Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

Tiểu thuyết nguyễn trọng oánh trong bối cảnh đổi mới của tiểu thuyết việt nam sau 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (431.3 KB, 98 trang )

1

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………………...1
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.

Lý do chọn đề tài……………………………………………………………..1
Lịch sử vấn đề………………………………………………………………..2
Đối tượng nghiên cứu…………………………………………………............7
Nhiệm vụ nghiên cứu…………………………………………………............7
Phương pháp nghiên cứu………………………………………………….......8
Cấu trúc của luận văn………………………………………………...……….8
Đóng góp mới của luận văn…………………………………………..............8

NỘI DUNG…………………………………………………………………………...9
Chương 1: Bức tranh chung của tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 và vị trí của tiểu
thuyết Nguyễn Trọng Oánh……………………………………………………...….9
1.1. Tiểu thuyết và những đặc trưng cơ bản của thể loại …………………………..9
1.1.1. Khái niệm tiểu thuyết……………………………………………………….9
1.1.2. Đặc trưng cơ bản của tiểu thuyết ………………………………………….12
1.2. Sự vận động đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 …………………...15
1.2.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội

…………………………………………….......15



1.2.2. Cách tiếp cận mới về hiện thực và con người …………………………….18
1.2.3. Cảm hứng sáng tạo mới …………………………………………………...23
1.2.4. Những đổi mới về hình thức nghệ thuật ………………………………….27
1.3 Nguyễn Trọng Oánh – cây bút tiền trạm của sự nghiệp đổi mới văn học……..34
1.3.1 Quá trình sáng tác ……………………………………………………….....34
1.3.2 Nhìn chung về đóng góp của Nguyễn Trọng Oánh đối với tiến trình đổi mới tiểu
thuyết Việt Nam sau 1975 ………………………………………………...…...35
Chương 2: Đóng góp của tiểu thuyết Nguyễn Trọng Oánh trên phương
diện tiếp cận hiện thực và cảm hứng sáng tạo……………………………………38
2.1 Cái nhìn mới về hiện thực chiến tranh……………………………………….......38


2
2.1.1 Cái nhìn về chiến tranh trong tiểu thuyết trước 1975………………………..38
2.1.2. Cái nhìn mới về hiện thực chiến tranh trong các tiểu thuyết của
Nguyễn Trọng Oánh………………………………………………………………...40
2.2. Cái nhìn mới về người lính……………………………………………………...46
2.3. Cái nhìn mới về hiện thực thời hậu chiến……………………………………….62
2.4. Cảm hứng sáng tạo mới…………………………………………………………68
2.4.1. Cảm hứng sử thi chuyển sang cảm hứng thế sự đời tư……………………...68
2.4.2. Sự gia tăng của cảm hứng bi kịch …………………………………………..71
Chương 3: Đóng góp của tiểu thuyết Nguyễn Trọng Oánh trên phương
diện nhân vật, giọng điệu, và ngơn ngữ…………………………………………...74
3.1. Tổ chức nhân vật………………………………………………………………..74
3.1.1. Nhìn chung về thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Trọng Oánh…...74
3.1.2. Các loại hình nhân vật tiêu biểu…………………………………………….78
3.2. Giọng điệu ………………………………………………………………...........81
3.2.1. Giọng sử thi hào hùng……………………………………………………....81
3.2.2. Giọng suy tư triết lý…………………………………………………………85

3.2.3. Giọng thương cảm ngậm ngùi……………………………………………....91
3.3. Ngôn ngữ…………………………………………………………………..……94
3.3.1. Ngôn ngữ trần thuật……………………………...………………….………94
3.3.2. Ngôn ngữ nhân vật………………………………….………………………98
- Ngôn ngữ đối thoại
- Ngôn ngữ độc thoại nội tâm
KẾT LUẬN……………………………………………………..…………………101
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………..……………….103


3

]

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài


4
1.1. Với đại thắng mùa xuân năm 1975 nước ta hoàn toàn độc lập, thống nhất. Từ
đây cả nước bước vào thời kỳ mới: vừa bảo vệ Tổ quốc vừa xây dựng đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng với sự đổi thay của đất nước, văn học cũng có những bước
chuyển mình lớn lao. Một giai đoạn văn học mới đã ra đời, kế thừa những thành tựu đã đạt
được của văn học 30 năm chiến tranh, đồng thời có những bước đổi mới đáng ghi nhận. Vì
vậy việc tìm hiểu, đánh giá về văn xi Việt Nam thời hậu chiến là một việc làm cần thiết.
Tuy nhiên tiểu thuyết năm năm sau ngày chiến thắng vẫn tiếp tục mạch chảy của khuynh
hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Cố nhiên nhìn nhận một cách khách quan, tiểu thuyết
giai đoạn này, nhất là những tác phẩm ở cuối giai đoạn, đặc biệt là trong Đất trắng đã ít
nhiều bộc lộ những chuyển hướng, dấu hiệu ban đầu của sự đổi mới. Một thời kì sáng tác
mới thực sự làm rộng mở tâm hồn sáng tạo. Tiểu thuyết viết về chiến tranh cũng có được

cái nhìn đa diện hơn. Đóng góp cho nền văn học giai đoạn này phải kể đến các tên tuổi
như Nguyễn Minh Châu, Chu Lai, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Nguyễn Trọng Oánh,
Bảo Ninh, Nguyễn Đình Thi, Lê Lựu…Việc nghiên cứu sâu hơn về tiểu thuyết Nguyễn
Trọng Oánh sẽ giúp chúng ta hiểu hơn về quá trình vận động đổi mới của tiểu thuyết Việt
Nam sau 1975.
1.2. Nguyễn Trọng Oánh xuất hiện trên văn đàn Việt Nam vào những năm 60 của thế
kỉ XX, khi đó độc giả quen thuộc tên tuổi ơng với tư cách là một nhà thơ; nhưng về sau
khi ơng thể nghiệm ngịi bút của mình ở lĩnh vực văn xuôi, với một số tác phẩm ký và tiểu
thuyết và đạt được nhiều thành công, đặc biệt là giải thưởng văn chương Bộ Quốc phòng –
1984. Là nhà văn trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc, lại là người
trực tiếp cầm súng và cầm bút tham gia phục vụ kháng chiến nên hơn ai hết bản thân nhà
văn đã có những trải nghiệm và những kinh nghiệm được rút ra trong quá trình sống và
viết. Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, tuy nhiên tiểu
thuyết của Nguyễn Trọng Oánh thì vẫn chưa được quan tâm và nghiên cứu một cách đúng
mức. Lựa chọn đề tài này chúng tôi mong muốn được tìm hiểu sâu hơn những đóng góp
của tiểu thuyết Nguyễn Trọng Oánh. Qua đó góp phần đánh giá và khẳng định vị trí của
nhà văn trong dịng chảy văn học dân tộc.


5
1.3 Trong nhà Trường đại học và phổ thông hiện nay, thể loại tiểu thuyết được học
với một số lượng lớn. Việc đi sâu nghiên cứu tiểu thuyết Nguyễn Trọng Oánh sẽ giúp
người đọc hiểu hơn về văn xuôi Việt Nam sau 1975 nói chung và những đóng góp của
tiểu thuyết Nguyễn Trọng ốnh nói riêng. Vì vậy, với đề tài này chúng tơi mong muốn
đóng góp một phần nhỏ vào việc giảng dạy tiểu thuyết trong nhà trường phổ thông.
2. Lịch sử vấn đề
Văn xuôi Việt Nam sau 1975 đến nay đã có những bước chuyển mình tương đối
rõ nét và toàn diện. Riêng thể loại tiểu thuyết đã góp phần khơng nhỏ trong việc tạo nên
bản sắc, diện mạo riêng cho thời kì văn học này. Sự đổi mới về đề tài, cách miêu tả hiện
thực, quan niệm nghệ thuật về con người….thể hiện rất rõ trong tiểu thuyết. Trong đó sự

thể hiện hình tượng người lính và cuộc sống của con người, xã hội thời hậu chiến đã có
sự tiếp nối và chuyển biến mới, tạo nên một mạch chảy nổi bật xuyên suốt hành trình văn
học Việt Nam. Chiến tranh đã qua đi, nhưng vẫn còn đó biết bao điều trăn trở, day dứt.
Lấp đầy vết thương da thịt, vật thể đã là quá sức, hàn gắn vết thương lịng càng khơng thể
dể dàng. Sau cuộc chiến, văn học nhìn lại chiến tranh, nhìn thẳng vào cuộc đời trước mặt.
Các nhà văn nói chung các nhà tiểu thuyết nói riêng có điều kiện để chăm sóc ngịi bút của
mình. Tiểu thuyết hậu chiến như đã bù đắp được nhiều phần thiếu hụt, phần hạn chế mà từ
thời khói lửa các nhà văn chưa có dịp thực hiện.
Tìm hiểu về tiểu thuyết Nguyễn Trọng Oánh là một đề tài khá mới mẻ, Nguyễn
Trọng Oánh, một con người lầm lũi sống và viết, và cho đến nay có rất ít các cơng trình
nghiên cứu về các tác phẩm của ơng, đặc biệt là tiểu thuyết, điều đó chưa xứng đáng với
những đóng góp của nhà văn. Những tác phẩm của ông viết sau 1975, đặc biệt là tiểu
thuyết Đất Trắng ra đời đã có nhiều ý kiến khác nhau, người khen cũng nhiều mà chê
cũng khơng ít. Điều này được lý giải bởi nhiều nguyên nhân, cũng có thể là do khơng khí
chiến thắng đã chốn hết sự quan tâm của mọi người. Cũng dễ hiểu, bởi không phải tác
phẩm văn học nào ra đời cũng ngay lập tức nhận được sự chào đón.


