1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP
MÔN GIÁO DỤC HỌC
(Dùng cho đối tượng ôn thi đầu vào sau đại học)
2
A. NỘI DUNG
I. Lý luận chung
1. Giáo dục là hiện tượng đặc trưng của xã hội loài người
- Hiện tượng xã hội: Là hiện tượng nảy sinh, tồn tại và phát triển trong xã hội
loài người, nó phản ánh những mối quan hệ, những dạng hoạt động khác nhau
của con người.
- Cùng với sự xuất hiện xã hội loài người cũng đồng thời xuất hiện hiện tượng
GD: Người lớn dạy cho trẻ em những gì họ đã tích lũy, ngược lại, trẻ em học ở
người lớn những điều đó. Lúc đầu công việc này được thực hiện tự phát, sau đó
được tổ chức một cách tự giác, ta gọi đó là hiện tượng GD.
- Dấu hiện bản chất của hiện tượng này: Được thể hiện ở “Sự truyền đạt và
lĩnh hội kinh nghiệm xã hội- lịch sử”. Chủ thể của sự truyền đạt là thế hệ đi
trước; chủ thể của sự lĩnh hội là thế hệ đi sau; nội dung của truyền đạt là kinh
nghiệm xã hội-lịch sử.
- Kinh nghiệm xã hội: Là một hệ thống những tri thức, hệ thống phương thức,
cách thức tiến hành hành động, hệ thống thái độ trong việc đánh giá cảm xúc,
giá trị đối với nền văn hóa do con người sáng tạo ra trong tiến trình lịch sử.
+ Đối với cá nhân: Nhờ sự truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm xã hội- lịch
sử mà mỗi cá nhân có thể tái tạo ra năng lực người cho bản thân, nhờ đó có sự
phát triển tâm lý, ý thức và phát triển nhân cách.
+ Đối với XH: Nhờ sự truyền đạt và lĩnh hội này mà thế hệ đi sau có thể
bảo tồn và phát triển nền văn hóa. Như vậy, một XH muốn tồn tại và phát triển
thì XH ấy phải thực hiện chức năng GD. Đây chính là một tính quy luật của sự
phát triển, tiến bộ XH.
Kết luận: Với dấu hiệu bản chất nêu trên, GD được coi là một hiện tượng
XH vì nó nảy sinh, tồn tại và phát triển cùng với XH loài người. Nó là một hoạt
động mang tính tất yếu và vĩnh hằng. Ở đâu có XH là ở đó có GD, GD tồn tại
mãi mãi với XH loài người. Đây là hiện tượng chỉ có ở XH loài người, không
tồn tại ở các loài động vật khác.
3
2. Các chức năng XH của giáo dục
Với tư cách là hiện tượng XH nên GD có khả năng tác động đến những
hiện tượng và quá trình XH khác. Sự tác động này dưới góc độ XH học là chức
năng XH của GD. Như vậy GD tác động đến XH thông qua việc thực hiện các
chức năng của mình, đó là:
2.1. Chức năng kinh tế- sản xuất
Nói GD có chức năng này có nghĩa là GD có khả năng tác động tới quá
trình sản xuất XH và góp phần làm tăng trưởng kinh tế quốc gia. Điều này thể
hiện ở chỗ GD thông qua đào tạo đã giúp cho mỗi cá nhân tái tạo ra năng lực
người, phát huy sức mạnh thể chất và tinh thần bản thân. Qua đó, GD cung cấp
cho XH một đội ngũ những người lao động có chất lượng.
Xu hướng phát triển của XH hiện đại là áp dụng những thành tựu KHKT
vào thực tiễn sản xuất. Ngày nay, KHKT đã trở thành một lựa lượng sản xuất
trực tiếp, và GD chính là con đường thuận lợi để phổ biến KH.
Để thực hiện tốt chức năng này, GD phải tập trung thực hiện những yêu
cầu cơ bản sau:
+ GD phải gắn với thực tiễn XH, đáp ứng nguồn nhân lực theo yêu cầu
phát triển KT- SX trong từng giai đoạn cụ thể.
+ XD nền GDQD cân đối, đa dạng nhằm thực hiện 3 mục tiêu: Nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
+ Hệ thống GDQD không ngừng đổi mới ND, PP, phương tiện…
+ Tăng cường hợp tác quốc tế trong Giáo dục
2.2. Chức năng tư tưởng- chính trị
Nói GD có chức năng này có nghĩa là GD có khả năng tác động tới các
giai cấp, các nhóm, các giai tầng trong XH, góp phần làm thay đổi tính chất, cơ
cấu của chúng, làm cho quan hệ sản xuất ngày càng trở nên cần thiết, thể hiện
như sau:
- Thông qua việc nâng cao trình độ học vấn cho cá nhân, GD đã tạo điều kiện
cho mỗi người có thể chuyển đổi giai cấp. Chính điều đó đã tác động đến cơ cấu
giai cấp và nhóm xã hội sẽ thay đổi.
4
- Bằng việc nâng cao dân trí, GD tác động đến từng thành viên của giai cấp, của
các nhóm XH và thông qua những thành viên này làm cho giai cấp tiếp cận được
với văn minh chung của nhân loại.
- Cũng thông qua việc nâng cao dân trí, GD nâng cao nhận thức của công dân,
tạo điều kiện để họ có hành vi đúng trong quan hệ ứng xử, nhờ đó mà quan hệ
giữa con người với con người ngày càng trở nên thuần khiết hơn.
2.3. Chức năng văn hóa- xã hội
GD có tác dụng to lớn trong việc xây dựng một hệ tư tưởng chi phối toàn
dân, xây dựng một lối sống phổ biến trong toàn XH. Trình độ văn hóa của XH
thông qua phổ cập GD ngày càng được nâng cao dần, qua đó mà tạo ra nguồn
nhân lực đông đảo với chất lượng cao, đồng thời có điều kiện phát hiện và bồi
dưỡng nhân tài.
“Một dân tộc không được GD- dân tộc đó sẽ bị loài người đào thải, một
cá nhân không được GD- cá nhân đó sẽ bị xã hội loại bỏ”- A.Toffer
Kết luận chung:
- Cả 3 chức năng trên đều có mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng, đan xen, hỗ trợ
cho nhau. Cả 3 chức năng đều quan trọng nhưng trong bối cảnh hiện nay thì
chức năng KT-XH là quan trọng nhất.
