Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

TƯ DUY PHƯƠNG ĐÔNG NHÌN DƯỚI ÁNH SÁNG HỌC THUYẾT EINSTEIN Tác giả: Nguyễn Huệ Chi Phần 6 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (70.36 KB, 6 trang )

một cách lan man và đứt nối theo kiểu trận
đồ bát quái của một con người sống trước
chúng ta đến mấy nghìn năm, mở đầu cho
một trường phái minh triết Trung Hoa nổi
tiếng, thiết tưởng một câu hỏi đã đến lúc
phải đặt ra mạnh bạo và dứt khoát hơn: tại
sao không thể xem Đạo của Lão Tử là dự
báo sáng suốt về cõi thiên hà muôn hình
vạn trạng đang vận động với quy luật giãn
nở gia tốc mà vũ trụ học hiện đại đã và
đang tìm ra cách nhận dạng? Chắc chắn dự
báo của Lão Tử có nhiều mặt thô sơ, ấu trĩ
đến buồn cười, nhưng xét từ bản chất, nó
chứa nhiều ẩn số gần gũi với thuyết tương
đối của Einstein biết bao! Nó cũng đâu có
gì giống với thần học, đâu có gì giống với
các thứ chủ nghĩa duy tâm hay chủ nghĩa
duy vật mà con mắt “chủ biệt” của chúng ta
rất sành phân chia “trận tuyến” bằng lăng
kính “tâm/vật” cố gò vào đấy? Tôi nghĩ, Lão
Tử là một chỗ đứng riêng trong triết học
phương Đông chưa có tiền lệ.
Nhưng nếu đối chiếu Lão Tử với một vài
triết thuyết khác, cũng của phương Đông, ví
như Phật giáo, thì ta lại cảm thấy Lão Tử
không phải là một hiện tượng đơn độc.
Thực tế có khi Phật giáo nguyên thủy từng
bàn về vũ trụ từ trước cả thời Lão Tử, cho
đến khi truyền sang Trung Quốc đã phát
triển thành một hệ thống hoàn chỉnh, mà
đem so với Lão học lại có không ít những


điểm tương đồng. Phật giáo nói tới “Tam
thiên đại thiên thế giới” hay nói đến “Hà sa
cảnh giới” là nói đến một con số phiếm chỉ,
nhiều đến mức khủng khiếp của những “cõi
trời” khác nhau trong vũ trụ mênh mông,
không sao tính xuể - số lượng của nó ngang
với cát sông Hằng. Thế giới trần gian chỉ là
một Tiểu thế giới, hợp một nghìn Tiểu thế
giới lại mới gọi là một Tiểu thiên thế giới.
Hợp một nghìn Tiểu thiên thế giới lại mới là
một Trung thiên thế giới. Hợp một nghìn
Trung thiên thế giới lại mới là một Đại thiên
thế giới. Thế mà ở đây lại là ba nghìn Đại
thiên thế giới. Mấy chữ “Tam thiên đại thiên
thế giới” hẳn từ lâu đã lướt qua trí óc vô số
người trong chúng ta mà chẳng mấy khi để
lại một dấu ấn, là vì tầm mắt chúng ta bị
vướng vào cái nhìn thế tục, không lường
nổi tầm thước vũ trụ của những thông báo
cô đọng nói trên. Phật đã tưởng tượng thấy
sự tạo thành hệ thống thiên hà còn bao la
hơn rất nhiều hệ thái dương mà con người
nhìn thấy, trong đó những “cõi trời” chưa
biết đến là cả một con số khổng lồ. Còn về
mặt khởi nguyên, để giải thích từ đâu “Tam
thiên đại thiên thế giới” sinh ra, sách Ca giả
áo nghĩa thư 歌 者 奧 義 書, một bộ sách
cổ của Phật giáo Ấn Độ được dịch sang
tiếng Trung Quốc từ rất sớm đã chép: “Thái
sơ chi thời, thế giới vi hữu, duy nhất vô