6
Nhìn chung, nền văn học viết về đề tài chiến tranh đã được nhiều nhà nghiên cứu
phê bình quan tâm, từ sau năm 1975 đến nay đã có nhiều ý kiến, bài viết về mảng văn học
này:
- Lại Nguyên Ân (1979), “Xu hướng văn xuôi tư liệu viết về chiến tranh nhân dân”.
- Ngô Thảo (1979), “Từ một số sáng tác văn xuôi được giải thưởng”, Văn nghệ.
- Nguyễn Văn Bổng (1980), “Một cuốn tiểu thuyết chân thực”, Văn nghệ .
- Thiếu Mai (1980), “Bản lĩnh dân tộc, bản lĩnh ngòi bút”, Văn nghệ quân đội.
- Đặng Quốc Nhật (1980), “Mấy ý kiến viết về đề tài chiến tranh và sự chi phối của
nó trong văn học Việt Nam hiện đại”, Văn nghệ quân đội .
- Phong Lê (1985), “Trên hành trình của 40 năm văn xi, Tiểu thuyết những cuộc
chạy đua và tiếp sức”, Văn nghệ quân đội.

- Hà Xuân Trường, “Bốn mươi năm của một nền văn học chiến đấu”, Nhân dân,
1985.
- Nguyễn Văn Bổng ( 1988), “Nghĩ về cái mới trong tiểu thuyết của ta hiện nay”,
Nhân dân (22/5/1988).
- Nguyễn Đăng Mạnh, (1988) “Về một xu hướng tiểu thuyết đang phát triển”, Nhân
dân (22/5/1988).
- Hoàng Ngọc Hiến (1991), “Những nghịch lý của chiến tranh”, Văn Nghệ
(13/4/1991).
- Nhiều tác giả (1980), “Mấy nét chung quanh mảng văn học viết về chiến tranh
trong 35 năm qua”, Văn nghệ quân đội.
- Nhiều tác giả, “Gặp mặt và trao đổi về đề tài chiến tranh trong văn học”,
TCVNQĐ, 3-1984.
- Nhiều tác giả( 1996), “50 năm, văn học Việt Nam sau cách mạng tháng Tám”,
NXBĐHQG Hà Nội.
- Nhiều tác giả, “Văn học 1975 – 1985 tác phẩm và dư luận”, NXB Hội nhà
văn,1997….
- Đặng Quốc Nhật (1980), “Mấy nét về đề tài chiến tranh và tiểu thuyết Đất trắng”,
Văn nghệ quân đội.
- Lê Quang Trang (1984), “Đọc Đất trắng”, Nhân dân.


7
- Trần Duy Thanh (1985), “Đọc tiểu thuyết Đất trắng”, Văn nghệ quân đội.
2.1. Trong số các bài viết kể trên, các tác giả đã đề cập đến khá nhiều tiểu thuyết Việt
Nam sau 1975. Đáng chú ý là ý kiến của các tác giả sau:
- Nhà văn Chu Lai đã khẳng định sự chuyển hướng tư duy nghệ thuật của các cây
bút tiểu thuyết chiến tranh hôm nay qua việc nhìn nhận “khơng phải chiến tranh biến con
người thành những chi tiết trong bộ máy bạo lực chỉ biết bấm cò và chém giết, chiến tranh
là điều kiện, là tình huống để đẩy suy nghĩ đời thường lên đến đỉnh điểm”. Nguyễn Hương
Giang cũng cùng quan điểm “ Sự thật về chiến tranh hơm nay được nhìn lại là một sự thật

đã được trải qua những năm tháng day dứt, trăn trở trong tâm hồn nhà văn, hơn thế nó thật
sự là những nếm trải của người chịu trận, người trong cuộc”. Nhà nghiên cứu Đinh Xuân
Dũng cũng cho rằng “Các cây bút tiểu thuyết viết về chiến tranh thời kỳ đổi mới ln có
khát vọng đào sâu trực tiếp vào tiến trình thực tế của cuộc chiến để trình bày, phát hiện
mọi mặt của nó, chiều sâu phức tạp và những điều chưa khám phá về nó”
- Trong cuộc gặp mặt và trao đổi về đề tài chiến tranh trong văn học 35 năm qua, ở
bài viết “Từ tấm lịng người viết”, Tạp chí Văn nghệ qn đội số 6 – 1980, Nguyễn Trọng
Oánh đã nói: “Phải để lấy con mắt nhìn hơm nay để soi vào sự kiện hơm qua, con mắt nhà
văn hơm nay nhìn lại sự việc hôm qua thường tỉnh táo hơn, khách quan hơn. Điều đó có
thật, nhưng ngày hơm nay bao giờ cũng là ngày kế tiếp hôm qua. Hiện thực luôn phát triển
và bổ sung cho nhau, cái hôm nay bao giờ cũng là do cái hơm qua mà có…..Muốn có cái
nhìn khái qt, cần có cái nhìn cụ thể. Phải nhìn cái nhìn cụ thể hơm qua thì mới có độ lùi
khái quát hôm nay”
- Báo Nhân dân số ra ngày 25 /1/1986 đã đăng bài của giáo sư Hà Minh Đức - Tiểu
thuyết và cuộc sống hôm nay, trong đó có đoạn: “Viết về đề tài chiến tranh qua hai cuộc
kháng chiến. Tuy nó đã lùi vào quá khứ nhưng âm hưởng lớn lao của hai cuộc kháng chiến
thần thánh của dân tộc ta vẫn tiếp tục vang dội và thấm sâu vào đời sống hiện tại. Nhiều
lúc quá khứ anh hùng đau thương của đất nước vẫn là điểm tựa và là xuất phát điểm cho
nhiều vấn đề của hiện tại. Tiểu thuyết hướng vào phản ánh những đề tài nóng hổi của thời
đại, phát hiện vấn đề, tìm hiểu mâu thuẫn xã hội, xung đột tư tưởng, khẳng định sự sáng


8
tạo của cái mới, đẩy lùi cái cũ, cái tiêu cực. Các nhà văn không hề ngần ngại nghiên cứu
tránh những hiện tượng phức tạp của cuộc sống, mở ra cách tiếp cận hiện thực theo chiều
hướng sáng tạo, không tạo ra sự hấp dẫn bằng trang viết khêu gợi thị hiếu tầm thường”.
- Nhà văn Hữu Mai lại cho rằng: “ Tác phẩm viết về chiến tranh đã mang những sắc
thái mới. Một số đã đi vào những đề tài của chiến tranh, một số lại có xu hướng khai thác
những bình diện chữ được đề cập đến nhiều trong những tác phẩm trước đây như: Cái đau
thương, cái mất mát, ác liệt, cái thấp hèn, những vấn đề thuộc đạo đức trong chiến tranh…

