Tải bản đầy đủ (.docx) (50 trang)

Triển vọng kinh tế Việt Nam 2012-2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (460.35 KB, 50 trang )

ỦY BAN GIÁM SÁT TÀI CHÍNH QUỐC GIA
***
BÁO CÁO
TRIỂN VỌNG KINH TẾ VIỆT NAM 2012-2013
Hà Nội, năm 2011
Chỉ đạo thực hiện: TS. Vũ Viết Ngoạn, Chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia
Phối hợp chỉ đạo:
• TS. Lê Xuân Nghĩa, Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia
• TS. Hà Huy Tuấn, Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia
Cố vấn:
• TS. Lê Đức Thúy, Nguyên Thống đốc NHNN Việt Nam, Nguyên Chủ tịch
UBGSTCQG
• Ông Trương Đình Tuyển, Nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại
• GS-TSKH. Nguyễn Quang Thái, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội Khoa học Kinh
tế Việt Nam
• Chuyên gia độc lập Bùi Trinh
• TS. Vũ Quang Đông
Bình luận:
• TS. Vũ Thành Tự Anh
• TS. Nguyễn Đức Thành
Chuyên gia thực hiện:
• Chuyên gia độc lập Bùi Trinh
• TS. Vũ Quang Đông
• ThS. Bùi Huy Thọ
• Đặng Vương Anh
• ThS. Bùi Quốc Dũng
• ThS. Nguyễn Mạnh Hà
• ThS. Nguyễn Bá Khang
• ThS. Dương Thị Mỹ Linh
• Hoàng Thị Mơ
• Vũ Thị Minh Thu


• ThS. Đặng Thùy Trang
• Lê Thị Ngọc Tú
• ThS. Phùng Thị Thu Hiền Vân
LỜI CẢM ƠN
Ban lãnh đạo UBGSTCQG xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến các chuyên gia
kinh tế: TS. Lê Đức Thúy, Nguyên Thống đốc NHNN Việt Nam, Nguyên Chủ tịch
UBGSTCQG; ông Trương Đình Tuyển, Nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại; GS-TSKH.
Nguyễn Quang Thái, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam;
Chuyên gia độc lập Bùi Trinh; TS. Vũ Quang Đông - những người đã ủng hộ sáng kiến lập
Báo cáo “Triển vọng kinh tế Việt Nam 2012-2013”; đồng thời đã có những ý tưởng quan
trọng trong việc hình thành tư tưởng chủ đạo của báo cáo. Các chuyên gia Bùi Trinh và Vũ
Quang Đông còn đồng thời trực tiếp tham gia phần quan trọng của báo cáo, đó là tính toán
định lượng ước tính sản lượng tiềm năng của Việt Nam cũng như phân tích định lượng tác
động của việc điều chỉnh giá một số mặt hàng cơ bản đến CPI; hiệu ứng lan tỏa của một số
ngành, lĩnh vực… Nhóm nghiên cứu cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến TS. Vũ
Thành Tự Anh, TS. Nguyễn Đức Thành đã dành thời gian đọc và có những nhận xét quý
báu giúp cho Nhóm nghiên cứu có cách nhìn toàn diện hơn và cụ thể hơn về một số lĩnh
vực trọng yếu. Để hoàn thành báo cáo này, Nhóm nghiên cứu đã tham khảo nhiều tư liệu,
báo cáo, bài viết nghiên cứu của các cơ quan, các chuyên gia trong và ngoài nước. Đó là
những đóng góp không nhỏ trong việc làm cho báo cáo được phong phú về tư liệu cũng
như góc nhìn phân tích. Cuối cùng, Ban lãnh đạo UBGSTCQG cùng Nhóm nghiên cứu
cám ơn và đánh giá cao tinh thần nỗ lực, khắc phục khó khăn của các chuyên gia của
UBGSTCQG, những người đã dành nhiều tâm trí, thời gian trực tiếp triển khai thực hiện
lập báo cáo.
Hà Nội, tháng 12 năm 2011
Thay mặt Ban lãnh đạo UBGSTCQG
và Nhóm nghiên cứu
TS. Vũ Viết Ngoạn
LỜI NÓI ĐẦU
Sau 25 năm đổi mới, kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu đầy ấn tượng,

từ một quốc gia nghèo với mức thu nhập bình quân đầu người 180 USD và siêu lạm phát
lên tới trên 700% đã trở thành một quốc gia có thu nhập trung bình; đi đầu trong việc giảm
tỷ lệ hộ nghèo và là một trong số ít những quốc gia đang phát triển đạt nhiều Mục tiêu
Thiên niên kỷ trước thời hạn. Tuy nhiên, những năm gần đây, kinh tế Việt Nam đối mặt với
nhiều bất ổn: lạm phát, nhập siêu, nợ công, bội chi ngân sách… tăng cao; tốc độ tăng
trưởng kinh tế có xu hướng chậm lại. Trong bối cảnh như vậy, hai vấn đề lớn đang được
đặt ra cho các nhà hoạch định chính sách cũng như các nhà nghiên cứu:
Thứ nhất, kinh tế Việt Nam đang chứng kiến một thực tế là hiệu suất đầu tư giảm
sút và chi phí trung gian tăng cao, được phản ánh rõ qua chỉ số ICOR tăng từ mức bình
quân 4,89 trong giai đoạn 2000-2005 lên 7,17 trong giai đoạn 2006-2010. Với mục đích
duy trì tốc độ tăng trưởng cao, chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa đã được nới lỏng.
Tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và tín dụng trong giai đoạn 2006-2010 tăng nhanh
hơn giai đoạn 2000-2005; bội chi ngân sách cũng vượt trên 5% GDP. Hệ quả là nền kinh tế
đã trở nên quá “nóng” (tốc độ tăng trưởng sản lượng thực tế vượt quá sản lượng tiềm năng)
và vì thế lạm phát gia tăng, các cân đối vĩ mô bị phá vỡ. Đánh giá, đo lường sản lượng
tiềm năng làm cơ sở để xác định mục tiêu tăng trưởng kinh tế hợp lý trong những năm tới
đây trở thành một yêu cầu không thể thiếu trong việc hoạch định và điều hành chính sách
kinh tế vĩ mô.
Thứ hai, tiến trình phục hồi kinh tế thế giới sau cuộc khủng hoảng tài chính và suy
thoái kinh tế toàn cầu 2008-2009 đang bị đe dọa nghiêm trọng. Các quốc gia châu Âu đang
có nguy cơ bị nhấn chìm trong cuộc đại khủng hoảng nợ công và khu vực đồng tiền chung
châu Âu có nguy cơ bị tan vỡ; kinh tế Mỹ đang phải vật lộn với nạn thất nghiệp và tình
trạng suy giảm lòng tin của thị trường vào hiệu lực chính sách. Ngoài ra, tình trạng mất cân
đối trên bình diện toàn cầu cũng như bất ổn về an ninh, chính trị ở khu vực Trung Đông và
Bắc Phi càng làm cho kinh tế thế giới thêm nhiều khó khăn. Kinh tế Việt Nam chắc chắn sẽ
chịu tác động không nhỏ từ những bất ổn của kinh tế thế giới.
Là cơ quan được giao chức năng giám sát thị trường tài chính (ngân hàng, chứng
khoán, bảo hiểm), giúp Thủ tướng Chính phủ thực hiện giám sát chung thị trường tài chính,
điều phối chính sách kinh tế vĩ mô, UBGSTCQG tiến hành nghiên cứu, xây dựng Báo cáo
“Triển vọng kinh tế Việt Nam 2012-2013”. Bên cạnh việc đem lại một cái nhìn tổng

