Tải bản đầy đủ (.pdf) (42 trang)

Đổi mới công tác kế hoạch trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (343.15 KB, 42 trang )














Đổi mới công tác kế
hoạch trong nền kinh tế
thị trường định hướng
XHCN ở nước ta






Đổi mới công tác kế hoạch trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở nước ta


II. Nhà nước phân công trách nhiệm và phân cấp quản lý giữa các ngành, các
cấp một cách hợp lý.
1. Nguyên tắc quản lý, phân công trách nhiệm
1.1. Tách bạch chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước và chức năng sản


xuất kinh doanh của các chủ thể kinh tế, được hiểu là:
- Quản lý nhà nước đối với Doanh nghiệp là một chức năng riêng có của Bộ máy
nhà nước- chức năng công quyền, mà nội dung chủ yếu của nó là quản lý về mặt
luật pháp, chính sách, chiến lược, quy hoạch, thanh tra, kiểm tra.
- Bên cạnh chức năng quản lý nhà nước, bộ máy nhà nước với mức độ khác nhau,
còn thực hiện chức năng dịch vụ, hỗ trợ cho doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế, phát triển, can thiệp khi cần thiết để bảo hộ hoặc hạn chế những rủi ro có
thể ảnh hưởng đến sự phat triển của đất nước.
- Bộ máy nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước và chức năng dịch vụ
đối với doanh nghiệp thông qua hệ thống các cơ quan hành chính và sự nghiệp
công ở các cấp chính quyền từ Chính phủ đến chính quyền cấp xã, tùy theo chức
năng, nhiệm vụ, thẩm quyền được phân công, phân cấp theo luật định.
- Các DNNN phải hoạt động theo cơ chế thị trường và tự chủ hơn trong kinh
doanh.
- Nhà nước nên để cho DNNN hoạt động theo luật và trả lại quyền tự chủ cho
doanh nghiệp. Cơ quan quản lý nhà nước chỉ nên xây dựng một hành lang pháp lý
tốt cho doanh nghiệp hoạt động và định hướng chiến lược phát triển mỗi ngành
nghề trong bức tranh tổng thể chung của nền kinh tế.
- Quản lý nhà nước là để điều phối hoạt động chung của cả nền kinh tế, khác với
doanh nghiệp là trực tiếp sản xuất và kinh doanh.
- DNNN phải hoạt động dựa trên vốn vay, ngoài số vốn điều lệ ban đầu. Việc tự
chủ vay vốn trong kinh doanh sẽ giúp cho các DNNN có trách nhiệm hơn trong
hoạt động kinh doanh.
1.2. Phân định rõ quyền hạn và trách nhiệm giữa tập thể với cá nhân, giữa
cấp trên với cấp dưới, giữa cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền chung
với cơ quan quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực trong quản lý kinh tế,
được hiểu là:
- Phân cấp chính là phân quyền giữa trung ương và địa phương. Phân cấp là phân
ra, chia thành các cấp, các hạng. Phân cấp có sự chuyển giao quyền lực quản lý
xuống các cấp dưới để thực hiện cho sát tình hình thực tiễn, đồng thời, để giảm

bớt khối lượng cho cấp trên khỏi phải trực tiếp giải quyết những việc sự vụ. Việc
phân cấp phải gắn trách nhiệm với quyền hạn rõ ràng và bảo đảm tính thống nhất
từ trung ương đến cơ sở.
- Phân cấp còn được hiểu là việc chuyển giao nhiệm vụ, thẩm quyền từ cơ quan
quản lý nhà nước cấp trên xuống cơ quan quản lý cấp dưới nhằm đạt mục tiêu
chung là nâng cao hiệu quả quản lý.
- Phân định rõ quyền và trách nhiệm quản lý nhà nước và đại diện chủ sở hữu nhà
nước của mỗi cấp chính quyền đối với doanh nghiệp nhà nước tuỳ theo quy mô,
đặc điểm, tính chất và tầm quan trọng của mỗi loại hình doanh nghiệp nhà nước.
- Chính phủ quản lý thống nhất thể chế, chính sách, tạo môi trường thuận lợi và
quyết định hỗ trợ trong những trường hợp cần thiết đối với doanh nghiệp nhà nước
và các tổ chức kinh tế khác. Chính quyền cấp tỉnh quyết định việc sắp xếp lại
doanh nghiệp nhà nước do địa phương trực tiếp quản lý theo đề án tổng thể đã
được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu nhà
nước đối với doanh nghiệp nhà nước trực thuộc.
- Phân cấp quản lý nhà nước là sự phân định thẩm quyền, trách nhiệm giữa các cấp
chính quyền trên cơ sở bảo đảm sự phù hợp giữa khối lượng và tính chất thẩm
quyền với năng lực và điều kiện thực tế của từng cấp nhằm tăng cường chất lượng,
hiệu lực và hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước.
2. Nội dung phân cấp quản lý nhà nước:
Quản lý nhà nước đòi hỏi sự phân công lao động để đạt được mục tiêu và hiệu quả
quản lý, cần bám sát và tiến hành các bước sau đây:
- Khảo sát đánh giá thực trạng phân cấp quản lý nhà nước với các nội dung: đánh
giá thực trạng các quy định pháp luật và thực tế áp dụng các quy định đó trong
việc phân cấp giữa trung ương - địa phương và giữa các cấp địa phương với nhau;
- Phân tích những nguyên nhân dẫn đến tình trạng bất cập trong quản lý nhà nước
về lĩnh vực kinh tế cụ thể;
- Đề xuất nội dung phân cấp giữa các chủ thể quản lý theo tinh thần xác định rõ
địa chỉ phân cấp và trách nhiệm của từng chủ thể. Việc đề xuất nội dung phân cấp
có thể liên quan đến việc chuyển giao thẩm quyền từ trung ương cho địa phương,