- GD thông qua các chức năng của mình đã tác động sâu sắc và toàn diện tới các
lĩnh vực khác nhau của đời sống XH. Điều này khẳng định GD là nhân tố, là
động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển XH.
- Nhận thức rõ vai trò của GD với sự phát triển XH nên Đảng và Nhà nước ta đã
có quan điểm PT GD rất đúng đắn là: “Coi GD-ĐT là quốc sách hàng đầu”;
“Đầu tư cho GD là đầu tư cho PT”; “GD vừa là mục đích, vừa là động lực cho
sự PT XH”.
3. Mục tiêu giáo dục
Mục tiêu giáo dục là những chỉ tiêu, tiêu chí, những yêu cầu cụ thể đối với
từng cấp học, bậc học, ngành học, từng khâu, từng nội dung, trong từng thời
điểm mà quá trình giáo dục phải đạt được.
5
3.1. Mục tiêu tổng quát có thể hiểu đồng nghĩa với mục đích giáo dục và được
quy định tại Điều 2 Luật GD sửa đổi bổ sung năm 2009:
Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có
đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm
chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
3.2. Mục tiêu cụ thể:
- Mục tiêu GD mầm non: Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ em
phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên
của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào học lớp một.
- Mục tiêu của giáo dục phổ thông
1. Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về
đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá
nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã
hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh
tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
2. Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu
cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và
các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở.
3. Giáo dục trung học cơ sở nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển
những kết quả của giáo dục tiểu học; có học vấn phổ thông ở trình độ cơ sở và
những hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học trung học
phổ thông, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động.
4. Giáo dục trung học phổ thông nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển
những kết quả của giáo dục trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ thông và có
những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện phát huy
năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung
cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động.
6
- Mục tiêu của giáo dục nghề nghiệp
Mục tiêu của giáo dục nghề nghiệp là đào tạo người lao động có kiến thức,
kỹ năng nghề nghiệp ở các trình độ khác nhau, có đạo đức, lương tâm nghề
nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp, có sức khoẻ nhằm tạo điều kiện
cho người lao động có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc tiếp tục học
tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế
- xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh.
Trung cấp chuyên nghiệp nhằm đào tạo người lao động có kiến thức, kỹ
năng thực hành cơ bản của một nghề, có khả năng làm việc độc lập và có tính
sáng tạo, ứng dụng công nghệ vào công việc.
Dạy nghề nhằm đào tạo nhân lực kỹ thuật trực tiếp trong sản xuất, dịch vụ
có năng lực thực hành nghề tương xứng với trình độ đào tạo.
- Mục tiêu của giáo dục đại học
1. Mục tiêu của giáo dục đại học là đào tạo người học có phẩm chất chính
trị, đạo đức, có ý thức phục vụ nhân dân, có kiến thức và năng lực thực hành
nghề nghiệp tương xứng với trình độ đào tạo, có sức khoẻ, đáp ứng yêu cầu xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2. Đào tạo trình độ cao đẳng giúp sinh viên có kiến thức chuyên môn và kỹ
năng thực hành cơ bản để giải quyết những vấn đề thông thường thuộc chuyên
ngành được đào tạo.
3. Đào tạo trình độ đại học giúp sinh viên nắm vững kiến thức chuyên môn
và có kỹ năng thực hành thành thạo, có khả năng làm việc độc lập, sáng tạo và
giải quyết những vấn đề thuộc chuyên ngành được đào tạo.
4. Đào tạo trình độ thạc sĩ giúp học viên nắm vững lý thuyết, có trình độ
cao về thực hành, có khả năng làm việc độc lập, sáng tạo và có năng lực phát
hiện, giải quyết những vấn đề thuộc chuyên ngành được đào tạo.
5. Đào tạo trình độ tiến sĩ giúp nghiên cứu sinh có trình độ cao về lý thuyết
và thực hành, có năng lực nghiên cứu độc lập, sáng tạo, phát hiện và giải quyết
những vấn đề mới về khoa học, công nghệ, hướng dẫn nghiên cứu khoa học và
hoạt động chuyên môn.
7
- Mục tiêu GD thường xuyên giúp mọi người vừa làm vừa học, học liên tục,
học suốt đời nhằm hoàn thiện nhân cách, mở rộng hiểu biết, nâng cao trình độ
học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ để cải thiện chất lượng cuộc sống, tìm việc
làm, tự tạo việc làm và thích nghi với đời sống xã hội. Nhà nước có chính sách
phát triển GD thường xuyên, thực hiện GD cho mọi người, xây dựng xã hội học
tập.
3.3. Mục tiêu ở cấp độ chuyên biệt:
Mục tiêu GD ở cấp độ này là những chỉ tiêu, những yêu cầu cụ thể cần phải
đạt được như mục tiêu dạy, mục tiêu học, mục tiêu của chương trình, của môn
học… Những mục tiêu này cần được lượng hóa để có thể đo lường được. Mục
tiêu ở cấp độ này thể hiện ở ba mặt: Kiến thức, kỹ năng, thái độ mà học sinh
phải đạt được trong quá trình học tập.
- Kiến thức là hệ thống những khái niệm, phạm trù, những thông tin khoa
học theo nội dung từng môn học, từng chuyên ngành cụ thể. Kết quả học tập của
học sinh được đánh giá về số lượng và chất lượng kiến thức mà họ đã tiếp thu
được.
- Kỹ năng là khả năng thực hiện các công việc cụ thể, sau khi học sinh đã
qua một chương trình học tập, một khóa huấn luyện. Trình độ kỹ năng được
đánh giá bằng sản phẩm mà học sinh làm ra.
- Thái độ là biểu hiện ý thức của học sinh đối với kiến thức đã tiếp thu được
và những dự định ứng dụng chúng vào cuộc sống. Thái độ được biểu hiện qua
mối quan hệ của bản thân với gia đình, xã hội, công việc và ngay cả với tự
nhiên. Đó là một mặt của nhân cách, biểu hiện và được đánh giá qua hành vi.
4. Các con đường GD ở nhà trường Phổ thông
Con đường giáo dục được hiểu là cách thức hoạt động giáo dục có mục
đích, thông qua đó góp phần phát triển nhân cách người được giáo dục.
Các con đường giáo dục gồm có:
- Giáo dục thông qua dạy học;
- Giáo dục thông qua tổ chức các hoạt động phong phú và đa dạng
- Giáo dục thông qua sinh hoạt tập thể;
8
- Tự tu dưỡng
4.1. Giáo dục thông qua dạy học
- Một trong những con đường quan trọng nhất để giáo dục thế hệ trẻ là
đưa học sinh vào học tập trong nhà trường.
