Tải bản đầy đủ (.doc) (208 trang)

Đặc trưng phản ánh hiện thực của tiểu thuyết việt nam về nông thôn từ 1986 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 208 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
-------------------

BÙI NHƯ HẢI

ĐẶC TRƯNG PHẢN ÁNH HIỆN THỰC
CỦA TIỂU THUYẾT VIỆT NAM VỀ NÔNG THÔN
TỪ 1986 ĐẾN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 62 22 34 01

Hà Nội, năm 2013


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
-------------------

BÙI NHƯ HẢI

ĐẶC TRƯNG PHẢN ÁNH HIỆN THỰC
CỦA TIỂU THUYẾT VIỆT NAM VỀ NÔNG THÔN
TỪ 1986 ĐẾN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 62 22 34 01



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS HỒ THẾ HÀ

Hà Nội, năm 2013
2


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong luận án là trung
thực và chưa từng cơng bố bất kì một cơng trình nào khác.
Luận án có kế thừa và sử dụng một số tài liệu đã cơng bố
có liên quan đến đề tài để tham khảo và đã được chú thích rõ ràng
khi sử dụng.
Tác giả luận án

Bùi Như Hải

3


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành chương trình Nghiên cứu sinh và viết luận án Tiến sĩ, tôi
đã nhận được sự dạy bảo, hướng dẫn, giúp đỡ và góp ý nhiệt tình của q thầy
cơ Khoa Văn học thuộc Học viện Khoa học Xã hội, đặc biệt là PGS.TS Phan
Trọng Thưởng, PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp, PGS.TS Trương Đăng Dung,
PGS.TS Tôn Thảo Miên, PGS. TS Trịnh Bá Đĩnh...
Trân trọng cảm ơn Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Quảng Trị, trường THPT
Bùi Dục Tài đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi học tập và nghiên cứu.

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến Nhà giáo ưu tú PGS.TS Hồ Thế Hà, người thầy tận tâm, hết lịng chỉ bảo, hướng dẫn nghiên cứu
và giúp đỡ tơi hồn thành luận án tiến sĩ.
Xin cảm ơn tấm lịng những người thân yêu trong gia đình và bè bạn đã
cổ vũ, động viên tơi trong suốt q trình học tập cũng như thực hiện luận án này.

Hà Nội, tháng 01 năm 2013

Bùi Như Hải

4


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.................................................................................1
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU..............................................2
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.................................................................4
4. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN.............................................................5
5. CẤU TRÚC LUẬN ÁN................................................................................6
NỘI DUNG...........................................................................................................8
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TIỂU THUYẾT VIỆT
NAM VỀ NƠNG THƠN TỪ 1986 ĐẾN NAY....................................................8
1.1. LUẬN BÀN MỘT CÁI NHÌN TỒN CẢNH......................................8
1.1.1. Khẳng định sự đổi mới, lạc quan vào sự hồi sinh...........................8
1.1.2. Quan ngại về dấu hiệu chững lại...................................................12
1.2. LUẬN BÀN QUANH MỘT SỐ TIỂU THUYẾT NỔI TRỘI.............17

1.2.1. Nhận định, đánh giá về những thành công....................................17
1.2.2. Nhận định, đánh giá về những hạn chế.........................................25
Chương 2 DIỆN MẠO CỦA TIỂU THUYẾT VIỆT NAM VỀ NÔNG THÔN
TỪ 1986 ĐẾN NAY............................................................................................28
2.1. NHU CẦU ĐỔI MỚI TƯ DUY NGHỆ THUẬT................................28
2.1.1. Tư duy nghệ thuật của tiểu thuyết về nông thôn trước 1986.........28
2.1.2. Nhu cầu đổi mới tư duy nghệ thuật của tiểu thuyết về nông thôn
sau 1986...................................................................................................30
2.2. NHU CẦU NHẬN THỨC VÀ SỰ CHIẾM LĨNH HIỆN THỰC ĐA
CHIỀU.........................................................................................................36
2.2.1. Nhu cầu nhận thức mới về hiện thực trong tiểu thuyết về nông
thôn trước 1986.......................................................................................37
2.2.2. Sự chiếm lĩnh hiện thực đa chiều trong tiểu thuyết về nơng thơn
sau 1986...................................................................................................38
2.3. DIỆN MẠO CỦA TIỂUẾU THUYẾT VỀ NƠNG THÔN TRONG
MẠCH NGUỒN TIỂU THUYẾT VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY........41
2.3.1. Tiến trình của tiểu thuyết về nơng thơn trước 1986......................41
.................................................................................................................49
2.3.2. Diện mạo của tiểu thuyết về nông thôn sau 1986..........................49
Chương 3 HIỆN THỰC VÀ CON NGƯỜI TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT
NAM VỀ NÔNG THÔN TỪ 1986 ĐẾN NAY..................................................59
3.1. HIỆN THỰC CHIẾN TRANH VÀ CON NGƯỜI GẮN BÓ VỚI ĐẤT
ĐAI, XỨ SỞHIỆN THỰC THỜI CHIẾN, THỜI HẬU CHIẾN VÀ CON
NGƯỜI GẮN..................................................................................................59
5


BĨ VỚI Q HƯƠNG, XỨ SỞ....................................................................59
3.1.2. Người nơng dân gắn bó với quê hươngđất đai, xứ sở...................69
3.2. HIỆN THỰC CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT VÀ CON NGƯỜI LÀNG

XÃ, HỌ TỘC...............................................................................................77
3.2.1. Cải cách ruộng đất – hướng tiếp cận mới từ đề tài cũ...................77
3.2.2. Người nơng dân gắn bó với làng xã, họ tộc..................................91
3.3. HIỆN THỰC ĐỜI SỐNG TÂM LINH VÀ CON NGƯỜI BẢN
NĂNG, TÍNH DỤC.....................................................................................97
3.3.1. Nơng thơn với đời sống tâm linh phong phú.................................97
3.3.2. Người nơng dân vớitrong đời sống tíình dục mang khát vọng tình
yêu, hạnh phúcđa dạng..........................................................................108
Chương 4 PHƯƠNG THỨC NGHỆ THUẬT CỦA TIỂU THUYẾT..............117
VIỆT NAM VỀ NÔNG THÔN TỪ 1986 ĐẾN NAY......................................117
4.1. NGƠN NGỮ NGHỆ THUẬT............................................................117
4.1.1. Ngơn ngữ cuộc sống đời thường, nhiều màu sắc........................117
4.1.2. Ngôn ngữ đối thoại và độc thoại hồn nhiên, chân chất...............124
4.1.3.2.2. Ngôn ngữ độc thoại phong phú, đa dạng..............................129
4.2. GIỌNG ĐIỆU NGHỆ THUẬT..............................................................134
4.2.1. Giọng điệu cảm thương, xa xa xót..............................................134
4.2.2. Giọng điệu giễu nhại, châm biếm................................................138
4.2.3. Giọng điệu suychiêm nghiệm, triết lí..........................................142
...................................................................................................................146
4.3. KẾT CẤU NGHỆ THUẬT................................................................146
4.3.1. Kết cấu đơn tuyến và sự làm mới trên nền truyền thống.............147
4.3.2. Kết cấu lắp ghép và sự cách tân theo hướng hiện đại.................150
KẾT LUẬN.......................................................................................................161
DANH MỤC CÔNG TRÌNG TRÌNH ĐÃ CƠNG BỐ CỦA TÁC GIẢ..........165
CĨ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN...................................................................165
...........................................................................................................................166
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................167
PHỤ LỤC 1.......................................................................................................179
...........................................................................................................................186
PHỤ CHÚ..........................................................................................................186


6


MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

1.1. Nông thôn -– nơi chứa đựng những trầm tích về văn hóa truyền thống luôn nằm
ở mạch ngầm trong đời sống của người dân Việt Nam,, Bởi Đó là những giá trị truyền
thống văn hóavốn để đã kết thành những phẩm chất trong sáng, đẹp đẽ ở người nông dân.
Cũng Và dĩ nhiên, nơi đóchính mảnh đất này đã đọng lại khơng ít những nỗi đau, tủi hờn,
oan khuất đeo bám người dân quê… Hiện thực đời sống xã hội nông thôn và người nông
dân Việt Nam đã được ánh xạ và in dấu lên mọi sáng tác văn học. Điều đó đã được minh
định từ thực tiễn sáng tác, từ truyền thống văn học dân tộc suốt trường kỳ lịch sử với những
hình ảnh mộc mạc, đẹp đẽ của làng quê Việt Nam. Và chúng từng lưu giữ trong các sáng
tác của tập thể dân gian. Các văn thi sĩThời trung đại, các nhà nho – thi sĩ ưu ái dành riêng
chốn quê Việt Nam những vần thơ chân mộc, sâu lắng ân tình. Những năm 1930-1945,
vVăn học lãng mạn, bám rễ vào nguồn mạch dân tộc nhưng tâm hồn lại hút gió Tây
phương, vẫn neo đậu một hồn quê nơi bạn đọc. Vào Những năm 1930-1945,Các nhà các
nhà văn hiện thực phê phán đã khẳng định sự thành công khi dựng nên bức tranh nông thôn
với những mảngh tối -– sáng về thân phận của người nơng dân oằn mình dưới ách thống trị
thực dân phong kiến. Văn học cách mạng đã kế thừa thành tựu của văn học hiện thực phê
phán, khẳng định khả năng đấu tranh vươn lên làm chủ của những người cần lao như một
sự phát hiện, hàm ơn với nền văn học của một thời “mất nước nhưng không mất làng”.
Suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ vĩ đại, thần thánh thì hình
ảnh làng q với người nơng dân mặc áo lính đã đi vào văn học như những biểu tượng đẹp
trong kí ức hào hùng của dân tộc.
1.2. Đại thắng mùa Xuân 1975 đã khép lại cuộc chiến tranh, non sơng liền một
dải. Đất nước dần chuyển mình từ thời chiến sang thời bình, một kỷ nguyên mới mở ra
với lắm bộn bề nhưng cũng nhiều khát vọng. Chính điều đó là mảnh đất màu mỡ để văn