từ cấp trên xuống cấp dưới và không loại trừ trường hợp ngược lại: vì mục tiêu
thống nhất quản lý nhà nước và vì tính hiệu quả, nhiệm vụ cấp dưới được kiến
nghị chuyển giao lên cấp trên hoặc cấp trung ương.
- Sản phẩm cuối cùng của quá trình phân cấp quản lý nhà nước là một hệ thống
quy định pháp luật về phân định thẩm quyền quản lý nhà nước và cơ chế thực hiện
những thẩm quyền đó. Như vậy, suy cho cùng, phân cấp bao gồm các nội dung cụ
thể như sau:
- Xác định những thẩm quyền đặc biệt của trung ương trong việc quản lý nhà nước
đối với các lĩnh vực công tác cụ thể nhằm bảo đảm tính thống nhất trong quản lý
nhà nước;
- Xác định những thẩm quyền riêng của từng cấp chính quyền theo tiêu chí “cấp
tốt nhất”;
- Xác định thẩm quyền chung của hai (hoặc một số) cấp chính quyền và cơ chế
phối hợp trong việc thực hiện thẩm quyền chung đó. Thực tiễn quản lý nhà nước
cho thấy không loại trừ sự tác động của một số chủ thể lên cùng một đối tượng và
khách thể quản lý. Trong trường hợp này, không nên tuyệt đối hoá việc phân định
thẩm quyền theo nghĩa “mỗi việc chỉ do một chủ thể đảm nhiệm”. Vấn đề đặt ra là
cần xác định phạm vi trách nhiệm của mỗi chủ thể “đồng quản lý” và có cơ chế
quản lý thích hợp.
Song để đảm bảo sự phân quyền có hiệu lực và bảo đảm cho sự thống nhất quốc
gia cần phải có các điều kiện cơ bản sau :
- Phải có sự thống nhất nhất chính trị mạnh và một nền kinh tế tương đối phát
triển, tăng trưởng tương đối vững chắc.
- Phải có đủ nguồn lực và nguồn tài chính để tiến hành các hoạt động phân quyền.
- Phải có hệ thống pháp luật đầy đủ nhằm xác định rõ thẩm quyền và trách nhiệm
của mỗi cấp trong hệ thống tổ chức, tránh trùng lặp, đùn đẩy trách nhiệm hoặc bao
biện làm thay.
- Phải có một chính sách và chiến lược phân quyền : khi nào và vấn đề nào có thể
phân quyền và cần tính đến hiệu quả kinh tế xã hội, mức độ phân quyền còn phải
tuỳ thuộc vào từng điều kiện cụ thể.

- Phải có đội ngũ cán bộ quản lý được đào tạo cơ bản và hệ thống theo một
chương trình chuẩn, có năng lực quản lý.
- Trình độ dân trí phát triển. Nếu chính trị không ổn định, tính thống nhất dân tộc
và trình độ giác ngộ của dân chúng không cao thì phân quyền là mầm mống của
chia rẽ, cát cứ.
3. Thực trạng tổ chức quản lý kinh tế Việt Nam hiện nay:
Về mặt tổ chức quản lý doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đang có những
tồn tại, bất hợp lý chủ yếu sau đây:
A/ Chưa xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của mỗi ngành, mỗi cấp hành chính nhà
nước trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước, cụ thể là:
- Việc tổ chức quản lý, phân công, phân cấp xây dựng và quản lý chiến lược, quy
hoạch phát triển các loại hình doanh nghiệp theo ngành và theo lãnh thổ còn nhiều
bất hợp lý, tùy tiện. Hiện nay Bộ kế hoạch và Đầu tư, các Bộ quản lý ngành và các
cấp chính quyền địa phương đều có nhiệm vụ xây dựng và quản lý chiến lược, quy
hoạch nhưng chưa rành mạch, cụ thể, có chỗ trùng chéo, có chỗ bỏ sót, có chổ quả
cụ thể, có chỗ lại quá chung chung. Kết quả là các doanh nghiệp được xây dựng và
phát triển tùy tiện, nhất là các DNNN, không phù hợp với nhu cầu thực tế của thị
trường phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của từng địa phương, từng ngành; dẫn đến
hậu quả tất yếu là sự lãng phí, kém hiệu quả xảy ra tràn lan và rất nghiêm trọng ở
khắp nơi.
Một yếu kém lớn trong công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển doanh
nghiệp hiện nay là chưa tính đến đầy đủ sự kết hợp phát triển giữa 2 khu vực:
DNNN và doanh nghiệp ngoài nhà nước trong từng ngành, từng địa phương, mà
mới chỉ quan tâm đến khu vực DNNN. Do vậy việc phát triển doanh nghiệp đang
được chi phối bởi 2 kênh tách rời nhau: doanh nghiệp ngoài nhà nước thì theo sự
điều tiết của thị trường tự do, còn DNNN thì theo ý muốn chủ quan của bộ máy
nhà nước ở Trung ương và địa phương. Có thể nói công tác quy hoạch chiến lược
hiện nay còn chưa tính đến đầy đủ sự tác động của các quy luật thị trường và còn
coi nhẹ khu vực ngoài nhà nước, do vậy sự phát triển của các doanh nghiệp hiện
còn rất tùy tiện, bất hợp lý, chưa có sự cân đối giữa các ngành, nghề, cũng như với