+ Nhà trường là một tổ chức giáo dục chuyên nghiệp, có nội dung chương
trình, có phương tiện và phương pháp hiện đại, do một đội ngũ các nhà sư phạm
đã được đào tạo thực hiện
+ Nhà trường là môi trường giáo dục thuận lợi, có một tập thể học sinh
cùng nhau học tập, rèn luyện và tu dưỡng.
- Trong nhà trường, học sinh được trang bị một khối lượng lớn tri thức
khoa học, được tiếp thụ những khái niệm đạo đức, văn hóa thẩm mỹ, những quy
tắc, những chuẩn mực xã hội qua các môn học. Nhờ học tập và thực hành theo
các chương trình nội, ngoại khóa mà kỹ năng lao động trí óc và chân tay được
hình thành, trí tuệ được mở mang, nhân cách được hoàn thiện.
4.2. Giáo dục thông qua tổ chức các hoạt động phong phú và đa dạng
Các dạng hoạt động của con người bao gồm:
- Vui chơi;
- Lao động sản xuất;
- Hoạt động xã hội…
* Vui chơi: Là hình thức hoạt động giải trí nhưng có ý nghĩa giáo dục to
lớn.
+ Vui chơi được thực hiện thông qua các trò chơi, phù hợp với mọi lứa
tuổi như: thể dục thể thao, văn hóa, vă nghệ và chơi trò chơi trí tuệ sáng tạo…
+ Để đạt được mục đích vui chơi giải trí, con người tìm tòi các trò chơi
mới, tìm ra các quy tắc chơi mang tính sáng tạo, qua đó tính tích cực, sáng tạo,
tinh thần đoàn kết tập thể, tính tổ chức kỷ luật… được hình thành, sức khỏe
được tăng cường, tính bền bỉ, dẻo dai được phát triển.
+ Trẻ em trong vui chơi như thế nào thì lớn lên sẽ phát triển như thế. Vì
vậy trong nhà trường và cả ngoài xã hội cần tổ chức nhiều trò chơi và lôi cuốn
nhiều học sinh, thanh, thiếu niên tham gia để giáo dục và phát triển.
9
- Lao động: là hình thức hoạt động đặc biệt của con người, lao động tạo ra
sản phẩm vật chất và tinh thần, nhằm thỏa mãn nhu cầu cuộc sống và chính lao
động lại tạo ra con người xã hội có ý thức.
+ Có hai loại lao động: lao động trí óc và lao động chân tay. Cả hai loại
lao động đều rèn chí thông minh, đều làm bộ lộ và phát triển tiềm năng trí tuệ,
đều hình thành các kỹ năng hoạt động sáng tạo.
+ Lao động sảng xuất với trình độ kỹ thuật cao, lao động sáng tạo và lao
động tập thể có ý nghĩa giáo dục to lớn.
- Hoạt động xã hội: là hoạt động của cá nhân trong các mối quan hệ đa
dạng với cộng đồng xã hội trong một môi trường phức tạp, hoạt động xã hội là
trường học rèn luyện và giáo dục con người.
+ Trong hoạt động xã hội, sự giao tiếp giữa các cá nhân càng đa dạng
càng làm phát triển phong phú các phẩm chất nhân cách, hình thành kỹ năng
giao tiếp, ứng xử có văn hóa, cá tính được bộc lộ.
+ Trong hoạt động xã hội, tính phức tạp của nội dung công việc càng cao,
thì con người càng phải cố gắng tìm ra các giải pháp hợp lý, do đó trí thông
minh sáng tạo, tính khéo léo, tế nhị, văn hóa được hình thành.
Như vậy, tham gia các hoạt động xã hội, sự hiểu biết về thế giới và cuộc
sống xã hội được mở mang, kinh nghiệm hoạt động được tích lũy, tính tích cực
xã hội được hình thành. Thu hút học sinh vào các hoạt động xã hội phong phú và
đa dạng đó chính là con đường tổ chức giáo dục có hiệu quả.
4.3. Giáo dục thông qua sinh hoạt tập thể
- Tổ chức cho học sinh sinh hoạt tập thể là một hoạt động giáo dục quan
trọng của nhà trường.
+ Chế độ sinh hoạt tập thể hợp lý, với kỷ luật nghiêm, hoạt động có kế
hoạch, có tổ chức và nề nếp tạo nên thói quen sống có văn hóa, hình thành ý chí
và nghị lực.
+ Dư luận tập thể lành mạnh luôn trợ giúp con người nhận thức những
điều tốt đẹp, điều chỉnh hành vi cuộc sống có văn hóa.
10
- Trong cuộc sống tập thể, các cá nhân cùng nhau hoạt động, tinh thần
đoàn kết, tình thân ái, tính hợp tác, cộng đồng được hình thành, đó là những
phẩm chất quan trọng của nhân cách.
- Trong sinh hoạt tập thể, một mặt các cá nhân tác động lẫn nhau, mặt
khác là sự tác động của nhà sư phạm qua tập thể, tạo thành tác động đổng hợp
có tác dụng giáo dục rất lớn. Tập thể vừa là môi trường, vừa là phương tiện giáo
dục con người, tổ chức tốt các hoạt động tập thể là con đường giáo dục đúng
đắn.
4.4. Tự tu dưỡng (tự giáo dục)
- Tự tu dưỡng biểu hiện ý thức và tính tích cực cao nhất của cá nhân đối
với cuộc sống.
- Tự tu dưỡng được thực hiện khi cá nhân đã đạt tới một trình độ phát
triển nhất định, khi đã tích lũy được những kinh nghiệm cuộc sống, những tri
thức phong phú.
- Tự tu dưỡng là kết quả của quá trình giáo dục, là sản phẩm của nhận
thức và sự tạo lập các thói quen hành vi, là bước tiếp theo và quyết định của quá
trình giáo dục.
- Tự giáo dục bắt đầu từ việc xây dựng các mục tiêu lý tưởng cho tương
lai, tiếp đó là tìm các biện pháp và quyết tâm thực hiện mục tiêu đã xác định.
Mỗi con người là sản phẩm của chính mình, tự giáo dục chính là phương thức tự
khẳng định.