học sau 1975 vươn mình lớn dậy và tỏa bóng xuống cuộc sống rộng lớn, mênh mơng.
Đặt biệt, luồng gió tư tưởng đổi mới kể từ sau Đại hội lần thứ VI (1986) của Đảng đã
tạo thành cơn luân vũ mãnh liệt tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội, tạo nên bầu
khơng khí dân chủ, cởi mở, tiến bộ hơn, trong đó, có văn học - một bức tranh nhiều
màu sắc với khát vọng vẽ trọn vẹn chân dung tâm hồn con người của thời đại từ những
miền quê. Trong sự phát triển mạnh mẽ và toàn diện của nền văn học mới, mảng văn
học nông thôn chiếm một vị trí khơng nhỏ cả về số lượng lẫn chất lượng, góp phần làm
nên diện mạo, thành tựu, tác dụng xã hội và tính đặc thù của nền văn học.

1


Tiểu thuyết viết về nông thôn Việt Nam sau 1975, nhất là sau đổi mới vẫn tiếp tục
“thâm canh” trên mảnh đất đầy tiềm năng này nhưng phương thức khai thác đã thay đổi.
Điều dễ nhận thấy: “Về mặt đề tài và cảm hứng sáng tạo đều hướng về đời thường, tiếp cận
những mặt bình dị, và cảm động. Lịng yêu cuộc sống vốn thấm sâu vào tâm hồn và cách
cảm nhận của các cây bút đã giúp cho các tác giả thanh lọc, chắt lấy phần cốt lõi của sự vật
và khai thác những giá trị nhân văn gần gũi. Đáng quý trong sáng tác của mình, các tác giả
ln có ý thức tơn trọng truyền thống nhưng vẫn mở ra đón nhận cái mới” [49;tr.199]. Cõi
nhân sinh hiện về với nhiều trang viết ngồn ngộn chất sống từ hương đồng rơm rạ của chốn
hương quê Việt Nam qua các ngòi bút tài danh một lần nữa khẳng định sức sống mới tập
trung và toàn diện trong cảm hứng viết về nông thôn Việt -– đề tài cuốn hút một cách tự
nhiên như sự sống còn của một dân tộc “chín phần mười đất nước nơng dân”.
Đề tài nơng thôn được các tiểu thuyết gia quan tâm sâu sắc, nhiều chiều hơn với
nhịp chuyển động của nó trong hơi thở hiện thực, nhất là từ những năm 1975 trở đi, tiểu
thuyết viết về nơng thơn đã có sự đổi mới cảm hứng, cấu tứ, thi pháp để tạo nên cách
nhìn nhận và tái tạo lại hiện thực một cách đầy đủ, sinh động hơn mà tiểu thuyết nông
thôncùng đề tài trước đó do nguyên nhân chủ quan và khách quan chưa làm được:
“Nơng thơn sau 1986 đã có cái nhìn khác trước. Nếu các nhà văn trước 86 đứng ở
phương diện xã hội và phong trào để nhìn con người thì các nhà văn sau 86 đã đứng ở

góc độ con người, xã hội và các vấn đề chung” [24;tr.53-36].
Từ thực tế trên, tiểu thuyết viết về nông thôn dần thu hút được sự quan tâm của
bạn đọc. Đã có một số bài viết hoặc một vài cuốn sách, nhưng tất cả hầu như chỉ mới
dừng lại ở phạm vi hẹp, chưa có một cơng trình nghiên cứu chun sâu, có hệ thống và
tồn diện về đề tài này. Đây là khoảng trống khơng nhỏ cần sự góp sức của tất cả những
ai quan tâm đến mảng tiểu thuyết viết về nơng thơn sau đổi mớiđương đại.
Vì vậy, chọn đề tài Đặc trưng phản ánh hiện thực của tiểu thuyết Việt Nam về nông
thôn từ 1986 đến nay, chúng tơi mong muốn có một cái nhìn tương đối hệ thống về tồn bộ
tiến trình vận động và phát triển cũng như những đặc điểm và thành tựu trên bình diện nội
dung và hình thức nghệ thuật của tiểu thuyết nông thôn Việt Nam viết về nông thôngiai
đoạn từ 1986 đến 2012nay. Qua đó, thấy được quy luật vận động của tiểu thuyết Việt Nam
viết về nông thôn Việt Nam sau chiến tranh cũng như trên con đường giao lưu của văn học
dân tộc với văn học thế giới.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu

2


Lựa chọn đề tài này, chúng tôi phần nào giới hạn đối tượng nghiên cứu. Vì vậy,
tồn bộ các sáng tác của tiểu thuyết viết viết về nông thôn Việt Nam từ 1986 đến 2012
sẽ là đối tượng trực tiếp để khảo sát. Riêng đề tài nông thôn miền núi, chúng tôi tạm
thời không đề cập đến trong luận án. Số lượng tác phẩm viết về nông thôn miền núi sau
đổi mới khá lớn (chủ yếu truyện ngắn), nội dung lại phong phú, độc đáo nên cần chuyên
luận riêng để nghiên cứu kĩ lưỡng và sâu rộng. Tuy nhiên, trong q trình nghiên cứu,
chúng tơi có liên hệ, so sánh nhằm chứng minh nét riêng của tiểu thuyết viết về nơng
thơn.
Sở dĩ chúng tơi chọn mốc thời gian này, vì đó là mốc đánh dấu sự đổi mới tồn
diện của đất nước; văn xihọc nói chung, tiểu thuyết viết viết về nơng thơn nói riêng đã
có bước ngoặt chuyển mình để đi đến những thành tựu đáng ghi nhận như hôm nay. Tất

nhiên, giới hạn mốc lựa chọn để khảo sát chỉ có ý nghĩa tương đối, vì hiện tượng đổi mới
tiểu thuyết đã có bước chuẩn bị khá sớm vào đầu những năm 1980 với một số tác giả có
đóng vai trị tiền trạm như Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Mạnh Tuấn, Lê
Lựu, Đồn Lê…
Nhìn lại chặng đường phát triển, số lượng tiểu thuyết viết viết về nông thơn rất
lớn, chưa có giai đoạn nào trước đây sánh kịp. Dẫu biết rằng, trong sáng tác, vấn đề
không chỉ số lượng, mà ở chất lượng nên những cuốn tiểu thuyết có giá trị được sàng lọc
qua thời gian và đã được bạn đọc quan tâm, giới nghiên cứu thừa nhận (thơng qua các
giải thưởng danh dự). Vì vậy, phạm vi đối tượng được tác giả luận án triển khai khảo sát
kĩỹ hơn qua các tiểu thuyết nổi bật như Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội của (Lê Lựu),
Bến không chồng, Dưới chín tầng trời của (Dương Hướng), Mảnh đất lắm người nhiều
ma của (Nguyễn Khắc Trường), Lời nguyền hai trăm năm của (Khôi Vũ), Lão Khổ của
(Tạ Duy Anh), Thủy hỏa đạo tặc, Đồng sau bão của (Hoàng Minh Tường), Dịng sơng
Mía của (Đào Thắng), Ba người khác của (Tơ Hồi), Ma làng của (Trịnh Thanh Phong),
Cuồng phong của (Nguyễn Phan Hách), Giời cao đất dày của (Bùi Thanh Minh), Thần
thánh và bươm bướm của (Đỗ Minh Tuấn, Mẫu thượng ngàn của Nguyễn Xuân Khánh)

Ngoài ra, để thấy được sự chuyển mình và phát triển cũng như sự đổi mới của tiểu
thuyết viết viết về nông thôn sau 1986 so với trước, chúng tơi đã có cái nhìn đối sánh với
giai đoạn từ 1932 đến 1975 và giai đoạn tiền đổi mới (1975 - 1985) được xem lànhư
bước chuẩn bị cho sự đổi mới của tiểu thuyết viết viết về nơng thơn như Con đường sáng
của (Nhất Linh, Hồng Đạo), Bước đường cùng của (Nguyễn Công Hoan), Tắt đèn của
(Ngô Tất Tố), Con trâu của (Nguyễn Văn Bổng), Cái sân gạch của (Đào Vũ), Xung đột
của (Nguyễn Khải), Bão biển của (Chu Văn), Buổi sáng, Đất làng của (Nguyễn Thị

3


Ngọc Tú), Ao làng của (Ngô Ngọc Bội), Đi bước nữa của (Nguyễn Thế Phương), Cửa
sông của (Nguyễn Minh Châu), Đứng trước biển, Cù lao Tràm của (Nguyễn Mạnh Tuấn)

… Đồng thời, chúng tơi cũng tìm hiểu một số thể loại khác như bút ký, truyện ngắn viết
về nông thôncùng đề tài ở thời kỳ trước và sau 1986, nhằm thấy được sự vận động tồn
cảnh của văn xi Việt Nam viết về nơng thơn trong tiến trình lịch sử văn học.

