Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

TƯ DUY PHƯƠNG ĐÔNG NHÌN DƯỚI ÁNH SÁNG HỌC THUYẾT EINSTEIN Tác giả: Nguyễn Huệ Chi Phần 3 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (67.5 KB, 6 trang )

sinh ở phương Tây từ thời cổ đại Hy Lạp,
khi người ta bắt đầu biết khu biệt chủ thể
với khách thể để từ đấy tìm mọi cách xác
lập mối quan hệ giữa hai đại lượng, và nhờ
đó mà nẩy sinh những khái niệm công cụ
làm cơ sở cho tư duy, cũng là một bước
ngoặt bản lề cho các khoa siêu hình học ra
đời. Cổ đại phương Đông thì khác. Trong
quá trình lâu dài của nhận thức, hình như
chưa bao giờ chủ thể và khách thể tách lìa
hẳn nhau, “ngã” và “đại ngã” tức bản thể vũ
trụ vẫn mai phục trong nhau, phân ra rồi
hợp lại ngay đấy, hoặc khởi đầu là phân ra
song đi đến tận cùng thì lại hợp lại, là một
dạng tồn tại lưỡng thể cộng thông. Tư duy
phương Đông cũng chưa đạt đến chỗ xuất
hiện được những khái niệm then chốt cũng
như những nguyên lý nhận thức then chốt -
trừ Danh gia học phái - có khả năng cấp
cho chủ thế một ý thức rạch ròi về khách
thể. Suy xét duy lý đến đầu đến đũa là điều
hoàn toàn vắng mặt trong trước tác của
các bậc hiền triết Trung Hoa. Một mặt,
người ta quan niệm cái chân lý mà mình
tiệm cận không phải nhất thiết ở phía này
hay phía kia như hai mặt trắng và đen đối
lập, cũng không phải luôn luôn cứng nhắc ở
giữa (chữ “trung dung” không có nghĩa là
đứng giữa như một sức ỳ), mà chân lý gồm
vào trong nó cả hai phía một cách năng
động, có lúc phải nghiêng về phía này ít


nhiều và có lúc phải nghiêng về phía kia ít
nhiều (lưỡng hành). Và con đường đi đến
chân lý là một chu trình thay đổi liên miên,
nhích về bên này rồi nhích trở lại bên kia
(quyền), có thay đổi thế thì mới đạt được
sự hiển minh. Mặt khác, việc thức ngộ chân
lý không phải là một thao tác khổ công thực
chứng. Nếu dùng thực chứng có khi suốt cả
đời anh cũng chẳng nhận diện được cái gì
cả, bởi thực chứng chỉ đưa anh đến những
gì giản đơn, dễ thấy, mà chân lý thì ít khi lộ
diện nên giác quan hữu thức khó chạm
được vào. Chân lý mà nhất là chân lý tối
thượng vốn không phải là “hữu”, nó là cái
“vô” (Đại âm hy thanh, Đại tượng vô hình
大 音 希 聲 。大 象 無 形 - Lão Tử chương
41). Nó không phơi ra những đường, nếp,
hình, khối để cho giác quan chúng ta dễ
dàng bám lấy. Thế nên thay vì giác quan,
con người phải dùng đến một thứ siêu giác
quan là lương năng để mặc khải chân lý.
Mà lương năng chỉ thật sự sáng lên khi giác
quan cùn lụt đi. Cho nên, phải làm ngược lại
với quy trình thông tục của sự suy nghiệm,
phải bắt cái tâm của mình (là cơ quan chỉ
huy, điều khiển mọi giác quan) trở nên tối
tăm, ngu độn (Ngã ngu nhân chi tâm dã tai,
độn độn hề! Tục nhân chiêu chiêu, ngã
độc hôn hôn. Tục nhân sát sát, ngã độc
muộn muộn 我 愚 人 之 心 也 哉 。沌 沌