Các con đường giáo dục không phải là riêng rẻ, tách rời mà là một hệ
thống gắn bó với nhau, chúng bổ sung hỗ trợ lẫn nhau để đạt được mục tiêu giáo
dục xã hội. Phối hợp các con đường giáo dục chính là nguyên tắc giáo dục phức
hợp cũng là nghệ thuật giáo dục.
5. Giáo dục với sự hình thành và phát triển nhân cách
5.1. Khái niệm
Khái niệm nhân cách: Nhân cách là bộ mặt tâm lý đặc trưng của một cá
nhân, với tổng hợp những phẩm chất phù hợp với những giá trị và chuẩn mực xã
hội, được xã hội thừa nhận.
11
Khái niệm sự phát triển nhân cách: Là quá trình cải biến một cách sâu
sắc và toàn diện những sức mạnh thể chất và tinh thần của con người diễn ra
theo quy luật tích lũy về lượng, biến đổi về chất nhằm chuyển hóa cá thể người
thành một chủ thể có ý thức trong XH.
5.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới sự hình thành và phát triển nhân cách
5.2.1. Yếu tố di truyền và bẩm sinh
a) Khái niệm
- Di truyền là sự tái tạo ở trẻ em những thuộc tính sinh học có ở cha mẹ, là sự
truyền lại từ cha mẹ đến con cái những đặc điểm và những phẩm chất nhất định
đã được ghi lại trong hệ thống gen.
- Bẩm sinh là những thuộc tính sinh học có ngay từ khi trẻ mới sinh ra.
b) Vai trò: Di truyền tạo tiền đề quan trọng cho sự hình thành và phát triển
nhân cách con người, thể hiện như sau :
- Con người như là một bộ phận của tự nhiên, khi sinh ra đã tiếp nhận vốn sinh
học nhất định được ghi lại đươi hình thức chương trình di truyền những sức
mạnh bên trong cơ thể, tồn tại dưới dạng những tư chất và những năng lực.
Chương trình mang tính di truyền này trước hết đảm bảo cho loài người tiếp tục
tồn tại, đồng thời làm phát triển những hệ giúp cơ thể con người thích ứng với
những biến đổi của các điều kiện tồn tại của mình, tạo khả năng cho con người
hoạt động có hiệu quả trong một số lĩnh vực nhất định.
- Tuy nhiên, những nhân tố bẩm sinh di truyền mặc dù có vai trò quan trọng
trong sự PT nhân cách, nhưng những tính chất được di truyền chỉ đặc trưng cho
những lĩnh vực hoạt động hết sức rộng rãi, bao quát, chúng không định hướng
vào một lĩnh vực hoạt động hay sáng tạo cụ thể nào. Việc định hướng này là do
những điều kiện lịch sử- XH cụ thể và do trình độ phát triển của loại hình hoạt
động lao động, nghệ thuật, khoa học nhất định quyết định, đặc biệt là do tính
tích cực hoạt động của cá nhân.
c) KLSP:
- Các nhà GD nên quan tâm đúng mức đến sức sống vốn có trong bản chất tự
nhiên của con người, cần sớm xác định tính chất và phương hướng của những
12
sức sống đó dưới dạng những tư chất để chăm sóc, khai thác, phát huy kịp thời
nhằm phát triển tài năng của trẻ.
- Nhận thức đúng đắn vai trò của yếu tố di truyền bẩm sinh đối với sự hình thành
và phát triển nhân cách để có thái độ đúng đắn trước những học thuyết sai lầm
như thuyết định mệnh do di truyền, thuyết sinh học hóa GD hoặc những chính
sách GD không đúng đắn.
5.2.2. Yếu tố môi trường
a) Khái niệm: Môi trường là hệ thống các hoàn cảnh bên ngoài, các điều kiện tự
nhiên và XH xung quanh cần thiết cho hoạt động sống và phát triển của con
người.
Có các loại môi trường:
- Môi trường tự nhiên: Bao gồm các ĐK tự nhiên- hệ sinh thái phục vụ cho hoạt
động học tập, lao động sản xuất, rèn luyện thể chất và vui chơi giải trí của con
người.
- Môi trường XH: Bao gồm môi trường chính trị, môi trường sản xuất- kinh tế,
môi trường sinh hoạt XH và môi trường văn hóa.
b) Vai trò:
Trong sự hình thành và phát triển nhân cách, môi trường XH có tầm quan
trọng đặc biệt vì nếu không có XH loài người thì những tư chất có tính người
cũng không thể phát triển được, cụ thể môi trường có vai trò như sau:
- Sự hình thành và PT nhân cách chỉ có thể được thực hiện trong một môi trường
nhất định. Môi trường góp phần tạo nên mục đích, động cơ, phương tiện và điều
kiện cho hoạt động giao lưu của cá nhân, nhờ đó cá nhân chiếm lĩnh được các
kinh nghiệm xã hội loài người để hình thành và phát triển nhân cách của mình.
- Tuy nhiên, tính chất và mức độ ảnh hưởng của môi trường đối với sự hình
thành và phát triển nhân cách còn tùy thuộc vào lập trường,quan điểm, thái độ
của cá nhân đối với các ảnh hưởng đó, cũng như tùy thuộc vào xu hướng và
năng lực, vào mức độ cá nhân tham gia cải biến môi trường.
13
c) KLSP:
- Trong quá trình GD con người, cần gắn chặt từng bước việc GD, học tập với
thực tiễn cải tạo XH
- Trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách, cần đánh giá đúng mức vai
trò của môi trường, tránh quá đề cao hoặc quá xem nhẹ vai trò của nhân tố này
trong sự hình thành và PT nhân cách.
5.2.3. Yếu tố giáo dục
a) Khái niệm
- Giáo dục (theo nghĩa rộng): Là quá trình tác động có mục đích, có tổ chức, có
kế hoạch, có ND và bằng PPKH của nhà GD tới người được GD trong các cơ
quan GD nhằm hình thành nhân cách cho họ.
- Giáo dục (theo nghĩa hẹp): Là quá trình hình thành cho người được GD lý
tưởng, động cơ, tình cảm, niềm tin, những nét tính cách của nhân cách, những
hành vi, thói quen cư xử đúng đắn trong XH thông qua việc tổ chức cho họ các
hoạt động và giao lưu.
b) Vai trò: GD giữ vai trò chủ đạo đối với sự hình thành và phát triển nhân
cách, điều đó được thể hiện ở những mặt sau đây:
- GD là sự tác động có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch nhằm thực hiện có
hiệu quả các mục đích đã đề ra.