2.2. Phạm vi nghiên cứu
Từ đối tượng như vậy, tác giả xác định phạm vi của luận án là nghiên cứu những tiền đề để
tạo nên diện mạo hành tựu của tiểu thuyết Việt Nam viết về nông thôn Việt Nam giai đoạn từ
1986 đến 2012 như tư duy nghệ thuật; nhu cầu nhận thức về hiện thực đa chiều; diện mạo
của tiểu thuyết viết về nông thôn trong mạch nguồn của tiểu thuyết đương đại…. Từrong đó,
chúng tơi chọn khảo sát những yếu tố đổi mới nổi bật, những phương diện nội dung và nghệ
thuật đặc trưng. Chúng tôi cũng cố gắng làm sáng tỏ một số vấn đề như: nguyên nhân dẫn
đến sự đổi mới của tiểu thuyết nông thôn, sự riêng khác trong việc phản ánh hiện thực nông
thôn, những nét mới trong phương thức biểu hiện của tiểu thuyết nông thôn đương đại và chỉ
ra những tác phẩm tiêu biểu có sự đóng góp trong tiến trình hiện đại hóa văn xi nói chung,
tiểu thuyết về đề tài nơng thơn nói riêng.thấy được những đóng góp quan trọng, có ý nghĩa
của tiểu thuyết viết về nơng thơn trong tiến trình đổi mới văn xi Việt Nam sau 1986 trong
tính chỉnh thể nội dung và hình thức như quan niệm hiện thực và con người cùng những
phương thức, phương tiện biểu hiện đặc sắc của chúng.
Sau 1986, viết về nông thôn, một số tác giả tiếp tục quay trở lại đề tài cải cách
ruộng, hợp tác hóa nơng nghiệp. Vấn đề này rất nhạy cảm nhưng đã được tiểu thuyết quan
tâm một cách rốt ráo vào những năm 1960. Những trầm tích về văn hóa truyền thống nằm
ở mạch ngầm trong đời sống nông thôn Việt Nam. Bởi đó thực sự là những giá trị truyền
thống bề sâu như phong tục, tập tục, tập quán để kết thành những phẩm chất trong sáng,
đẹp đẽ của nông dân Việt Nam, dĩ nhiên, cũng từ đó đọng lại khơng ít nỗi đau, những tủi
hờn, oan khuất đeo bám họ.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp sau:
3.1. Phương pháp nghiên cứu xã hội học văn học: vận dụng để nghiên cứu tiến trình vận
động và phát triển của tiểu thuyết Việt Nam viết về nông thôn, nghiên cứu các tác phẩm tiêu biểu

đóng góp tích cực vào việc đổi mới của tiểu thuyết nông thôn Việt Nam viết về nông thôngiai
đoạn từ 1986 đến năm 2012.

3.2. Phương pháp phân tích, so sánh: nhằm làm sáng tỏ giá trị nội dung và nghệ
thuật, sắc thái độc đáo giữa những sáng tác của tiểu thuyết viết về nông thôn cùng và

4


không cùng giai đoạn; đồng thời so sánh sự đổi mới của tiểu thuyết viết về nông thôn
sau đổi mới (1986 - – 2012) với trước đổi mới (1932 - 1985); so sánh thể loại tiểu
thuyết và các thể loại khác (truyện ngắn, kí, bút kí) trong cùng đề tài (đồng đại) để thấy
được nét nổi trội về những đặc trưng cơ bản của tiểu thuyết viết về nông thôn.
3.3. Phương pháp cấu trúc, hệ thống, cấu trúc: được sử dụng để nghiên cứu mối
liên hệ nội tại hữu cơ của tác phẩm, đồng thời có cái nhìn tổng thể, khái quát về sự
chuyển mình, đổi mới của tiểu thuyết viết về nông thôn giai đoạn từ 1986 đến 2012này.
3.4. Phương pháp vận dụng lý thuyết thi pháp học:. nhằm nghiên cứu các yếu tố
tham gia cấu thành thế giới nghệ thuật Tiếp cận dưới góc độ thi pháp đưa đến sự thuận
lợi trong việc khám phá những cấu trúc phức tạp của thể loại tiểu thuyết Việt Nam viết
về nông thôn từ 1986 đến 2012 như ngôn ngữ, giọng điệu, kết cấu…trong tính chỉnh thể
nghệ thuật của chúng.
4. ĐĨNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN

4.1. Qua khảo sát Đặc trưng phản ánh hiện thực của tiểu thuyết Việt Nam về
nông thơn từ 1986 đến nay trên bình diện tổng thể (một giai đoạn) và trên bình diện cụ
thể (từng tác phẩm) để triển khai thành một hệ vấn đề, luận án đã góp phần nhận diện
chung nhất tiến trình vận động và phát triển của tiểu thuyết Việt Nam Việt Nam viết về
nông thôn từ 1986 đến 2012, . Trong đó, chú trọng giai đoạn sau đổi mới, một mặtnhằm
thấy được sự kế thừa, tiếp nối những thành tựu củaquả giai đoạn trước 1986 và những
vấn đề mà giai đoạn trước đang đặt ra cho giai đoạn sau tiếp cận và phản ánh. Qua đó,

mặt khác thấy được sự bứt phá của giai đoạn sau trong bước chuyển mình của của tiểu
thuyết viết về nông thôn đương đạigiai đoạn này trong bước chuyển mình của đời sống
xã hội và ý thức nghệ thuật của chủ thể sáng tạo. tiến trình hiện đại hóa văn học dân
tộc.
4.2. Khẳng định những thành tựu của tiểu thuyết Việt Nam viết về nông thôn từ
1986 đến 2012n nay là có cơ sở từ những điều kiện chính trị, xã hội của đất nước sau
1975, và là sự đòi hỏi tự thân của văn học nói chung, tiểu thuyết viết về nơng thơn nói
riêng trong sự tiếp tục phát triển ở thời kỳ đổi mới.
4.3. Luận án vận dụng những phương pháp tiếp cận mới của Khoa Nghiên cứu
văn học, đồng thời học tập một số kinh nghiệm nghiên cứu tiểu thuyết của các nhà
nghiên cứu phê bình văn học như M. Bakhtin, Roland Barthesr, Iu. M. Lotman… giúp
bạn đọc có cái nhìn mới mẻ vềvề tiểu thuyết Việt Nam viết Việt Nam viết về nông thôn
sau đổi mới trên cả hai phương diện nội dung và phương thức nghệ thuật so với so với
thời kỳgiai đoạn trước đó. Từ đó, đưa ra những kết luận có tính chất khái qt về sự đổi

5


mới trong tư duy nghệ thuật, trong việc phản ánh hiện thực và cả phương thức biểu hiện
từ nguồn mạch chung trong tiến trình vận động của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.
4.4. Hiện nay, tiểu thuyết nói chung và tiểu thuyết về nơng thơn nói riêng được
nhiều giới quan tâm nghiên cứu và bước đầu khẳng định những thành tựu. Vả lại, giai
đoạn văn học sau 1975 được đưa vào chương trình giảng dạy ở bậc THCS, THPT và
bậc Đại học, sau Đại học. Tuy nhiên, tài liệu tham khảo về giai đoạn văn học này cũng
như mảng tiểu thuyết về nơng thơn vẫn cịn ít ỏi. Vì vậy, luận án cũng sẽ là một tài liệu
tham khảo hữu ích cho những ai quan tâm nghiên cứu, học tậpKết quả của luận án có
thể dùng để đưa vào chương trình giảng dạy ở bậc THCS, THPT và bậc Đại học, sau
Đại học; đồng thời dùng làm tài liệu tham khảo để viết giáo trình Văn học Việt Nam
hiện đại về đề tài nông thôn.
5. CẤU TRÚC LUẬN ÁN


Luận án gồm 150 trang chính văn. Ngồi phần Mở đầu, Kết luận, Cơng trình tác
giả đã cơng bố có liên quan đến luận án, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Phụ chú, phần
Nội dung của luận án gồm 4 chương.
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam về nông thôn n
từ 1986
đến nay
Chương 2: Diện mạo chung của tiểu thuyết Việt Nam về nông thôn từ 1986 đến nay
Chương 3: Hiện thực và con người trong tiểu thuyết Việt Nam về nông thôn
từ 1986
đến nay
Chương 4: Phương thức nghệ thuậtbiểu hiện của tiểu thuyết Việt Nam về nông
thôn từ 1986
đến nay

6


7


NỘI DUNG
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TIỂU THUYẾT VIỆT
NAM
VỀ NÔNG THÔN TỪ 1986 ĐẾN NAY
Trong lịch sử văn học Việt Nam, tiểu thuyết viết viết về nông thôn chiếm một vị
trí quan trọng. Đặc biệt, sau đổi mới (1986), tiểu thuyết viết về nóđề tài này đã góp
phần làm nên diện mạo mới cho văn xuôi Việt Nam hiện đại. Hành trình đi tìm lịch sử
nghiên cứu vấn đề Đặc trưng phản ánh hiện thực của tiểu thuyết Việt Nam về nông

thôn từ 1986 đến nay, chúng tôi đứng trước khối lượng tư liệu khá phong phú, in rải rác
trên các tạp chí, báo chuyên ngành và những cơng trình sách, luận văn, luận án đã hoặc
chưa xuất bản. Để xử lý nguồn tư liệu có được, rút ra những vấn đề liên quan đến luận
án, chúng tôi tạm thời chia tình hình nghiên cứu thành các phương diện sau:
1.1. LUẬN BÀN MỘT CÁI NHÌN TỒN CẢNH
1.1.1. Khẳng định sự đổi mới, lạc quan vào sự hồi sinh

