Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học:"BÀN THÊM VỀ PHÉP SO SÁNH TU TỪ" ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (374.48 KB, 13 trang )

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

249
BÀN THÊM VỀ PHÉP SO SÁNH TU TỪ
FURTHER DISCUSSION ON RHETORICAL COMPARISON

Bùi Trọng Ngoãn
Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng

TÓM TẮT
Trong bài viết này, tác giả trình bày 4 vấn đề sau của so sánh tu từ: (1)Xác định cách
gọi tên “từ ngữ biểu đạt quan hệ so sánh”, thống kê 20 đơn vị biểu đạt quan hệ so sánh (“như”,
“như là”, “như thể”, “tựa”, “tựa thể”, “tợ”, “giống”, “giống như”, “tày”, “ngang”, “bằng”, “hơn”,
“thua”, “nhường”, “kém”, “khác nào”, “khác chi”, “khác gì”, “chẳng khác”, “na ná”) và loại bỏ
những trường hợp chưa chính xác (“giường như”, “chừng như”); (2) Chỉ ra cơ
sở so sánh là
thuộc tính của cái dùng để so sánh và xây dựng các tiêu chí phân biệt so sánh nổi/ so sánh
chìm; (3) Phân tích mô hình so sánh “B bao nhiêu A bấy nhiêu” và “A bao nhiêu B bấy nhiêu”;
(4) Khẳng định và đưa ra 5 lí do chứng minh cấu trúc “A thành (hóa) B” không phải là so sánh
tu từ.
ABSTRACT
In this article, the author discusses four issues, including: (1) identifying the name of “
Language Expressions of Comparison”, listing 20 such expressions of comparison (such as
“như”, “như là”, “như thể”, “tựa”, “tựa thể”, “tợ”, “giống”, “giống như”, “tày”, “ngang”, “bằng”,
“hơn”, “thua”, “nhường”, “kém”, “khác nào”, “khác chi”, “khác gì”, “chẳng khác”, and “na ná”) and
eliminating inaccurate cases (giường như”, “chừng như”); (2) clarifying that comparison bases
are the features of a comparing tool and put forward the criteria to distinguish explicit and
implicit comparison; (3) analyzing the comparison model of “ B bao nhieu… A bay nhieu” and
vice verse “A bao nhieu… B bay nhieu” (the more…A, the more…B); (4) realizing and
explaining the structure “A thanh B” (A becomes B”) as a non- rhetorical-comparison.


1. Đặt vấn đề
Là một biện pháp tu từ ngữ nghĩa phổ biến, so sánh tu từ (so sánh nghệ thuật) đã
được miêu tả trong các sách văn phạm tiếng Việt trước đây và trong các giáo trình
phong cách học tiếng Việt sau này. Trong các công trình này, so sánh tu từ mặc dầu
được khảo sát ở những mức độ nông sâu khác nhau nhưng hầu như không hề có những
quan niệm khác biệt để có thể gây ra những tranh luận đáng kể về học thuật. Phải chăng
vì so sánh tu từ quá quen thuộc mà người ta có thể “yên lòng” và cảm thấy đã hiểu đủ
về nó.
Về cơ bản, các giáo trình phong cách học của nhóm Võ Bình và cộng sự (1982),
Cù Đình Tú (1983), Đinh Trọng Lạc – Nguyễn Thái Hòa (1993) đều có chung quan niệm
về so sánh tu từ (so sánh nghệ thuật) từ tên gọi, khái niệm, đặc điểm cấu tạo, phân loại.
Riêng Hữu Đạt chia thành 5 dạng cụ thể: So sánh không có từ so sánh, so sánh
có từ so sánh, so sánh ngang bằng, so sánh bậc hơn – kém, so sánh bậc cao nhất (bậc
tuyệt đối). Ba dạng sau chỉ có đề mục và ví dụ, không phân tích. Trong đó các ví dụ về
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

250
so sánh bậc hơn kém và so sánh bậc cao nhất không thể hiện mục đích diễn đạt một
cách hình ảnh và biểu cảm của một phép so sánh tu từ. Nói cách khác, khi chia thành 5
dạng như vậy tác giả đã gộp cả so sánh logic vào so sánh tu từ (xem 5, tr337 – 341)
Trong thực tế, nhận dạng về so sánh tu từ không phải là quá khó nhưng để khám
phá giá trị nghệ thuật của một phép so sánh tu từ lại không phải là việc dễ. Mặc khác,
trong phê bình văn học những năm gần đây cũng đã có những ý kiến đáng được thảo
luận về so sánh tu từ trong ngôn ngữ nghệ thuật. Vì thế chúng tôi cho rằng đã đến lúc
cần bàn sâu hơn về biện pháp tu từ này.
Trong bài viết ngắn này, chúng tôi không trình bày lại toàn bộ các khía cạnh của
một phép so sánh nghệ thuật mà chỉ bàn thêm về các vấn đề sau:
- từ ngữ biểu đạt quan hệ so sánh
- cơ sở so sánh
- mô hình “bao nhiêu…bấy nhiêu”, và