quan về tình hình kinh tế Việt Nam giai đoạn vừa qua, Báo cáo tập trung phân tích, ước
tính sản lượng tiềm năng cũng như dự báo triển vọng kinh tế thế giới và mức độ ảnh hưởng
đến kinh tế Việt Nam, trên cơ sở đó khuyến nghị những chính sách, giải pháp nhằm thực
hiện mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, duy trì tăng trưởng hợp lý và đảm
bảo an sinh xã hội. Một số phát hiện quan trọng và những khuyến nghị chính sách chủ yếu
nêu trong báo cáo đã được UBGSTCQG tổng hợp trình Chính phủ.
Đây là lần đầu tiên UBGSTCQG lập báo cáo đánh giá triển vọng kinh tế Việt Nam
và được thực hiện trong điều kiện không ít khó khăn do hạn chế về nguồn dữ liệu, về
nguồn nhân lực, về giới hạn thời gian, do vậy báo cáo không tránh khỏi khiếm khuyết và
chắc chắn còn nhiều hạn chế. UBGSTCQG và Nhóm nghiên cứu hy vọng báo cáo này là
một tài liệu tham khảo hữu ích cho các cơ quan hoạch định, điều hành chính sách cũng như
các nhà nghiên cứu, các định chế tài chính, các doanh nghiệp quan tâm đến tình hình và
triển vọng kinh tế của Việt Nam.
UBGSTCQG và Nhóm nghiên cứu mong nhận được góp ý của các chuyên gia, các
nhà kinh tế cũng như các cơ quan để UBGSTCQG và Nhóm nghiên cứu có những báo cáo
chất lượng hơn trong tương lai.
Hà Nội, tháng 12 năm 2011
Chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính
Quốc gia
TS. Vũ Viết Ngoạn
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CAR Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu
CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CPI Chỉ số giá tiêu dùng
CSTK Chính sách tài khóa
CSTT Chính sách tiền tệ
CTCK Công ty chứng khoán
EU Liên minh châu Âu
FDI Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
FII Vốn đầu tư gián tiếp

GDP Tổng sản phẩm quốc nội
GO Tổng sản lượng
GTGD Giá trị giao dịch
HP filter Phương pháp lọc Hodrick-Prescott
ICOR Hệ số tăng vốn - sản lượng
IIP Chỉ số phát triển công nghiệp
IMF Quỹ Tiền tệ Quốc tế
KLGD Khối lượng giao dịch
LC Thư tín dụng
LDR Tỷ lệ cho vay/huy động vốn
LNH Liên ngân hàng
M2 Tổng phương tiện thanh toán
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTW Ngân hàng trung ương
NSNN Ngân sách nhà nước
REER Tỷ giá thực đa phương
RER Tỷ giá thực song phương
SBV Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
SUT Bảng Nguồn và Sử dụng
TCTD Tổ chức tín dụng
TCTK Tổng cục Thống kê
TFP Năng suất nhân tố tổng hợp
TTCK Thị trường chứng khoán
UBGSTCQG Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia
USD Đồng đôla Mỹ
VA Giá trị gia tăng
VND Việt Nam đồng
WB Ngân hàng Thế giới
WTO Tổ chức Thương mại Thế giới
XNK Xuất nhập khẩu

PHẦN I: TỔNG QUAN KINH TẾ VIỆT NAM
I. Tăng trưởng
1. Tăng trưởng kinh tế
Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân thời kỳ 2006-2010 đạt
7,02%/năm. Trong 3 khu vực, khu vực nông nghiệp tăng trung bình 3,5%/năm; khu vực
công nghiệp và khu vực dịch vụ đều tăng trung bình trên 7,5%/năm.
Kết quả trên đã đưa GDP năm 2010 (giá so sánh) cao gấp 2 lần so với năm 2000;
GDP năm 2010 (giá thực tế) đạt trên 101 tỷ USD; GDP bình quân đầu người ước đạt 1.160
USD, vượt mục tiêu kế hoạch và đưa Việt Nam trở thành nước đang phát triển có mức thu
nhập trung bình. Ước tính GDP năm 2011 đạt xấp xỉ 119 tỷ USD và GDP bình quân đầu
người sẽ tăng lên mức xấp xỉ 1.300 USD.
Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2006 đến nay thấp hơn khá nhiều so với
mức bình quân 7,38%/năm giai đoạn 2000-2005 và có xu hướng giảm dần: từ mức bình quân
8,34%/năm giai đoạn 2006-2007 xuống mức 6,14%/năm giai đoạn 2008-2010 và đạt 5,89%
năm 2011.
Hình 1: Tốc độ tăng trưởng GDP 2000-2011
Đơn vị: %
Nguồn: TCTK.
2. Đầu tư và Thương mại
2.1. Đầu tư
2.1.1. Tổng vốn đầu tư và cơ cấu đầu tư
Trong giai đoạn 2006 đến nay, mặc dù nền kinh tế gặp nhiều khó khăn nhưng Việt
Nam tiếp tục huy động được lượng vốn đầu tư lớn, góp phần vào việc duy trì tốc độ tăng
trưởng ở mức khá cao. Theo số liệu của TCTK, vốn đầu tư toàn xã hội có xu hướng tăng
nhanh qua các năm. Năm 2011, tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 877,9 nghìn tỷ đồng, tăng
gấp 2,2 lần so với năm 2006 (398,9 nghìn tỷ đồng)
1
. Với tốc độ tăng cao như vậy, tỷ lệ vốn
đầu tư/GDP tiếp tục duy trì ở mức cao (trên 40%) trong cả giai đoạn 2006-2010; tuy nhiên,
1 Nếu loại trừ yếu tố giá, vốn đầu tư xã hội năm 2010 tăng 49% so với năm 2006.