Tiểu thuyết nay bám sát hiện thực, nhìn thẳng vào thực trạng, nói thẳng ra những điều
mình và mọi người quan tâm”
- Trong cuộc gặp mặt và trao đổi về đề tài chiến tranh trong văn học 35 năm qua, ở
bài viết “Nghĩ về cái mới trong tiểu thuyết của ta hiện nay” trong Báo nhân dân ra ngày
25/5/1988, Nguyễn Văn Bổng có viết: “Ngày nay chúng ta được phép viết về cái xấu, được
khuyến khích thúc giục, các biển cấm bị tháo gỡ, chân lý được khơi phục, mọi người đều
bình đẳng trước pháp luật, đều phải lôi ra trước dư luận nếu làm sai. Mới là chỗ đó, văn
học được khơi phục trách nhiệm, khơi phục tác dụng, được góp tiếng nói tích cực vào q
trình dân chủ hóa trong xã hội”.
2.2. Trong những cơng trình nghiên cứu trực tiếp về tiểu thuyết Đất trắng của Nguyễn
Trọng Oánh, đáng chú ý là ý kiến của các tác giả
- Đặng Quốc Nhật trong bài viết “ Mấy nét về đề tài chiến tranh và tiểu thuyết Đất
Trắng – Văn nghệ quân đội, 1980 có đoạn: “Đất trắng đã gợi cho chúng ta những suy nghĩ
mới cho tiểu thuyết viết về đề tài chiến tranh lúc này. Ở đây người đọc thấy được sự dữ dội
của cuộc chiến đấu giữa ta và địch, những thiệt hại nặng nề của ta, những vùng đất trắng,
sự chịu đựng đến mức ghê gớm. Cái giá của những chiến công và chiến thắng cuối cùng.
Không né tránh phản ánh cái đó, khơng thi vị nó, chất hiện thực của cuốn tiểu thuyết khá
đậm và chân thật…”
- Ý kiến của tác giả Thiếu Mai: “Đọc tác phẩm, người đọc có cảm tưởng Nguyễn
Trọng Oánh đã làm chủ được một địa bàn chiến sự rộng lớn, đã điều binh khiển tướng khá
linh hoạt trên địa bàn hoạt động của mình. Như người ta thường nói là vốn sống ngồn


9
ngộn, tầng tầng, lớp lớp. Lại có cảm giác rằng nếu khơng trực tiếp sống cảnh trên, e khó
lịng miêu tả được sinh động đến như vậy”
Như vậy, qua các ý kiến đóng góp của các tác giả, chúng ta có thể nhận thấy:
Hướng về miêu tả những bức tranh toàn cảnh của cách mạng và kháng chiến, tiểu
thuyết sau 1975 đã đi vào phản ánh khuôn mặt đời thường của cuộc sống chiến đấu đầy hi
sinh gian khổ, không ngần ngại đi sâu vào khắc họa những số phận, những cá tính của mỗi

nhân vật cụ thể, nhà văn đã thể hiện một cái nhìn khái qt từ góc độ cụ thể, mở ra một
cách tiếp cận hiện thực theo chiều hướng sáng tạo cho người đọc.
Nhìn chung, ý kiến đánh giá của các nhà nghiên cứu phê bình về tiểu thuyết
Nguyễn Trọng nh cịn ít. Hơn nữa các bài viết mới chỉ dùng lại ở những đánh giá nhận
xét chung chung, chưa có một cơng trình nào có tính chất quy mơ nghiên cứu về đóng góp
của Nguyễn Trọng Oánh ở thể loại tiểu thuyết Việt Nam sau 1975
Luận văn này trên cơ sở tiếp thu những ý kiến đóng góp và đánh giá của các tác giả
đi trước, đồng thời cũng góp thêm một cái nhìn mới về chiến tranh của nhà văn quân đội
Nguyễn Trọng Oánh và những sáng tác của ông để làm cơ sở đánh giá lại những đóng góp
của Nguyễn Trọng Oánh cho tiểu thuyết Việt Nam sau 1975
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là những đóng góp của tiểu thuyết Nguyễn
Trọng Oánh trong bối cảnh đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam sau 1975.
Phạm vi khảo sát của đề tài là các tiểu thuyết của Nguyễn Trọng Oánh : Đất
trắng; Con tốt sang sông; Người thắng cuộc; Mây cuối chân trời
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn đề ra và giải quyết những nhiệm vụ cụ thể sau
- Tìm hiểu bức tranh chung của tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 và vị trí của tiểu
thuyết Nguyễn Trọng Oánh.
- Tìm hiểu những đóng góp của tiểu thuyết Nguyễn Trọng Oánh trên phương
diện tiếp cận hiện thực và cảm hứng sáng tạo.


10
- Tìm hiểu những đóng góp của tiểu thuyết Nguyễn Trọng Oánh trên một số
phương diện của hình thức nghệ thuật.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết nhiệm vụ khoa học của đề tài này, chúng tôi sử dụng một
số phương pháp chủ yếu như:



Phương pháp cấu trúc - hệ thống



Phương pháp phân tích - tổng hợp



Phương pháp so sánh - đối chiếu

6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận vài tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn
được triển khai trong 3 chương
Chương 1: Bức tranh chung của tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 và vị trí của tiểu
thuyết Nguyễn Trọng Oánh
Chương 2: Đóng góp của tiểu thuyết Nguyễn Trọng Oánh trên phương diện tiếp cận
hiện thực và cảm hứng sáng tạo
Chương 3: Đóng góp của tiểu thuyết Nguyễn Trọng Oánh trên phương diện nhân
vật, giọng điệu và ngơn ngữ
7. Đóng góp mới của luận văn
Thực hiện luận văn này, chúng tôi muốn cung cấp một cái nhìn tồn diện, hệ thống
về những đặc điểm nổi bật của tiểu thuyết Nguyễn Trọng Oánh trên phương diện nội dung
và phương diện nghệ thuật. Qua đó chúng tơi muốn góp thêm một tiếng nói khẳng định vị
thế và những đóng góp của Nguyễn Trọng Oánh cho tiểu thuyết Việt Nam sau 1975.


11
Chương 1
BỨC TRANH CHUNG CỦA TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU 1975

VÀ VỊ TRÍ CỦA TIỂU THUYẾT NGUYỄN TRỌNG ỐNH
1.1. Tiểu thuyết và những đặc trưng cơ bản của thể loại
1.1.1. Khái niệm tiểu thuyết
Quan niệm về tiểu thuyết cho đến nay vẫn là một vấn đề phức tạp, chưa thống nhất.
Đi tìm một định nghĩa đầy đủ về tiểu thuyết có thể đáp ứng cho mọi trường hợp trong thực
tế văn học là điều khó đạt được. Bakhtin đã nói “Tiểu thuyết là thể loại văn chương duy
nhất đang biến chuyển và chưa định hình. Năng lực cấu thành thể loại còn đang hoạt động
trước mắt chúng ta, thể loại tiểu thuyết ra đời và trưởng thành dưới ánh sáng thanh thiên
bạch nhật của lịch sử. Nòng cốt thể loại của tiểu thuyết chưa hề rắn lại và chúng ta chưa
thể dự đốn hết khả năng uyển chuyển của nó” [3;21]. Vì thế các nhà lý luận phương Tây,
Trung Quốc và Việt Nam tùy theo từng góc nhìn và hồn cảnh phát biểu, khi thì nhấn
mạnh đặc điểm này, khi thì nhấn mạnh đặc điểm kia của tiểu thuyết.
Trên thế giới đã có rất nhiều các nhà nghiên cứu đưa ra lời bàn về tiểu thuyết như:
Hêghen, Biêlinxki, Bakhtin….Hêghen gọi tiểu thuyết là “Sử thi tư sản hiện đại”; Biêlinxki
cho tiểu thuyết là “Sự tái hiện hiện thực với sự thực trần trụi của nó”; “Là xây dựng một
bức tranh toàn vẹn, sinh động và thống nhất”. Từ điển Larousse (Grand Larousse
encyclop`edique – 1964) của Pháp định nghĩa: “Tiểu thuyết theo nghĩa xưa là một tác
phẩm văn xuôi hay văn vần bằng tiếng Roman địa phương (chứ không phải bằng tiếng
Latinh), theo định nghĩa ngày nay tiểu thuyết là sản phẩm của trí tưởng tượng, một truyện
dài bằng văn xi kể lại một cuộc phiêu lưu, nhận xét những phong tục, mơ tả những tính
tình, những đam mê để gây hứng thú cho người đọc”.
Từ những năm 70 của thế kỉ XX thì ý kiến bàn về tiểu thuyết của M.Bakhtin gần
như có ảnh hưởng ở rất nhiều nước trên thế giới. M.Bakhtin đã đưa ra những quan điểm
rất chính xác về tiểu thuyết: 1, Thể loại là nhân vật chính của q trình lịch sử văn học chứ
khơng phải là trào lưu, trường phái hay phương pháp sáng tác, bởi vì thể loại là trí nhớ