- cấu trúc “A thành B”, “A hóa B” có phải là so sánh tu từ không?
2. Từ ngữ biểu đạt quan hệ so sánh
Ở dạng đầy đủ, một phép so sánh tu từ phải có mặt từ ngữ biểu đạt quan hệ so
sánh. Các tác giả Lê Anh Hiền, Cù Đình Tú, Nguyễn Thái Hòa, Hữu Đạt đều gọi đơn vị
này là “từ so sánh”. Riêng Đinh Trọng Lạc gọi nó là “yếu tố thể hiện quan hệ so sánh”
(11, tr155).
Đối với dạng so sánh tu từ phổ biến nhất “A như B”, “từ so sánh” được các tác
giả kể ra như sau:
- “như”, “giường như”, “chừng như”, “hơn”, “thua”, “kém”…
(Lê Anh Hiền, 3, tr146)
- “như”, “tựa như”, “chừng như”… (Cù Đình Tú, 16, tr 273)
Các tác giả Nguyễn Thái Hòa, Hữu Đạt chỉ nêu các ví dụ có “như” và không
thống kê, liệt kê các từ tương tự.
Mặc khác, đưa ra “từ so sánh” là “giường như”, “chừng như” nhưng các tác giả
Lê Anh Hiền, Cù Đình Tú lại không nêu các ví dụ về chúng. Kiểm tra trong hai từ điển
là “Tự điển Việt Nam” của Ban tu thư Khai Trí, NXB Khai Trí Sài Gòn 1971 và “Từ
điển Tiếng Việt” do Hoàng Phê chủ biên, NXB Đà Nẵng, bản in năm 1997, chúng tôi
không tìm thấy hai đơn vị này mà chỉ có “dường như”. Theo Ban Tu thư Khai Trí
“dường như, trạng từ: Hình như” (1, tr271). Theo Hoàng Phê “dường như: Có vẻ như,
hình như. Mới nghe thì dường như đơn giản” (14, tr264).
Đặt ra giả định “giường như” là cách viết của Lê Anh Hiền về tổ hợp “dường
như” thì cả hai trường hợp “dường như”, “chừng như” cũng không phải là những đơn vị
biểu thị quan hệ so sánh mà chủ yếu là những tổ hợp có tính tình thái, đánh giá đối với
sự tình được nêu lên trong phát ngôn.
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

251
Từ hai lí do đó, chúng tôi nghĩ rằng không nên coi “giường như”, “chừng như”
như là những “từ chứng” làm dấu hiệu cho phép so sánh tu từ “A như B”.
Khắc phục tình trạng vừa sơ lược vừa thiếu chuẩn xác kể trên, riêng cho kiểu “A

như B”, chúng tôi thống kê khoảng 20 “yếu tố thể hiện quan hệ so sánh” dưới đây:
(1) NHƯ
Thiếp như hoa đã lìa cành
Chàng như con bướm lượn vành mà chơi (Nguyễn Du, 7, 246)
(2) NHƯ LÀ
“Tách ra khỏi vườn ươm 13000 gốc cao su ngang vai, lênh nghênh mấy
chục gốc cao su Vĩnh Linh đứng ra khỏi hàng như là những sĩ quan làm
khung cho một sư đoàn ngụy trang đang tập trung ở bãi rộng.” (17, 203)
(3) NHƯ THỂ
Miệng cười như thể hoa ngâu
Cái khăn đội đầu như thể hoa sen (ca dao)
(4) TỰA
Và tựa hoa tươi mở cánh dần
Từng hàng thục nữ dậy thì xuân (2, tr72)
(5) TỰA THỂ
Có vị chân tay co xếp lại
Tròn xoe tựa thể chiếc thai non (Huy Cận, 13, tr112)
(6) TỢ
Quả đầu mùa thơm ngọt tợ môi em (Thu Bồn, 4, tr147)
(7) GIỐNG
Đất nước giống con thuyền xuyên gió mạnh
Những mối tình trong gió bão tìm nhau
(Lưu Quang Vũ, 15, tr364)
(8) GIỐNG NHƯ
“Mây xốp từng cụm nhỏ đang bốc dần lên. Trên thân đèo nhìn xuống
lũng chóe vàng, mây trắng giống như những cánh hoa thêu nổi trên tấm lụa
mộc của lúa chín.” (17, tr116)
(9) TÀY
Một cung gió thảm mưa sầu
Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay

Ve ngân vượn hót nào tày
Lọt tai, Hồ cũng nhăn mày rơi châu (Nguyễn Du, 7, tr307)
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

252
(10) NGANG
Xa nhà, xa chị tuy buồn thực
Cũng cố vui ngang gái được chồng (2, tr120)
(11) HƠN
“Chao ôi, có ai thích xòe đã nghe thấy cái tiếng thở dài ấy của bà mẹ Thái nó
buồn hơn cả cái tiếng vật mình của cối nước giã gạo đêm.” (17, tr134, 135)
(12) BẰNG
Mọi tên tuổi, vinh dự chỉ hư vinh
Chẳng nghĩa lí bằng chiều nay em nhóm bếp (Lưu Quang Vũ, 15, tr321)
(13) THUA
Khen rằng bút pháp đã tinh
So vào với thiếp Lan Đình nào thua (Nguyễn Du, 7, tr274)
(14) NHƯỜNG
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da (Nguyễn Du, 7, tr184)
(15) KÉM
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh (Nguyễn Du, 7, tr184)
(16) KHÁC NÀO
Mộng đẹp theo ngày tháng,
Đi êm đềm như thơ.
Khác nào trên khung cửi
Qua lại chiếc thoi tơ… (Nguyễn Bính, 2, tr39)
(17) KHÁC CHI
“Em há chẳng thấy cả một cái dải đường từ phía Suối Rút đang lần lần tuôn dài

lên mà với tới em. Nhưng con đường kia có khác chi một mũi dao nhọn cắm
phập vào lòng nàng, Sơn La ôi!”(17, tr54)
(18) KHÁC GÌ
“Cái khe nước biên giới, nước vẫn róc rách, tiếng nước chảy dưới cái cầu gỗ
mục chẳng khác gì cái tiếng của một dòng nước đánh trống lảng ra khỏi một
chỗ khó chảy êm.” (17, tr33)
(19) CHẲNG KHÁC
Một buổi sớm mai đến Sài Gòn
Thân em chẳng khác con chim con (2, tr100)
(20) NA NÁ
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

253
“Anh em tháng tháng chỉ mong có công tác về đồn Pom Lót dưới
kia một lần, nó cũng na ná cái kiểu đội viên đội phát động ruộng đất
mong về tổng kết ở hội nghị các đoàn ủy” (17, tr38, 39)
Ngoài ra phải kể đến các từ ngữ khác cũng biểu đạt quan hệ so sánh như “là”,
“…bao nhiêu…bấy nhiêu”.
Ví dụ: “Ta là con chim ngậm vành kết cỏ
Quê hương nuôi ta lớn nên người” (4, tr204)
“Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”… (Tố Hữu, 14,
tr301)
Như vậy, yếu tố thể hiện quan hệ so sánh không chỉ là từ mà còn là tổ hợp từ.
Do đó chúng tôi đề nghị gọi bộ phận này là “từ ngữ biểu đạt quan hệ so sánh”.
3. VỀ CƠ SỞ SO SÁNH
Theo Nguyễn Thái Hòa: “Hình thức đầy đủ nhất của phép so sánh tu từ gồm 4
yếu tố như sau:

1. Cái so sánh 2. Cơ sở so sánh 3. Từ so sánh 4. Cái được so sánh

Gái
Các chóp mái

Lòng ta
có chồng
đều lượn rập rờn

vẫn vững
như
như

như
gông đeo cổ
các nếp sóng bạc đầu
(Nguyễn Tuân)
kiềng ba chân (Tố Hữu)

Đây là một đóng góp đáng kể của ông đối với phép so sánh tu từ. Cũng trong
phần này, Nguyễn Thái Hòa có một đề mục như sau “b/ Bớt cơ sở (thuộc tính) so sánh”
(10, tr190). Phải chăng ông quan niệm cơ sở so sánh cũng là “thuộc tính” của cả hai yếu
tố “cái so sánh” và “cái được so sánh”. Điều này cần được bàn bạc rõ hơn.
Dựa vào “Từ điển giải thích thành ngữ tiếng Việt” (Nguyễn Như Ý chủ biên,
1998) chúng tôi nhặt ra một số thành ngữ có “như” như sau:
bạc như rận
bạc như vôi
bám như đỉa đói
bẩn như trâu đầm
bầy nhầy như thịt bụng
béo như con cun cút
căng như mặt trống