Ở mảng văn xi nơng thơn, Trần Cương có bài Nhìn lại văn xuôi viết về nông
thôn trước thời kỳ đổi mới (1986) và Văn xuôi viết về nông thôn từ nửa sau 80. Từ điểm
nhìn tổng quan, tác giả đã khái quát được những nét cơ bản về nông thôn từ 1930 1975, thấy được nhìn chung bức tranh chung về hiện thực nông thôn thuộc phần “bề
nổi” của cuộc sống, đó cũng chính là những phần bức thiết bấy giờ. Đến giai đoạn tiền
đổi mới, trong bối cảnh Việt Nam sau chiến tranh với những tổn thất nặng nề, nền kinh
tế tự cung tự cấp, cơ chế quản lý quan liêu, bao cấp ngày càng bộc lộ nhiều khuyết
tật…, nên tâm lý chung của toàn xã hội là truy tìm nguyên nhân của những yếu kém
xuống cấp. Đứng trước những trăn trở đó, văn xi và tiểu thuyết viết về nơng thơn bắt
đầu chuyển mình và đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ, thế nhưng thật sự đổi mới
phải bắt đầu sau Đại hội Đảng lần VI. Sự đổi mới có được nhờ từ hai phía: sự chuyển
mình của nơng thơn và sự chuyển đổi điểm nhìn từ chính bản thân của mỗi nhà văn. Từ
quan niệm đến cách cảm, cách nghĩ và tái tạo lại hiện thực trên trang viết đã thực sự
“trở dạ”. Ở quan điểm riêng của mình, tác giả cho rằng sự chuyển biến đó trước hết là
do sự mở rộng phạm vi chủ đề. Trong văn xi nói chung, tiểu thuyết viết về nơng thơn
nói riêng lần đầu tiên xuất hiện hai chủ đề: chủ đề về số phận con người và hạnh phúc
cá nhân mà trước đó chỉ mới nhen nhóm ở Thời xa vắng, Bến không chồng, Mảnh đất

8


lắm người nhiều ma… Hai là, sự chuyển biến trong phạm vi bao quát hiện thực. Bức
tranh hiện thực nông thôn trước 80 phần lớn chỉ là những hiện thực bề nổi của đời sống
như Buổi sáng, Đất mặn… Sau những năm 1980, hiện thực nông thôn đã tịnh tiến vào

chiều sâu, mạch ngầm tâm thức của đời sống Việt, cách miêu tả đó đã “mang lại một
giá trị nhận thức mới theo quan niệm “nhìn thẳng vào sự thật”… mà Đại hội Đảng lần
thứ VI (1986) đã chỉ ra… Các nhà văn đã khắc phục được những mặt bất cập của giai
đoạn trước, bám sát và bao quát những sự kiện, những vấn đề của đời sống nông thôn
hiện tại” [24;tr.36]. Tác giả khẳng định sự chuyển biến của xã hội hằn in dấu vết trong
nơng thơn là có thật và có chiều sâu vững bền.
Khác với Trần Cương, trong bài Tiểu thuyết mở đầu thế kỷ XXI trong tiến trình văn
học Việt Nam từ tháng 8-1945, Phong Lê khơng đi sâu tìm hiểu văn xi viết viết về nơng
thơn. Ở đây, tác giả đã nhìn truyền thống văn học trên hai đề tài lớn: chiến tranh và nông
thôn. Trong đó, đề tài nơng thơn “có chiều dài lịch sử ngót một thế kỷ mà cơng lao tạo
dựng đầu tiên là hơn một thế hệ người viết, kể từ Hồ Biểu Chánh, Phạm Duy Tốn… đến
Ngô Tất Tố, Nam Cao…, và cuộc tìm kiếm kéo dài hơn 20 năm, nhằm xác định một mơ
hình thích hợp cho sự phát triển của đất nước trong sự tương ứng với thời đại của những
cuộc cách mạng xã hội và khoa học -– kỹ thuật” [103;tr.21]. Tác giả đã khái quát cả bước
chuyển mình của nơng thơn trong trang văn của các bậc tiền bối. Trong bài Các nhà tiểu
thuyết nông thôn trong cơ chế thị trường, Hoàng Minh Tường cũng khẳng định: mảng văn
xi viết về nơng thơn có lịch sử của nó, từ Hồ Biểu Chánh, Ngơ Tất Tố và Vũ Trọng
Phụng, Nam Cao, Nguyễn Công Hoan… Những nhà văn này đã giữ lại vốn văn hóa, đời
sống tâm hồn người Việt ở thời đại họ và cho hậu thế, tạo một dịng chảy liên tục đến hơm
nay. Ơng nhận định sâu về mặt chuyển biến của “mảng tiểu thuyết nông thôn đã phần nào
làm được một công việc là ghi lại những biến động ở nông thôn cùng những đổi thay,
những vật vã của một thời. Hai chủ đề khá nổi bật được phản ánh trong hầu hết các tác
phẩm, là những xung đột âm ỉ quyết liệt về dịng họ, và cuộc vật vã thốt khỏi thời kỳ quan
niệm bao cấp, xác lập một cơ chế làm ăn mới” [181;tr.64]. Góp lời nhận xét, trong bài
Hiện trạng tiểu thuyết, Bùi Việt Thắng đã khẳng định: “Các nhà tiểu thuyết hơm nay đã từ
bỏ được lối nhìn dễ dãi về đời sống con người… Họ đã thơi nhìn nơng thôn với cảnh điền
viên, trống dong cờ mở. Nông thôn đích thực hiện ra trong tiểu thuyết của các anh trong
khung cảnh “long trời lở đất” rối rắm và cũng nhìn vào nơng thơn ấy ta sẽ thấy cả xã hội
Việt Nam mấy chục năm qua” [184;tr.9].
Nguyễn Hà, Tôn Phương Lan đi vào xác định ranh giới khác biệt của tiểu thuyết

viết về nông thôn trước và sau đổi mới. Trong bài Về hướng tiếp cận mới đối với hiện
thực trong văn xuôi sau 1975, Tôn Phương Lan cho rằng: “Lâu nay vấn đề người nông

9


dân hầu như chỉ được nhìn nhận qua vấn đề ruộng đất, vấn đề vào ra hợp tác xã, giờ đây
vấn đề đó được nhà văn nhìn vào số phận lịch sử của họ. Và lịch sử đất nước được hiện
ra qua lịch sử cuộc đời nhân vật trong cuộc mưu sinh, trong sự duy trì đóng góp để làm
nghĩa vụ cho Tổ quốc, với phần trách nhiệm của từng hồn cảnh gia đình” [95;tr.50].
Từ góc độ đó, tác giả chỉ ra rằng “đã có một cách sốt xét lại một thời đã qua, thông qua
những số phận cá nhân và những vấn đề của một làng xã, một dòng họ” [95;tr.48],
trong đó “nổi bật lên là mối mâu thuẫn về quyền lợi cá nhân nấp dưới vấn đề họ tộc”
[95;tr.40]. Theo hướng này, trong bài Cảm hứng bi kịch nhân văn trong tiểu thuyết Việt
Nam nửa sau thập niên 80, xuất phát từ cảm hứng nhân văn bi kịch trong con người,
Nguyễn Hà rất tinh tế khi nhận xét: nhà tiểu thuyết quan tâm đến bi kịch cá nhân, khắc
đậm trạng huống “một người -– hai mặt” của con người. Quan tâm đến con người nông
dân nhưng ở kiểu loại khác, không phải những người nông dân xuất thân từ nông thôn,
chủ yếu là những chiến binh trở về từ chiến trường hịa mình vào cuộc sống nơng thơn
[57]. Nhân dịp Cuộc thi tiểu thuyết lần 2 (2002-2004) kết thúc, báo Sài Gịn giải phóng
có cuộc trao đổi với nhà thơ Hữu Thỉnh -– Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam. Trong cuộc
trả lời phỏng vấn, ông khẳng định: có mùa gặt mới của tiểu thuyết viết về nơng thôn
đầu thế kỷ XXI. Nét mới của cuộc thi tiểu thuyết lần 2 là các nhà văn đã có sự mở rộng
biên độ khi viết về nông thôn. Họ “đặt nông thôn Việt Nam trong những biến cố của
dân tộc đầy bão táp theo chiều dài lịch sử”, “với độ mở và góc khuất mà trước đó nhiều
nhà văn chưa có điều kiện để truyền tải tới bạn đọc. Những yếu tố đó tạo nên bộ mặt và
sức bền của nơng thơn Việt Nam. Qua Dịng Sơng Mía, Cánh đồng lưu lạc… đã chứng
tỏ được “sức sống của dân tộc, cốt cách của người nông dân được phác họa thật sắc
sảo” [217].
Trong bài viết Tìm kiếm những trang viết về nông thôn, Đỗ Kim Cuông đã tập

hợp những ý kiến tham luận của các nhà văn tham gia Hội nghị nhà văn các tỉnh phía
Bắc tại thành phố Hải Phịng diễn ra vào ngày 10/10/2003. Nhiều nhà văn nói lên
những suy nghĩ, tâm tư tình cảm rất chân thành, giàu tâm huyết và sâu sắc về nông thôn
và nông dân trong thời đại mới. Họ cùng chung quan điểm: sau đổi mới, bộ mặt đời
sống nông thôn, cuộc sống nông dân đang từng ngày thay da đổi thịt, nhưng cũng gặp
khơng ít khó khăn, cạm bẫy. Do đó, mảng sáng tác “về nông thôn và nhân dân vẫn là
một đề tài lớn”, “vẫn có sức lơi cuốn bạn đọc, vẫn kích thích các nhà văn sáng tạo”
[22]. Phạm Ngọc Tiến trong bài Đề tài nơng thơn khơng bao giờ mịn cũng có cái nhìn
lạc quan. Tác giả khẳng định đề tài nơng thơn khơng hề “bạc màu”, “khơng bao giờ
mịn”. Bởi, nơng thơn Việt Nam đang từng bước chuyển mình, đáng được ghi nhận.
Q trình nơng thơn hóa, sự tác động của công nghiệp vào nông nghiệp, sự lai căng về