8
cùng với sự giảm tốc đầu tư theo tinh thần Nghị quyết 11 về giảm tổng cầu nhằm kiểm soát
lạm phát, tỷ lệ này đã giảm mạnh xuống còn 34,6% năm 2011.
Hình 2: Tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội/GDP giai đoạn 2006-2011
Đơn vị: %
Nguồn: TCTK.
Về tỷ trọng, mặc dù có xu hướng giảm nhưng khu vực kinh tế nhà nước vẫn chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội (từ mức trung bình 54,1% trong giai đoạn 2000-
2005 xuống 39,1% trong giai đoạn 2006-2010; năm 2011 tỷ trọng này là 38,9%). Đáng chú ý,
tỷ trọng của khu vực kinh tế ngoài nhà nước cũng có xu hướng giảm qua các năm (từ mức
38,1% năm 2006 xuống còn 36,1% năm 2010 và 35,2% năm 2011); trong khi đó, tỷ trọng của
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài lại có xu hướng tăng (từ mức 16,2% năm 2006 lên mức
25,9% năm 2011).
Hình 3: Tỷ trọng đầu tư của các khu vực kinh tế trong tổng đầu tư toàn xã hội
giai đoạn 2006-2011
Đơn vị: %
Nguồn: Tính toán từ số liệu của TCTK.
2.1.2. Mối quan hệ giữa tiết kiệm và đầu tư S-I
Trong những năm gần đây, mất cân đối giữa tiết kiệm và đầu tư ngày càng trầm
trọng. Trong giai đoạn 2007-2009, mức chênh lệch đã lên đến trên 10% GDP, cao hơn rất
nhiều so với giai đoạn từ 2002-2006
2
. Lý do là trong khi tỷ lệ tiết kiệm khá ổn định, đầu tư
lại có xu hướng tăng nhanh. Bên cạnh đó, nếu trước năm 2007, phần lớn thâm hụt tiết kiệm
của khu vực công (Sg-Ig) được tài trợ bởi thặng dư tiết kiệm của khu vực tư nhân (Sp-Ip)
thì từ năm 2007 trở đi, cả khu vực tư nhân cũng chịu thâm hụt tiết kiệm, kéo theo đó chênh
lệch S-I của cả nền kinh tế tăng nhanh
3
.
Phần thiếu hụt này phải dựa vào nguồn bên ngoài để bù đắp, nhưng nguồn này là

không vững chắc. Do liên tục cần tài trợ từ bên ngoài nên nợ quốc gia (mọi nguồn) cũng
2
Nguyễn Quang Thái (2010) – Chuyên đề số 2/2011. Hội Khoa học kinh tế Việt Nam.
3 Nguyễn Đức Thành (2011) – Báo cáo “Nền kinh tế trước ngã ba đường”.
9
như nợ công (cả trong và ngoài nước) tăng lên nhanh chóng; đồng thời, thâm hụt tài khoản
vãng lai cũng tăng mạnh
4
.
Hình 4: Tiết kiệm - đầu tư và nhập siêu của nền kinh tế giai đoạn 2005-2010
5
Đơn vị: % GDP
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Niên giám thống kê 2010 (trang 140).
2.1.3. Hiệu quả đầu tư
Trong giai đoạn 2006 đến nay, nhìn chung hiệu quả đầu tư của nền kinh tế có xu
hướng giảm, thể hiện qua: (i) hệ số ICOR liên tục tăng (ngoại trừ năm 2011); (ii) chi phí
trung gian tăng nhanh; (iii) đóng góp của nhân tố lao động và TFP vào tăng trưởng kinh tế
đạt mức thấp. Cụ thể:
- Trong giai đoạn 2006-2010, tỷ lệ tổng vốn đầu tư toàn xã hội/GDP luôn ở mức
cao, trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế thực chỉ đạt trung bình khoảng 7%/năm đã khiến
cho hệ số ICOR trung bình giai đoạn tăng cao, lên mức 7,17 (cao hơn khá nhiều so với
ICOR của giai đoạn 2000-2005
6
và ICOR của các nước đang phát triển khác
7
).
Đặc biệt vào năm 2009, chỉ số này đã lên tới mức 13,51, báo động về hiệu quả đầu
tư bị sụt giảm một cách nghiêm trọng, dẫn đến nhiều hệ lụy tiêu cực đối với nền kinh tế.
Hình 5: Tốc độ tăng GDP thực tế và hệ số ICOR giai đoạn 2006-2010
Đơn vị: %, lần.

