốc hội quyết
định và giám sát việc thực hiện CSTT quốc gia, mức
lạm phát dự kiến hằng năm trong mối tương quan với
cân đối ngân sách nhà nước và mức tăng trưởng kinh
tế Chính phủ xây dựng CSTT quốc gia, mức lạm phát
dự kiến hằng năm trình Quốc hội quyết định; tổ chức
thực hiện CSTT quốc gia; quyết định lượng tiền cung
ứng bổ sung cho lưu thông hằng năm, mục đích sử dụng
số tiền này và định kỳ báo cáo Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội; quyết định các chính sách cụ thể khác và các giải
pháp thực hiện ” [5, 9]
Điều 4 Luật NHNN quy định: “Chính phủ thành
lập Hội đồng tư vấn CSTT quốc gia để tư vấn cho Chính
phủ trong việc quyết định những vấn đề thuộc về nhiệm
vụ, quyền hạn của Chính phủ về CSTT. Nhiệm vụ và
quyền hạn của Hội đồng tư vấn CSTT quốc gia do
Chính phủ quy định.” [5, 10]
Như vậy, hiện tại mặc dù được quy định là NHTW
của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhưng
thẩm quyền của NHNN trong xây dựng và điều hành
CSTT còn hạn chế, NHNN có mức độ độc lập thấp và
chịu sự can thiệp hành chính toàn diện của Chính phủ.
NHNN chỉ là cơ quan xây dựng dự án CSTT Quốc gia
để Chính phủ trình Quốc hội quyết định, trên cơ sở đó,
NHNN tổ chức thực hiện; việc quyết định lượng tiền bổ

sung vào lưu thông hằng năm cũng do Chính phủ quyết
định, NHNN có trách nhiệm điều hành trong phạm vị đã
được duyệt,… Trong khi chức năng NHTW chưa được
khẳng định rõ nét, NHNN lại có trách nhiệm thực hiện
nhiều nhiệm vụ thuộc về chức năng quản lý nhà nước.
Ngoài ra, vì là cơ quan của Chính phủ nên có khi
NHNN phải thực hiện những nhiệm vụ không phù hợp
với mục tiêu của CSTT, chẳng hạn như tái cấp vốn để
khoanh, xoá nợ các khoản vay của NHTM Nhà nước
Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm hạn chế
hiệu quả hoạt động của NHNN, nhất là trong việc thực
hiện mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền.
3.2. Một số đề xuất
- NHNN phải được quyền quyết định các định
hướng, giải pháp trong xây dựng và điều hành CSTT
quốc gia cũng như trong việc thực hiện các chức năng
khác của NHTW. Tất nhiên, song song với các thẩm
quyền được trao, NHNN phải chịu trách nhiệm trước
Quốc hội về kết quả điều hành CSTT và thực hiện các
chức năng của NHTW.
- Cần tránh khuynh hướng cho rằng, nâng cao vai
trò độc lập của NHTW nghĩa là NHTW thoát ly hoàn
toàn khỏi Chính phủ. Mục tiêu cuối cùng của CSTT và
cũng là mục tiêu hoạt động của NHTW là ổn định giá
cả, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, cần thiết lập
các quy định pháp lý về mối quan hệ giữa NHTW với
Chính phủ nhằm bảo đảm hoạt động của NHTW hỗ trợ
tốt cho các chương trình kinh tế của Chính phủ:
+ NHTW tham gia vào việc soạn thảo các chương
trình, chính sách kinh tế của Chính phủ và đề đạt ý kiến

của mình về các quyết định của Chính phủ; tư vấn cho
Chính phủ về những vấn đề quan trọng liên quan đến
nhiệm vụ và thẩm quyền của NHTW.
+ NHTW và các Bộ, Ngành thuộc Chính phủ duy
trì cơ chế trao đổi, cung cấp thông tin để theo dõi, nắm
bắt kịp thời các diễn biến vĩ mô của nền kinh tế.
-Tiến tới thực hiện Chính sách lạm phát mục tiêu.
Lạm phát mục tiêu là một trong những khuôn khổ CSTT
mà theo đó, NHTW hoặc Chính phủ thông báo một số
mục tiêu trung dài hạn về lạm phát và NHTW cam kết
đạt được những mục tiêu này. Để làm được điều này,
NHNN phải có quyền đặc biệt để theo đuổi mục tiêu
lạm phát và tự mình đặt ra các công cụ của CSTT. Bên
cạnh đó, dân chúng cũng phải được thông báo về khuôn
khổ CSTT và việc thực hiện CSTT.
- Tăng cường tính độc lập về mặt tổ chức nhân sự
của NHNN. Theo đó, nhiệm kỳ của Ban lãnh đạo
NHTW có thể dài hơn nhiệm kỳ của Chính phủ và Quốc
hội, hoặc xen kẽ giữa các nhiệm kỳ của Chính phủ. Như
vậy, quá trình ra quyết định của NHTW sẽ không bị ảnh
hưởng bởi chu kỳ thành lập Chính phủ, chu kỳ lập kế
hoạch kinh tế. Thống đốc sẽ bị ảnh hưởng một khi
Chính phủ thay đổi nhân sự do hết nhiệm kỳ.
- Để đảm bảo tính độc lập về hoạt động, cần có qui
định cụ thể về chức năng “Là ngân hàng của Chính phủ”
theo hướng NHNN sẽ không cho ngân sách vay trực
tiếp. NHNN chỉ cấp tín dụng gián tiếp cho Chính phủ
thông qua việc cho ngân sách vay trên thị trường thứ
cấp có hạn mức, và lấy trái phiếu Chính phủ làm tài sản
đảm bảo khi cho các ngân hàng thương mại vay.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Nguyễn Hoài Bảo (2005), Câu chuyện lạm phát
Việt Nam 2004-2005,

[2]. TS. Nguyễn Duệ (2000), Chính sách mục tiêu lạm
phát, NXB Thống kê, Hà Nội.
[3]. Bùi Duy Hưng (2006), Lạm phát mục tiêu - Kinh
nghiệm một số nước và thực tế Việt Nam, Tạp chí
Ngân hàng số 16.
[4]. Lê Minh Hưng (2006), NHTW hiện đại - Mô hình
kiềng ba chân,
[5]. Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2003), NXB
Chính trị Quốc gia.
[6]. ThS. Trương Văn Phước (2006), Các mục tiêu của
NHTW trong nền kinh tế thị trường,

[7]. TS. Vũ Quang Việt (2004), Lạm phát Việt Nam -
Vài lời bình luận, Thời báo Kinh tế Sài Gòn số 20-
2004.
[8]. Charles Carlstrom and Timothy Fuerst (2006),
Central Bank Independence, Reserve Bank of New
Zealand,
/>f.
[9]. Sandra Dvorsky (2000), Measuring Central Bank
Independence,
Paper 13.pdf.

×