10


văn hóa…, cũng có mặt tích cực và tiêu cực nên đáng để các nhà văn suy ngẫm, trăn trở
[169]. Cùng quan điểm, trong cuộc trả lời phỏng vấn với báo Nông nghiệp Việt Nam,
Nguyễn Đăng Điệp đánh giá rất xác đáng: “Văn học về nông dân và nông thôn tuy ít
người theo đuổi nhưng vẫn chưa đến mức đoản mệnh”, “số lượng người viết về nơng
thơn nhiều hay ít không phải là quá quan trọng mà quan trọng hơn nhiều là làm sao để
có được nhiều tác phẩm hay” [53]. Bùi Ngọc Tấn cũng rất tin tưởng, lạc quan khi cho
rằng: trong thời gian gần đây, mảng văn học nói chung, tiểu thuyết viết về nơng thơn
nói riêng có những tác phẩm hay, đáp ứng được tầm đón đợi của bạn đọc: “Chúng ta sẽ
viết được những cuốn tiểu thuyết như chúng ta hằng mong ước, cũng như tôi luôn tin
mỗi giọt máu của chúng ta đều cháy lên lòng yêu nhân dân, yêu đất nước; một nhân
dân, một đất nước đã đổ máu, đổ mồ hôi, đang vượt qua mọi khó khăn để xây dựng
cuộc sống mới và đang chờ đón những tác phẩm của chúng ta” [53].
Trong cơng trình nghiên cứu Tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 -– 2005: Diện mạo và
đặc điểm, Lê Thị Hường đã chỉ ra được những đặc điểm chính của tiểu thuyết giai đoạn
này là sự đa dạng về hệ đề tài, trong đó đề tài nơng thơn là một trong những đề tài có lực

hút đối với các nhà tiểu thuyết đương đại: tiểu thuyết về đề tài nông thôn sau 1986 đã gây
được ấn tượng. Các nhà văn đã gặp gỡ nhau ở vấn đề cốt lõi của nông thôn: gia đình và
dịng tộc, phong tục, nếp nghĩ, nếp sống của những con người sống trên những mảnh đất
phần lớn cịn chịu sức đè của những thói tục cũ [86]. Năm 2000, trong Luận án Tiến sĩATS
Ngữ văn, Nguyễn Mạnh Hùng đã khảo sát Sự vận động của tiểu thuyết Việt Nam từ sau
1975 một cách có hệ thống và có những đóng góp đáng kể. Trên phương diện đề tài, tác giả
nhận xét rất xác đáng về vị trí của đề tài nơng thơn trong dịng chảy văn học: “Công cuộc
xây dựng và phát triển đất nước bây giờ là nhiệm vụ trung tâm của thời đại, nước ta là một
nước nông nghiệp lạc hậu và phần lớn số dân là nơng dân, vai trị to lớn của nơng dân và
nông nghiệp đối với đất nước, lối sống và tâm lý nông dân cũng như ảnh hưởng của chúng
đối với đời sống xã hội, cảnh sắc làng quê và hấp dẫn của nó đối với nghệ thuật, và cao hơn
hết là sự hiểu biết cũng như tình cảm của nhà văn đối với người nông dân với những bước
đường đi theo cách mạng” [82;tr.65]. Và đề tài nông thôn đã, đang và sẽ rất hấp dẫn đối
với tiểu thuyết gia đương đại: “Tiếp bước những Cái sân gạch, Vụ lúa chiêm của Đào Vũ.
Bão biển, Đất mặn của Chu Văn. Tầm nhìn xa, Xung đột của Nguyễn Khải. Ao làng của
Ngô Ngọc Bội. Buổi sáng, Hạt mùa sau của Nguyễn Thị Ngọc Tú. Cù lao Tràm của
Nguyễn Mạnh Tuấn…, thì Thủy hỏa đạo tặc của Hồng Minh Tường xứng đáng là cuốn
tiểu thuyết mở đường cho một hướng đi mới trong việc tiếp cận hiện thực nông thôn - – cái
hiện thực của quá khứ, của hiện tại và của tương lai, cái hiện thực gắn với sự sinh tồn của
dân tộc, một hướng đi mà từ đó tiểu thuyết sẽ phát huy hết khả năng thể loại của mình”

11


[82;tr.75]. Năm 1996, trong Luận án phó PTiến sĩ S Ngữ văn Văn xuôi viết về nông thôn
trong công cuộc đổi mới qua một số tác giả tiêu biểu, Lã Duy Lan đã nhìn lại văn xi viết
về nơng thơn trước 1986 và cũng đã đánh giá được diện mạo chung của văn xuôi viết về
nông thôn sau 1986 đổi mới trên bình diện nội dung và hình thức nghệ thuật. Năm 2012,
trong Luận án ATiến sSĩ Ngữ văn Văn xuôi viết về nông thôn trong văn học Việt Nam sau
1975, Bùi Quang Trường đã khái lược đề tài nông thôn trong văn xuôi Việt Nam trước

1975: đề tài nông thôn trong văn xuôi quốc ngữ buổi giao thời 1900 - – 1930, 1930 -–
1945, 1945 -– 1975, đặc biệt tác giả đã có cái nhìn bao qt về đề tài nông thôn trong văn
xuôi từ 1975 đến 2011nay. Trên phương diện đề tài, tác giả nhận xét : “Trong khoảng thời
gian 35 năm, kể từ 1975 đến nay, văn xi viết về nơng thơn đã có những bước phát triển
vượt bậc. Sự phát triển này không chỉ thể hiện số lượng tác giả đông đảo, ở số lượng tác phẩm
lớn mà quan trọong hơn là sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người, về tư duy nghệ
thuật, đổi mới về đề tài, phương thức biểu hiện. … Tất cả những thay đổi này chính là bằng
chứng cho sự phát triển mạnh mẽ của văn xuôi viết về nông thôn sau 1975 -– một giai đoạn
mới trong sự phát triển của văn xuôi Việt Nam hiện đại viết về nông thôn” [215 ;tr.43-44].
Như vậy, nhiều bài viết khẳng định văn xuôi và tiểu thuyết viết về nông thôn
đã thực sự hồi sinh, để lại dấu ấn qua mỗi giai đoạn, mỗi tác giả và tác phẩm., tuy nhiên
vẫn chưa có những đỉnh cao, gây được tiếng vang lớn như một số tác phẩm giai đoạn
1932-1945. Trên thực tế, các nhà văn viết về đề tài nơng thơnnó sau đổi mới đã khơng
đi theo những lối mịn quen thuộc, mà đã có những bước chuyển mình, hứa hẹn những
thành tựumùa giặt mới trong tương lai.
1.1.2. Quan ngại về dấu hiệu chững lại
Những năm trở lại đây, một số nhà văn, nhà nghiên cứu băn khoăn trước thực
trạng ngày càng thưa dần, thiếu vắng các tác phẩm viết về nông thôn. Trong bài Đề tài
về người nông dân, làm sao cho xứng tầm, Đào Thái Tuấn cho rằng: nông thôn Việt
Nam đang “đứng trước cơng cuộc Cơng nghiệp hóa -– Hiện đại hóa đất nước hiện nay
rất nhiều vấn đề về Nông nghiệp - – Nông thôn đã nảy sinh”. Vì vậy,, do đó “mảng về
văn học nơng thơn rất quan trọng”,. nNhưng thời gian gần đây “chỉ lẻ tẻ một vài tác
phẩm viết về nông thôn”, “các nhà văn chưa đi sâu vào để tiếp tục khai thác”., Do đó,Vì
vậy “đây là một thiếu sót của giới sáng tác văn học nghệ thuật” [177;tr.22]. Đây chính
là dấu hiệu của sự chững lại của văn xuôi và tiểu thuyết viết viết về đề tài nơng thơn và
nó cịn kéo dài sang cả thập niên đầu của thế kỷ XXI. Trong bài Tiểu thuyết 2009 trong
chuyển động của tiểu thuyết Việt Nam mười năm đầu thế kỷ XXI, Đỗ Hải Ninh cho
rằng: đời sống của tiểu thuyết viết về đề tài nông thôn sau đổi mới, đặc biệt thập niên
đầu thế kỷ XXI khá bình lặng, mặc dù có những cuộc thảo luận, trao đổi: “Với một


