Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
T¹ Quang TuÊn F4-K36
13
CHƯƠNG II
TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM
HOẢ HOẠN TẠI BẢO VIỆT
I. Thị trường bảo hiểm Việt Nam - Sự ra đời và phát triển của nghiệp
vụ bảo hiểm Hoả hoạn
Tổng Công ty bảo hiểm Việt Nam ( gọi tắt là Bảo Việt ) được thành
lập từ ngày 15.1.1965 theo Quyết định số 179/CP ngày 17.12.1964 của Thủ
tướng Chính phủ, là doanh nghiệp nhà nước duy nhất hoạt động kinh doanh
dịch vụ bảo hiểm. Bảo Việt có nhiệm vụ thành lập quỹ dự trữ bảo hiểm từ
sự đóng góp, tham gia bảo hiểm của các đơn vị sản xuất kinh doanh.
Từ năm 1981, Bảo Việt đã thành lập các công ty chi nhánh ở các
tỉnh, địa phương để tiến hành các dịnh vụ bảo hiểm. Hoạt động của các chi
nhánh không những giúp Bảo Việt triển khai bảo hiểm trên phạm vi cả
nước mà còn hình thành một mạnh lưới đảm bảo an toàn tài chính cho toàn
bộ người được bảo hiểm.
Trong hơn 30 năm qua, ở Việt nam từ "bảo hiểm " đồng nghĩa với
"Bảo Việt " và ngược lại lúc nào người ta cũng nghĩ rằng chỉ duy nhất có
một công ty bảo hiểm hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Điều đó có lý do
của nó. Ngoài sự hiện diện và đóng góp của Bảo Việt đối với nền kinh tế,
xã hội và với mỗi gia đình, trong suốt thời gian qua không thấy nói đến một
tên công ty bảo hiểm nào khác.Với đường lối mở của của nhà nước, trong
cơ chế thị trườngthì việc Nhà nước dộc quyền trong lĩnh vực bảo hiểm ( kể
cả trên danh nghĩa) là điều khó có thể chấp nhận. Chính vì thế nên ngày 18-
12-1993 Nghị định 100/CP của Chính Phủ đã ra đời cho phép các doanh
nghiệp trong nước cũng như nước ngoài được thành lập các công ty bảo
hiểm, tái bảo hiểm, môi giới bảo hiểm, mở chi nhánh công ty nước ngoài
tại Việt Nam.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
T¹ Quang TuÊn F4-K36
14
Tại Bảo Việt, các nghiệp vụ bảo hiểm như bảo hiểm thân tàu, bảo
hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu, bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu đã
được tiến hành từ lâu và đã trở thành những nghiệp vụ bảo hiểm truyền
thống. Song đến năm 1989, Bảo Việt mới chính thức triển khai bảo hiểm
Hoả hoạn theo Quyết định 06/TCQĐ của Bộ Tài chính.
Năm 1990, trên cả nước đã có 16 công ty bảo hiểm tiến hành nghiệp
vụ này. Tuy nhiên nhìn chung mới chỉ bảo hiểm cho các nghành xăng, dầu
còn lại phần lớn các tài sản, các nhà máy, xí nghiệp, công xưởng, hệ thống
khách sạn từ Nam ra Bắc trị giá nhiều tỷ đồng vẫn chưa được bảo hiểm.
Có nhiều nguyên nhân cả chủ quan lẫn khách quan dẫn đến việc ngành bảo
hiểm chưa triển khai được toàn diện. Nguyên nhân cơ bản là chúng ta đã
quá quen với cơ chế bao cấp, Hoả hoạn và rủi ro xảy ra đã có Nhà nước bù
đắp thiệt hại còn các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác thì
chưa có thói quen tham gia bảo hiểm tài sản. Bên cạnh đó về chủ quan,
công tác tuyên truyền, vận động thu hút khách hành của nghành bảo hiểm
còn nhiều hạn chế.
