Tải bản đầy đủ (.ppt) (54 trang)

CÁC HÌNH THỨC TỔ CHỨC SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.15 MB, 54 trang )


LỚP ĐỊA 2006B
THẢO LUẬN : CÁC HÌNH THỨC TỔ CHỨC SẢN XUẤT
NÔNG NGHIỆP Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
GVHD: NGUYỄN THÀNH NHÂN
SVTH: TỔ 3

CÁC THÀNH VIÊN TRONGTỔ
1. LƯƠNG VĂN THANH
2. NGUYỄN THỦY TIÊN
3. HOÀNG THỊ MỸ THÀNH
4. PHẠM HỒNG TUÂN
5. NGUYỄN NGỌC HIỀN
6. TRẦN ĐÔNG NHỰT
7. PHẠM THỊ HỢI
8. NGUYỄN THỊ LAN PHƯƠNG
9. NGUYỄN THỊ TRÚC LINH
10. TRẦN KHÁNH HÙNG

Khái niệm về tổ chức lãnh thổ
theo hình thức nông nghiệp

Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp được hiểu là một hệ
thống liên kết không gian của các ngành, các xí nghiệp
nông nghiệp và các lãnh thổ dựa trên cơ sở các qui
trình kỹ thuật mới nhất, chuyên môn hoá, tập trung
hoá, liên hợp hoá và hợp tác hoá sản xuất cho phép sử
dụng có hiệu quả nhất sự khác nhau theo lãnh thổ về
các điều kiện tự nhiên, kinh tế, nguồn lao động và đảm
bảo năng suất lao động xã hội cao nhất.


♫ ♫

CÁC HÌNH THỨC TỔ CHỨC
LÃNH THỔ
NÔNG NGHIỆP

HTTCLTNN

NGHIỆP
NN
VÙNG
NÔNG
NGHIỆP
THỂ
TỔNG
HỢP
NN


Các hình thức tổ chức nông nghiệp
chủ yếu của ĐBSCL

HTTCLTNN
NÔNG
HỘ
TRANG
TRẠI
HỢP
TÁC


NTQD

CÁC HÌNH THỨC TỔ CHỨC LÃNH
THỔ NÔNG NGHIỆP Ở ĐBSCL
I. Khái quát về ĐBSCL

NÔNG HỘ
I. KHÁI NIỆM

Hộ là một đơn vị kinh tế- xã hội
tự chủ cùng một lúc thực hiện
nhiều chức năng mà ở các đơn vị
kinh tế khác không thể có được.
Hộ là một tế bào của xã hội với sự
thống nhất của các thành viên có
cùng huyết tộc, mà mỗi thành
viên đều có nghĩa vụ và trách
nhiệm làm tăng thu nhập, đảm
bảo sự tồn tại. Hộ còn là một đơn
vị sản xuất và tiêu dùng.

ĐẶC ĐIỂM SẢN XUẤT
Về đất đai, qui mô canh tác
nhỏ bé, biểu hiện rõ tính
chất tiểu nông
Về vốn, đại bộ phận rất ít,
qui mô thu nhập nhỏ,
khả năng tích luỹ thấp
làm hạn chế khả năng
đầu tư tái sản xuất


Đặc điểm
Về lao động, chủ yếu sử dụng lao
động gia đình
Kỹ thuật canh tác và công cụ sản
xuất ít biến đổi, mang nặng tính
truyền thống
Qui mô: sản xuất (đất đai, vốn,
lao động) rất nhỏ bé.
Phân bố: Ở nước ta nói chung và
ở ĐBSCL nói riêng hình thức
kinh tế hộ gia đình là rất phổ biến,
phân bố rộng rãi khắp nơi.
Hiệu quả sản xuất
Do nhỏ bé về qui mô, vốn, về lao
động, kỹ thuật, canh tác…nên
hình thức kinh tế hộ gia đình chưa
đạt hiệu quả cao trong nền sản
xuất xã hội

KINH TẾ GIA ĐÌNH


KHÁI NIỆM
Trang trại là hình thức tổ chức sản xuất cao hơn hộ gia đình, được
hình thành và phát triển trong thời kỳ công nghiệp hoá, thay thế cho
kinh tế tiểu nông tự cấp tự túc.
Trang trại là kết quả tất yếu của hộ gia đình gắn với sản xuất hàng
hoá, là hình thức tiến bộ của sản xuất nông nghiệp thế giới.
Hoạt động của kinh tế trang trại chịu sự chi phối của nền kinh tế thị

trường và tuân theo qui luật cung cầu, chấp nhận cạnh tranh.
Ngày 2/2/2000, Chính phủ có Nghị quyết 03 về kinh tế trang trại và
kinh tế trang trại cũng là một kỳ vọng thoát khỏi tình trạng manh
mún của nông nghiệp ĐBSCL.