12
siêu cá nhân của nghệ thuật, do đó mỗi thể loại như thế có gốc gác như trước để lại dấu ấn
cho sau này và mỗi thể loại như vậy nó lưu giữ một thái độ thẩm mĩ đối với hiện thực, một

cách cảm thụ và nhìn nhận thế giới theo những ngun tắc của chính nó; 2, Tiểu thuyết là
sản phẩm tinh thần tiêu biểu nhất của thời đại mới. Bởi vì tiểu thuyết thể hiện được tư duy
văn học mới gắn với thời hiện tại. Tư duy này gắn với một thứ triết học mới nhân bản về
con người – nhìn nhận con người như những cá thể độc lập, những con người cá nhân tồn
tại với bản ngã của nó và với những bản ngã khác. Ở phương diện này tiểu thuyết hiện ra
như một thể loại đặc biệt dân chủ; 3, Tiểu thuyết là thể loại ở thời hiện tại , một thể loại
đang vận động và phát triển. Tiểu thuyết tồn tại với tư cách như một thể loại chủ đạo của
văn học hiện đại, nó giễu nhại và thu hút các thể loại khác vào nó. Tính tự phê phán là đặc
điểm tuyệt vời của tiểu thuyết; 4, Ngôn ngữ tiểu thuyết là ngôn ngữ có tính đa thanh, các
lớp ngơn ngữ soi sáng lẫn nhau, bổ sung cho nhau ( ngôn ngữ dân tộc, thổ ngữ, phương
ngữ, từ nghề nghiệp…) do đó mà thiết lập một quan hệ mới giữa ngôn ngữ và thế giới
hiện thực; 5, Sự thay đổi về tọa độ thời gian: Bakhtin thường đối sánh tiểu thuyết với sử
thi (Sử thi: thời gian là quá khứ hoàn thành, Tiểu thuyết: tọa độ thời gian là thời hiện tạigiữa người trần thuật và đối tượng có khoảng cách rất gần, cho phép người trần thuật có
thể hiểu được nhân vật bằng chính kinh nghiệm sống của mình); 6, Nhân vật tiểu thuyết là
kiểu nhân vật “khơng trùng khít” với chính nó: con người có thể cao hơn thân phận hoặc
có thể nhỏ bé hơn tính người của mình.
Ở Việt Nam giai đoạn trước cách mạng tháng Tám năm 1945, người bàn về tiểu
thuyết sớm nhất có lẽ là Phạm Quỳnh trong bài Bàn về tiểu thuyết đăng trên Nam Phong
(1921). Phạm Quỳnh viết: “Tiểu thuyết là loại truyện bằng văn xi đặt ra để tả tình tự
người ta, phong tục xã hội hay là những sự tích lạ đủ làm cho người đọc hứng thú” hay nói
cách khác nó là một “truyện bịa đặt có thú vị” . Sau Phạm Quỳnh có Trọng Khiêm, tác giả
của Kim Anh lệ sử (1924) trong lời tựa có so sánh sự khác biệt giữa tiểu thuyết ta và tiểu
thuyết Tàu với tiểu thuyết phương Tây. Ngồi ra cịn có rất nhiều các ý kiến bàn về tiểu
thuyết của các tác giả khác, như Thiếu Sơn(trong Phê bình và cảo luận, Nam ký,(1933);
Thạch Lam (trong Theo dòng, Đời nay, 1943); Nhất Linh, Khái Hưng (trong nhiều bài viết
đăng báo); Vũ Bằng (trong Khảo về tiểu thuyết). Nhìn chung trước Cách mạng tháng Tám


13
năm 1945 các nhà lý luận phê bình vẫn chưa có cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết, những

phát biểu mới chỉ dừng lại ở những suy tưởng, ý tưởng ban đầu.
Sau 1945 có rất nhiều các nhà lý luận phê bình quan tâm đến tiểu thuyết như Thanh
Lãng, Nguyễn Văn Trung, Phan Cự Đệ, Trần Đình Sử, Hồng Ngọc Hiến… Thanh Lãng
(trong Bản lược đồ văn học Việt Nam) đã nói: “Tiểu thuyết (Roman) là một truyện tương
đối dài, bịa đặt do óc tưởng tượng nhưng được xây dựng theo những bức tranh phong tục
là vì tác giả chủ trương về một trạng thái có thực của cuộc sống loài người, đặt câu chuyện
vào một khung cảnh xã hội có những đường nét, màu sắc quen thuộc”. Nhà văn Nguyễn
Công Hoan đưa ra một định nghĩa khá độc đáo; “Tôi không hiểu các nhà lý luận văn học
giảng nghĩa tiểu thuyết và nhà tiểu thuyết là gì? Theo tơi hay nghĩ nơm na thì tiểu thuyết
là một truyện bịa y như thật. Nhà tiểu thuyết là người biết bịa truyện”.
Mỗi người từ góc nhìn đánh giá của riêng mình mà có những quan niệm khác nhau
về thể loại tiểu thuyết. Cho đến nay, định nghĩa về tiểu thuyết tương đối chuẩn xác và
được nhiều người sử dụng là định nghĩa về tiểu thuyết trong Từ điển thuật ngữ văn học
(của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi): “Tiểu thuyết là tác phẩm
tự sự cỡ lớn có khả năng phản ánh hiện thực đời sống ở cả mọi khơng gian và thời gian.
Tiểu thuyết có khả năng phản ánh số phận nhiều cuộc đời, những bức tranh phong tục, đạo
đức xã hội, miêu tả các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng”
[227;26]. Tìm hiểu khái niệm tiểu thuyết giúp chúng ta xác định rõ những đặc điểm thi
pháp cơ bản của thể loại, trên cơ sở đó khám phá quan niệm của nhà văn cũng như cách tổ
chức kết cấu trong tác phẩm. Đồng thời hiểu được quy luật vận động và phát triển của thể
loại tiểu thuyết.
1.1.2. Đặc trưng cơ bản của tiểu thuyết
Tiểu thuyết là một thể loại thường xun biến đổi, ln có xu hướng thốt ra khỏi
những bộ cánh chật hẹp để tìm cho mình những hình thức mới. Nhờ đó tiểu thuyết chính
là thể loại có khả năng khái quát và tổng hợp mọi hiện tượng của đời sống. Đặc điểm nổi
bật trong tiểu thuyết cổ điển là có dung lượng lớn và thường có kết cấu nhiều chương,
nhiều hồi, số lượng nhân vật thường rất đông, cốt truyện thường tập trung vào các vấn đề


14

mang tính lịch sử lớn của dân tộc, có khả năng bao quát hiện thực trong một khoảng
không gian rộng lớn. Trong thời hiện đại, tiểu thuyết trở thành thể loại dẫn đầu trong việc
mở rộng và đào sâu thêm những giới hạn chiếm lĩnh đời sống bằng nghệ thuật. Đặc trưng
cơ bản của tiểu thuyết hiện đại nói chung được thể hiện trên các phương diện sau:
Chất văn xuôi là đặc trưng nổi bật của tiểu thuyết. Nếu thơ ca chủ yếu thể hiện chất
thơ của cuộc sống, phản ánh đời sống ở trạng thái thơ thì tiểu thuyết ưu tiên thể hiện đời
sống trong trạng thái văn xuôi. Nó cho phép các nhà tiểu thuyết tái hiện một đời sống
nguyên dạng, đa dạng với đầy đủ các sắc thái thẩm mĩ. Chúng ta có thể bắt gặp tất cả
trong tiểu thuyết, từ những cuộc đời thật, xù xì, thơ ráp góc cạnh đến những tư tưởng thâm
thúy, những suy nghĩ sâu xa về cuộc đời. Từ những lý tưởng, tình cảm cao đẹp trong sang
đến những dục vọng ích kỉ thấp hèn. Tiểu thuyết mơ tả tồn bộ mọi yếu tố của cuộc đời
trong trạng thái ngổn ngang phức tạp đầy biến động của nó, cái vĩ đại lẫn cái tầm thường,
cái nghiêm túc lẫn cái lố bịch, cái bi lẫn cái hài, cái thiện lẫn cái ác… “cuộc sống hiện ra
dường như ô hợp với tất cả sự trần truồng xấu xí, ghê tởm của nó đồng thời với tất cả vẻ
đẹp trang nghiêm của nó, trong đó người ta mổ xẻ cuộc sống bằng con dao giải phẩu”
(Biêlinxki). Có thể kiểm chứng điều đó thong qua các tác phẩm của các nhà văn: Vũ
Trọng Phụng; Nam Cao; Nguyên Hồng; Nguyễn Công Hoan; và trong tiểu thuyết của các
nhà văn đương đại.
Tiểu thuyết xóa bỏ khoảng cách giữa người trần thuật và đối tượng trần thuật. Nó
cho phép người trần thuật có thể tỏ thái độ thân mật, thậm chí suồng sã với nhân vật của
mình. Thơng qua ngơn ngữ của người trần thuật, nhà văn có thể thâm nhập vào đời sống
bên trong của con người với những khoảng tối, sáng… Vì thế nhìn nhận đối tượng bao
quát hơn, đa diện hơn. Do đó có thể miêu tả nhân vật phản diện được đầy đủ hơn.
Tiểu thuyết luôn miêu tả thế giới như là một hiện tại đương thời, đang dang dở chưa
hoàn thành. “Người viết tiểu thuyết thiên về tất cả những gì cịn chưa xong xi. Anh ta
có thể xuất hiện trong trường miêu tả ở bất cứ tư thế nào, có thể miêu tả những sự việc có
thật trong cuộc đời mình hoặc nói ám chỉ đến chúng, có thể can thiệp vào cuộc trị truyện
giữa các nhân vật, có thể bút chiến cơng khai với các địch thủ văn học của mình…[3;36].