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

254
câm như hến
chắc như cua đá
chặt như nêm cối
chậm như sên
chua như dấm …
Dễ dàng nhận ra rằng “bạc, bạc, bám, bẩn, bầy nhầy, béo, căng, câm, chắc, chặt,
chậm, chua”…lần lượt là thuộc tính, đặc điểm của “rận, vôi, đỉa đói, trâu đầm, thịt
bụng, con cun cút, mặt trống, hến, cua đá, nêm cối, sên, dấm”…
Khi được vận dụng trong lời nói, chẳng hạn: “Hạng người bạc như rận ấy”, “Đời
bạc như vôi”…các yếu tố đứng trước “như” sẽ là cơ sở so sánh và chúng phải là thuộc
tính, đặc điểm của yếu tố đứng sau “như” tức là thuộc tính, đặc điểm của “cái dùng để
so sánh”.
Vận dụng cách hiểu đó, chúng tôi sẽ đưa bài ca dao “Cổ tay em trắng như
ngà…” vào khuôn hình so sánh tu từ của Nguyễn Thái Hòa. Câu thứ hai có một dị bản
“Con mắt em liếc như là dao cau” cũng được đưa vào khuôn hình để đối chiếu:

1. Cái so sánh 2. Cơ sở so sánh 3. Từ so sánh 4. Cái được so sánh
Cổ tay em
Con mắt em
Con mắt em liếc
Miệng cười
Cái khăn đội đầu
trắng
sắc
ɸ
ɸ
ɸ

như
như là
như là
như thể
như thể
ngà
dao cau
dao cau
hoa ngâu
hoa sen

“Sắc” là thuộc tính, đặc điểm của “dao cau” nên nó là cơ sở so sánh, trong khi
đó “liếc” là hoạt động của “mắt” chứ không phải là thuộc tính, đặc điểm của “dao cau”
nên ở cấu trúc so sánh này không có cơ sở so sánh. Tương tự “cười” không phải là
thuộc tính, đặc điểm của “hoa ngâu”, “đội đầu” không phải là thuộc tính, đặc điểm của
“hoa sen”.
Từ cơ sở so sánh, chúng tôi muốn bàn thêm về cách phân loạ
i “so sánh nổi” và
“so sánh chìm” trong một số giáo trình.
Trong “Phong cách học tiếng Việt” (1982), Lê Anh Hiền viết: “Xét về mặt nội
dung, đối tượng nằm ở hai vế của phép so sánh (hình ảnh) là khác loại, nhưng lại có
những nét nào đó giống nhau, nét giống nhau này có thể hoặc “nổi” hoặc “chìm”. Thí
dụ:
nổi: Dù ai nói ngả nói nghiêng
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

255
Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân (ca dao)
chìm: Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan (Hồ Chí Minh)”

(3, tr 148)
Trong “Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt”, Cù Đình Tú đã gọi rõ tên
hai loại đó, là “so sánh tu từ nổi” và “so sánh tu từ chìm” (16, tr275, 276). Bên cạnh ví
dụ “Dù ai nói ngả nói nghiêng…” chứng minh cho “so sánh tu từ nổi”, ông đã phân tích
câu thơ của chủ tịch Hồ Chí Minh “Trẻ em như búp trên cành…” để chứng minh cho
“so sánh tu từ chìm”.
Qua các ví dụ có thể thấy, dù không đề cập trực tiếp nhưng cả hai tác giả Lê Anh
Hiền và Cù Đình Tú đều lấy sự có mặt/ vắng mặt của cơ sở so sánh làm tiêu chí để phân
định so sánh nổi/ so sánh chìm. Phải đến Đinh Trọng Lạc, cơ sở so sánh mới được dùng
làm tiêu chí để xác định so sánh chìm: “So sánh vắng yếu tố 2 (cơ sở so sánh – chú
thích của Bùi Trọng Ngoãn) được gọi là so sánh chìm. Ví dụ: “Trẻ em như búp trên
cành” (Hồ Chí Minh)” (11, tr155)
Vì cách gọi “A như B” đã trở nên phổ biến nên chúng tôi dùng A để gọi yếu tố 1
(cái được so sánh) và B để gọi yếu tố 4 (cái dùng để so sánh)
Theo khảo sát của chúng tôi, không ít những trường hợp không có cơ sở so sánh
nhưng A-yếu tố 1 hoặc B-yếu tố 4 lại được thuyết minh. Dưới đây là các ví dụ về bốn
trường hợp:
a. Không có cơ sở so sánh
Bốn dây như khóc như than
Khiến người trong tiệc cũng tan nát lòng (Nguyễn Du, 7, tr268)
b. Có cơ sở so sánh
Trong như tiếng hạc bay qua
Đục như tiếng suối mới sa nửa vời
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa (Nguyễn Du, 7, tr206)
c. B- yếu tố 4 được thuyết minh
Em là bóng cây, em là bếp lửa
Che mát và sưởi ấm lòng anh (Lưu Quang Vũ, 15, tr321)
Thiếp như con hạc đầu đình
Muốn bay không cất nổi mình mà bay (ca dao)

d. A- yếu tố 1 được thuyết minh
Đêm như biển không bờ, bóng tối rất thẳm sâu
Đời cũng giống như biển kia anh lại giống con tầu
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