nhu cầu của xã hội.
- Việc phân công, phân cấp xây dựng thể chế, chính sách quản lý doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế được các bộ quản lý ngành (công nghiệp, nông
nghiệp, giao thông vận tải, thương mại ) và các Bộ quản lý lĩnh vực (Tài chính,
Khoa học và Công nghệ, Tài nguyên và Môi trường, ) thực hiện theo chức năng
của mình. Còn chính quyền địa phương thì có vai trò cụ thể hóa chính sách, cơ chế
quản lý và trong một chừng mực nhất định, được ban hành một số chính sách
riêng để khuyến khích hoặc hạn chế sự phát triển một số ngành nghề nhất định
trong chừng mực không vi phạm pháp luật nhà nước.
Về mặt này, bên cạnh những cố gắng đáng kể của các ngành các cấp trong việc tạo
lập một môi trường pháp lý đồng bộ, bình đẳng cho họat động của các loại hình
doanh nghiệp thì đang bộc lộ những bất hợp lý, không ăn khớp, thiếu đồng bộ giữa
các văn bản quy phạm pháp luật do các bộ ngành khác nhau ban hành, mà nguyên
nhân chủ yếu về mặt tổ chức là do sự phối hợp giữa các Bộ ngành chưa chặt chẽ,
chưa có cơ chế cụ thể đẻ ràng buộc trách nhiệm của các cơ quan phối hợp, nên chủ
yếu phụ thuộc vào cơ quan chủ trì .
Hiện nay một số địa phương đã chủ động ban hành một số cơ chế cụ thể để thu hút
đầu tư, tạo môi trường pháp lý và dịch vụ thuận lơi cho hoạt động của các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, nhưng lại đang bị sự phê phán, chỉ trích của
một số cơ quan ở cấp Trung ương. Có lẽ cần phải có quan điểm rõ hơn về vấn đề
này để không làm hạn chế tính năng động, sáng tạo của địa phương trong bối cảnh
mới.
- Việc phân công, phân cấp thực hiện chức năng quản lý việc thực thi Luật pháp,
chính sách đối với các loại hình doanh nghiệp (đăng ký thành lập doanh nghiệp,
đăng ký kinh doanh, kiểm tra viêc chấp hành các quy định của Nhà nước về hoạt
động kinh doanh, sử dụng tài nguyên, đất đai, lao động, bảo vệ môi trưòng ) bên
cạnh những tiến bộ, đổi mới nhất định theo tinh thần các luật mới sửa đổi, đang
còn có những bất hợp lý cần khắc phục. Chẳng hạn việc đăng ký kinh doanh hiện
do Ngành kế hoạch & đầu tư đảm nhiệm, trên thực tế mới chỉ quản lý được đầu
vào (khi thành lập doanh nghiệp) vì phù hợp với chức năng của ngành này, còn