Sau một năm thực hiện, một yêu cầu cấp bách được đặt ra là phải có
quy định chung hướng dẫn về bảo hiểm Hoả hoạn. Vì vậy ngày 2. 5.1991,
Bảo Việt đã ban hành Quy tắc bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt áp
dụng trên cả nước. Nghiệp vụ này ngày càng khẳng định được vị trí quan
trọng của nó đặc biệt là sau khi Hội đồng bộ trưởng ra quyết định số 332/
HĐBT ngày 23. 10 1991 về việc bảo toàn, phát triển vốn kinh doanh đối
với doanh nghiệp nhà nước. Bên cạnh đó, thông tư số 82/TC/CN hướng
dẫn cụ thể việc thực hiện quyết định trên của HĐBT : " Để tránh các
trường hợp không bảo toàn được vốn do nguyên nhân khách quan như
thiên tai, rủi ro trong quá trình sản xuất kinh doanh tránh các trường hợp
phải xử lý giảm vốn và đưa lỗ vào doanh nghiệp, các doanh nghiệp cần
phải mua bảo hiểm tài sản để tạo nguồn bù đắp cho các thiệt hại đó tại các
công ty bảo hiểm Việt nam. Khoản chi về bảo hiểm được hạch vào giá
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
T¹ Quang TuÊn F4-K36
15
thành hoặc chi phí lưu thông của doanh nghiệp. Nhà nước sẽ không cho ghi
giảm vốn trong trường hợp tài sản bị tổn thất vì những rủi ro mà công ty
bảo hiểm trong nước triển khai loại hình bảo hiểm tương ứng ".
II Các hoạt động trong bảo hiểm hoả hoạn
Cũng giống như bất cứ một nghiệp vụ bảo hiểm nào, nghiệp vụ bảo
hiểm Hoả hoạn gồm các bước cơ bản sau :
- Khai thác
- Giám định
- Bồi thường
- Hạn chế tổn thất
Các bước này có mối liên hệ rất chặt chẽ với nhau. Kết quả của bước
này ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả của các bước tiếp sau nó và làm thành
một chu trình hoạt động của một nghiệp vụ.
1. Công tác khai thác bảo hiểm
Đây là bước đầu tiên và không thể thiêú trong nghiệp vụ bảo hiểm.
Công tác khai thác đóng một vai trò quyết định trong sự phát triển một
công ty. Khách hàng sẽ không mua bảo hiểm nếu họ không biết rằng mua
bảo hiểm họ sẽ được lợi gì. Do đó mà công việc tuyên truyền, quảng cáo
trong bước này là cần thiết và nó càng trở nên đặc biệt quan trọng đồi với
nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn - nghiệp vụ mà chưa có tập quán ở nước ta
1.1 Tuyên truyền, quảng cáo, chủ động tiếp cận khách hàng
Hàng năm Bảo Việt kết hợp với các cơ quan, ban ngành có liên quan
như : cảnh sát PCCC, đài truyền thanh, truyền hình, báo chí, các Bộ,
nghành để tuyên truyền về ý nghĩa, tác dụng của bảo hiểm Hoả hoạn. Qua
đó mới có thể thuyết phục được khách hàng mua bảo hiểm.
Mặt khác, công ty cử cán bộ xuống từng xí nghiệp, đơn vị kinh
doanh để giải thích, vận động mua bảo hiểm chứ không thụ động ngồi chờ
khách hàng hoặc chỉ gửi các công văn, quy tắc cho họ trả lời vì khách hàng
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
T¹ Quang TuÊn F4-K36
16
rất ngại đọc. Một phần vì khó hiểu, một phần vì không nhận thức được hết
ý nghĩa, tác dụng của bảo hiểm.
Cán bộ bảo hiểm cần chủ động đến gặp khách hàng, cùng họ đi thăm
cơ sở sản xuất, nghiên cứu quy trình sản xuất của họ , chỉ cho họ thấy
những rủi ro mà họ có thể gặp phải và những hậu quả của nó. Cán bộ bảo
hiểm giải thích rõ cho khách hàng khi tham gia bảo hiểm họ được gì và mất
gì, ước tính số phí mà họ phải trả, giải đáp những vấn đề mà họ còn thắc
mắc, chưa hiểu rõ, gây cho họ lòng tin và nhu cầu tham gia bảo hiểm. Kinh
nghiệm cho thấy rằng, hướng tuyên truyền vận động nên tập trung vào
những đối tượng "ăn nên làm ra ", có của ăn của để. Vì thế, Bảo Việt đã
chú ý đến các đơn vị, doanh nghiệp lớn có khả năng tài chính khai thác
như : Công ty liên doanh về các thiết bị viễn thông COMVIK đã mua bảo
hiểm với số tiến bảo hiểm là 19000000 $, mức phí là 47500 $ ; công ty liên
doanh INDOCHINA CERAMIC sản xuất vật liệu xây dựng, trang thiết bị
nội thất đã mua với số tiền bảo hiểm là 12250000 $, mức phí là 20825 $.
Để tìm ra các doanh nghiệp "ăn nên làm ra" không phải là khó, cán
bộ khai thác nên chú ý theo dõi quảng cáo trên các phương tiện thông tin
đại chúng (báo chí, phát thanh, truyền hình ) đồng thời phải có sự phối
hợp với các ngân hàng, cơ quan khác để nắm bắt được đối tượng.