15
Đặc điểm này tạo nên khả năng biến đổi vô tận của tiểu thuyết, tiểu thuyết tự nó phải là
một cái gì mềm dẻo uyển chuyển để biến theo một hiện tại biến động bất trắc. Bởi thế tiểu
thuyết là thể loại thích hợp với tương lai hơn là quá khứ.
Tiểu thuyết nhìn cuộc sống ở góc độ đời tư. Nếu truyện tập trung thuật sự, kể việc thì
tiểu thuyết ưu tiên cho việc soi sáng thế giới tâm hồn và số phận con người “Tinh thần tiểu
thuyết là tinh thần của sự phức tạp. Mỗi cuốn tiểu thuyết nói với độc giả: “Sự thật ở đời
phức tạp hơn anh tưởng”. Đó là chân lý vĩnh cửu của tiểu thuyết”(M.Kunđera) “Người ta
tìm đến tiểu thuyết như tìm về chính mình hay tìm đến với lịng người và trường đời. Bởi
trong tiểu thuyết lòng người và trường đời đã được tổng kết một cách sâu sắc không phải
bằng những khái niệm khơ khan mà nó hiện ra với tất cả mọi hình vẽ tươi mát và sống
động y như cuộc đời thật, còn thực và hay ho hơn cuộc đời thực”.
Miêu tả về suy tư của nhân vật trước thế giới và đời người cũng là một đặc điểm
quan trọng của tiểu thuyết hiện đại. Cùng với việc xây dựng cốt truyện và miêu tả tính
cách nhân vật thì tiểu thuyết có khả năng đi sâu khai thác từng mảnh đời, từng góc khuất
trong sâu thẳm tâm hồn con người, suy nghĩ của nhân vật được thể hiện một cách phong
phú: độc thoại nội tâm, đối thoại với người vắng mặt, tâm sự qua nhật ký… Nhân vật là
nơi tập trung nhất quan niệm của nhà văn, thể hiện tư tưởng cách nhìn của nhà văn. Vì vậy
nhân vật trong tiểu thuyết thường là những “con người nếm trải”. Đó là những con người
luôn suy nghĩ, day dứt, đấu tranh nội tâm trước những thử thách của cuộc đời. Có thể tìm
thấy những con người biết suy tư, trăn trở tự ý thức về bản thân mình để vươn lên sống
hồn thiện, thiên lương hơn trong sáng tác của Nam Cao; Nguyễn Tuân; Thạch Lam…
Tiểu thuyết là thể loại có cấu trúc linh hoạt. Trong tiểu thuyết có thể có rất nhiều
nhân vật, nhưng cũng có thể chỉ có một vài nhân vật, thậm chí người ta cịn nói đến sự
biến mất của các nhân vật. Trong tiểu thuyết các kích thước, giới hạn khơng gian, thời
gian, khơng hề có ý nghĩa cố định, có thể miêu tả cả một trăm năm, cũng có thể chỉ miêu
tả một vài giờ, độ dài của tiểu thuyết cũng mn hình vạn trạng, có thể là hang nghìn trang
cũng có thể chỉ hơn một trăm trang. Đặc điểm này tạo nên khả năng tái hiện đời sống
trong mọi kích thước và quy mơ xét cả về bề rộng và chiều sâu. “không thể cho tiểu thuyết



16
một định nghĩa cố định, tiểu thuyết lúc nào cũng phát triển và biến đổi. Tiểu thuyết có một
khả năng tung hồnh khơng bờ”[33;72]. Tiểu thuyết đứng ngồi mọi khn phép giáo điều
để dành cho mình cái tự do mà không thể loại nào dám mơ ước.
Ngôn ngữ của tiểu thuyết là ngôn ngữ đa thanh. Nếu trong thơ ca, lời thơ bao giờ
cũng thuộc về một chủ thể duy nhất là nhà thơ dùng để bộc lộ và miêu tả thì lời trong tiểu
thuyết “khơng chỉ miêu tả mà cịn là đối tượng miêu tả”. Ngơn ngữ tiểu thuyết là kiểu
ngơn ngữ đối thoại, trong tiểu thuyết có thể cùng một lúc vang lên nhiều tiếng nói “Tiểu
thuyết đó là những tiếng nói xã hội khác nhau và những tiếng nói cá nhân khác nhau được
tổ chức lại một cách nghệ” [116;3]. Giữa những tiếng nói ấy khơng có một giọng quyền
uy phán xét tất cả theo lối “giáo chủ thơ ca”. Các tiếng nói hướng vào đối tượng và hướng
vào nhau tạo nên một cuộc đối thoại nhiều giọng, đa thanh. Trong ngơn từ tiểu thuyết ln
có một hệ thống điểm nhìn khơng hịa đồng vào nhau mà tương tác với nhau, đối thoại với
nhau. Đặc điểm này của tiểu thuyết đã tạo tiền đề cho Đôxtoievxki sáng tạo ra một dạng
thể loại tiểu thuyết: Tiểu thuyết đa thanh (phức điệu).
Tiểu thuyết tổng hợp vào mình những đặc trưng thủ pháp nghệ thuật của các loại
hình khác . Nó có khả năng dung nạp các hình thái nhận thức của các lĩnh vực khoa học
khác. Mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ tiểu thuyết lại có sự “lột xác” để tìm ra một dạng thức tổ
chức nghệ thuật phù hợp nhằm đáp ứng nhu cầu cuộc sống mới, con người mới. Do vậy
đổi mới là một tất yếu có tính quy luật của thể loại này. Trong thời điểm hiện nay, thời mà
cả xã hội và con người đều có những bí ẩn, phức tạp khơng dễ lý giải, tiểu thuyết trở thành
thể loại dẫn đầu trong việc đào sâu và mở rộng giới hạn chiếm lĩnh đời sống và nghệ
thuật. Vì thế, hiểu khái niệm và những đặc trưng cơ bản của thể loại là cơ sở để tìm hiểu
và khám phá tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 và những đóng góp của tiểu thuyết Nguyễn
Trọng Oánh nói riêng.
1.2. Sự vận động đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam sau 1975
1.2.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội
Sau đại thắng mùa xuân 1975, đất nước xã hội và con người Việt Nam đã vượt qua
nhiều khó khăn chồng chất và khơng ít thử thách hiểm nghèo của thời hậu chiến để đứng



17
vững và hơn thế nữa tạo được những biến đổi to lớn, toàn diện sâu sắc trên mọi mặt. Nền
văn học như một tấm gương tinh thần của cuộc sống đất nước, có chung một vận mệnh và
đồng hành cùng dân tộc trong những thăng trầm lịch sử, từ sau 1975 cũng đã phải đứng
trước nhiều thử thách gay go quyết liệt và có những biến đổi sâu rộng về mọi mặt.
Trước năm 1975, trong thời kỳ bão lửa sục sôi của dân tộc, đất nước đứng trước
những thử thách sống cịn- nhiệm vụ cứu nước, số phận của tồn dân, chủ nghĩa anh hùng
cách mạng luôn được đặt lên hàng đầu thì đề tài chiến tranh và người lính thu hút được sự
quan tâm đông đảo của các nhà văn đương thời. Nhà văn sáng tác là để biểu dương, ca
ngợi tổ quốc, nhân dân và biểu dương tất cả những gì tiêu biểu cho nhân dân, cho tổ quốc.
Rất nhiều tác phẩm viết về người lính với một niềm say mê lạc quan và nhiệt tình cách
mạng cháy bỏng. Có thể nói các nhà văn kháng chiến đã dựng lên một tượng đài kì vĩ về
người lính, ghi lại những tháng ngày hào hùng nhất trong lịch sử oanh liệt của dân tộc qua
từng trang viết của mình.
Sau mùa xuân đại thắng 1975, cả đất nước bước sang một trang sử mới. Khơng cịn
sự gầm gào của đại bác, cuộc sống trở về với sự bình yên, điều đó tạo điều kiện cho sự
phát triển kinh tế. Đất nước khởi sắc về mọi mặt, việc hội nhập, giao lưu kinh tế, văn hóa
với các nước trên thế giới được mở rộng trong xu thế quốc tế hóa, đa dạng hóa, đa phương
hóa, tạo cơ hội cho sáng tác nghệ thuật phát triển.
Ba mươi năm kháng chiến, thời gian và sự khốc liệt của cuộc chiến đấu đã để lại
dấu ấn khơng phai mờ trong lịng dân tộc. Hầu như khơng có một gia đình nào, một cá
nhân nào trong cộng đồng dân tộc Việt lại không chịu những tác động trực tiếp hoặc gián
tiếp của chiến tranh. Kỉ niệm về cuộc kháng chiến hào hùng ấy đã được đề cập khá nhiều
trong văn học, nhưng nhìn lại những gì đã đạt được thì thấy rằng những cái đã có trong
trang sách mới là một phần rất nhỏ về cuộc chiến tranh vô cùng khốc liệt mà vĩ đại của
dân tộc. Bởi vậy hiện thực chiến tranh vẫn là nguồn dồi dào cho khả năng khai thác của
các nhà văn, việc trở lại đề tài chiến tranh trong văn xuôi sau 1975 cũng là một quy luật,
sự tiếp tục tự nhiên các thành tựu đã được ghi nhận trước đây. Với âm hưởng hào hùng và