256
(Lưu Quang Vũ, 15, tr319)
Nếu dùng phép cải biến ta thấy phần thuyết minh cho B-yếu tố 4 có thể đưa vào
vị trí của cơ sở so sánh bởi nó là thuộc tính, là đặc điểm của B-yếu tố 4 (Tất nhiên khi
đọc lên sẽ thấy không còn “suôn sẻ” như ban đầu):
- “Em che mát như bóng cây và sưởi ấm lòng anh như bếp lửa”
- “Thiếp, muốn bay không cất nổi mình mà bay, như con hạc đầu
đình” (!)
Ngược lại, phần thuyết minh cho A-yếu tố 1, dù có đưa vào trong cấu trúc so
sánh vẫn không mang tư cách một cơ sở so sánh, vì nó không phải là thuộc tính, đặc
điểm của B-yếu tố 4.
Có thể nói phần thuyết minh cho B hoặc thuyết minh cho A đều có tác dụng làm
rõ mối dây liên hệ giữa hai đối tượng này. Phần thuyết minh đó không hẳn là cơ sở so
sánh, không nằm ở vị trí cơ sở so sánh trong cấu trúc so sánh nhưng có nội dung tương
đương cơ sở so sánh. Mặt khác, dù là được thuyết minh cho B hay thuyết minh cho A
thì nội dung thuyết minh đó cũng là cầu nối giữa A và B, nghĩa là nó vẫn có quan hệ với
hai yếu tố này. Do đó chúng tôi đề nghị tiêu chí phân biệt so sánh nổi, so sánh chìm như
sau: Một phép so sánh tu từ được gọi là “so sánh nổi” khi có 1 trong 3 yếu tố:
+ cơ sở so sánh
+ phần thuyết minh cho B
+ phần thuyết minh cho A
Ngược lại một phép tu từ sẽ được gọi là “so sánh chìm” khi không có mặt 3 yếu tố
này.
4. VỀ MÔ HÌNH “A BAO NHIÊU B BẤY NHIÊU”
Trước khi bàn đến mô hình này, chúng tôi muốn làm rõ cách dùng các kí hiệu

“A như B”, “A bao nhiêu B bấy nhiêu” trong các giáo trình phong cách học.
Lê Anh Hiền chú thích:“(Kí hiệu: A = vế được so sánh
B = vế so sánh)” (3, tr146)
Cù Đình Tú cũng dùng cách gọi “vế được so sánh”, “vế so sánh” (16, tr273)
Nguyễn Thái Hòa không dùng kí hiệu A, B mà gọi là các yếu tố “1. Cái so
sánh…4. Cái được so sánh” (10, tr189)
Hữu Đạt nêu mô hình “A-X-B” và thuyết minh như sau:
“A: là cái chưa biết được đem ra so sánh
B: là cái đã biết đem ra để so sánh
X: là phương tiện so sánh được biểu hiện bằng các từ: như, giống như, là,
như là, tựa như, tựa hồ, hệt như, bằng, hơn, kém…” (5, tr 336)
Rõ ràng cả hai vế cơ bản của một phép so sánh đã không được gọi tên một cách
nhất quán, thậm chí trái ngược. Nếu theo lí thuyết của ngôn ngữ học đại cương thì một
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

257
tín hiệu ngôn ngữ bao gồm hai mặt là cái biểu hiện và cái được biểu hiện. So sánh tu từ
là một tín hiệu thứ cấp, một tín hiệu thẩm mĩ nên có thể vận dụng cách gọi của tín hiệu
nguyên cấp. Nghĩa là A là “cái được biểu hiện” và B là “cái biểu hiện”. Tập hợp kết quả
nghiên cứu của người đi trước chúng tôi xác định:
- A, yếu tố 1 trong cấu trúc so sánh hoàn chỉnh, là:
(1) Đối tượng đang được nói đến trong ngữ cảnh, là đề tài trong phát
ngôn, là yếu tố cần được làm sáng tỏ
(2) Về mặt thông tin, đây là cái chưa biết.
- B, yếu tố 4 trong cấu trúc so sánh hoàn chỉnh, là:
(1) Cái được dùng để làm rõ A
(2) Cái được dùng làm chuẩn, làm thước đo để giải thích, minh họa cho A
(3) Về mặt thông tin, đây là cái đã biết.
Từ cách hiểu trên chúng tôi cho rằng dạng phổ biến của cấu trúc so sánh “bao
nhiêu - bấy nhiêu” phải là: B bao nhiêu A bấy nhiêu