việc quản lý hoạt động thực tế của doanh nghiệp và việc thực hiện các nghĩa vụ
của doanh nghiệp có phần đang bị bỏ trống vì chưa rõ đây là chức năng, trách
nhiệm chính của cơ quan nào. Do vậy hiện có nhiều doanh nghiệp “ma”, có thành
lập mà không hoạt động, không có trụ sở, không có giao dịch tại ngân hàngv.v
Mặt khác đang có sự không rõ về trách nhiệm quản lý cụ thể của mỗi cấp chính
quyền đối với các doanh nghiệp đang hoạt động.
Trong khi đó, đối với DNNN, thì hiện đang vẫn tiếp tục duy trì chế độ Bộ chủ
quản và cấp hành chính chủ quản, tức là vẫn có doanh nghiệp thuộc Bộ này, bộ
kia, thuộc UBND tỉnh, Thành phố Trên thực tế, các cơ quan nhà nước vẫn còn
can thiệp trực tiếp vào nhiều việc cụ thể của quản lý kinh doanh, vẫn còn thăm hỏi
doanh nghiệp nhiều và có khi không đúng chức năng, nhiệm vụ
Như vậy đang tồn tại hai khuynh hướng trái ngược nhau trong việc thực hiện chức
năng quản lý việc thực thi chính sách luật pháp của các cơ quan nhà nước đối với
doanh nghiệp là : với DNNN thì quá cụ thể, tới mức không cần thiết trong khi với
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác thì lại quá buông lỏng, mới chỉ
chỉ quản lý được đầu vào (khi thành lập doanh nghiệp), còn việc hậu kiểm còn
đang còn nhiều hạn chế .
Một vấn đề nữa đang tồn tại trong quản lý doanh nghiệp là việc tổ chức thực hiện
sự kết hợp giữa quản lý theo ngành và theo lãnh thổ còn nhiều lúng túng, chồng
chéo mang nguyên nhân chủ yếu là do chưa đủ rõ, đủ cụ thể về nội dung, nhiệm
vụ, phương thức phối hợp mà về mặt lý luận chưa được giải quyết. Điều đó dẫn
đến hậu quả hai mặt : một là có sự tranh chấp nhiệm vụ hoặc đùn đẩy trách nhiệm
giữa các cơ quan quản lý ở Trung ương và địa phương và hai là gây khó khăn,
phiền hà cho doanh nghiệp.
- Công tác thanh tra, kiểm tra của các cơ quan nhà nước đối với việc thực thi luật
pháp, chính sách của các doanh nghiệp hiện còn khá rắm rối, chưa rõ ràng, mạch
lạc về nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm giữa các ngành, các cấp; tình trạng
chồng chếo, dẫm đạp lẫn nhau trong khi có những chỗ lại bỏ sót, lỏng lẻo còn tồn
tại khá phổ biến, đang gây nên nhiều phiền toái cho doanh nghiệp và suy giảm
hiệu lực, hiệu quả qủn lý nhà nước đối với doanh nghiệp.

- Trên khía cạnh sử dụng đồng vốn nhà nước, hiện các DNNN đang hoạt động
theo các nghị định của Chính phủ, chứ không theo một đạo luật nào. Trong khi đó
Nhà nước, với vai trò chủ sở hữu nguồn vốn trong DNNN, lại chưa thể giám sát
được cách thức sử dụng nguồn vốn này.
- Thực tế hiện nay, việc giám sát DNNN thường được các bộ chủ quản đảm
nhiệm. Tuy nhiên, bộ chủ quản chỉ quản lý chuyên ngành, việc quản lý đồng vốn,
quản trị doanh nghiệp hoàn toàn nằm ngoài chuyên môn của bộ chủ quản. Chưa
kể, khi các cơ quan giám sát thanh tra, kiểm tra, DNNN còn được “nương nhẹ” vì
là “người nhà”.
B/ Về thực hiện các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp.
Gần đây Chính phủ, các Bộ, Ngành, Chính quyền địa phương đã có nhiều cố gắng
trong việc gia tăng các dịch vụ hõ trợ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển
sản xuất - kinh doanh như đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, đầu tư, hỗ
trợ, ưu đãi vốn, đất đai, khuyến nông, khuyến lâm, Tuy nhiên về mặt này vẫn
đang còn nhiều hạn chế, yếu kém; đáng chú ý là:
+ Còn có sự phân biệt giữa DNNN với doanh nghiệp ngoài Nhà nước trong việc
thực hiện các chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện, bảo hộ, ưu đãi Các chính sách giải
pháp hỗ trợ, dịch vụ đối với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài Nhà
nước còn ít, chưa bình đẳng so với DNNN.
+ Một số giải pháp, chính sách hỗ trợ của Nhà nước còn mang tính bình quân
chung, chưa phân biệt rõ, cụ thể những lĩnh vực hoạt động, những doanh nghiệp
hoạt động tốt, cần ưu tiên; một số chỗ còn có những sơ hở, bị lợi dụng, chưa thực
sự đưa lại tác dụng, hiệu quả.
4. Một số đề xuất kiến nghị
Để đổi mới vai trò, trách nhiệm của Nhà nước, hoàn thiện nội dung, phương thức
quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, xét về mặt
tổ chức quản lý, cần tiếp tục giải quyết những vấn đề chủ yếu sau:
a/ Phân định rõ chức năng, thẩm quyền của các chủ thể thực hiện chức năng quản
lý nhà nước và chưc năng dịch vụ, hỗ trợ đối với doanh nghiệp nói chung, không
phân biệt hình thức sở hữu, cụ thể là:

- Các cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương và địa phương thực hiện quản lý
doanh nghiệp theo chức năng của mình , được pháp luật quy định. Nhưng cần tiếp
tục rà soát lại chức năng thẩm quyền quản lý doanh nghiệp của các Bộ ngành và
UBND các cấp để khắc phục những chồng chéo, hoặc bỏ sót ; phân công, phân
cấp rõ ràng, mạch lạc cho các cấp, các ngành trong việc thực hiện từng nội dung,
nhiêm vụ của quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp.
- Đổi mới mạnh mẽ chức năng, nhiệm vụ của Ngành Kế hoạch và đầu tư và Ngành
tài chính trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp về
lĩnh vực quy hoạch, chiến lược và tài chính- ngân sách, phù hợp với thể chế kinh
tế thị trường, xoá bỏ cách quản lý kế hoạch và tài chính theo cơ chế cũ, mang nặng
tính chủ quan, gò bó, cứng nhắc, cơ chế xin - cho.Nghiên cứu để sắp xếp lại về
mặt tổ chức sao cho có sự gắn kết chặt chẽ hơn giữa 2 lĩnh vực hoạt động kế hoạch
và tài chính, vốn có liên quan trực tiếp và chặt chẽ với nhau.
- Điều chỉnh lại chức năng, thẩm quyền quản lý doanh nghiệp của các Bộ quản lý
ngành (Công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng, ) theo hướng tập
trung vào việc xây dựng, ban hành các chính sách cơ chế, các tiêu chuẩn định mức
kinh tế - kỹ thuật cần thiết của ngành; thực hiện chức năng dịch vụ, hỗ trợ, tạo
điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp; thanh tra, kiểm tra chuyên ngành đối với
hoạt động của doanh nghiệp.
- Kiên quyết loại bỏ những nhiệm vụ, thẩm quyền của các Bộ theo chế độ Bộ chủ
quản đối với DNNN để xoá bỏ tình trạng con đẻ (DNNN) và con nuôi (doanh
nghiệp ngoài nhà nước) và xoá bỏ sự can thiệp tuỳ tiện vào hoạt động quản lý sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp; đồng thời còn góp phần hạn chế tình trạng
tham nhũng trong bộ máy quản lý nhà nước.
b/ Tổ chức lại cơ quan đăng ký thành lập doanh nghiệp, theo hướng là một cơ
quan độc lập, tổ chức theo ngành dọc, có thể trực thuộc một Bộ nào đó nhưng hoạt
động có tính chất độc lập về chuyên môn nghiệp vụ và tổ chức nhân sự.
c/ Tăng cường các hoạt động dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp;Tách các tổ chức thực
hiện chức năng cung ứng dịch vụ công cho doanh nghiệp khỏi các cơ quan quản lý
nhà nước để hoạt động theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức sự

nghiệp, dịch vụ ; từ đó tạo điều kiện nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ phục
vụ phát triển sản xuất- kinh doanh, mở rộng thị trường, và tạo mối quan hệ đối tác
bình đẳng giữa các doanh nghiệp với các tổ chức cung ứng dịch vụ công
d/ Tiếp tục sắp xếp lại cơ cấu tổ chức bộ máy Chính phủ và tổ chức nội bộ các cơ
quan quản lý nhà nước về kinh tế để giảm bớt đầu mối theo mô hình đa ngành, đa
lĩnh vực, tạo tiền đề thực tế để cắt bỏ dần những công việc không đúng với nội
dung, nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, khắc phục những chồng
chéo, không đồng bộ về chức năng, thẩm quyền giữa các cơ quan, từ đó mà nâng
cao chất lượng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp.
e/ Tăng cường phân cấp cho chính quyền địa phương thực hiện các nhiệm vụ của
quản lý nhà nước đối với daonh nghiệp, nhất là các nhiệm vụ mang tính chất thực
thi pháp luật, chính sách và thanh tra, kiểm tra việc tuân thủ pháp luật của các
daonh nghiệp trên địa bàn; và kể cả việc ban hành một số chính sách, cơ chế cụ thể
để khuyến khích sự phát triển các daonh nghiệp trên cơ sở khai thác, phát huy các
tiềm năng, thế mạnh của địa phương, trong chừng mực không vi phạm pháp luật
chung.
f/ Tiếp tục nghiên cứu làm rõ hơn về mặt lý luận và thực tiễn của nội dung quyền
đại diện chủ sở hữu nhà nước đối với DNNN, phân biệt nó với chức năng quản lý
nhà nước và chức năng dịch vụ công của các cơ quan quản lý nhà nước; từ đó mà
phân công, phân cấp cụ thể việc thực hiện từng chức năng này cho các cấp, các
ngành một cách hợp lý, góp phần tạo “luật chơi “ và “sân chơi “ bình đẳng cho các
doanh nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu.
g/ Đẩy mạnh cải cách các doanh nghiệp nhà nước theo hướng nâng cao tính chủ
động, hiệu quả và khả năng cạnh tranh
Việc đẩy mạnh cải cách các doanh nghiệp nhà nước có một ý nghĩa rất quan trọng
đối với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và việc nâng cao khả năng
cạnh tranh hội nhập của bản thân các doanh nghiệp nhà nước. Điều này thể hiện ở
các mặt sau:
1/ Chúng ta không thể hội nhập thực sự nếu cứ duy trì mãi cơ chế quản lý hành
chính, bao cấp đối với các hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước, vì như vậy