Nguồn: GSO, UBGSTCQG.
4 Bản chất của thâm hụt vãng lai (và thâm hụt thương mại) bắt nguồn từ cấu trúc kinh tế, trong đó cốt lõi
là sự mất cân đối giữa tiết kiệm và đầu tư: CAB = S-I = (Sp-Ip) + (Sg-Ig).
5 S= GDP + thu nhập tài sản ròng từ nước ngoài + thu nhập chuyển giao ròng + thuế trực thu – (C + G).
Tuy nhiên, do hạn chế về nguồn số liệu, Nhóm nghiên cứu tính toán sơ bộ như sau: S ~ GDP – C.
6 ICOR được tính theo công thức: ICOR = Δk/ΔGDP, trong đó k là tích lũy vốn (capital stock). Tuy
nhiên, do hạn chế về số liệu khấu hao nên Nhóm nghiên cứu tính toán theo công thức ICOR =
(I/GDP)/ΔGDP. Theo cách tính này, hệ số ICOR bình quân của giai đoạn 2000-2005 là 4,89 (tính theo giá
so sánh năm 1994).
7 Cụ thể, hệ số ICOR của các nước (cùng giai đoạn phát triển với Việt Nam) như sau: Malaixia trung bình
dưới 5 trong giai đoạn 2001-2008; Inđônêxia trung bình là 4,4 trong giai đoạn 2001-2008; Thái Lan trung
bình là 4,8 trong giai đoạn 2001-2008. (Nguồn; Fukumari Kimura, Soji Samikawa, 4/2009).
10
- Trong giai đoạn 2006-2010, trong khi tổng giá trị sản xuất tăng trung bình khoảng
11%/năm thì tốc độ tăng giá trị gia tăng chỉ vào khoảng 6%. Điều này cho thấy chi phí trung
gian đang tăng lên nhanh chóng và hiệu quả sản xuất, kinh doanh đang giảm sút.
Hình 6: Tốc độ tăng Tổng sản lượng (GO) và Giá trị gia tăng (VA) của nền kinh tế
giai đoạn 2001-2010
Đơn vị: %
- Trong giai đoạn 2006-2011, theo nhiều nghiên cứu, nền kinh tế Việt Nam chủ yếu
vẫn tăng trưởng dựa vào vốn đầu tư (đóng góp của nhân tố vốn chiếm trên 50%, thậm chí
gần 60%); trong khi đóng góp của nhân tố lao động và TFP
8
còn thấp (tương ứng dưới 20%
và 30%)
9
. Đáng chú ý, phần đóng góp của nhân tố lao động và TFP lại có xu hướng giảm
dần. Theo đó, mô hình tăng trưởng hiện nay là tăng trưởng theo chiều rộng (dựa trên sự
mở rộng nguồn vốn đầu tư), chưa chú trọng đến tăng trưởng theo chiều sâu (tăng trưởng
dựa trên việc cải thiện năng suất, chất lượng, năng lực cạnh tranh…).

Hình 7: Đóng góp của các nhân tố vốn, lao động và TFP
vào tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2000-2005 và 2006-2010
Đơn vị: %
Nguồn: Bùi Trinh (2011).
2.2. Thương mại
2.2.1. Tổng quan hoạt động xuất nhập khẩu
a) Xuất khẩu
8 Năng suất nhân tố tổng hợp thể hiện sự phát triển của khoa học, công nghệ, tăng năng suất lao động…
9 Theo tính toán của tác giả Bùi Trinh, trong giai đoạn 2000-2005, mức đóng góp của lao động và TFP
vào tăng trưởng GDP tương ứng là 21,28% và 26,64%; trong giai đoạn 2006-2010, mức đóng góp của lao
động và TFP vào tăng trưởng GDP giảm khá mạnh, tương ứng là 15,62% và 7,53%.
11
Thời kỳ 2006 đến nay, hoạt động xuất nhập khẩu đạt được những bước tiến mạnh,
một phần nhờ vào việc Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào thị trường quốc tế
10
.
Trong giai đoạn 2006-2010, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa trung bình đạt 56 tỷ USD/năm,
bằng 2,5 lần con số của thời kỳ 2001-2005; tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu bình quân đạt
17,2%/năm. Năm 2011, kim ngạch xuất khẩu tăng 33,3%, lên mức 96,26 tỷ USD.
Nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam có kim ngạch xuất khẩu lớn: từ 4 mặt hàng
có kim ngạch xuất khẩu trên 3 tỷ USD năm 2006 đã tăng lên 8 mặt hàng năm 2010. Độ mở
của nền kinh tế trong giai đoạn này có xu hướng tăng, tỷ lệ tổng kim ngạch xuất nhập
khẩu/GDP năm 2010 ở mức 155,4% và ước đạt 169,8% vào năm 2011.
b) Nhập khẩu
Thời kỳ 2006 đến nay, kim ngạch nhập khẩu có tốc độ tăng cao, đặc biệt trong hai
năm đầu sau khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO: bình quân đạt 68,5 tỷ USD/năm,
bằng 2,6 lần con số của thời kỳ 5 năm trước và tăng bình quân 18%/năm. Năm 2011, kim
ngạch nhập khẩu đạt 105,77 tỷ USD, tăng 25% so với năm 2010.
Nhập siêu giai đoạn 2006-2010 tăng mạnh, bình quân đạt 12,5 tỷ USD/năm, bằng 3,3
lần con số 3,8 tỷ USD của thời kỳ 5 năm trước. Tỷ lệ nhập siêu/xuất khẩu tăng nhanh, từ mức