兮。俗 人 昭 昭 。我 獨 昏 昏 。俗 人 察 察 。
我 獨 悶 悶 - Lão Tử, chương 20). Dĩ nhiên
phương cách làm cho tâm ngu độn lại cũng
không phải là cố ý, nhân vi mà là hồn nhiên
như không làm; phải “vô ý” trong khi không
để trí tới một vật gì. Lại phải làm cho tâm
không dừng lại ở bất kỳ một động hình nào
cả - cái trạng thái gọi là “thành” ấy là một
dạng thức đã được định vị của tư tưởng,
với nó tâm sẽ đóng cứng, không còn nhạy
bén nữa, không chuyển sang được một
dạng thức khác nữa, hẳn nhiên không thể
thích nghi với mọi sự chuyển đổi mà hoàn
toàn bất lực hoặc thiên vị.
Như vậy, so với triết học Hy Lạp thì triết
học phương Đông mà cụ thể là triết học
Trung Hoa tưởng chừng không thể gọi là
triết học đúng nghĩa, nhìn bề ngoài nó
không có đối tượng và cũng không có sự
mạch lạc trong diễn từ để trình bày đối
tượng. Nhưng kể cũng thật khó hiểu, chính
khi được đặt vào một hoàn cảnh tâm thức
khiến tư duy trở nên mông lung, không còn
sắc bén, triết học phương Đông lại đạt đến
cái mà triết học Hy Lạp cơ hồ không thể đạt
đến, đó là sự tưởng tượng siêu thăng về vũ
trụ ẩn chứa trong nó rất nhiều hạt nhân hợp
lý, ngày càng được vật lý học chứng minh.
Từ trong điều kiện của một tâm thế vô vi,
tịch lặng và trống rỗng, không bị vướng vào

trạng thái đã “thành” của tâm, nhà hiền triết
lại có nhiều cơ hội tiếp thu được một nguồn
sáng kỳ diệu, giúp cho sức mạnh của trực
giác trong mình bừng dậy, và bỗng “ngộ” ra
cái không thể nhìn thấy bằng tri giác thông
thường. Triết học Hy Lạp từng nói nhiều về
bản thể, cái thường tồn. Nhưng vốn bị gò
bó trong những khái niệm cụ thể, triết gia
Hy Lạp ít ai vượt ra khỏi sự tưởng tượng
cái thường tồn trong khuôn hình của những
cái cụ thể, như nước, lửa, không khí,
nguyên tử (Anassagore, Anaximandre,
Démocrite ), cùng lắm gọi bản thể là ý
niệm như Platon thì tuy không phải là vật
chất cũng vẫn là một phạm trù không xa lạ
với tư duy Tóm lại cái bản thể vũ trụ mà
triết học Hy Lạp nói đến, dù rộng lớn đến
đâu cũng chỉ nằm trong phạm vi thế giới tự
nhiên mà tai mắt con người có thể cảm
thấy, hoặc thế giới ý thức mà con người có
thể luận ra. Trong khi đó, triết học phương
Đông không bị cái cụ thể chi phối, cũng
không bị cái trừu tượng của suy tưởng đẩy
đến thuần túy siêu hình, đã với được tới
một chiều kích vừa mơ hồ vừa thăm thẳm.
Hãy nghe Lão Tử nói: “Hữu vật hỗn thành,
tiên thiên địa sinh. Tịch hề liêu hề, độc lập
bất cải. Chu hành nhi bất đãi. Khả dĩ vi
thiên hạ mẫu. Ngô bất tri kỳ danh, tự chi
viết đạo. Cưỡng vi chi danh viết đại. Đại

viết thệ, thệ viết viễn, viễn viết phản 有 物
混 成 。先 天 地 生 。寂 兮 寥 兮 。獨 立 不
改 。周 行 而 不 怠 。可 以 為 天 下 母 。吳
不 知 其 名 。字 之 曰 道 。強 為 之 名 曰 大
。大 曰 逝 。逝 曰 遠 。遠 曰 反” - Lão tử
chương 25). Tạm dịch: “Có một vật hỗn độn
mà thành, sinh ra trước cả trời đất. Tịch
mịch trống rỗng, một mình nó không thay
đổi. Chu lưu cùng khắp không lười biếng.
Xứng đáng làm mẹ của thiên hạ. Ta không
biết nó là gì, đặt tên cho nó là Đạo, lại miễn

×