nhị Thái sơ chi thời thế giới vi vô, duy
nhất vô nhị, do vô sinh hữu 太 初 之 時 。世
界 為 有 。惟 一 無 二 。。。。太 初 之 時 。世
界 為 無 。 惟 一 無 二 。猶 無 生 有”. Tạm
dịch: “Vào thời Thái sơ, thế giới là hữu, có
một không hai Vào thời Thái sơ, thế giới
là vô, có một không hai, từ vô sinh hữu”.
Không khác với Lão Tử, Phật giáo cũng
thừa nhận vai trò đối lưu ảo diệu của hai
phạm trù “vô” và “hữu” trong cuộc “hoài
thai” kỳ vĩ bậc nhất ấy, tuy cái đích cuối
cùng Phật nhắm tới vẫn là “vô”. Nào chỉ có
thế. Phật còn nói đến “kiếp” như những chu
trình hết sức lâu dài của sự chuyển hóa,
bao quát hàng tỷ tỷ năm của thế gian, ở đó
vũ trụ chuyển lưu qua bốn thời kỳ từ thành
(có hình dáng), trụ (đứng vững), hoại (tan
vỡ) đến không (trống không), và chu trình
ấy cứ lặp đi lặp lại trong vô lượng kiếp, một
số lượng cũng không thể nào đếm hết
được. Từ trong những “kiếp” xa xưa đã ra
đời những vị Phật Quá Khứ, đến “kiếp” này
mới xuất hiện vị Phật Hiện Tại là Phật Thích
Ca. Rồi đến những “kiếp” sau thì chắc chắn
lại có mặt những vị Phật vị Lai. Chủ thuyết
luân hồi của nhà Phật hiểu cho cặn kẽ thực
đã không còn bó hẹp trong phạm vi thế giới
hữu tình. Luân hồi gần như một hằng số
chung dành cho toàn cõi thiên hà. Đủ thấy,
có một sự đồng dạng lạ lùng giữa nhãn

quan của Phật và Lão trong tầm nhìn siêu
thế giới, tuy một bên đưa ra những con số
gây chấn động về tâm lý còn một bên chỉ là
những liên tưởng thấp thoáng, mù mờ. Nhân
tố nào đã dẫn đến sự gần gũi trong tiềm
năng nhận thức giữa hai trường phái tư
tưởng cổ đại phương Đông kia? Chúng tôi
lại muốn lưu ý ở đây một đặc điểm giống
nhau về phương diện tư duy: cả hai học
thuyết đều không hề cột chặt mình vào cái
tuyệt đối mà luôn luôn năng động trên cái
tương đối. Đó là mặt ưu trội hiếm có của
tâm thức phương Đông có khả năng đối
trọng với cỗ xe Tam cương ngũ thường rất
duy lý của Nho giáo từng thống ngự đời
sống tinh thần tư tưởng suốt mấy nghìn
năm.

[1] Từ đây trở xuống tất cả những chữ
duy lý, lý tính dùng trong bài đều giới hạn
trong phạm vi ngữ nghĩa chủ nghĩa duy lý
cổ điển hay chủ nghĩa duy lý truyền thống.
[2] Một bậc minh triết thì vô ý. Nguyên
Ngọc dịch. In trong Minh triết phương Đông
và triết học phương Tây; Nxb. Đà Nẵng,
2004, tr. 637.
[3] Đại tượng vô hình. Trương Quang Đệ
dịch; Nxb. Đà Nẵng, 2004, tr. 25.
[4] Có người giải thích “phản” là thuộc
tính vận động chuyển hóa giữa các mặt đối

lập. Chúng tôi không phủ nhận nội hàm chữ
“phản” có thể mang trong nó cả cách hiểu
ấy, nhưng trong mạch văn: “Cưỡng chi vi
danh viết đại, đại viết thệ, thệ viết viễn,
viễn viết phản” thì “phản” chủ yếu là quay
trở lại.
Nguồn: Tham luận trong Hội thảo khoa
học “Vật lý học hiện đại-Văn hóa và phát
triển” do Tạp chí Tia sáng thuộc bộ Khoa
học và công nghệ phối hợp với Ban sáng
lập Trường đại học Phan Châu Trinh thuộc

×