17,3% của thời kỳ 2001-2005 lên mức 22,3% giai đoạn 2006-2010; tuy nhiên, tỷ lệ này giảm
mạnh trong năm 2011, đạt 9,9%.
Hình 8: Kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu và nhập siêu giai đoạn 2006-2011
Đơn vị: triệu USD
Nguồn: Tính toán từ số liệu của TCTK.
2.2.2. Nghiên cứu chỉ số lan tỏa và một số gợi ý chính sách
Như trên đã nêu, nhập siêu có xu hướng tăng nhanh cả về khối lượng và tốc độ.
Theo nhiều nghiên cứu, có nhiều nguyên nhân gây ra tình trạng này: tiêu dùng trong nước
tăng nhanh, khả năng sản xuất và xuất khẩu còn hạn chế, năng lực cạnh tranh của hàng
xuất khẩu còn yếu, Việt Nam cần nhập khẩu nhiều máy móc thiết bị, xăng dầu… Tuy
nhiên, để đi sâu chi tiết và lượng hóa xem ngành, lĩnh vực nào chủ yếu gây ra nhập siêu,
cần tính toán chỉ số lan toả về kinh tế và chỉ số kích thích nhập khẩu trên cơ sở phân tích
cấu trúc của nền kinh tế thông qua bảng Cân đối liên ngành (bảng I/O) (xem Phụ lục 3).
10 Tháng 1/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO.
12
Kết quả tính toán cho thấy, trong số 16 nhóm ngành chính, chỉ có 2 nhóm ngành có
chỉ số lan toả về kinh tế cao hơn 1 và chỉ số kích thích nhập khẩu nhỏ hơn 1 (nhóm ngành
nông nghiệp và nhóm ngành công nghiệp chế biến sản phẩm từ nông nghiệp). Hầu hết các
ngành chế biến chế tạo đều có chỉ số kích thích nhập khẩu rất cao, cho thấy các ngành này
càng phát triển thì càng kích thích mạnh nhập khẩu.
Nguyên nhân của tình trạng nhập siêu không phải do nhu cầu tiêu dùng cuối cùng vì
nhu cầu tiêu dùng cuối cùng hàng nhập khẩu chỉ chiếm chưa tới 10% trong tổng số nhập
khẩu; chính nhu cầu hàng hóa cho sản xuất mới là nguyên nhân chính gây nhập siêu. Nền
công nghiệp chế biến chế tạo của Việt Nam còn nhiều hạn chế, công nghiệp phụ trợ kém
phát triển, sản xuất chủ yếu mang tính gia công nên đã tạo ra sự phát triển nhanh về số
lượng trong khi chất lượng ít có sự cải thiện. Hầu hết máy móc, nguyên vật liệu chính đều
phải nhập khẩu. Hiệu quả sản xuất ngày càng giảm sút, thể hiện ở việc tỷ lệ chi phí trung
gian trên giá trị sản xuất liên tục tăng lên.
Từ những phân tích trên, có thể thấy, rất cần có sự thay đổi về chính sách thương
mại, ví dụ: cần hướng đầu tư vào những ngành có hệ số lan toả kinh tế cao và chỉ số kích

thích nhập khẩu thấp để phát huy lợi thế (ví dụ nhóm ngành nông nghiệp và công nghiệp
chế biến sản phẩm từ nông nghiệp); đồng thời, cùng với biện pháp tăng xuất khẩu để giảm
nhập siêu, cần nghiên cứu những biện pháp mang tính dài hạn như: tăng hiệu quả đầu tư,
tăng năng lực cạnh tranh, đặc biệt là tăng cường phát triển công nghiệp phụ trợ để tăng
giá trị gia tăng sản xuất trong nước…
II. Lạm phát
Trong giai đoạn 2006 đến nay, lạm phát của Việt Nam nhìn chung đều ở mức 2 con
số (ngoại trừ năm 2009) với mức tăng trung bình là 11,5%/năm, cao gấp hơn 2 lần mức
tăng 5,2%/năm của giai đoạn 2001-2005. Nhìn vào đồ thị có thể thấy, lạm phát trong vòng
hơn 10 năm trở lại đây phân chia thành hai giai đoạn khá rõ nét.
Trong suốt thời gian qua, lạm phát là vấn đề dai dẳng và gây tổn thương nhiều nhất
tới kinh tế Việt Nam khi thường xuyên cao hơn, kéo dài lâu hơn và dao động mạnh hơn so
với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Hình 9: Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng CPI của Việt Nam giai đoạn 2001 đến nay
Đơn vị: %
Nguồn: TCTK.
13
Qua nghiên cứu của UBGSTCQG, có thể thấy, lạm phát cao trong thời gian là kết
quả của nhiều nguyên nhân, bao gồm:
+ Lạm phát nhập khẩu: Do là nền kinh tế có độ mở lớn
11
nên những cú sốc giá quốc
tế, đặc biệt là giá nhiên liệu và lương thực-thực phẩm, đã góp phần làm tăng CPI của Việt
Nam. Tuy nhiên, ảnh hưởng của giá thế giới đến giá cả trong nước là có mức độ và chưa
phải là nhân tố quyết định làm CPI tăng cao. Bằng chứng là nhiều quốc gia trong khu vực
cũng chịu chung tác động của giá cả quốc tế nhưng mức độ lạm phát thấp hơn nhiều so với
Việt Nam
12
.
+Lạm phát chi phí đẩy: lạm phát trong nước chịu sự tác động của chi phí đẩy bao

gồm cả việc điều chỉnh tỷ giá (theo tính toán của UBGSTCQG, việc điều chỉnh tăng tỷ giá
9,3% vào tháng 2/2011 có thể khiến CPI năm 2011 tăng thêm 1,2%.), điều chỉnh lương và
điều chỉnh giá một số mặt hàng cơ bản (theo tính toán của UBGSTCQG, việc điều chỉnh
giá điện đầu năm 2011 (18%) có thể khiến CPI năm 2011 tăng thêm 0,75%; giá xăng tăng
thêm 20% khiến CPI năm 2011 tăng thêm khoảng 0,5%.). Nhưng ảnh hưởng của chi phí
đẩy ở vòng 1 đến lạm phát chỉ ở mức độ nhất định, chưa phải là yếu tố quyết định làm lạm
phát tăng cao.
+ Lạm phát cầu kéo: lạm phát cầu kéo ở Việt Nam biểu hiện ở việc tổng cầu tăng
quá nhanh, thể hiện qua hai khía cạnh: (i) Tổng phương tiện thanh toán
13
(M2) luôn duy trì
tốc độ tăng cao (M2 tăng 22,8%/năm giai đoạn 2000-2005 và 29,5%/năm giai đoạn 2006-
2010), khiến “độ sâu tài chính” (tính bằng tỷ số M2/GDP) tăng vọt từ mức 97,6% năm
2006 lên tới mức 133,8% năm 2010. Trong giai đoạn 2007-2010, M2 đã tăng 2 lần, trong
khi đó GDP danh nghĩa tăng 1,73 lần và GDP thực tế chỉ tăng 1,2 lần; (ii) sản lượng thực
tế trong những năm gần đây đã tăng quá cao so với tiềm năng
14
, từ đó gây ra lạm phát.
+ Một số yếu tố đặc thù khác: (i) Tình trạng phát triển quá nóng của thị trường bất
động sản, thị trường chứng khoán, tình trạng đôla hóa, vàng hóa nghiêm trọng khiến một
lượng vốn lớn của xã hội không được đầu tư trực tiếp cho sản xuất; (ii) “Kỳ vọng lạm
phát” cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực, tạo thành “lạm phát tâm lý”.
11 Tỷ lệ kim ngạch XNK/GDP lên đến mức 170%; tỷ lệ kim ngạch nhập khẩu/GDP ở mức 89%.
12 Trong giai đoạn 2007-2010, tỷ lệ lạm phát bình quân của Trung Quốc vào khoảng 3,32%/năm; Thái
Lan 3,2%/năm; Malaixia 2,4%/năm; Inđônêxia 6,5%/năm; Philipin 4,8%/năm (nguồn: WB).
13 Tổng phương tiện thanh toán (M2) là biến số có sự quan hệ chặt chẽ với tổng cầu trong nền kinh tế,
thường được sử dụng để đánh giá biến động tổng cầu của nền kinh tế.
14 Theo một số nghiên cứu gần đây, sản lượng thực tế của Việt Nam từ năm 2007 đã vượt quá sản lượng
tiềm năng từ 0,5-1,5 điểm%.
14