Ví dụ: Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu (ca dao)
Câu này có thể diễn dịch thành “(Em) thương mình nhiều như ngói trên đình”.
Điều cần nói, cần bày tỏ là “thương mình” của chủ thể phát ngôn, nên nó là A. Trong
khi đó ngói trên mái đình được dùng làm chuẩn để làm rõ mức độ của thái độ “thương
mình” đó, vì thế ngói trên mái đình phải là B.
Các ví dụ khác:
- Qua cầu than thở với cầu
Cầu bao nhiêu nhịp, dạ em sầu bấy nhiêu (ca dao)
- Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu (Tố Hữu, 13, tr301)
- Dải Sông Đà bọt nước lênh bênh
Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình (Tản Đà, trích theo 17, tr279)
Nói như thế không có nghĩa là chúng tôi phủ nhận cấu trúc “A bao nhiêu B bấy
nhiêu” trong câu ca dao:
“Ai ơi đừng bỏ ruộng hoang
Bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu”
Trong quan niệm của chúng tôi, mặc dù có tính hình ảnh (vàng được đo đếm
bằng “tấc”) nhưng mục đích của cặp đại từ bao nhiêu…bấy nhiêu là xác lập tính tương
đương giữa hai vế, đó là tính tương đương về giá trị. Nói cách khác, tính chất của phép
so sánh trong câu ca dao này nghiêng hẳn về phía so sánh logic, thậm chí chỉ như dạng
câu ghép qua lại: “Con cần bao nhiêu mẹ cho bấy nhiêu” “Em cần bao nhiêu em lấy bấy
nhiêu”. Mục đích “biểu đạt bằng hình ảnh, có tính biểu cảm, thẩm mĩ” của một phép so
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

258
sánh tu từ không được bộc lộ rõ. Về mặt ngữ nghĩa, câu ca dao này không khác gì câu
tục ngữ “Tấc đất tấc vàng” là một phép so sánh song hành. Câu tục ngữ này có thể cải
biến thành “Tấc đất như tấc vàng” và có tác dụng nhấn mạnh tính tương đương về mặt
giá trị.

Tóm lại, để tránh lầm lẫn, ta nên gọi đây là dạng so sánh có dùng cặp đại từ “bao
nhiêu … bấy nhiêu”.
5. VỀ CẤU TRÚC “A HÓA B”, “A THÀNH B”
Những năm gần đây trong một số công trình nghiên cứu văn học, có tác giả quan
niệm “A thành (hóa) B” trong thơ Chế Lan Viên là so sánh nghệ thuật. Từ mối băn
khoăn của sinh viên, chúng tôi muốn bàn tới vấn đề này.
Trong “Thế giới nghệ thuật thơ Chế Lan Viên” (2005), Hồ Thế Hà cho rằng “A
thành (hóa) B, tuy không phải kiểu so sánh chủ yếu và xuất hiện với tỉ lệ ít hơn hai kiểu
so sánh trên, nhưng lại là kết quả của quá trình lao động nghệ thuật có ý thức của Chế
Lan Viên, giúp ta hiểu thêm một hồn thơ yêu đời, nhiều khát khao” (8, tr186). Trong
“Nghệ thuật thơ Chế Lan Viên” (2006), Đoàn Trọng Huy viết:
Cấu trúc kiểu “A thành B”
Thực chất đây là một phương thức so sánh có tăng tiến (của sự vật, hiện tượng).
Sáng tạo này có thể coi là một thành công quan trọng, góp phần vào giá trị đặc sắc nghệ
thuật Chế Lan Viên” (9, tr108).
Tiếc rằng cả hai tác giả đều không đưa ra tiêu chí để xác định tại sao “A thành
(hóa) B” là một so sánh nghệ thuật.
Thậm chí Đoàn Trọng Huy minh định “Để khẳng định A thành B là một kiểu so
sánh có tính sáng tạo, cần phải đi vào phân tích biểu hiện trên cơ sở thực tiễn sáng tác.
Lí thuyết chung về so sánh nghệ thuật truyền thống chưa đề cập đến kiểu so sánh này.
(9, tr108). Nhưng trong phần tiếp theo ông không phân tích, biện luận theo chủ hướng
vừa được nêu ra.
Để tiện bàn bạc, chúng tôi bắt đầu bằng nghĩa từ điển của “thành” và “hóa”.
“Tự điển Việt Nam” của Ban tu thư Khai Trí định nghĩa:
THÀNH đt. 1. Nên, được kết quả: Công chưa thành danh chưa toại.
2. Trở nên: Bột khuấy thành hồ. (1, tr817)
HÓA đt. 1. Tạo ra, làm thành: Đời xưa tưởng rằng trời hóa ra mưa nắng
2. đt. Thay đổi, trở thành: Khôn quá hóa dại
3. dt. Tiếng hóa học gọi tắt: Toán, lý, hóa.
4. (Khd) Ăn mày, xin: Hóa trai (1, tr404)