là vi phạm "luật chơi chung" quy định là không phân biệt đối xử, nhất là đối với
những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ triền miên, đối xử công bằng và bình đẳng
giữa các thành phần kinh tế, và các doanh nghiệp nhà nước phải hoạt động theo
nguyên tắc hạch toán kinh doanh;
2/ Doanh nghiệp nhà nước cũng không thể hội nhập được nếu không được tự chủ
hạch toán kinh doanh và kinh doanh không có hiệu quả, bởi vì hiện nay trong số
5.429 doanh nghiệp nhà nước, tuy 71,1% báo cáo có lãi nhưng chỉ có 40% là có
hiệu quả nếu tính thêm các yếu tố như thời gian kéo dài, lượng lỗ lãi, tỷ lệ khấu
hao;
3/ Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng khó có điều kiện để vươn lên dù làm
ăn có hiệu quả vì bị phân biệt đối xử, đặc biệt trong vấn đề tiếp cận các nguồn vốn,
vay tín dụng, mặt bằng sản xuất kinh doanh
Do đó, chúng ta cần phải tiếp tục tăng cường cải cách, đổi mới một cách toàn diện
các doanh nghiệp nhà nước theo hướng nâng cao tính tự chủ, hiệu quả và khả năng
cạnh tranh của những doanh nghiệp này, góp phần thực hiện chủ trương kinh tế
nhà nước đóng vai trò chủ đạo, đồng thời tạo thuận lợi cho tiến trình hội nhập kinh
tế quốc tế trong những năm tới. Theo đó, chúng ta cần thực hiện một số giải pháp
đổi mới và phát triển các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) theo các hướng sau
đây:
Thứ nhất, về số lượng doanh nghiệp, xây dựng lịch trình hằng năm giảm bớt số
lượng doanh nghiệp, lĩnh vực và ngành/nghề hoạt động của các DNNN, trước mắt
phấn đấu chỉ còn các doanh nghiệp công ích, các tổng công ty và các doanh
nghiệp độc lập có ý nghĩa quan trọng. Các DNNN chỉ nên tập trung hoạt động
trong các lĩnh vực, ngành/ nghề then chốt mà Nhà nước cần nắm hoặc tư nhân
không có khả năng làm, như kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, một số ngành công
nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng và công nghiệp công nghệ cao.
Thứ hai, về hình thức sắp xếp, thực hiện cổ phần hóa hoặc đa dạng hóa sở hữu ở
các DNNN mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn để huy động thêm vốn, tạo
thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả; mở rộng việc bán cổ
phần cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Thực hiện việc bán, khoán, cho thuê

các DNNN loại nhỏ mà Nhà nước không cần nắm giữ. Sáp nhập, giải thể, phá sản
các DNNN hoạt động không có hiệu quả.
Thứ ba , xúc tiến thành lập cơ quan mua bán nợ để giải phóng nợ đọng cho doanh
nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp lành mạnh hóa tài chính và bảo đảm sản
xuất kinh doanh bình thường; nghiêm cấm các doanh nghiệp đi vay các khoản vay
ngắn hạn để đầu tư cho các dự án trung, dài hạn; nghiên cứu lại thời hạn cho vay
trung, dài hạn phù hợp với thời gian thu hồi vốn của dự án.
Thứ tư, xây dựng hệ thống chính sách để hoàn thiện, nâng cao hiệu quả và khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp có 100% vốn Nhà nước; từng bước tạo khung
pháp lý bình đẳng giữa DNNN với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
khác, tiến tới xây dựng một luật chung cho các loại hình doanh nghiệp. Chuyển
các doanh nghiệp kinh doanh sang hoạt động theo cơ chế công ty trách nhiệm hữu
hạn hoặc công ty cổ phần; phân biệt quyền của chủ sở hữu và quyền kinh doanh
của doanh nghiệp; bảo đảm cho các doanh nghiệp có quyền tự chủ và tự chịu trách
nhiệm đầy đủ trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như khi quyết định đầu
tư, quyết định phương án kinh doanh, tự chủ về tài chính, tự quyết về nhân sự và
tự chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Thứ năm, về đầu tư cho DNNN, thẩm định, kiểm tra thật chặt chẽ, nghiêm ngặt
việc thành lập mới các DNNN; thực hiện đầu tư cho DNNN thông qua công ty đầu
tư tài chính của Nhà nước và thông qua thị trường vốn; giảm dần sự ưu đãi, bao
cấp và bảo hộ đối với các DNNN, đồng thời tạo điều kiện khuyến khích và bảo
đảm cho khu vực tư nhân phát triển trong sự cạnh tranh lành mạnh và được đối xử
bình đẳng như các doanh nghiệp quốc doanh;
Thứ sáu , bồi dưỡng và đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển doanh nghiệp
nhà nước; hoàn thiện hệ thống đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ quản lý
doanh nghiệp, đặc biệt là giám đốc; thực hiện chế độ tuyển chọn, bổ nhiệm, gắn
quyền lợi, nghĩa vụ của giám đốc với kết quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
Lợi ích kinh tế Như chúng ta đã biết hoạt động kinh tế gắn với lợi ích ở nhiều cấp
độ: lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm và lợi ích dân tộc. Nhóm lợi ích được hình thành