Tóm lại, hiệu quả đầu tư giảm sút, hệ số ICOR tăng cao, do đó để duy trì tốc độ tăng
trưởng kinh tế buộc phải gia tăng đầu tư dẫn tới tăng tổng cầu, được biểu hiện qua việc mở
rộng M2 và tín dụng quá mức, vượt quá khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, nhất là sau
khi thực hiện gói kích cầu. Đây chính là nguyên nhân sâu xa và chủ yếu gây ra lạm phát ở
Việt Nam. Yếu tố tâm lý của người dân do nhiều nguyên nhân đã trở thành chất xúc tác rất
mạnh làm gia tăng mức độ lạm phát mỗi khi có một tác nhân dù nhỏ hay lớn (ví dụ điều
chỉnh giá, điều chỉnh lương…).
III. Chính sách tài khóa và nợ công
Quy mô thu - chi ngân sách nhà nước (NSNN) tăng nhanh qua các năm. Tính trung
bình, thu NSNN giai đoạn 2006-2010 tương đương 27,2% GDP, cao hơn con số 24,6%
GDP giai đoạn 2001-2005; chi NSNN tương đương 36,3% GDP, cao hơn con số 32,6%
GDP giai đoạn 2001-2005. Riêng năm 2011, thu NSNN tương đương 26,6% GDP, chi
NSNN tương đương 31,4% GDP, bội chi tương đương 4,9% GDP.
Hình 10: Quy mô Thu - Chi NSNN giai đoạn 2001-2005 và 2006-2010
Đơn vị: % GDP
Nguồn: Bộ Tài chính.
Trong thời gian qua, chính sách tài khóa (CSTK) được mở rộng đáng kể, thể hiện ở
việc tổng vốn đầu tư từ NSNN giai đoạn 2006-2010 cao gấp 2,3 lần so với giai đoạn 2001-
2005. Năm 2011, tổng vốn đầu tư từ NSNN tăng 6,7% so với năm 2010. Ưu điểm của
CSTK trong giai đoạn qua là linh hoạt chuyển hướng chính sách nhằm đối phó với tác
động từ cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Việc thực thi CSTK nới
lỏng, đặc biệt trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu
15
, đã tác động tích cực
tới duy trì tốc độ tăng trưởng và giúp Việt Nam sớm thoát khỏi suy thoái
16
.
Tuy nhiên, việc mở rộng CSTK nhanh cũng góp phần khiến lạm phát tăng cao trở
lại và làm bội chi ngân sách, nợ công tăng nhanh
17

. Dư nợ nước ngoài chiếm 30% trong cơ
cấu nợ công và dư nợ nội địa phần lớn là trái phiếu chính phủ do các NHTM nắm giữ, vì vậy
15 Gói kích thích kinh tế, bao gồm gói đầu tư công, gói chính sách thuế và gói an sinh xã hội với tồng giá
trị lên tới trên 100 nghìn tỷ đồng.
16 Tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 2006-2010 đạt 7,02%/năm. Năm 2009, tốc độ tăng trưởng GDP
giảm xuống còn 5,32%, tuy nhiên Việt Nam là 1 trong 12 nước có tốc độ tăng trưởng dương trong bối
cảnh khủng hoảng được đánh giá là tồi tệ nhất trong lịch sử.
17Bội chi ngân sách tăng lên mức 5,6% GDP giai đoạn 2006-2010 so với 4,9% GDP giai đoạn 2001-
2005, trong khi nợ công tăng từ mức 33,8% GDP năm 2007 lên 57,3% năm 2010, tăng 23,5 điểm%. Trong
năm 2011, nợ công giảm xuống mức 54,6% GDP do khoản chi trả nợ tăng 15.000 tỷ đồng so với dự toán.
15
biến động tỷ giá của những đồng tiền có tỷ trọng lớn trong cơ cấu nợ nước ngoài cũng như sự
ổn định và hiệu quả của hệ thống ngân hàng có tác động lớn đến tính an toàn của nợ công. Bên
cạnh đó, việc thực thi chính sách thời gian qua có một số hạn chế: (i) mức huy động cho
NSNN cao (mức huy động NSNN thực hiện 27,2% GDP, cao hơn đến 4 điểm% so với
mức kế hoạch 23% GDP) trong điều kiện nền kinh tế khó khăn đã làm tăng thêm gánh
nặng của các doanh nghiệp; (ii) NSNN thâm hụt cao và liên tục trong nhiều năm được bù
đắp một phần bằng việc phát hành trái phiếu đã làm tăng M2. Trong những năm gần đây,
đặc biệt trong giai đoạn 2009-2010, nhằm ngăn chặn đà suy giảm kinh tế do ảnh hưởng của
cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu, Việt Nam đã thực hiện chương trình kích cầu, nâng tổng
đầu tư lên rất cao
18
. Để bù đắp thâm hụt ngân sách và có nguồn đầu tư phát triển, Chính
phủ đã phát hành trái phiếu đồng thời bảo lãnh cho 2 ngân hàng chính sách và Tổng công
ty đầu tư phát triển đường cao tốc phát hành trái phiếu với số lượng khá lớn
19
. Việc phát
hành trái phiếu này nếu bán cho công chúng (hộ gia đình và doanh nghiệp) thì không tác
động làm thay đổi M2. Nhưng thực tế số trái phiếu này hầu hết bán cho các tổ chức tín
dụng và các tổ chức tín dụng sử dụng để chiết khấu hoặc bán cho NHNN qua nghiệp vụ thị