“Từ điển tiếng Việt” do Hoàng Phê chủ biên giải nghĩa như sau:
THÀNH đt. 1. Trở nên là (cái trước đó không phải, chưa phải). Vết thương
thành sẹo. Thành vợ thành chồng. Chuyển bại thành thắng. Học
đã thành nghề (thành có nghề).
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

259
2. (Công việc) đạt được kết quả dự định, trái với bại. Công việc
thành hay bại, còn chưa rõ. Việc không thành. (14, tr882)
HÓA đt. 1. Thay đổi thành cái khác do kết quả của một quá trình phát triển.
Nhộng đã hóa thành ngài. Để lâu cứt trâu hóa bùn (tng.). Đùa
mà hóa thật.
2. (dùng không có chủ ngữ, ở đầu phân câu). Từ biểu thị điều sắp
nói đến là điều bỗng nhiên nhận thức ra, có phần bất ngờ, trái
với điều trước kia tưởng. Như thế lại hóa hay. Ngỡ ai lại hóa
người quen.
3. Hóa thành thần, thành Phật, chứ không phải chết đi, theo quan
niệm tôn giáo, mê tín. Diệt giặc xong, ông Gióng hóa lên trời.
4. Làm cho vàng mã hóa thành đồ dùng dưới âm phủ cho linh hồn
người chết, bằng cách đốt đi, theo mê tín. Hóa vàng. Hóa nhà
táng.
(14, tr431)
Trên cơ sở nghĩa từ điển, có thể nói “thành” và “hóa” đều là những thực từ, vừa
có nghĩa từ vựng vừa có nghĩa ngữ pháp và chúng là những động từ thuộc nhóm động
từ biến hóa, khác với “như” là kết từ, có chức năng biểu thị quan hệ tương đồng.
Khi đã xác định điều đó, không ai có thể nghĩ những câu thơ có “thành”, “hóa”
dưới đây là so sánh nghệ thuật:
- “Nước Việt Nam nghìn năm Đinh, Lý, Trần, Lê
Thành nước Việt nhân dân trong mát suối” (18, tr109)
- “Những kẻ quê mùa đã thành trí thức

Tăm tối cần lao nay hóa những anh hùng” (18, tr 109)
- “Đi xa về hóa chậm
Biết bao là nhiêu khê” (18, tr 105)
Chúng tôi cho rằng các cấu trúc có “thành, hóa” không phải là so sánh tu từ bởi 5 lí
do sau đây:
(1) “Thành, hóa” trong các câu trên đều hoạt động theo nghĩa “thay đổi, chuyển
hóa, trở nên”. Đối tượng phía sau “thành, hóa” là kết quả chuyển biến từ đối
tượng đứng trước “thành, hóa”.
(2) Các vế trước và sau “thành, hóa” không hề tương đương hai vế A và B trong
cấu trúc so sánh.
(3) Vế sau của “thành, hóa” không phải là cách nói so sánh diễn tả một cách hình
ảnh và biểu cảm vế trước (của “thành, hóa”).
(4) Không thể cải biến, không thể thay thế “thành, hóa” bằng “như”, “như là”.
Trong các ví dụ trên, “nước Việt Nam nghìn năm Đinh Lý Trần Lê”, sau Cách
mạng tháng Tám thật sự trở thành “nước Việt Nam nhân dân trong mát suối” về
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