quy mô sử thi tương ứng và tương xứng với cuộc chiến đấu vĩ đại của dân tộc, cuộc sống


18
và số phận con người gắn với số phận đất nước vẫn cần được viết tiếp trong mọi khoảng
lùi thời gian. Kể từ cuối thập niên 70, đầu 80, một số tác phẩm ký và tiểu thuyết đã dần
dần chuyển được vào quỹ đạo mới này như: Ký sự miền đất lửa (1978) của Vũ Kỳ Lân và
Nguyễn Sinh, Đất trắng, 2 tập (1974-1984) của Nguyễn Trọng Oánh, Đất miền Đông, 2
tập (1984) của Nam Hà, Lửa từ những ngôi nhà (1977), Những người đi từ trong rừng ra
(1982) và Cỏ lau (1989) của Nguyễn Minh Châu... Đó là sự soi rọi vào nhiều góc khuất
của đời sống mà trước đây do yêu cầu lịch sử người viết phải lảng tránh hoặc lướt qua. Là
một âm điệu khác, không chỉ là hào hùng, thậm chí là rất ít dấu ấn hào hùng mà là bi tráng
hoặc bi thống. Thế giới nhân vật vẫn cứ là hai tuyến, nhưng đã thay đổi cả hình hài và cốt
cách để thực hơn, đời hơn và do thế mà đúng hơn. Bên cái được lớn là chiến thắng của
dân tộc, đó là những thương tích, những mất mát và khổ đau của nhân dân như là cái giá
phải trả. Một chân dung đầy đặn hơn, nhiều chiều cạnh hơn, và do vậy mà chân thực hơn
của những con người thuộc về phía chiến thắng, trong bao bất hạnh và bi kịch của nó - đó
là hướng viết sẽ được tiếp tục dồi dào hơn với các thế hệ đến sau. Sự chuyển đổi trong tiểu
thuyết đã thật sự diễn ra ở cả bề rộng lẫn bề sâu. Chưa bao giờ dân tộc ta lại có một nền
văn xi phát triển mạnh mẽ như bây giờ, chưa bao giờ nhà văn được thành thật như bây
giờ. Tiểu thuyết thực sự đã có những đổi mới trên nhiều phương diện: Tư duy nghệ thuật,
cảm hứng sáng tạo, ngôn ngữ, kết cấu… “chưa bao giờ dân tộc ta lại có một nền văn học
phát triển tồn diện và sâu sắc như ngày nay. Các thể loại văn học đều được các nhà văn
sử dụng và trên bất cứ thể loại nào cũng đều có những đỉnh cao, ngay trong mỗi thể loại
cũng có sự phát triển đa dạng của phong cách, cá tính”.
1.2.2. Cách tiếp cận mới về hiện thực và con người
Sinh ra và phát triển trong lòng cuộc đấu tranh vĩ đại của lịch sử dân tộc, văn học
Việt Nam trong chiến tranh 1945 – 1975 đã vươn lên không ngừng làm người bạn đường
thân thiết và tin cậy của nhân dân đang chiến đấu, góp phần trực tiếp vào chiến thắng của
dân tộc. Nhiệm vụ lịch sử ấy của văn học trong những năm chiến tranh đã hoàn thành. Giờ

đây khi cuộc chiến tranh 30 năm đã trở thành quá khứ, mục tiêu cơ bản về tư tưởng và
thẩm mỹ của văn học cũng cần có sự chuyển hướng để đáp ứng yêu cầu của cuộc sống
mới đó là phải khám phá tồn diện hơn, sâu hơn và đầy đủ hơn về ý nghĩa, bản chất, quy


19
mô và các mặt rất khác nhau của cuộc chiến tranh mà trước đó trong điều kiện và những
địi hỏi nghiêm ngặt của cuộc chiến tranh chưa được đề cập đến một cách trọn vẹn.
Viết về chiến tranh và con người trong những hồn cảnh lịch sử ln là nguồn cảm
hứng vô tận của người nghệ sĩ ở cả hai giai đoạn trước và sau 1975. Có rất nhiều tác phẩm
thành cơng ở phương diện này, trước 1975 có Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc, Một
chuyện chép ở bệnh viện của Bùi Đức Ái, Cửa sông, Dấu chân người lính của Nguyễn
Minh Châu, Mặt trận trên cao của Nguyễn Đình Thi… Sau 1975 có hàng loạt tác phẩm
tiêu biểu như Đất Trắng của Nguyễn Trọng Oánh, Năm 1975 họ đã sống như thế của
Nguyễn Trí Hn, Trong cơn gió lốc của Khuất Quang Thụy, Đứng trước biển, Cù lao
chàm của Nguyễn Mạnh Tuấn, Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của người của Nguyễn Khải,
Bến không chồng của Dương Hướng, Thân phận tình yêu của Bảo Ninh, Miền cháy của
Nguyễn Minh Châu, Cửa gió của Xuân Đức, Lạc rừng của Trung Trung Đỉnh…
Cùng viết về một đề tài nhưng hiện thực xã hội ở mỗi thời kỳ khác nhau cũng đã chi
phối đến tư tưởng thẩm mĩ, cách viết, cách phản ánh hiện thực trong từng thời kì cũng có
sự khác nhau. Chính những chuyển biến lớn lao của đời sống xã hội đã tạo cho các nhà
văn những tiền đề, những chất liệu để làm nên những tác phẩm đời hơn, thực hơn, đáp ứng
được yêu cầu của xã hội, của văn học đặt ra. Nhà phê bình Phan Cự Đệ rất có lý khi cho
rằng: “ Bầu sữa nuôi dưỡng tiểu thuyết bao giờ và trước hết cũng là một cuộc sống thực
với tất cả sự phong phú và phức tạp của nó. Nhưng khơng phải cuộc sống nào cũng là
mảnh đất thuận lợi của tiểu thuyết. Thể loại văn học này đặc biệt phát triển trong những
thời kỳ mà xã hội có những chuyển biến dữ dội”.
Đại thắng mùa xuân 1975, nước nhà hoàn toàn thống nhất, sự kiện này mở ra kỉ
nguyên mới, vận hội mới cho dân tộc. Cuộc sống có nhiều biến động, đổi thay, những
khó khăn lâu dài và trước mắt đang từng bước được khắc phục. Tuy vậy những cái xấu,

cái ác, tệ nạn xã hội và những khó khăn phức tạp vẫn đang cịn tồn tại trong cuộc sống. Vì
vậy văn học cần phải góp tiếng nói của mình vào việc xác định những chuẩn mực, những
giá trị chân chính trong xã hội.