từ tập hợp những cá nhân và tổ chức có lợi ích tương đồng trong từng lĩnh vực,
ngành kinh tế, địa bàn hoạt động. Trong trường hợp lợi ích nhóm hài hòa với lợi
ích dân tộc thì nhóm lợi ích có tác động tích cực đến việc thúc đẩy tăng trưởng và
hiệu quả kinh tế. Ngược lại, bằng nhiều thủ đoạn từ vận động, thuyết phục, gây
sức ép về chính trị, viện cớ bảo vệ lợi ích dân tộc, cho đến mua chuộc bằng tiền
bạc …, nhóm lợi ích tìm cách bảo vệ lợi ích của mình bất chấp hiệu quả kinh tế –
xã hội của quá trình phát triển.
1. Lợi ích kinh tế
1.1. Bản chất, hệ thống và vai trò của lợi ích kinh tế:
+ Bản chất: Lợi ích kinh tế là những quan hệ kinh tế, phản ánh những nhu cầu,
những động cơ khách quan về sự hoạt động của các chủ thể khi tham gia vào các
hoạt động kinh tế - xã hội và do hệ thống quan hệ sản xuất quyết định.
+ Đặc trưng của lợi ích kinh tế:
- Lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện của quan hệ kinh tế và quy luật kinh tế.
+ Nó chỉ xuất hiện khi những người SX có mối quan hệ KT với nhau và là hình
thức tồn tại và biểu hiện của các quan hệ kinh tế.
+ Quy luật kinh tế chỉ có thể tác động thông qua sự hoạt động của con người mà
biểu hiện trước hết dưới hình thức lợi ích.
-Lợi ích kinh tế vừa có tính khách quan vừa có tính chủ quan.
+ Lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện của những quan hệ kinh tế mà quan hệ
kinh tế là khách quan.
+ Biến các tác động khách quan của quy luật kinh tế thành các động cơ hoạt động
của con người.
- Lợi ích kinh tế còn bao hàm trong nó mục đích và sự lựa chọn những phương
thức hoạt động nhằm thoả mãn những nhu cầu khách quan của cuộc sống.
- Lợi ích kinh tế có tính lịch sử và tính giai cấp.
1.2. Vai trò của lợi ích kinh tế
- Lợi ích kinh tế là động lực thúc đẩy mọi tiến bộ kinh tế.
- Có tác dụng củng cố hoàn thiện quan hệ sở hữu.
-Quan điểm lợi ích trước hết là quan điểm duy vật biện chứng coi cơ sở kinh tế là

gốc phù hợp với nhu cầu thiết yếu của con người, là quan điểm định hướng cơ bản
và quan điểm xuất phát cho việc xây dựng cơ chế quản lý SX-KD.
- Giải quyết hài hoà các quan hệ lợi ích giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội là
đảm bảo quyền con người trong CNXH. lợi ích cá nhân không mâu thuẫn với
CNXH.để thoả mãn lợi ích cá nhân cần phải phát triển CNXH ở mức tối đa.
1.3. Hệ thống lợi ích kinh tế:
- Tùy góc độ xem xét mà có thể phân chia thành các nhóm,các loại lợi ích kinh tế
khác nhau:
- Đứng trên góc độ toàn xã hội thì có lợi ích:
+ Cá nhân
+ Tập thể
+ Xã hội.
Sự thống nhất giữa các hình thức lợi ích kinh tế khác nhau trong xã hội sẽ dẫn đến
sự liên hệ chặt chẽ và thâm nhập lẫn nhau. không có lợi ích nào tách rời riêng rẽ
,vì vậy cần quan tâm đúng mức đến cả 3 loại lợi ích.
- Trong đó xét về lâu dài lợi ích XH đóng vai trò chủ đạo, thể hiện những nhiệm
vụ phát triển và tiến bộ xã hội nó cũng bao quát những lợi ích kinh tế căn bản của
tập thể và XH.
- Ba lợi ích trên thống nhất, nhưng không phải là một mà nó có phạm vi tồn tại
độc lập, có ranh giới nhất định.
- Dưới góc độ thành phần kinh tế, có lợi ích kinh tế tương ứng với các thành phần
kinh tế đó.
- Dưới góc độ các khâu của quá trình tái SX có lợi ích của người SX, người phân
phối, người trao đổi, người tiêu dùng.
1.4. Vận dụng:
- Việc vận dụng đúng đắn các lợi ích kinh tế, nhằm khai thác tối đa những tiềm
năng to lớn của các thành viên xã hội tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển
kinh tế được coi là chính sách XH cơ bản nhất.
- Để có chính sách tối ưu phải kết hợp được các lợi ích tạo thành một hợp lực.
- Lợi ích vừa có tính vật chất, lại vừa có tính XH, việc vận dụng đúng đắn lợi ích