CÁC ĐẶC ĐIỂM CỞ BẢN

Mục đích chủ yếu của trang trại là sản xuất nông phẩm hàng hoá
theo nhu cầu của thị trường. Đây là bước tiến bộ từ kinh tế hộ tự
cấp tự túc lên các hộ nông nghiệp hàng hoá.

Tư liệu sản xuất (đất đai) thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng
(như ở Việt Nam) của một người chủ độc lập (tức là người có
quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh).

Cách thức tổ chức sản xuất tiến bộ, đẩy mạnh chuyên môn hoá
(chứ không sản xuất đa canh), tập trung vào những nông sản có lợi
thế so sánh và khả năng sinh lợi cao hơn và vào việc thâm canh
(đầu tư tương đối lớn về vốn, công nghệ, lao động... trên một đơn
vị diện tích). . Hầu hết trang trại ở ĐBSCL chỉ là “mô hình VAC”
hoặc “VAC cải tiến

QUI MÔ SẢN XUẤT

Qui mô đất đai tương đối lớn, tuy có sự khác nhau
giữa các nước.

Tuy nhiên kinh tế trang trại ở ĐBSCL chủ yếu, quy
mô nhỏ, phát triển tự phát , sử dụng lao động chưa
nhiều, chưa gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ sản

phẩm bởi hình thành và phát triển trên phương thức
kinh tế hộ kết hợp thuê mướn nhân công thường
xuyên hoặc thời vụ.

Diện tích đất sử dụng bình quân của một trang trại
trung bình là 6, 08ha.

PHÂN BỐ

Những năm qua, các số liệu thống kê đều cho thấy cả
nước có gần 72.000 trang trại ĐBSCL luôn chiếm hơn
một nửa tổng số trang trại cả nước.

Đến cuối năm 2007 đầu năm 2008, mỗi tỉnh, thành phố ở
ĐBSCL đã có hàng nghìn trang trại.

Theo báo cáo của các địa phương, Tiền Giang có gần
2.500 trang trại; An Giang có 8.349; Sóc Trăng có 2.166
(hơn 1.500 trang trại nuôi tôm sú); Bạc Liêu có 13.252
(11.376 trang trại nuôi trồng và khai thác thủy sản); Cà
Mau có khoảng 2.500 trang trại (chủ yếu nuôi tôm, cá).

HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN

Năm 2000 cả nước có khoảng 55.852 trang trại thì đến
năm 2001, con số này đã là 60.758, và 2002 đã lên tới
61.732.

Tuy nhiên, đến tháng 7/2003, theo tiêu chí phân lọai mới
do Bộ NN&PTNT đề ra thì KTTT đã có sự biến động lớn

và con số trang trại của cả nước lúc này đã lên tới
71.914.

Như vậy bình quân có 1.598 trang trại/tỉnh, và tốc độ
tăng từ năm 2000 đến năm 2003 của các trang trại lên
khỏang 5%.

khu vực ĐBSCL có số lượng trang trại nhiều nhất, chiếm
tỷ trọng trên 50% tổng số trang trại cả nước..


Nhìn chung cơ cấu các loại hình trang trại có sự chuyển
dịch theo hướng tăng tỷ trọng trang trại nuôi trồng thủy
sản và chăn nuôi. Xu hướng giảm ở các trang trại trồng
cây hàng năm.

Khâu đột phá mạnh mẽ nhất trong quá trình chuyển đổi
cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn là nuôi trồng thủy
sản:
Hiện tại, cả nước có trên 26.000 trang trại nuôi trồng
thủy sản các loại ở nhiều vùng trong nước, mô hình này
đã khai thác hiệu quả tiềm năng đất đai, mặt nước, tạo
công ăn việc làm cho hàng chục ngàn lao động tại địa
phương. Hiện ở ĐBSCL, trang trại nuôi trồng thủy sản
chiếm tỷ lệ cao nhất trong cả nước.