260
thực chất chứ không phải chỉ là sự so sánh trong một ngữ cảnh nhất định. Cũng
như vậy, nhân dân lao động (“những kẻ quê mùa”, “tăm tối cần lao”) trong sự
nghiệp Cách mạng đã trở thành những người “trí thức”, những “anh hùng” thật
sự, mang tính chân thực lịch sử chứ không phải là “giống như trí thức, giống
như anh hùng”. Tức là trong các câu thơ trên không hề có quan hệ so sánh,
tương tự.
(5) Hơn nữa, khi ta nói “Tích tiểu thành đại”, “Lộng giả thành chân” hay “Mèo già
hóa cáo”, “Cá hóa rồng”…thì “tiểu” – “đại”, “giả” – “chân”, “mèo” – “cáo”,
“cá” – “rồng” đều có mối quan hệ logic trong thực tế khách quan. Cũng như vậy
trước và sau “thành, hóa” trong các câu thơ Chế Lan Viên thường vẫn có mối
quan hệ logic khách quan đó:
- Sóng như hàng nghìn trưa xanh trời đã tan xanh ra thành bể và thôi

không trở lại làm trời. (, 118)
- Rừng than già trong đất uể oải ngủ giấc ngủ rừng uể oải
Hình như không muốn vội thành than (18, tr121)
- Than cứng rắn thành áo màu là lượt
Than cộc cằn lại hóa tơ nhung (18, 126)
- Ăn một miếng than chốn này, xứ Mỏ hóa thành quê. (18, 124)
- Tôi muốn đến chỗ nước trời lẫn sắc
Nơi bốn mùa đã hóa thành thu (18, 119)
Ngược lại, mối quan hệ tương đồng giữa 2 vế A và B trong cấu trúc so sánh là
phát hiện riêng, theo cảm quan của tác giả, vì vậy có những liên tưởng rất bất ngờ. Sau
đây là một ví dụ về so sánh nghệ thuật thơ Chế Lan Viên:
“Than béo, than gầy, mỡ màng như mỡ đông, như thịt đúc
Như miếng giò ngon, như đĩa xôi ngon
Như mật ong đen – như phù sa đen – từng mảng, từng tầng xén cắt…”
(18, tr122)

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Ban tu thư Khai Trí, 1971, Tự điển Việt Nam, Sài Gòn, NXB Khai Trí.
[2]. Nguyễn Bính, 2007, Thơ Nguyễn Bính, Vũ Quần Phương tuyển chọn và giới thiệu,
H, NXB Kim Đồng.
[3]. Võ Bình, Lê Anh Hiền, Cù Đình Tú, Nguyễn Thái Hòa, 1982, Phong cách học
tiếng Việt, H, NXB Giáo dục.
[4]. Thu Bồn, 2003, Thu Bồn – thơ và trường ca, Ngô Thế Oanh tuyển chọn và giới
thiệu, Đà Nẵng, NXB Đà Nẵng.
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010

261
[5]. Hữu Đạt, 1999, Phong cách học tiếng Việt hiện đại, H, NXB KHXH.
[6]. Long Điền Nguyễn Văn Minh, tái bản 1998, Việt ngữ tinh hoa từ điển, H, NXB Hội

nhà văn.
[7]. Nguyễn Thạch Giang chủ biên, 2004, Tinh tuyển văn học Việt Nam, tập 5, quyển 2
– Văn học thế kỉ 18, H, NXB KHXH.
[8]. Hồ Thế Hà, 2005, Thế giới nghệ thuật thơ Chế Lan Viên, H, NXB Văn học.
[9]. Đoàn Trọng Huy, 2006, Nghệ thuật thơ Chế Lan Viên, H, NXB ĐHSP.
[10]. Đinh Trọng Lạc chủ biên, Nguyễn Thái Hòa, 1993, Phong cách học tiếng Việt, H,
NXB Giáo dục.
[11]. Đinh Trọng Lạc, 1995, 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, H, NXB
Giáo dục.
[12]. Phong Lê, Vũ Văn Sỹ, Bích Thu, Lưu Khánh Thơ, 2002, Thơ Việt Nam hiện đại,
H, NXB Lao Động.
[13]. Nhiều tác giả, 1985, Thơ Việt Nam 1945 – 1985, H, NXB Văn học.
[14]. Hoàng Phê chủ biên, 1997, Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.
[15]. Lưu Khánh Thơ (sưu tầm biên soạn), 2001, Lưu Quang Vũ tài năng và lao động
nghệ thuật, NXB Văn hóa Thông tin.
[16]. Cù Đình Tú, 1983, Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, H, NXB Đại học
và trung học chuyên nghiệp.
[17]. Nguyễn Tuân, 1978, Sông Đà, H, NXB Tác Phẩm Mới.
[18]. Chế Lan Viên, 1985, Tuyển tập Chế Lan Viên, tập 1, Nguyễn Xuân Nam giới
thiệu, H, NXB Văn học.
[19]. Nguyễn Như Ý chủ biên, 1996, Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, H,
NXB Giáo dục.
[20]. Nguyễn Như Ý chủ biên, 1998, Từ điển giải thích thành ngữ tiếng Việt, H, NXB
Giáo dục.

×