12


quốc gia có hơn bảy mươi phần trăm dân số sống ở nông thôn như Việt Nam, trong quá
khứ đã từng có những tác phẩm xuất sắc về nơng thơn thì hiện nay sáng tác hay về đề
tài này lại khơng nhiều…, vẫn chưa dành sự quan tâm đích đáng mặc dù cách đây mấy
năm đã có vài ba tác phẩm gây được sự quan tâm của người đọc như Dịng sơng Mía
(Đào Thắng), Trăm năm thống chốc (Vũ Huy Anh), Cách đồng lưu lạc (Hồng Đình
Quang). Số tác phẩm xuất bản năm nay lọt vào vòng chung khảo cuộc thi tiểu thuyết
lần 3 rất ít như Cách trở âm dương (Vũ Huy Anh), Họ vẫn chưa về (Nguyễn Thế
Hùng), Thần thánh và bươm bướm (Đỗ Minh Tuấn)” [136]. Trong bài Nhà q, nơng
thơn: Tự nó và về nó, Mai Anh Tuấn cho rằng: dẫu có hẳn một hội thảo mang tên “Văn
học với đề tài Nông nghiệp, Nông dân, Nơng thơn”, nhưng “văn học chưa có nhiều tác
phẩm xuất sắc viết về tam nơng như “tầm” của nó” [178]. Trong bài Nhà văn với đời
sống nông thôn và nông dân ngày nay, Nguyễn Bính Hồng Cầu cũng khẳng định: văn
học Việt Nam có “bề dày lịch sử, có thành tựu”, nhưng thẳng thắn mà nói “cịn thiếu
vắng về đề tài nông thôn, nhất là nông thôn ngày nay đang trong tiến trình cơng nghiệp
hóa -– hiện đại hóa đất nước” [15].
Nhiều nhà nghiên cứu chỉ ra nguyên nhân (chủ quan và khách quan) dẫn đến đề
tài nông thôn vắng bóng, nhạt nhịa. Hồ Ngọc Xung cho rằng: các phương tiện truyền
thông chủ yếu chạy theo thị hiếu của người dân thành phố để thu hút quảng cáo nên đã
vô tình “bỏ qn” người nơng dân và nơng thơn; đội ngũ sáng tác xa rời, khơng cịn
rung cảm về người nông dân; đặt mục tiêu kiếm tiền và lợi nhuận lên hàng đầu [ 67].
Phạm Thị Ngọc Diệp chỉ ra ngun nhân ít có những tác phẩm viết về đề tài nơng thơn
hay và có giá trị, là vì “đa số các nhà văn gốc nông dân đã về sống và làm việc ở thành
thị”, mà “ở thành thị thì khơng phải là người thành thị vì cái bản chất q mùa của
mình. Cịn sống ở nơng thơn khơng phải là người nơng dân vì khơng có khả năng làm
những việc của nông dân. Là người lừng khừng, đúng hơn là một người nhà quê” [32].
Nguyễn Bính Hồng Cầu cho rằng: “Có thể các nhà văn chưa hiểu hết nơng thơn và cũng
có thể các nhà văn tránh né đề tài này để đến với đề tài khác đỡ vất vả hơn. Vì thế mà

nơng thơn và nơng dân vắng bóng trên văn đàn…” [15].
Một số người cịn dự báo đề tài nông thôn hiện tại và tương lai sẽ trở nên vắng
bóng, nhạt nhịa trong giới sáng tác trẻ. Đỗ Hải Ninh gióng lên hồi chng báo động về
mảng đề tài nơng thơn ngày càng ít ỏi hơn, vắng bóng hơn đối với thế hệ viết văn trẻ.
Những cây bút trẻ chun sáng tác đề tài nơng thơn “có thể đếm trên đầu ngón tay”
[136]. Hồ Huy Sơn cũng đã chỉ ra sự thật đau lòng là giới sáng tác trẻ hiện nay đang
hào hứng, chạy đua với đề tài “hoót” (sex, les, gay, ma, kinh dị, trinh thám), cịn đề tài
nơng thơn họ lại “xa lánh”. Do đó, hiện nay nhà văn trẻ viết về mảng đề tài này rất “ít

13


ỏi” [156]. Trong bài Những trang viết trẻ thiếu chất nơng thơn, Hồ Quỳnh n có cái
nhìn đối sánh giữa hai thế hệ sáng tác, sau đó khẳng định: thế hệ trước 1986 (Lê Lựu,
Dương Hướng, Nguyễn Khắc Trường, Nguyễn Minh Châu, Đào Thắng, Nguyễn Huy
Thiệp) chuyên tâm hơn và có những tác phẩm xuất sắc (Thời xa vắng, Bến không
chồng, Mảnh đất lắm người nhiều ma, Khách ở quê ra, Dịng sơng Mía). Ngược lại,
thật khó khăn khi kể tên các tác giả trẻ nổi lên trong những năm gần đây viết về đề tài
nơng thơn. Đây đó, bắt gặp Đỗ Bích Thúy, Đỗ Tiến Thụy (miền Bắc), Ngơ Phan Lưu
(miền Trung), Nguyễn Ngọc Tư (miền Nam). Tác giả còn chỉ ra một thực tế đau lòng:
“Chúng ta thử đi vào một tiệm sách tìm sáng tác của những nhà văn trẻ, nhìn vào từ
truyện ngắn đến tiểu thuyết, thấy nổi lên: 48h yêu nhau, Lạc giới, Đường còn dài còn
dài, Dị bản, Khi nào anh thuộc về em, Giường…”. Cuối cùng tác giả đi đến kết luận:
“Xã hội nông thôn đang dần bị thu hẹp trong những trang viết trẻ. Đây là thực trạng có
thật và đang trở thành mối quan tâm lớn trong thời gian vừa qua… Những tác giả trở về
sau càng thể hiện rõ điều đó” [226]. Cùng quan điểm, trong cuộc phỏng vấn ngắn với
Báo Nông nghiệp Việt Nam, Nguyễn Đăng Điệp cũng đã khẳng định: trong lịch sử văn
học dân tộc có rất nhiều tác phẩm xuất sắc viết về đề tài nông thơn ( Tắt đèn, Chí Phèo,
Vợ nhặt, Vỡ đê). Thời đổi mới cũng có một số tác phẩm gây được sự chú ý của bạn đọc,
nghiên cứu như:, Khách ở quê ra, Phiên chợ Giát, Mảnh đất lắm người nhiều ma, Bài

học nông thôn, nhưng lại thuộc về các nhà văn lớp trước. Còn thực tế hiện nay đang
diễn ra là các nhà văn trẻ không mấy mặn mà với đề tài nơng thơn: “Nhìn vào văn học
trẻ hiện nay, khơng chỉ tơi mà nhiều người điều thấy chuyện đó… Ngay cả những cuộc
tọa đàm về văn học gần đây do Hội Nhà văn tổ chức cũng khơng có tác phẩm nào thật
sự chuyên chú về người nông dân” [53].
Truy tìm căn ngun đó, Hồ Huy Sơn cho rằng: các nhà văn trẻ không “mặn mà”
với đề tài nông thôn là vì “đa số các cây bút trẻ hiện nay đều tập trung ở thành thị. Tuy rằng
trước đó họ đã có một khoảng thời gian sống ở nơng thơn nhưng “kho tàng kíý ức” ấy theo
thời gian khơng cịn được sống động, vẹn nguyên như ngày xưa. Khi đó, họ bắt buộc phải
viết theo tâm thức và cảm thức đương đại. Bên cạnh đó, sự khắt khe của thời kinh tế thị
trường đã làm cho văn học, đặc biệt là văn học về nông thôn thêm phần chật vật. Nhiều nhà
xuất bản cũng như các tờ báo muốn sách, báo của mình “đắt hàng” thì bắt buộct phải chạy
theo thị hiếu của độc giả” [157]. Nguyễn Đăng Điệp cũng cho rằng: “Thế hệ trẻ hiện nay
lên phố lập nghiệp sớm, thời gian truy cập internet nhiều, sợi dây gắn bó với nơng thơn và
nơng dân vì thế cũng khơng thật sâu. Hơn thế nữa, lớp trẻ là những người nhạy cảm với
những cái mới, cái lạ nên rất dễ hút vào những đề tài ht như sex, đồng tính, tình tay ba
tay tư” [53]. Hồ Quỳnh Yên dẫn ra nguyên nhân nữa là “giới sáng tác trẻ hiện nay viết