kinh tế là đảm bảo cho công băng xã hội được thực hiện, nếu công bằng được đảm
bảo sẽ được một tổng hợp lực lớn nhất để phát triển SX được coi là chính sách
quan trọng nhất, cơ bản nhất.
- Để có chính sách kinh tế tối ưu, phải kết hợp các lợi ích đa dạng tạo thành hợp
lực.
+ Trên thực tế, việc kết hợp các lợi ích có 2 khâu cơ bản:
1. Phát hiện đúng các nhu cầu :
- vật chất
- tinh thần .
- chính trị
- kinh tế
- văn hoá
2. Tổ chức, lãnh đạo, quản lý, điều tiết các hoạt động SX, xã hội để từng bước thỏa
mãn các nhu cầu của các chủ thể trong sự ràng buộc xã hội, đặc biệt là ràng buộc
pháp luật ở những điều kiện cụ thể
" Nói lợi ích mà không nói nhu cầu là không nói gì cả, nói con người mà không
nói lợi ích là không nói gì cả”. Hê ghen
" Lý tưởng mà không gắn với lợi ích, lý tưởng bị bôi nhọ"
Ph.ăngghen
“Chính trị mà không có lợi ích, chính trị bị làm nhục”
Ph.Ăngghen
- Tổng hợp động lực là sự phát triển xã hội, triệt tiêu động lực làm tan rã xã hội.
2.Vai trò cá nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay.
2.1. Sự phát triển của các nhóm lợi ích: Trong những năm gần đây, ở nước ta đã
nổi lên nhiều vấn đề trong nền kinh tế như tình trạng thiếu điện năng, các tập đoàn
đua nhau mở rộng phạm vi hoạt động ở nhiều ngành nghề, các doanh nghiệp gây
áp lực với chính phủ để kéo dài bảo hộ mậu dịch; một số địa phương “phá rào”,
ban hành nhiều chủ trương vi phạm luật pháp của nhà nước, trái thẩm quyền; một
số Bộ sử dụng quyền và thế của mình vượt quá quy định của nhà nước. Những vấn

đề đó có liên quan đến hoạt động của các nhóm lợi ích, đang làm tổn hại nghiêm
trọng đến lợi ích dân tộc.
VD 1: Vì sao để xảy ra tình trạng thiếu điện và ai chịu trách nhiệm trước nhân dân
về tình trạng đó (?). Điện năng là một loại hàng hóa, nhưng là nguồn năng lượng
cho sự phát triển kinh tế; Đảng ta đã nhiều lần nhấn mạnh “điện lực phải đi trước
một bước”. Đã từ lâu, việc tổ chức và quản lý ngành điện nước ta theo hướng độc
quyền, không cạnh tranh và hiện tại cũng chưa có tín hiệu phá vỡ tình trạng đó,
nên ngành điện là điển hình của nhóm lợi ích đang chi phối đáng kể tình hình đầu
tư, sản xuất và kinh doanh trên thị trường.
Ngày 3/9/1997, Chính phủ đã phê duyệt Tổng sơ đồ giai đoạn 1996 -2000 có xét
triển vọng đến 2010, với mục tiêu đến năm 2010 nước ta sẽ có tổng công suất
19.000 MW, công suất tăng thêm là 1.5260 MW; cho đến tháng 7 năm nay, gần 12
năm chỉ tăng thêm được 8.000 MW (!), đạt hơn 60% mục tiêu, bởi vì nhiều dự án
điện đã bị chậm trễ (Vietnamnet 7/7/2007).
VD 2: Trên tờ Thời báo kinh tế Việt Nam ngày 4/12/2007 đưa tin hai sự kiện có
liên quan đến PetroViệt Nam đáng được lưu ý: Ngày 3/12/2007 Tập đoàn này đã
công bố kết quả cuộc thi kiến trúc và dự kiến sẽ xây dựng Tổ hợp khách sạn 5 sao
và căn hộ lớn nhất Hà Nội với vốn đầu tư trên 500 triệu USD; Dự án nhà máy lọc
dầu số 1 ở Dung Quất được đánh giá là chậm thêm 6 tháng so với dự kiến gần nhất
( nếu so với ý đồ ban đầu của Chính phủ thì chậm gần 10 năm)(!). Hai sự kiện đó
là điển hình của tình trạng phổ biến của nhiều Tập đoàn kinh tế nhà nước; trong
khi các công trình trọng điểm đúng chức năng thì chậm trễ kéo dài, nhưng các tập

×