- GD có thể mang lại những tiến bộ mà các nhân tố khác như bẩm sinh- di
truyền hoặc môi trường, hoàn cảnh không thể có được.
- GD có tầm quan trọng đặc biệt đối với những người bị khuyết tật, nó có thể bù
đắp những thiếu hụt do bệnh tật gây ra cho con người.
- GD còn có thể uốn nắn những phẩm chất tâm lý xấu và làm cho nó phát triển
theo chiều hướng mong muốn của XH. Đó chính là hiệu quả của công tác GD lại
đối với trẻ em hư và những người phạm pháp.
- Không giống với những nhân tố khác, GD không chỉ thích ứng mà còn có thể
đi trước hiện thực và thúc đẩy nó phát triển. Điều đó có giá trị định hướng cho
việc xây dựng mô hình nhân cách của con người Việt Nam với tư cách là mục
tiêu và động lực của sự PT KT- XH.
14
Thực tế GD cũng chứng minh rằng: Sự phát triển tâm lý cảu trẻ em chỉ có
thể diễn ra một cách tốt đẹp trong những ĐK của GD và DH. Điều đó càng
chứng tỏ được tầm quan trọng của GD. GD, DH sẽ tạo nên sự phát triển nhân
cách khi trong quá trình ấy, những sức mạnh của bản thân trẻ được thúc đẩy, khi
nhu cầu, động cơ, hứng thú của trẻ được chú ý, khi GD và DH phù hợp với
những quy luật bên trong của sự PT cá nhân.
c) KLSP:
- Những yêu cầu của nhà trường, nhà GD, của môi trường GD xung quanh đề ra
cho trẻ phải không ngừng tăng dần mức độ phức tạp và khó khăn. Như vậy mới
kích thích được sự PT trí tuệ của trẻ.
- GD và DH một mặt phải dựa trên sự phát triển đã đạt được của học sinh, mặt
khác phải đi trước sự phát triển trí tuệ, kéo sự phát triển ấy tiến lên.
- Chú ý kích thích hoạt động học tập của học sinh, thường xuyên tổ chức các
hoạt động phong phú cho học sinh tham gia. Chính thông qua hoạt động và giao
tiếp ấy mà trẻ ngày càng phát triển về tâm lý, càng nhận thức thế giới một cách
sâu sắc hơn.
- Đánh giá đúng mức vai trò của GD trong mối quan hệ với các yếu tố khác.
5.2.4. Yếu tố hoạt động
Con người với tư cách là một sinh thể ở bậc thang tiến hóa cao nhất của
sự tiến hóa vật chất, lại là một thực thể XH, là chủ thể lao động, nhận thức và
giao lưu. Hoạt động làm cho con người nhận thức được hiện thực, kích thích
hứng thú, niềm say mê sáng tạo và làm nảy sinh những nhu cầu mới, những
thuộc tính tâm lý mới… Nhờ đó nhân cách được hình thành và phát triển.
Hoạt động cá nhân đóng vai trò quyết định trực tiếp đối với sự hình thành
và phát triển nhân cách.
* KLSP:
- Hướng dẫn học sinh sử dụng phối hợp có hiệu quả các loại hình hoạt động
khác nhau.
15
- Giúp học sinh hiểu biết sâu sắc ý nghĩa XH của hoạt động, làm cho ý nghĩa
khách quan của hoạt động trở thành cái cần thiết chủ quan của người tham gia
hoạt động.
- Coi trọng việc XD nhu cầu, động cơ, mục đích hoạt động cho học sinh.
6. Hệ thống giáo dục quốc dân
6.1. Khái niệm hệ thống GD: Là tập hợp các loại hình GD (hoặc loại hình nhà
trường) được sắp xếp theo một trình tự nhất định theo các bậc học từ thấp (mầm
non) đến cao (Đại học và sau Đại học).
6.2. Nguyên tắc xây dựng hệ thống GD
2.1. Cơ sở PP luận về xây dựng và phát triển HTGDQD
- Cuộc cách mạng khoa học công nghệ diễn ra như vũ bão
- Xu thế toàn cầu hóa quốc tế
- Cải cách GD đang diễn ra trên quy mô toàn cầu…
2.2. Các nguyên tắc xây dựng HTGD
- Đảm bảo sự phù hợp với trình độ phát triển KT,VH,KH của đất nước và phải
có khả năng đáp ứng tốt các mục tiêu của chiến lược phát triển theo giai đoạn
của quốc gia.
- Đảm bảo tính định hướng chính trị và sự quản lý của Nhà nước về GD
- Đảm bảo tính mềm dẻo, tính liên tục, liên thông nhằm đáp ứng nhu cầu học tập
suốt đời của công dân.
6.3. Hệ thống GDQD Việt Nam
Tại điều 4 Luật GD 2009 sửa đổi bổ sung quy định như sau:
1. Hệ thống giáo dục quốc dân gồm giáo dục chính quy và giáo dục thường
xuyên.
2. Các cấp học và trình độ đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân bao
gồm:
a) Giáo dục mầm non có nhà trẻ và mẫu giáo;
b) Giáo dục phổ thông có tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông;
c) Giáo dục nghề nghiệp có trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề;
16
d) Giáo dục đại học và sau đại học (sau đây gọi chung là giáo dục đại học)
đào tạo trình độ cao đẳng, trình độ đại học, trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ.
7. Đặc điểm của lao động sư phạm
7.1. Đặc điểm lao động sư phạm (LĐSP) của GV
a) Mục đích của LĐSP:
Là mục đích của QTGD tổng thể: GD thế hệ trẻ một cách toàn diện và hài hòa,
chuẩn bị cho họ những phẩm chất và năng lực cần thiết để bước vào đời theo
yêu cầu của XH.
b) Đối tượng của LĐSP
Từ mục đích trên, LĐSP có đối tượng quan hệ là con người, là thế hệ trẻ đang
trưởng thành.
Để đạt được hiệu quả GD cao, người GV phải nghiên cứu và nắm chắc đối
tượng GD của mình, phải biết thiết kế và thực hiện những tác động sư phạm hợp
quy luật và hợp lý, phải tôn trọng và phát huy vai trò chủ thể của GV và HS trên
cơ sở nắm vững vai trò chủ đạo của mình.
c) Công cụ của LĐSP
Bao gồm tri thức, những dạng hoạt động mà GV thu hút HS tham gia một cách
tích cực, đặc biệt công cụ đó còn là chính nhân cách người GV.
d) Sản phẩm của LĐSP
Chính là nhân cách của người HS đã được chuẩn bị một cách toàn diện để đi vào
cuộc sống, đáp ứng yêu cầu và đòi hỏi của XH.