14


những gì mà Nhà xuất bản, tịa soạn cần để đáp ứng nhu cầu độc giả. Chính vì vậy, nên vơ
hình trchung, đề tài về nơng thơn càng trở nên nhạt nhòa” [226]. Ngay một số nhà văn trẻ
cũng thừa nhận sự yếu kém của mình khi sáng tác mảng về đề tài nông thôn và nông dân.
Họ cho rằng: muốn có tác phẩm viết về nơng thơn để đời, thì “cần sự chín muồi” (Nguyễn
Thị Thu Thủy), “phải am hiểu về nó” (Hà Thanh Phúc). “viết khó hay và sách khó bán”
(Nguyễn Văn Học) [157].
Theo một số nhà nghiên cứu, văn xuôihọc và tiểu thuyết viết về đề tài nông thôn
thực sự hồi sinh và đáp ứng được thực tiễn của đời sống xã hội nông thôn thời đổi mới,
cũng như từ phía bạn đọc, thì cần phải có sự bứt phá từ hai phía: Nhà văn và Nhà quản

lí. Nguyễn Đăng Điệp cho rằng: nhà văn “phải thực có tài, phải gắn bó, am hiểu và tâm
huyết với người nông dân. Không hội đủ những phẩm chất ấy, muốn viết về nơng thơn
và nơng dân… cũng chẳng có gì để người đọc phải nhớ” [53]. Nguyễn Phúc Lai cho
rằng: cần phải thay đổi từ chính nội tại của nhà văn: “hình như tài năng chúng ta có,
nhưng lại thiếu đi cái động lực để sáng tạo trong mỗi nhà văn”. Nguyễn Hữu Nhàn nói
lên tình trạng hiện nay của các nhà văn thiếu đi cái chiều sâu trải nghiệm hiện thực
nông thôn nên khi “viết về nông thôn mà thốt li nơng thơn, khơng hiểu người nơng
dân…, với cách nhìn ấy, văn học chỉ có thể gdiễu cợt châm biếm hài hước nông dân,
không thấy được chiều sâu những biến đổi to lớn trong lịng nơng thơn Việt Nam thời
kỳ đổi mới”. Cùng hướng đó, Hồng Minh Tường và Bùi Ngọc Tuấn cho rằng: Muốn
có những tác phẩm viết về đề tài nông thôn và nông dân hay, nhà văn phải “tắm mình
trong đời sống của chính họ, nhà văn phải đổi mới chính mình, đổi mới cách nghĩ cách
viết”, và đó cịn là nhu cầu “được nhìn khác đi, được viết khác đi; đó cịn là sự thi đua,
ganh đua làm việc giữa các nhà văn, trong một bầu khơng khí thân ái, tự do, dân chủ
của đời sống văn học” [22].
Hội thảo Nông nghiệp, nông dân và nông thôn, diễn ra trong hai ngày từ 18 -– 19,
tháng 3, năm 2009, tại thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang, Trần Sang đã tập hợp
những ý kiến từ chính các nhà văn tham gia. Ngơ Khắc Tài cho rằng nhiệm vụ quan trọng
trong thời buổi hội nhập đối với các nhà văn, là phải “tỉnh táo tìm đường đi cho đúng”,
“nhà văn cần có một đơi mắt lạnh mà lạc quan như vậy, giấc mơ về một đồng quê và hiện
thực xã hội mới gắn kết vào nhau”. Như vậy, trong thời buổi hội nhập ngày nay, các nhà
văn khi viết về đề tài nông thôn, cũng phải viết với góc nhìn mới, khai thác các khía cạnh
mới trong đời sống của họ và hơn hết là tự nâng tầm tri thức mình lên để theo kịp tầm
thời đại: “Sứ mạng của những người cầm bút thật nặng nề, địi hỏi mỗi người phải tự
nâng mình về nhiều mặt, điều chốt là ra sức tìm hiểu người nông dân cùng lịch sử mảnh

15


đất sinh ra họ một cách thấu đáo” (Lê Chí). Hơn nữa, muốn bạn đọc chấp nhận tác phẩm

của mình, thì nhà văn phải viết hay và viết đúng về nơng thơn và nơng dân: “Nơng thơn
đang chuyển hóa rất nhanh. Nếu thời kỳ trước đổi mới suốt mấy chục năm khơng có mấy
thay đổi về cơ bản thì bây giờ chỉ đầu năm, cuối năm đã khác. Không chỉ khác về diện
mạo bên ngoài, mà khác cả trong nếp sống, nếp nghĩ. Nếu trước đây ta có một nơng dân
hồn tồn thuần phác, thì hơm nay sự thuần phác dưới bóng tre làng đang bị cơ chế thị
trường dùng đại bác tấn công san bằng mọi thứ lô cốt bảo thủ rồi dựng lên những pháo
đài của thời kỳ đổi mới, một bức tranh hoành tráng trắng đen lổn chổn…” [152]. Ở góc
nhìn khác, trong bài Suy nghĩ về đề tài nông thôn trong văn học hiện nay, Trần Quốc
Tồn cho rằng: viết về đề tài nơng thơn cần mở rộng biên độ trong việc khắc họa hình
ảnh người nông dân, đặc biệt là nhân vật thiếu nhi: “Bàn về nNông nghiệp, nông thôn,
nông dân không thể quên thiếu nhi, vì khơng ít, hay rất nhiều các em sẽ lớn thành nông
dân để làm nông nghiệp hiện đại trong một nông thôn mới”. Thực tế, “phần lớn những
tác phẩm văn học thiếu nhi của văn học Việt Nam hiện đại, sống được với thời gian vẫn
là những tác phẩm có đề tài nơng thơn như Dế mèn phiêu lưu kí của Tơ Hồi, Đất rừng
phương Nam của Đồn Giỏi, Dịng sơng thơ ấu của Nguyễn Quang Sáng đều là như thế”.
Theo tác giả bài viết, ngoài ra nhân vật nơng thơn có học vấn, học vị cũng khơng thể bỏ
qua. Những nhân vật -– con người này có đóng góp khơng nhỏ trong bước chuyển mình
của nơng thơn hiện đại. Vì thế, “cứ viết cho kĩ về nhân vật này, có thể nắm bắt được diện
mạo đồng đất Việt Nam hơm nay” [173]. Về phía nhà quản lí, phải “khuyến khích những
cây viết trẻ”, “có những chính sách”, “cần sự quan tâm của người viết” (Trần Thị Hồng
Hạnh), “phải tổ chức cho nhà văn đi và vận động cả những cây bút ở nông thôn nữa” (Hà
Thanh Phúc), “mỗi năm tổ chức cuộc thi truyện ngắn và tiểu thuyết về đề tài nông nghiệp
nông thôn dành cho tuổi trẻ, trao giải cao… Cứ mang kinh tế ra khuyến khích, động viên,
người viết trẻ cảm thấy mình đầu tư viết về đề tài nông thôn rất đáng đồng tiền bát gạo,
họ sẽ dấn thân viết” (Nguyễn Văn Học) [156].
Ngay lĩnh vực nghệ thuật khác như truyền hình, sâu khấu cũng cùng chung số phận.
Hồ Ngọc Xung trăn trở, băn khoăn trước thực trạng đề tài nông thôn và nông dân ngày
càng ít đi, lép vế so với các đề tài khác: “Trong mấy năm gần đây, số đầu phim Việt Nam
được phát sóng lên tới hàng trăm… Nhưng trong số đó, phim có đề tài nơng thơn, nơng
dân thực sự không nhiều. Gây tiếng vang nhất của đề tài này trong thời gian qua là hai bộ

phim Ma làng và Gió làng Kình.… Lĩnh vực sân khấu (tuồng, chèo, cải lương), hiện tượng
hiếm vở diễn về người nông dân và nơng thơn cũng đang diễn ra…… hình ảnh người nơng
dân cũng mờ nhạt dần và đến gần đây thì vắng bóng hồn tồn trên sân khấu dân tộc” [67].

16


Như vậy, sự băn khoăn, lo lắng của bạn đọc, của các nhàgiới nghiên cứu, phê bình
văn học cũng như từ chính giới sáng tác về sự giảm sút chất lượng và số lượng các tác
phẩm viết về đề tài nơng thơn là có cơ sở, đúng với tình hình hiện nay. Thực tế đó đã gióng
lên hồi chng cảnh báo cho văn giới và đặt ra cho họ trách nhiệm khi viết về nông thôn và
nông dân.

1.2. LUẬN BÀN QUANH MỘT SỐ TIỂU THUYẾT NỔI TRỘI

Từ 1986 đến nay, tiểu thuyết viết về nông thôn luôn dành được sự quan tâm của
người đọc, đặc biệt các nhà phê bình. Hàng loạt bài viết đã được in trên tạp chí, báo; nhiều
cuộc hội thảo, tọa đàm diễn ra. Những nhà nghiên cứu, phê bình nổi tiếng như Nguyễn
Đăng Mạnh, Phan Cự Đệ, Phong Lê, Hoàng Ngọc Hiến, Văn Giá, Bùi Việt Thắng, Lý
Hoài Thu... tham gia viết bài. Những ý kiến, nhận định dẫu có trái chiều, nhưng nhìn trên
phạm vi bao quát, chúng tôi nhận thấy đa số đều khẳng định: tiểu thuyết viết về đề tài nông
thôn sautừ 1986 đến nay có bước tiến mới về nội dung và nghệ thuật so với trước.
Do khung giới hạn của luận án, nên chúng tôi chỉ chọn những bài viết tập trung
nghiên cứu một số tác phẩm tiêu biểu, được dư luận quan tâm như Thời xa vắng, Mảnh
đất lắm người nhiều ma, Bến khơng chồng, Dịng sơng Mía, Lão Khổ, Ba người khác...
Để tiện theo dõi, chúng tôi tạm sắp xếp nguồn tư liệu thành hai vấn đề sau:
1.2.1. Nhận định, đánh giá về những thành công