trường mở, theo đó đã trở thành một nhân tố làm tăng M2. Nói cách khác, việc phát hành
trái phiếu chính phủ đã được tiền tệ hóa.
Hình 11: Nợ công, nợ nước ngoài, nợ công nước ngoài 2006 – 2010
Đơn vị: % GDP
Nguồn: Bộ Tài chính.
IV. Thị trường tài chính
1. Thị trường chứng khoán
Trong những năm 2006-2007, thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển khá
mạnh. Cả hai chỉ số VnIndex và HnxIndex đều đã đạt đỉnh vào đầu năm 2007 với các mức
lần lượt là 1.158,3 điểm và 459,4 điểm. Giai đoạn tiếp theo, do chịu ảnh hưởng từ khủng
hoảng kinh tế thế giới cũng như những bất ổn từ kinh tế vĩ mô trong nước, thị trường đi
18Vốn đầu tư của nhà nước (bao gồm cả đầu tư phát triển từ NSNN và phát hành trái phiếu chính phủ)
giai đoạn 2006-2010 đạt 832 nghìn tỷ đồng, gấp 2,72 lần so với giai đoạn 2000-2005 (304,8 nghìn tỷ
đồng).
19Năm 2006: 72.232 tỷ đồng; năm 2007: 107.733 tỷ đồng; năm 2008: 77.824 tỷ đồng; năm 2009: 77.608
tỷ đồng; năm 2010: 145.617 tỷ đồng.
16
xuống mạnh trong năm 2008 và nửa đầu năm 2009. Những dấu hiệu phục hồi được xác lập
vào nửa cuối của năm 2009 với mức tăng khá cả về chỉ số cũng như khối lượng giao dịch,
nhưng sau đó thị trường trở lại với sự giằng co với xu thế giảm trong suốt năm 2010 và
giảm mạnh trong 2011. Những điểm đáng chú ý của thị trường chứng khoán năm 2011 bao
gồm:
- Thị trường chứng khoán sụt giảm mạnh, thậm chí thiết lập mức đáy lịch sử mới.
Tính chung cả năm 2011, chỉ số VnIndex và HnxIndex giảm lần lượt 27,6% (từ mức
485,97 điểm xuống còn 351,6 điểm) và 49,9% (từ mức 113,4 điểm xuống còn 56,8 điểm)
so với đầu năm. Nếu loại trừ tác động của các cổ phiếu lớn bị thao túng giá (BVH, MSN,
VIC, VNM, VPL) thì chỉ số VnIndex đang xấp xỉ mức đáy 235,5 của tháng 2/2009. Giá trị
vốn hóa của thị trường chứng khoán chỉ còn tương đương hơn 20% GDP.
- Thanh khoản thị trường thấp hơn nhiều so với năm trước (KLGD và GTGD sụt
giảm), cụ thể: tính đến 12/2011, KLGD bình quân phiên năm 2011 của cả hai sàn HSX và

HNX chỉ là 59,7 triệu cổ phiếu, giảm 27,5% so với năm 2010; GTGD bình quân phiên tính
đến 12/2011 là 798,3 tỷ đồng, giảm 64,7% so với năm 2010.
- Nhiều công ty chứng khoán (CTCK) thua lỗ và thậm chí đã có một số công ty lâm
vào tình trạng mất thanh khoản
20
. Tính đến 9/2011, 65 CTCK thua lỗ và 71 CTCK có lỗ
lũy kế.
- Nhà đầu tư nước ngoài trong thời gian gần đây đã hầu như không quan tâm đến
TTCK Việt Nam khi duy trì trạng thái bán ròng liên tiếp kể từ tháng 8/2011 đến nay (trừ
tháng 11) với tổng giá trị bán ròng lên đến hơn 2.000 tỷ đồng; cá biệt có phiên giao dịch
khối ngoại bán ròng ở mức kỷ lục 710 tỷ đồng.
Có thể thấy, nếu kinh tế vĩ mô không tạo được lực đẩy và nếu không có chính sách
hỗ trợ thị trường chứng khoán cũng như các biện pháp củng cố lòng tin của nhà đầu tư thì
năm 2012 thị trường có thể tiếp tục sụt giảm và như vậy sẽ làm tăng rủi ro chéo lên hệ
thống ngân hàng, thị trường ngoại hối và gia tăng áp lực mất giá VNĐ.
Hình 12: Chỉ số VnIndex, HnxIndex và khối lượng giao dịch
giai đoạn giai đoạn 2006 đến nay
Đơn vị: điểm; triệu cổ phiếu/phiên
20 Chỉ trong vòng hơn 1 tháng kể từ 1/11 đến 5/12/2011, CTCK SME đã hai lần lâm vào tình trạng thiếu
hụt thanh khoản; CTCK Tràng An cũng bị mất khả năng thanh toán với giá trị giao dịch 7 tỷ đồng.
17
18
2. Thị trường tiền tệ: khu vực ngân hàng yếu đi sau nhiều năm tăng trưởng nóng
CSTT trong giai đoạn 2006-2010 có sự mở rộng khá nhanh, cụ thể: tổng phương
tiện thanh toán (M2) tăng bình quân 30,2%/năm, cao hơn mức tăng bình quân 23,2%/năm
giai đoạn 2001-2005; tín dụng cho nền kinh tế tăng bình quân 33,2%/năm, cao hơn mức
tăng bình quân 26,1%/năm của giai đoạn 2001-2005. Theo đó, tỷ lệ M2/GDP đã tăng từ
mức 0,97 lần năm 2006 lên đến 1,34 lần năm 2010 - mức cao so với các nước trong khu
vực; tỷ lệ tín dụng/GDP đã tăng từ 0,71 lần năm 2006 lên mức 1,16 lần năm 2010. Việc mở
rộng quá nhanh CSTT trong khi tăng trưởng kinh tế không tương xứng được xem là một