đ) Thời gian và không gian của LLĐSP
* Thời gian thực hiện của LĐSP được chia thành 2 bộ phận:
- Bộ phận theo quy chế
- Bộ phận theo quy chế
* Không gian: Được tiến hành trong 2 phạm vi không gian cơ bản:
- Ở trường học
- Ở nhà.
17
II. Lý luận dạy học
1. CẤU TRÚC CỦA QTDH
Quá trình dạy học bao gồm nhiều thành tố như: mục đích và nhiệm vụ dạy học,
phương pháp và phương tiện dạy học, thầy với hoạt động dạy, trò với hoạt động
học, kết quả dạy học… Quá trình này diễn ra và tác động qua lại với môi trường
kinh tế - xã hội, môi trường khoa học – công nghệ, môi trường quốc tế hoá….
Có thể khái quát cấu trúc của QTDH ở trường THCN-DN gồm các thành tố cơ
bản sau:
– Mục đích giáo dục và nhiệm vụ dạy học nghề: phản ánh một cách tập trung
nhấtnhững yêu cầu của xã hội (được thể hiện ở những yêu cầu của từng ngành
nghề) đối với quá trình dạy học.
– Nội dung dạy học ở trường THCN-DN: bao gồm hệ thống những tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo liên quan đến một ngành nghề cụ thể mà người học cần phải nắm
vững trong quá trình dạy học. Nội dung dạy học là một nhân tố cơ bản của quá
trình dạy học ở trường THCN-DH. Nội dung dạy học bị chi phối bởi mục đích
và nhiệm vụ dạy học, đồng thời nó lại quy định việc lựa chọn và vận dụng phối
hợp các phương pháp, phương tiện dạy học.
– Phương pháp và phương tiện dạy học: là hệ thống những cách thức, phương
tiệnhoạt động phối hợp của người dạy và người học nhằm thực hiện tốt các
nhiệm vụ dạy học.
– GV với hoạt động dạy và HS với hoạt động học: Trong quá trình dạy học,
giáo viênvới hoạt động dạy có chức năng tổ chức, điều khiển, lãnh đạo hoạt
động học tập của người học, đảm bảo cho người học thực hiện đầy đủ và có chất
lượng những yêu cầu đã được quy định bởi mục đích và nhiệm vụ dạy học.
Trong quá trình dạy học, người học vừa là khách thể (của quá trình dạy), vừa là
chủ thể tích cực, độc lập, sáng tạo của hoạt động học. Thầy và trò cũng như hoạt
động dạy và hoạt động học có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Chúng ta sẽ
nghiên cứu kỹ mối quan hệ này ở các phần tiếp theo.
– Các môi trường có ảnh hưởng đến QTDH: Quá trình dạy học với tư cách là
một hệthống tồn tại và phát triển trong môi trường kinh tế - xã hội, môi trường
18
khoa học – công nghệ và những xu thế của thời đại Nếu các thành tố: mục đích
– nhiệm vụ, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức, giáo viên – học sinh, kết
quả… là các thành tố bên trong quá trình dạy học thì tah2nh tố môi trường được
xem là thành tố bên ngoài của QTDH. Các môi trường này không chỉ tác động
đến hoạt động dạy học nói chúng mà còn ảnh hưởng đến tất cả các thành tố cấu
trúc bên trong QTDH. Ngược lại, QTDH phát triển sẽ góp phần thúc đẩy sự vận
động đi lên của các môi trường bên ngoài.
Có thể mô hình hòa các thành tố của QTDH và mối quan hệ giữa chúng
như mô hình sau đây:
Mối quan hệ giữa QTDH với các môi trường bên ngoài là mối quan hệ
biện chứng. Mối quan hệ này phản ánh vai trò của đời sống xã hội, ảnh hưởng
trực tiếp và sâu sắc của nền kinh tế thị trường tới từng nhân tố của quá trình giáo
dục, tới chất lượng và hiệu quả giáo dục, đào tạo. Và ngược lại, sản phẩm giáo
dục – những người có tri thức văn hóa, khoa học, có kỹ năng nghề nghiệp, có
phẩm chất đạo đức và thái độ đúng đắn… sẽ phát huy ảnh hưởng tích cực trở lại
đối với nền kinh tế - xã hội… Với ý nghĩa đó, giáo dục có vai trò là động lực, là
điều kiện cơ bản cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Đảng và Nhà nước ta đã xác
định :
- Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực thúc đẩy, là điều kiện
cơ bản đảm bảo cho việc thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội …
- Giáo dục và đào tạo phải đi trước sự phát triển kinh tế - xã hội…
- Biện pháp tổng quát là phải coi đầu tư cho giáo dục là một hướng chính của
đầu tư phát triển…
- Phải đa dạng hóa các hình thức đào tạo, thực hiện công bằng trong giáo dục.
- Giáo dục và đào tạo phải gắn chặt với yêu cầu phát triển của đất nước và phù
hợp với xu thế tiến bộ của
2. Bản chất của quá trình dạy học:
Chúng ta đã phân tích rất rõ ràng rằng quá trình dạy học bao gồm quá trình dạy
và quá trình học. Dạy là hoạt động lãnh đạo, tổ chức, điều khiển hoạt động học
của học sinh. Học là hoạt động do được sự lãnh đạo, tổ chức, điều khiển nên nó
19
là hoạt động nhận thức đặc biệt. Làm sáng tỏ luận điểm này là chúng ta đã phân
tích được bản chất của quá trình dạy học.
Vậy tại sao có thể nói học là hoạt động nhận thức ?
Nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não người. Đó là sự phản
ánh tâm lý của con người bắt đầu từ cảm giác. Sự học tập của học sinh cũng là
quá trình phản ánh như vậy. Sự phản ánh đó là sự phản ánh đi trước, có tính chất
cải tạo mà mức độ cao nhất của tính chất cải tạo đó là sự sáng tạo. Sự phản ánh
đó không phải thụ động như chiếc gương mà bao giờ cũng bị khúc xạ qua lăng
kính chủ quan của mỗi người như qua tri thức, kinh nghiệm, nhu cầu, hứng
thú… của chủ thể nhận thức. Sự phản ánh đó có tính tích cực thể hiện ở chỗ nó
được thực hiện trong tiến trình phân tích – tổng hợp của não người và có tính lựa
chọn. Trong vô số những sự vật và quá trình của hiện thực khách quan, chủ thể
tích cực lự chọn những cái trở thành đối tượng phản ánh của họ. Vì vậy, với tư
cách là chủ thể có ý thức, học sinh có khả năng phản ánh khách quan về nội
dung và chủ quan về hình thức, nghĩa là về nội dung học sinh có khả năng phản
ánh đúng bản chất và những quy luật của thế giới khách quan, còn về hình
thức,mỗi học sinh có phương pháp phản ánh riêng của mình.
Quá trình học tập của học sinh cũng diễn ra theo công thức nổi tiếng của
V.I.Lênin: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng
đến thực tiễn, đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, nhận thức
hiện thực khách quan”. (Bút ký Triết học – NXB Sự thật, Hà Nội 1963. Tr 189).
Xét toàn bộ quá trình nhận thức chung của loài người cũng như của học sinh đều
thể hiệm theo công thức đó, song trong từng giai đoạn cụ thể, tuỳ theo điểm xuất
phát trong quá trình nhận thức mà có thể đi từ cụ thể đến trừu tượng và từ trừu
tượng đến cụ thể, từ đơn nhất đến khái quát và từ khái quát đến đơn nhất.
Trong thực tiễn dạy học, do không hiểu đúng công thức đó đã dẫn tới cách xây
dựng nội dung và sử dụng phương pháp dạy học không đúng, dẫn đến việc quá
đề cao vai trò của tính trực quan sinh động mà xem nhẹ vai trò của tư duy logic,
tư duy khái quát, trừu tượng…, hoặc là quá chú trọng đến nhận thức xã hội, thay
thế và xem xét nhận thức cá nhân bằng nhận thức xã hội.
20
Vậy tính độc đáo trong quá trình nhận thức của học sinh thể hiện như thế nào?
Hoạt động nhận thức của học sinh trong quá trình dạy học được sự lãnh đạo, tổ
chức, điều khiển của giáo viên với những điều kiện sư phạm nhất định nên nó có
tính độc đáo, thể hiện như sau:
+ Quá trình nhận thức của học sinh không diễn ra theo con đường mò mẫm, thử
và sai như quá trình nhận thức chung của loài người mà diễn ra theo con đường
đã được khám phá, được những nhà xây dựng nội dung dạy học và người giáo
viên gia công vào.
+ Quá trình nhận thức của học sinh không phải là quá trình tìm ra cái mới cho
nhân loại mà là tái tạo lại tri thức của nhân loại đã tạo ra, nên cái mà họ nhận
thức được chỉ là mới đối với họ mà thôi.
+ Trong một thời gian tương đối ngắn, học sinh có thể lĩnh hội một khối lượng
tri thức rất lớn một cách thuận lợi. Chính vì vậy, trong quá trình học tập của học
sinh phải củng cố, tập vận dụng, kiểm tra, đánh giá tri thức, kỹ năng, kỹ xảo
nhằm biến chúng thành tài sản riêng của bản thân họ.
Trong quá trình dạy học cần phải chú ý tới tính đặc biệt đó trong quá trình nhận
thức của học sinh để tránh sự đồng nhất quá trình nhận thức chung của loài
người với quá trình nhận thức của người học sinh. Song cũng không vì quá coi
trọng tính độc đáo đó mà thiếu quan tâm đúng mức tới việc tổ chức cho học sinh
dần dần tìm hiểu và tham gia các hoạt động khoa học vừa sức, nâng cao dần qua
các lớp để chuẩn bị cho sự khai thác tri thức để tham gia nghiên cứu khoa học
trong tương lai.
3. Phân tích động lực cơ bản của quá trình dạy học:
3.1. Quan niệm về động lực của quá trình dạy học:
Theo triết học Mác – Lênin, mọi sự vật, hiện tượng vận động và phát triển
không ngừng là do có sự đấu tranh và thống nhất giữa các mặt đối lập, nghĩa là
do có mâu thuẫn. Có hai loại mâu thuẫn: đó là mâu thuẫn bên trong và mâu
thuẫn bên ngoài. Mâu thuẫn bên trong quyết định sự phát triển, mâu thuẫn bên
ngoài là điều kiện của sự phát triển.
21
Động lực của quá trình dạy học là giải quyết những mâu thuẫn bên ngoài, bên
trong của quá trình dạy học, trong đó giải quyết các mâu thuẫn bên trong có ý
nghĩa quyết định (Mâu thuẫn bên trong là mâu thuẫn giữa những thành tố của
quá trình dạy học; Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn giữa sự tiến bộ của khoa
học, công nghệ, văn hoá, sự phát triển kinh tế xã hội với từng thành tố của quá
trình dạy học). Tuy nhiên trong những điều kiện nhất định, các mâu thuẫn bên
ngoài của quá trình dạy học lại có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự vận
động và phát triển của nó.
3.2. Phân tích động lực cơ bản của quá trình dạy học:
+ Chúng ta nhận thấy rằng ngay bên trong quá trình dạy học cũng tồn tại rất
nhiều mâu thuẫn đòi hỏi phải giải quyết. Vậy điều quan trọng nhất để quá trình
dạy học phát triển nhanh, đúng và có hiệu quả là phải xác định được mâu thuẫn
cơ bản của nó. Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn tồn tại suốt từ đầu đến cuối quá
trình, việc giải quyết các mâu thuẫn khác xét cho cùng đều phục vụ cho việc giải
quyết nó.
Căn cứ vào đó ta thấy mâu thuẫn cơ bản của quá trình dạy học là mâu thuẫn giữa
một bên là nhiệm vụ học tập do tiến trình dạy học đề ra, và một bên là trình độ
tri thức, trình độ phát triển trí tuệ hiện có của học sinh.
Đây là mâu thuẫn tồn tại suốt từ đầu đến cuối quá trình dạy học, và khi mâu
thuẫn xuất hiện, dưới sự chỉ đạo của người thầy giáo học sinh độc lập giải quyết
nó, và như vậy học sinh đã nâng trình độ lên đáp ứng các nhu cầu học tập đề ra.
Song quá trình dạy học là quá trình liên tục nên các nhiệm vụ học tập mới lại đề
ra ở mức cao hơn trình độ đã đat được. Thế là mâu thuẫn lại xuất hiện và lại
được giải quyết. Cứ như vậy mà quá trình dạy học không ngừng vận động và
phát triển.