20
Đất nước hịa bình, cuộc sống tự do được trở lại với dân tộc ta. Thế nhưng chiến
tranh chưa thể là câu chuyện của ngày hơm qua, vẫn cịn đó những đống hoang tàn đổ nát,
những đau thương mất mát, những di chứng của chiến tranh và những bộn bề của cuộc
sống thời hậu chiến. Các nhà văn Việt Nam sau chiến tranh cũng đã xác định cho sáng tác
của mình hiện thực là cái chưa biết, khơng thể biết hết, hiện thực phức tạp, cần phải khám
phá, tìm tịi, tức là một hiện thực có tính chất động. Hiện thực ấy cho phép mỗi nhà văn
thể hiện được phong cách nghệ thuật, tư duy thẩm mỹ và cá tính sáng tạo, và do đó cho
phép nhà văn thể hiện được cái tầm của mình. Một nhà văn chỉ khi nào thực sự gắn bó với
hiện thực, trăn trở vật vã với hiện thực như là máu thịt của mình, phải đau đớn vật vã
trước hiện thực ấy, thì khi cộng hưởng và tâm tư của mình hiện thực mới trở thành chất
liệu có giá trị. Việc nhà văn lựa chọn hiện thực không quan trọng bằng cách họ đánh giá
về hiện thực đó như thế nào. Như vậy hiện thực đất nước sau 1975 có nhiều chuyển biến
phong phú, đa dạng đã tạo nên những cơ sở, những chất liệu mới để các nhà văn có những
thay đổi, khám phá mới về con người trong và sau chiến tranh. Văn xuôi sau 1975 đã
chuyển dần từ tư duy sử thi sang tư duy tiểu thuyết. Cuộc chiến đã lùi vào dĩ vãng, sau
một quãng lùi lịch sử, sau một khoảng cách thời gian chất sử thi nhạt dần, cảm hứng sáng
tạo chuyển từ ngợi ca tự hào, khâm phục đến chiêm nghiệm, lắng đọng suy tư. Thay vì
cách nhìn đơn giản rạch ròi thiện ác, bạn thù, cao cả thấp hèn là cách nhìn đa chiều, phức
hợp về hiện thực và số phận con người.
Văn học phản ánh hiện thực cuộc sống bằng những hình tượng nghệ thuật, những
hình tượng nghệ thuật trong văn học cách mạng 1945-1975 chủ yếu mang đậm tính chất
sử thi và chủ nghĩa anh hùng cách mạng, con người trong văn học kháng chiến là con
người cộng đồng, con người là sản phẩm của hoàn cảnh lịch sử. Con người thống nhất
hoàn toàn với lịch sử. Nhà văn thông qua con người để biểu hiện lịch sử, con người trở

thành phương tiện để khám phá lịch sử.
Sau năm 1975, Sự thay đổi của hoàn cảnh lịch sử xã hội dẫn đến những sự thay đổi
về hiện thực đời sống vật chất, con người với những mơ ước cuộc sống đời thường được
ăn no mặc ấm, ăn ngon mặc đẹp… Hình ảnh con người trong văn học hiện lên chân thực
với cả cái tốt và cái xấu, với cả rồng phượng lẫn rắn rết, cả thiên thần và ác quỷ. Sự phong


21
phú của các cá thể trong cộng đồng đòi hỏi phải xem xét con người từ nhiều phía, nhiều
lát cắt khác nhau với những trạng huống không giống nhau trong xúc cảm thẩm mĩ của
người nghệ sĩ. Vì thế trong văn học xuất hiện con người phức tạp, nhiều chiều, con người
đầy mâu thuẫn với thế giới nội tâm phong phú: vừa giằng xé day dứt vừa nhiều yêu
thương, nhiều hoài nghi mà cũng đầy đa cảm, con người già dặn hơn sau những trải
nghiệm, vấp ngã của mình. Vì thế đời sống con người theo đúng nghĩa hai tiếng con người
được thể hiện với những khát vọng trần thế, với những nhu vầu về thể xác và tâm hồn chứ
khơng hồn tồn là con người lý tưởng cao cả nhưng xa lạ. “Đó là những con người được
nhìn nhận trong nhiều mối quan hệ phong phú và phức tạp…, con người với những niềm
vui và nỗi buồn, trong sự phấn khởi và khổ đau, trong niềm tin và hoài nghi chính đáng.
Họ đẹp trong chất thép và cả sự mềm yếu” .
Sau năm 1975, chiến tranh đã kết thúc. Đất nước, quê hương, xã hội, con người biết
bao thay đổi. Một vấn đề mới được đặt ra: sự thay đổi với mỗi cá nhân được nhận thức
như thế nào? Mỗi cá nhân phải tự vận động để hoà nhập vào cuộc sống mới, phải sống sao
cho phải, cho đúng với hoàn cảnh xung quanh đang đổi thay từng giờ, từng ngày, để bản
thân mỗi người không bị đánh mất mình trong dịng chảy của đời sống? Cùng với thời
gian, mỗi người vẫn giữ được mối quan hệ với quá khứ, hiện tại và tương lai, với người
thân bạn bè đồng nghiệp, với gia đình dịng họ, với thế hệ kế tiếp... Trong hoàn cảnh như
vậy, sự tự ý thức về bản thân giúp con người hiểu mình hơn và từ đó làm chủ được bản
thân mình. Đó là biểu hiện của sự vận động của ý thức xã hội, cũng là dấu hiệu của sự
trưởng thành của ý thức con người trong q trình nhận thức về chính bản thân, về vai trị
chủ thể của mình trong xã hội và trong cuộc sống.

Tiểu thuyết hôm nay, trong điều kiện mới, tinh thần sáng tạo mới, đã đi sâu thể hiện
thế giới tinh thần của con người, thể hiện quá trình tự ý thức của nó góp phần củng cố
thêm sự hình thành của con người cá nhân trong xã hội Việt Nam, làm cho văn học thời
kỳ này đứng cao hơn văn học trước 1945 khi mà ở đó vấn đề cá nhân chủ yếu mới đặt ra
trong phạm vi tự do tình cảm của con người. Đúng như nhận định của giáo sư Trần Đình
Sử “ Tư duy nghệ thuật đang trở về con người cá nhân, cá nhân nhưng trên một trình độ
mới với một điểm xuất phát mới cao hơn, chất lượng hơn. Tư duy nghệ thuật dường như


22
đi giáp một vịng trơn ốc trên con đường nhận thức thể hiện con người. Nó đang nhìn lại
những chặng đường vừa qua, kế thừa những phần sâu sắc nhất và mở ra chân trời sáng tạo
mới” cho văn học hôm nay, nền văn học đang trên đà của bước đường đổi mới.
Quan niệm nghệ thuật về con người được xem như là cách tân quan trọng nhất của
văn học cách mạng là thốt khỏi cái nhìn bế tắc về con người để hướng tới cái nhìn con
người làm chủ vận mệnh của đất nước, dân tộc và cả vận mệnh của chính mình. Với quan
niệm này con người được thể hiện chủ yếu trong văn học ta trong mấy chục năm qua là
con người phơi phới lạc quan, dù gặp mn ngàn khó khăn gian khổ nhưng cuối cùng nhất
định chiến thắng. Đấy là những con người luôn luôn quên mình vì sự nghiệp chung, quên
mình vì nghĩa lớn, quên mình vì tập thể. Đấy là những con người đầy ý chí, nghị lực, đầy
niềm tin với tấm lịng vì Tổ quốc, vì nhân dân, vì lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Con người
trong văn xuôi kháng chiến và văn xi xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung khơng nằm
ngồi quy luật này.
Trong văn xi sau 75, quan niệm nghệ thuật về con người đang dần dần hướng về
con người cá nhân, con người của những số phận riêng tư. Dĩ nhiên là không quay trở lại
con người cá nhân chủ nghĩa của văn học một thời đã từng bị phê phán. Không phải ngẫu
nhiên mà khi Thời xa vắng ra đời có người đã thốt lên : "Hình như trong xã hội ta cá nhân
đang ra đời" . Từ những hình tượng tập thể và quần chúng, văn xi ngày càng quan tâm
xây dựng các hình tượng có cá tính và có số phận riêng tư. Từ những hình tượng tiêu biểu
cho ý chí cách mạng, văn xi giai đoạn này đã xây dựng nên những tính cách đầy đặn

trong mối liên hệ nhiều chiều của con người. Nhờ đó các nhân vật tồn tại như một nhân
cách, chứ khơng cịn là một ý niệm. Nó cũng khác với con người giai cấp, con người dân
tộc có tính chất đơn điệu của một thời. Đó là con người cá tính. Đúng như Ma Văn Kháng
viết : "Phải chăm lo cho từng người. Cá tính mãi mãi tồn tại và địi hỏi được quan tâm".
Và nó khơng những được quan tâm mà đã trở thành đối tượng thẩm mỹ quan trọng của
văn học đương đại.
Trên khuynh hướng chú ý đến con người cá nhân, trong văn xuôi sau 1975 ở nhiều
nhà văn đã làm rõ nét hơn quan niệm này. Người ta thấy con người sám hối, con người