trong những nguyên nhân dẫn đến lạm phát ở Việt Nam.
Tuy nhiên, trong năm 2011, CSTT thắt chặt đột ngột: mức tăng M2 và tín dụng của
cả năm 2011 ước đạt tương ứng dưới 10% và 12-13%, chỉ bằng 1/3 so với mức tăng trung
bình của các năm trước. Có thể thấy, đây là mức thắt chặt chưa từng có từ trước tới nay,
thấp hơn đáng kể so với mức tăng định hướng đã nêu trong Nghị quyết 11 nhằm hướng tới
giảm tổng cầu
21
. Điều này đã góp phần đáng kể vào việc kéo lạm phát (theo tháng) giảm
tương đối nhanh trong nửa cuối năm 2011, từ đó góp phần tăng giá trị VNĐ và giảm sức ép
lên tỷ giá hối đoái. Tuy nhiên, “cú phanh gấp” này cũng tạo ra nhiều rủi ro cho hệ thống tài
chính – ngân hàng và nền kinh tế, cụ thể: các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn; thanh
khoản của các NHTM và các tổ chức kinh tế bị thách thức nghiêm trọng; thị trường bất
động sản và chứng khoán bị đình trệ.
Bảng 1: Tốc độ tăng cung tiền và tín dụng giai đoạn 2006-2011
Đơn vị: %
Năm 2006 2007 2008 2009 2010
Ước 2011
Tốc độ tăng M2 32,0 41,2 20,3 27,5 29,8 ~ 10%
Tốc độ tăng tín dụng 24,8 48,9 23,4 37,5 31,2 12-13%
M2/GDP danh nghĩa (lần) 0,97 1,16 1,08 1,23 1,34
1,15
Tín dụng/GDP danh nghĩa (lần) 0,71 0,90 0,86 1,06 1,16
1,02
Nguồn: UBGSTCQG.
Thanh khoản của hệ thống ngân hàng ngày càng tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn, biểu hiện
qua việc thị trường LNH thời gian qua có những biến động lớn. Gần đây, thị trường LNH
chứng kiến sự rối loạn chưa từng có khi niềm tin sụt giảm nghiêm trọng. Lần đầu tiên
trong lịch sử hệ thống ngân hàng Việt Nam, vay trên thị trường II phải có thế chấp và điều
đáng quan ngại là tỷ lệ nợ xấu trên thị trường này vẫn tiếp tục tăng nhanh. Hệ quả là hiện
21 Theo Nghị quyết 11, cần bảo đảm tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2011 dưới 20%, tổng phương tiện

thanh toán khoảng 15-16%.
19
tượng chiếm dụng vốn lẫn nhau giữa các ngân hàng diễn ra khá phổ biến, kéo theo hiện
tượng căng thẳng thanh khoản (ban đầu chỉ diễn ra ở một số ngân hảng nhỏ nay đã lan ra
toàn hệ thống ngân hàng); đồng thời căng thẳng thanh khoản từ chỗ chỉ diễn ra với kỳ hạn
dài nay đã diễn ra đối với tất cả các kỳ hạn, kể cả kỳ hạn ngắn. Thanh khoản căng thẳng,
nợ xấu (cả thị trường 1 và thị trường 2) tăng cao làm lãi suất huy động và cho vay không
thể hạ được mặc dù lạm phát đang có xu hướng giảm khá nhanh.
Áp lực thanh khoản cũng có thể được nhìn nhận dựa vào việc chỉ tiêu cho vay/huy
động (LDR) đang có xu hướng tăng cao. Áp lực thanh khoản một mặt đẩy mặt bằng lãi suất
tăng cao do các NHTM cạnh tranh huy động tiền gửi, mặt khác gây nhiều rủi ro cho hệ thống
ngân hàng khi CSTT được thắt chặt để kiềm chế lạm phát. Về nguyên nhân, có thể thấy, việc
tín dụng luôn tăng nhanh hơn M2 cũng góp phần làm tăng áp lực lên thanh khoản của hệ
thống.
Bảng 2: Tỷ lệ cho vay/huy động (LDR) giai đoạn 2008-2011
Đơn vị: %
Năm 2008 2009 2010 Ước 2011
LDR 0,95 1,01 1,01 1,02-1,03
Nguồn: UBGSTCQG.
Chất lượng tài sản của hệ thống ngân hàng ngày một xấu hơn do hệ quả tăng
trưởng tín dụng quá cao trong những năm qua trong khi năng lực quản lý rủi ro thấp và
những bất cập trong điều hành CSTT, lãi suất của cơ quan quản lý nhà nước. Cụ thể là nợ
xấu của toàn hệ thống ngân hàng tính đến hết quý II/2011tăng nhanh lên mức 71,6 nghìn tỷ
đồng (tăng hơn 20 nghìn tỷ đồng so với cuối năm 2010 và tăng 45,1% so với cùng kỳ năm
trước) và gần đây đã tăng lên mức 85 nghìn tỷ đồng. Tốc độ tăng trung bình của nợ xấu
trong 6 tháng đầu năm 2011 là 7,3%/tháng, cao gấp đôi mức bình quân tháng của năm
2010. Nợ xấu tăng nhanh trong khi tín dụng tăng thấp cho thấy chất lượng tín dụng đang
suy giảm và phản ánh những khó khăn của doanh nghiệp trong năm 2011, làm tăng rủi ro
tín dụng cho hệ thống ngân hàng.
Tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ cũng tăng mạnh, lên mức 2,88% vào tháng 6/2011 và gần

đây tăng mạnh lên mức 3,39% (cao hơn 1,2 điểm% so với cuối năm 2010). Các nhóm nợ
xấu đều có xu hướng tăng mạnh, đặc biệt tỷ trọng của nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất
vốn) trong tổng nợ xấu đã tăng lên trên 50%, cho thấy nợ xấu có xu hướng ngày càng xấu
hơn. Nợ xấu tăng lên trong khi số dư dự phòng rủi ro tín dụng không tăng tương xứng đang
tiềm ẩn nhiều rủi ro: tỷ lệ số dư dự phòng rủi ro tín dụng/nợ xấu có xu hướng giảm, từ mức
81,1% cuối năm 2010 xuống chỉ còn 67,1% tính đến hết tháng 6/2011.
20

×