1.23.1.1. Năm 1986, Thời xa vắng ra đời, được bạn đọc đón nhận, báo hiệu sự
đổi thay lớn trong dòng chảy của tiểu thuyết viết về nơng thơn sau đổi mới. Trên tạp

chí, báo, sách xuất hiện rất nhiều bài viết đánh giá sự đóng góp nhất định về mặt nội
dung và nghệ thuật. Hoàng Ngọc Hiến đề cập đến số phận của người nhà quê trước
những biến động của xã hội nông thơn, trong đó nhân vật Giang Minh Sài là một ví dụ
điển hình. Theo tác giả, anh nơng dân này chính là “người nhà quê” của Lê Lựu hai lần
khốn khổ, vừa xung đột với hệ tư tưởng gia trưởng, vừa xung đột với thành phố ở bộ
phận phức tạp nhất của nó là đàn bà, con gái” [64;tr.119], cuộc sống của anh cứ bùng
nhùng, bế tắc, vướng vào hết bi kịch này đến bi kịch khác. Từ nhân vật Giang Minh
Sài, tác giả luận suy đến những vấn đề bức xúc trong đời sống xã hội nông thôn Việt
Nam sau giải phóng: “Trên đất nước ta sau khi thống nhất, không phải cán bộ tiếp quản
nào cũng trở thành người chủ quản của thành phố, khơng ít “người nhà q” tiếp xúc
với đơ thị đã bị bại hồn tồn, sống dở chết dở, điêu đứng bi thảm, sự thất bại của họ
mang ý nghĩa xã hội sâu sắc” [64;tr.119]. Thiếu Mai có cái nhìn thấu đáo khi phân tích

17


sự tác động của hồn cảnh đến q trình hình thành tính cách Giang Minh Sài. Đó là
anh nơng dân cả cuộc đời đã phải gánh trên vai hệ tư tưởng gia trưởng, những quan
niệm, định kiến khiến “anh nhà q” khơng lúc nào được sống bằng chính cuộc đời
mình, chỉ biết nghe và chiều ý mọi người: “Trong con người anh, luôn luôn tồn tại hai
thế lực: chống đối và khuất phục. Hai thế lực ấy ngày càng phát triển, càng mâu thuẫn,
và đẩy bi kịch trong con người Sài lên một mức độ ngày càng cao hơn” [118;tr.121].
Không những Sài, rất nhiều nông dân làng quê Hạ Vị cũng sống và làm những điều
mình khơng muốn chỉ vì không dám làm phật ý hay làm khác mọi người như cụ đồ
Khang, chú Hà, anh Tính, chính ủy Đỗ Mạnh, anh Hiển. Nói cách khác, những con
người này vừa đại diện cá nhân riêng lẻ, đồng thời là sản phẩm chung của “một thời -–
thời xa vắng, nhưng chưa xa là bao”. Cái thời - do hoàn cảnh của nó mà ý thức cá nhân
tạm lu mờ, nhường chỗ cho những vấn đề lớn lao mang ý nghĩa dân tộc. Theo Thiếu
Mai, để hiểu được căn cốt tính cách về anh nơng dân Giang Minh Sài, thì “Lê Lựu đã tỏ
ra hiểu nhân vật của mình đến tận chân tơ kẽ tóc, đến tận những ngọn ngành sâu thẳm

nhất của tình cảm, suy nghĩ. Xót xa cho cuộc đời Sài bao nhiêu, tác giả lại giận dữ lên
án cách sống, cách ứng xử thiếu bản lĩnh của anh ta bấy nhiêu” [118;tr.122]. Về mặt
nghệ thuật, tác giả cho rằng: mặc dù nhiều người đánh giá “văn Lê Lựu không chuốt,
mộc q, và khơng phải khơng có những câu q, hoặc trúc trắc, thậm chí có câu ngữ
pháp chưa chỉnh”, thế nhưng, tiểu thuyết Thời xa vắng được chưng cất bằng “một giọng
văn trầm tĩnh vừa giữ được vẻ đầm ấm chân tình, vừa khách quan, khơng thêm bớt, tơ
vẽ, đặc biệt là khơng cay cú, chính giọng văn như vậy đã góp phần đáng kể vào sức
thuyết phục, hấp dẫn của tác phẩm” [118;tr.123]. Đinh Quang Tốn cho rằng: tiểu thuyết
Thời xa vắng “viết về hậu phương miền Bắc trong công cuộc chống Mĩ cứu nước với cả
cái vui và cái buồn, cái nồng nhiệt và sự non nớt, những quầng sáng và những bóng mờ,
có cả nụ cười và nước mắt…” [174;tr.18]. Tác giả cũng khẳng định đề tài hậu phương
nông thôn miền Bắc trong chiến tranh chống Mĩ có nhiều người viết, nhưng “Lê Lựu là
người viết thành công nhất”, và “nếu trong tổng số sáu trăm hội viên Hội nhà văn Việt
Nam, cứ mười người chọn lấy một người tiêu biểu, thì Lê Lựu là một trong tổng số 60
nhà văn ấy. Nếu về văn xuôi Việt Nam hiện đại, chọn lấy 30 tác phẩm, thì có mặt Thời
xa vắng. Nói thế để thấy, trong văn học Việt Nam hiện đại, Lê Lựu đã có một vị trí
đáng kể” [174;tr.22].
1.23.1.2. Năm 1990, Bến khơng chồng và Mảnh đất lắm người nhiều ma vừa
mới ra đời, ngay lập tức gây tiếng vang trên văn đàn và được dư luận quan tâm. Đáng
chú ý, rất nhiều bài viết bàn luận sôi nổi trên báo Văn nghệ (tháng 1/1991) sau khi tác
phẩm được giải thưởng của Hội nhà văn năm 1991. Có những ý kiến đánh giá khác

18


nhaukhác nhau (khen có và chê có), nhưng hầu như đều thừa nhận hai tiểu thuyết này
khá thành công trên phương diện đề tài, ngôn ngữ, giọng điệu, kết cấu, hình tượng nhân
vật, điểm nhìn trần thuật, khơng và thời gian… Về phương diện đề tài, Thiếu Mai,
Nguyễn Đăng Mạnh, Trung Trung Đỉnh cùng nhận định: “Năm 1990, sách viết về nơng
thơn khơng ít trong đó có hai cuốn được dư luận chú ý và đánh giá cao nhất là Bến

không chồng của Dương Hướng và Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc
Trường. … Ý kiến khá thống nhấtthành công chứ không mâu thuẫn, trái chiều như với
một số tác phẩm khác… Vấn đề dịng họ ở nơng thôn đã được hai tác giả quan tâm,
khai thác và khai thác khá thành công. Mảnh đất lắm người nhiều ma tạm coi là một cái
cột mốc trong đề tài nông thôn”, “đã lâu lắm rồi mới xuất hiện một tác phẩm viết về
nông thôn Việt Nam theo đúng cái mạch của Tắt đèn, Chí Phèo. Có thể nói cái làng
Giếng Chùa trong Mảnh đất lắm người nhiều ma là sự cộng lại của hai cái làng Đông
Xá của Ngô Tất Tố và Vũ Đại của Nam Cao” [138], “Có người nói, tiểu thuyết Bến
khơng chồng viết về đề tài nơng thơn. Lại có người nói, tiểu thuyết này viết về đề tài
chiến tranh. Có người lại cho rằng đây là cuốn sách viết về đề tài xã hội. Tất cả đều có
đấy, nhưng theo tơi Dương Hướng khơng nhằm vào đề tài. Anh khai thác đến tận cùng
thân phận những nhân vật chính” [48;tr.99]. Trần Cương, Bùi Việt Thắng, Nguyên
Ngọc đều khẳng định sự thành công nhiều mặt của tác phẩm, đặc biệt là phạm vi phản
ánh… đi vào hiện thực nông thôn và số phận của người nông dân. Nguyên Ngọc cho
rằng: khi viết Bến không chồng, Dương Hướng luôn cố đặt vấn đề một cách thẳng thắn
trực diện, chứ không né tránh hiện thực, cho dù là một hiện thực nghiệt ngã nhất. Chiến
tranh, hịa bình, thời mở cửa…, những bước ngoặt đó tác động rất mạnh đến từng làng
quê, từng vùng miền, từng gia đình, từng số phận trong tác phẩm. Thông qua họ ta nhận
ra vóc dáng làng q mình [126]. Nguyễn Văn Long có cái nhìn sắc sảo vềĐề cập đến
số phận bi kịch của người nông dân, Nguyễn Văn Long khẳng định: “Trong nhiều
trường hợp, con người vừa là nạn nhân mà cũng là thủ phạm của tấn bi kịch đời mình,
họ phải chịu trách nhiệm một phần về số phận của mình” [220]. Cùng mạch suy nghĩ
đó, nhưng Trung Trung Đỉnh đi vào thân phận của nhữngđã lý giả thấu đáo nguồn cơn
bi kịch của những nhân vật nữ như bà Nhân, bà Khiêm, mụ Hơn, cô Hạnh, cô Thủy…
ĐDặc biệt, là Nguyễn Vạn -– một người nhà quê suốt đời gìn giữ cái bóng của vinh
quang nên đã đánh mất đi bản thân mình, cá nhân mình [48]. Trần Cương đào sâu
vàotập trung khai thác số phận nhân vật Vạn: “Vạn trong Bến không chồng là cả một
đời không vượt nổi những định kiến và nhận thức ấu trĩ, cực đoan để rồi sau phút “lầm
lỡ” phải quyên sinh” [24;tr.35]. Nguyễn Hà lí giải nguyên nhân dẫn đến bi kịch của
Vạn: “Nguyễn Vạn là một dạng khác của bi kịch con người hai mặt” [57;tr.56]. Phong


19


×