23
thức tỉnh, con người nhận đường và đầy suy tư dằn vặt trong truyện ngắn Nguyễn Minh
Châu. Con người cô đơn đầy cay đắng trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Con người
vừa anh hùng vừa hèn hạ trong truyện ngắn Nguyễn Quang Lập… Các thanh sắc khắc
nhau ấy đã tạo cho văn xuôi sau 1975 một diện mạo đa diện, hấp dẫn. Nếu trong văn xuôi
sử thi quan niệm về con người tốt xấu rạch rịi, thì ở giai đoạn này con người được nhìn
nhận trong cái đa diện của nó. Một kẻ từng được xem như là anh hùng có thể trong một
phút nào đó là một tên hiếp dâm để rồi suốt đời ân hận, day dứt khôn ngi về lỗi lầm ấy
(Đị ơi - Nguyễn Quang Lập). Trương Chi khát khao bài hát của tình yêu, nhưng rồi cũng
phải hát bài hát đông người, bài hát ca ngợi danh vọng, tiền tài để rồi kết thúc tiếng hát
cũng là lúc văng tục (Trương Chi - Nguyễn Huy Thiệp). Một người chạy theo lối sống xô
bồ tưởng như chỉ bỏ đi như Lý trong Mùa lá rụng trong vườn vẫn khiến chúng ta xót xa,
cảm thương và cả phần nào quý trọng. Quả là văn xuôi sau 75 đã mở rộng cái nhìn về con
người. Đó là cái nhìn đa diện, nhiều chiều. Vì lẽ này mà khơng ít nhà nghiên cứu phê
bình văn học đã khuyên nhiều dấu son cho văn xuôi giai đoạn này với lời phê "đời hơn",
"thực hơn"…
1.2.3. Cảm hứng sáng tạo mới
Cảm hứng, theo nhà lý luận văn học R.Wellek và A. Warren trong Lý luận văn học.
Cảm hứng sáng tạo trong văn học cách mạng gắn liền với ý thức, với lý tưởng của cuộc
Cách mạng tháng Tám 1945 - cuộc cách mạng chưa từng có trong lịch sử nhằm giải

phóng dân tộc và xây dựng CNXH. Cuộc cách mạng có ý nghĩa ngọn cờ đầu của phong
trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa trong thế kỷ XX đầy phức tạp và nhiều
biến động. Từ ý thức cách mạng trở thành cảm hứng nghệ thuật là vấn đề không hề đơn
giản và ln mang tính thời sự. Bởi cảm hứng, nói như A. X.Puskin, là lúc sức mạnh
tinh thần đạt tới một sự phát triển đầy đủ và có thể sáng tạo được. Và cảm hứng cũng là
lúc đạt tới sự tự do – “cái tất yếu được nhận thức” trong sáng tạo.
Ở Việt Nam, văn học cách mạng 1945 – 1975 trở thành một bộ phận khăng khít
của cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc gắn liền với CNXH. Nó được “tổ chức chặt
chẽ và đi sâu vào quần chúng” theo tư tưởng “cách mạng chính trị phải gắn liền với


24
cách mạng văn hóa và phải hồn thành cách mạng văn hóa mới hồn thành được cuộc
cải tạo xã hội”. Nền văn học đó được xây dựng trên nguyên tắc khoa học và giàu tính
thực tiễn là “dân tộc hóa, đại chúng hóa, khoa học hóa” mang tính chất dân tộc về hình
thức và tân dân chủ về nội dung như đề cương về văn hóa Việt Nam (1943) đã đề ra.
Sau 1975 nền văn học như một tấm gương tinh thần của cuộc sống đất nước, có
chung vận mệnh và đồng hành cùng dân tộc qua những thăng trầm của lịch sử, nó tồn
tại và phát triển trong những điều kiện lịch sử xã hội khác biệt so với thời kì chiến
tranh và trong mơi trường tinh thần có nhiều biến đổi. Những điều đó đã tác động và
chi phối mạnh mẽ xu hướng vận động và sự phát triển của văn học. Tư duy mới về
nghệ thuật tạo ra tư tưởng và quan niệm nghệ thuật mới. Cách nghĩ và cách cảm về
con người về cuộc đời có ảnh hưởng rất lớn đến cảm hứng sáng tạo của người nghệ sĩ.
Văn học có nhiều chuyển biến trong việc khai thác đề tài, chủ đề và cảm hứng mới.
Cảm hứng sáng tạo đã chuyển từ cảm hứng sử thi sang cảm hứng thế sự đời tư, từ cảm
hứng tự hào ngưỡng vọng ngợi ca sang cảm hứng chiêm nghiệm suy tư về lịch sử, từ
cảm hứng về cộng đồng, dân tộc sang cảm hứng về thân phận con người cá nhân..
Cuộc sống hiện đại với những chuyển động không ngừng và những bộn bề phức
tạp cho phép nhà văn có điều kiện thỏa sức khai phá, tự do sáng tạo, được nói thẳng,
nói thật, nói những điều trước đây chưa nói. Vì vậy đề tài văn học được mở rộng, cảm

hứng sáng tạo cũng trở nên phong phú hơn.
Cảm hứng chiêm nghiệm về quá khứ lịch sử: Chiêm nghiệm về quá khứ lịch sử,
về những điều đã qua là cảm hứng nổi bật trong nhiều tác phẩm của các nhà văn sau
1975. Con người tìm về quá khứ như là sự mong muốn tìm lại nguyên nhân cái ác, cái
xấu và đơi lúc cịn là sự ngậm ngùi nuối tiếc về quá khứ. Các nhà văn muốn tìm lại với
những mảng hiện thực chiến tranh mà mình đã từng trải, những vốn sống quý báu
được tích lủy và sàng lọc qua ký ức thời gian trở nên rõ ràng và cô đọng. Những trang
tiểu thuyết được mở ra theo diện rộng của cuộc chiến tranh, nhiều miền đất nóng bỏng
luôn giành đi giật lại giữa ta và địch, những chiến dịch lớn, những mặt trận âm thầm
mà quyết liệt. Tuy vậy sau chiến tranh lại xuất hiện những yêu cầu mới, sự sàng lọc


25
những hiểu biết và từng trải của cá nhân cần được bổ sung bằng những hiểu biết đầy
đủ hơn, phong phú hơn của nhiều người, nhiều góc độ để vươn tới một tầm nhìn cao
rộng hơn, yêu cầu tái hiện lịch sử đi liền với đòi hỏi đi sâu vào số phận và chiều sâu
tâm lý của con người, viết về chiến tranh hôm qua phải đặt trong tương quan với
những yêu cầu của cuộc sống hôm nay.
Những năm sau1975 khi mà cuộc chiến tranh đã qua đi, văn học Việt Nam vẫn
còn cho ra đời nhiều tác phẩm viết về chiến tranh làm xúc động lịng người. Có thể nói
nhờ cảm hứng chiêm nghiệm quá khứ mà người đọc cảm nhận thấy trong mỗi tác
phẩm cuộc chiến tranh oanh liệt vẫn đang hiện diện trong cuộc sống hôm nay của cả
dân tộc cũng như của mỗi người. Tái hiện quá khứ để hướng vào cuộc sống hiện tại là
một nguyên tắc của việc viết về chiến tranh hôm nay, các nhà văn hơm nay tìm đến
những tác phẩm này không phải chỉ để chiêm ngưỡng đài kỉ niệm và chiến cơng bất tử
của nhân dân, mà cịn để soi tìm trong đó những tấm gương tinh thần và đạo đức, tìm
những lời giải đáp có ý nghĩa sâu sắc cho những vấn đề của cuộc sống con người
nhiều thời đại. Nhà văn Nguyễn Khải đã từng viết: “Tơi thích cái hơm nay, cái hơm
nay ngổn ngang bề bộn, bóng tối và ánh sáng, màu đỏ và màu đen, đầy rẫy những biến
động, những bất ngờ, mới thật là một mảnh đất phì nhiêu cho các cây bút thả sức khai

vỡ”.
Cảm hứng phê phán xã hội: Sau 1975, đất nước hịa bình thống nhất, một luồng
sinh khí mới đã thổi tới những người cầm bút. Cách mạng đã tạo nên một sự thay đổi
kỳ diệu với sức mạnh tái tạo, hồi sinh. Nhưng rồi người ta nhận ra rằng đời sống hịa
bình cịn phức tạp hơn rất nhiều. Trong chiến tranh cuộc sống con người dù phải trải
qua những thử thách, phải đối mặt giữa sự sống và cái chết, người ta phải sống phi
thường và cao cả hơn. Trong chiến tranh, xã hội cũng trong sạch hơn, “an toàn” hơn
về mặt đạo đức, ngọn lửa chiến tranh thiêu đốt đi những nhỏ nhen nhiêu khê của cuộc
sống thường ngày. Hịa bình thì khác, con người trở lại đối mặt với cái bình thường
hằng ngày với những phức tạp, bon chen bày ra trước mắt con người.
Trước cuộc sống mới con người cần phải đổi mới tư duy, đổi mới cách nhìn để


×