HIỆU QUẢ KINH TẾ

Cũng nhờ các mô hình kinh tế trang trại này mà nhiều đề tài khoa
học kỹ thuật đã được ứng dụng vào sản xuất. Chính vì vậy, sản

phẩm hàng hóa và thu nhập của các trang trại ngày một nâng cao.
Năm 2003, tổng gía trị hàng hóa dịch vụ của trang trại là 7.047 tỷ
đồng. Như vậy bình quân một trang trại đạt 98 triệu đồng. Tuy nhiện
mô hình trang trại thủy sản đạt bình quân cao nhất với doanh thu từ
120-150 triệu đồng/trang trại.

KTTT phát triển đã thu hút một khối lượng lớn tiền vốn trong dân khi
họ đầu tư vào sản xuất nông nghiệp. Mô hình này đã tạo thêm việc
làm, góp phần xóa đói giảm nghèo ở nông thôn, mở ra xu hướng
hợp tác và phát triển trong sản xuất, kinh doanh...

Sự phát triển của KTTT đã dẫn đến nhu cầu hợp tác giữa các chủ
trang trại, trong đó có việc hình thành các câu lạc bộ trang trại.


KTTT đã thúc đẩy việc khai thác diện tích đất trống, đất
hoang hóa vào sản xuất nông, lâm nghiệp và nuôi trồng
thủy sản và mô hình KTTT này đã phần nào cải thiện
được môi trường sinh thái.

NHỮNG HẠN CHẾ, KHÓ KHĂN
Sau hơn bảy năm triển khai thực hiện Nghị
Quyết 03/2000 ngày 02/02/2000 của Thủ
tướng Chính phủ về phát triển kinh tế trang
trại sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp, kinh tế
trang trại ở ĐBSCL đã có những bước tiến
khá vững chắc, phát huy nội lực, khơi dậy
tiềm năng đất đai, lao động, vốn, kỹ thuật...
Tuy nhiên, để kinh tế trang trại ngày càng
phát triển, vẫn còn nhiều vấn đề cần tháo gỡ:





Việc phát triển kinh tế trang trại thiếu quy hoạch chung.

trình độ quản lý của các chủ trang trại còn thấp, điều hành
sản xuất kinh doanh chủ yếu bằng kinh nghiệm, tự học hỏi,
chưa qua đào tạo, làm hạn chế rất nhiều trong điều hành
quản lý cũng như ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất.

Chính sách ưu đãi tín dụng, khuyến khích phát triển kinh tế
trang trại chưa hợp lý, định mức còn thấp.

Nhiều vấn đề xã hội đặt ra phải xử lý để tạo sự công bằng
và ổn định xã hội:
Việc tích tụ ruộng đất để hình thành trang trại sẽ đưa đến
một bộ phận nông dân không có đất phải chuyển nghề hoặc
đi làm thuê.
Việc tích tụ ruộng đất để hình thành trang trại sẽ đưa đến
một bộ phận nông dân không có đất phải chuyển nghề hoặc
đi làm thuê.


Một điều đáng lưu ý hơn cả đó là ô nhiễm môi
trường đang là một vấn đề bức xúc khó giải
quyết của nhiều trang trại, nhất là các trang
trại chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản. Đặc biệt
hơn cả, ở nhiều vùng nuôi tôm, do mạng lưới
thủy lợi phục vụ nuôi trồng thủy sản chưa được

quy hoạch nên việc nuôi trồng đã gây ô nhiễm
môi trường nước, phân tán dịch bệnh, ảnh
hưởng đến năng suất và chất lượng sản phẩm.
Hơn nữa, một số nơi rừng đã bị phá kiệt quệ để
phát triển KTTT.

Mặc dù còn có những khó khăn, hạn chế , cần nhìn nhận
đây là xu thế, là bước đột phá để chuyển nền sản xuất nông
nghiệp manh mún, tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hóa,
phát huy những thế mạnh khu vực này.Phát triển kinh tế
nông nghiệp, nông thôn ở đồng bằng sông Cửu Long đòi hỏi
có chính sách và những bước đi mạnh mẽ, cụ thể, sự chỉ
đạo quyết liệt của các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương
và nội lực của người dân vươn lên thoát nghèo, làm giàu
ngay trên chính quê hương mình.

MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ KTTT

×