Động lực cơ bản của quá trình dạy học chính là việc giải quyết những mâu thuẫn
cơ bản đó.
Chúng ta biết rằng muốn quá trình dạy học phát triển thì quá trình học của học
sinh phải tiến triển. Vì vậy, mâu thuẫn cơ bản của quá trình dạy học phải chuyển
hoá thành mâu thuẫn cơ bản của quá trình lĩnh hội tri thức của người học sinh.
22
Theo I.M.Xêsênốp, sự lĩnh hội là hoà những sản phẩm kinh nghiệm của người
khác với những kinh nghiệm của bản thân, có nghĩa là phải làm cho những điều
được mang từ ngoài vào thành tài sản bên trong của bản thân. Vì vậy mâu thuẫn
cơ bản của quá trình lĩnh hội là mâu thuẫn giữa điều đã biết và điều chưa biết.
Điều đã biết ở đây chính là kinh nghiệm, sự hiểu biết của bản thân; và điều chưa
biết chính là kinh nghiệm của người khác, nghĩa là tri thức mới cần lĩnh hội.
Vậy để chuyển hoá mâu thuẫn cơ bản của quá trình dạy học thành mâu thuẫn cơ
bản của quá trình lĩnh hội tri thức của người học cần phải có ba điều kiện:
+ Mâu thuẫn phải được người học ý thức đầy đủ và sâu sắc. Họ phải nhận thức
rõ những yêu cầu được nhiệm vụ học tập đề ra, thấy hết và đánh giá đúng mức
trình độ tri thức, trình độ kỹ năng, kỹ xảo, trình độ phát triển trí tuệ hiện có của
mình. Điều đó thể hiện ở sự cảm thấy khó khăn trong nhận thức và từ đó có nhu
cầu giải quyết khó khăn nhằm hoàn thành nhiệm vụ học tập.
+ Mâu thuẫn phải vừa sức, đúng hơn là khó khăn vừa sức. Điều đó có nghĩa là
nhiệm vụ học tập đề ra có mức độ tương ứng với giới hạn trên của vùng phát
triển trí tuệ gần nhất của học sinh mà họ có trể giải quyết được với sự nỗ lực cao
nhất về trí lực cũng như thể lực của mình.
+ Mâu thuẫn phải do tiến trình dạy học dẫn đến. Điều đó có nghĩa là mâu thuẫn
xuất hiện tại thời điểm đó là sự tất yếu trên con đường vận động đi lên của quá
trình dạy học nói chung và quá trình nhận thức của học sinh nói riêng. Không
nên đốt cháy giai đoạn làm cho mâu thuẫn xuất hiện quá sớm hoặc kìm hãm làm
cho nó xuất hiện quá muộn. Nhiệm vụ của người giáo viên là không được tránh
mâu thuẫn, làm cho nó xuất hiện không đúng lúc, mà trái lại, làm cho mâu thuẫn
xuất hiện càng đúng lúc, càng sâu sắc bao nhiêu thì càng tốt bấy nhiêu.
3.3. Thí dụ về cách xây dựng động lực của quá trình dạy học:
Khi học bài môi trường và sự phát triển nhân cách, điều khó khăn đối với học
sinh là hiểu và phân tích được đúng đắnvai trò của môi trường ( trước đây họ có
thể đã hiểu được vai trò nhất định của môi trường đối với sự phát triển nhân
cách, nhưng cụ thể vai trò đó là như thế nào, nó có liên quan đến các yếu tố khác
ra sao thì còn là một vấn đề đặt ra cho họ tìm hiểu).
23
Vậy tiến trình dạy học có thể diễn ra như sau:
+ Giáo viên có thể dẫn dắt vào bài nêu lên vấn đề cho học sinh tập trung suy
nghĩ để giải quyết: “Trong cuộc sống, các em vẫn thường nghe nói “ gần mực
thì đen, gần đèn thì rạng”; nhưng bên cạnh đó thì ở kho tàng tục ngữ – ca dao
của ta còn có câu:”Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Rõ ràng cả hai câu đều
đề cập đến vai trò nhất định của môi trường nhưng ở hai cực rất khác nhau. Vậy
chúng có mâu thuẫn gì hay không? Cụ thể môi trường có vai trò như thế nào đối
với sự hình thành và phát triển nhân cách?”.
+ Tiếp đó giáo viên nêu lên các câu hỏi để học sinh trả lời, dẫn dắt họ dần đến
lời giải đúng đắn:
- “Theo các em nếu không sống trong môi trường xã hội thì nhân cách con
người có phát triển được không? Hãy cho ví dụ?”
Học sinh trả lời: “ Nếu không sống trong môi trường xã hội thì nhân cách con
người không thể hình thành và phát triển được, ví dụ như người bị thú nuôi…”
- “Vậy ở đây môi trường xã hội có vai trò gì?”
Học sinh: “Tạo điều kiện cho cá nhân sống, học tập, giao tiếp, góp phần tạo nên
mục đích, động cơ cho hoạt động của cá nhân…”
- “Có phải cá nhân chịu sự tác động thụ động của môi trường hay không?”
Học sinh: “ Không, cá nhân có tác động trở lại môi trường dể cải tạo nó, làm cho
nó trở nên ngày càng tốt đẹp hơn…”
Cứ như vậy, giáo viên dẫn dắt học sinh huy động những cái đã biết của
mình đẻ giải quyết vấn đề khó khăn trong học tập. Qua đây, chính họ đã tự mình
khám phá ra tri thức chứ không tiếp nhận một cách thụ động từ giáo viên.
+ Các bước (các khâu)
+ Nguyên tắc dạy học
+ Quy luật QTDH
+ Hình thức TCDH
+ Phương pháp DH
+ Nhiệm vụ dạy học
+ Kiểm tra đánh giá
24
III. Lý luận giáo dục: Quá trình giáo dục (theo nghĩa hẹp)
+ Đặc điểm quá trình giáo dục (theo nghĩa hẹp)
+ Các khâu của QTGD
+ Nguyên tắc
+ Phương pháp
25
B. GIÁO TRÌNH
1. Giáo dục học / Phạm Viết Vượng . - H.: Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000 -
233tr; 20cm
2. Giáo dục học/ Phạm Viết Vượng . - H: Đại học Sư phạm, 2008. - 418tr;
19cm