1.2 Đánh giá rủi ro
Công tác đánh giá rủi ro được tiến hành sau khi khách hàng gửi giấy
yêu cầu bảo hiểm với mục đích giá chính xác các rủi ro có thể xảy ra với
các đối tượng bảo hiểm. Qua đó xác định tỷ lệ phí bảo hiểm thích hợp
tương ứng với các rủi ro mà công ty bảo hiểm nhận bảo hiểm.
Để có cơ sở đáng giá đúng rủi ro, thông thường công ty bảo hiểm sẽ
gửi cho khách hàng bản phiếu điều tra các rủi ro (bảng câu hỏi). Qua phần
trả lời khách hàng trong phiếu điều tra, các công ty bảo hiểm sẽ xác định
được bậc chịu lửa của công trình, loại PCCC (các thiết bị PCCC được trang
bị, đội cứu hoả, bảo vệ ), hạng sản xuất (với đơn vị sản xuất), loại kinh
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
T¹ Quang TuÊn F4-K36
17
doanh dịch vụ ( với đơn vị kinh doanh dịch vụ ), mức độ nguy hiểm với các
tài sản để trong kho, cửa hàng, từ đó xác định mức phí thích hợp.
Tuy nhiên trên thực tế, để đảm bảo sự chính xác, trung thực khi đánh
giá rủi ro, ngoài việc gửi phiếu điều tra rủi ro, các cán bộ khai thác bảo
hiểm sẽ đến làm việc trực tiếp với khách hàng, nghiên cứu và khảo sát thực
tế kỹ hơn, hướng dẫn khách hàng trả lời các câu hỏi trong phiếu điều tra,
cùng cộng tác với cảnh sát PCCC đánh giá thực tế về công tác PCCC,
phương tiện chuyên môn (khách hàng cần những phương tiện PCCC nào,
bố trí ở đâu, với số lượng là bao nhiêu ). Cuối cùng trên cơ sở đánh giá rủi
ro, cán bộ khai thác sẽ thoả thuân với khách hàng về tỷ lệ phí sẽ áp dụng.
Như vậy công tác đánh giá rủi ro có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nó
yêu cầu cán bộ bảo hiểm không những phải giỏi chuyên môn mà còn phải
có sự năng động, tận tình và cẩn thận.Trong bảo hiểm Hoả hoạn, khâu đánh
giá rủi ro là khâu quyết định trong việc cấp đơn bảo hiểm cũng như việc
đưa ra mức phí phù hợp.
1.3 Cấp giấy chứng nhận bảo hiểm (đơn bảo hiểm)
Đối với nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn, công ty bảo hiẻm sẽ cấp giấy
chứng nhận bảo hiểm cho khách hàng sau khi họ đã chấp nhận mức phí.
Giấy chứng nhận bảo hiểm Hoả hoạn bao gồm :
- Số đơn bảo hiểm
- Tên, địa chỉ người được bảo hiểm
- Ngành sản xuất kinh doanh
- Những rủi ro được bảo hiểm
- Tài sản dược bảo hiểm
- Tổng giá trị tài sản
- Số tiền bảo hiểm
- Chi phí dọn dẹp hiện trường
- Mức miễn thường
- Thời hạn bảo hiểm
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
T¹ Quang TuÊn F4-K36
18
- Phí bảo hiểm cả năm
Thông thường tài sản được bảo hiểm của khách hàng có nhiều loại
không thể hiện được chi tiết trong Giấy yêu cầu bảo hiểm . Vì vậy, kèm
theo Giấy chứng nhận bảo hiểm còn có bản danh mục tài sản. Bản này
được coi như một bộ phận của Giấy chứng nhận bảo hiểm và có giá trị
pháp lý, nó thể hiện từng hạng mục tài sản, số lượng, đơn giá, giá trị, số
tiền bảo hiểm của từng loại đó :
Giấy chứng nhận bảo hiểm cần được lập thành bốn bản : Một bản
trao cho khách hàng, một bản cho tài vụ, một bản lưu và một bản cho Tổng
công ty.Hiện nay Bảo Việt cũng quy định phạm vi mức phân cấp khai thác
cho từng công ty. Nếu đối tượng bảo hiểm có số tiền bảo hiểm trong phạm
vi đó thì công ty chỉ cần gửi một bản giấy chứng nhận. Nếu vượt quá mức
phân cấp, trước khi cấp giấy chứng nhận cho khách hàng, các công ty cần
gửi hồ sơ cho Tổng công ty xem xét và quyết định.
1.4 Bổ sung tài sản được bảo hiểm và theo dõi tình hình thu phí
Trên thực tế, có nhiều khách hàng yêu cầu sửa đổi, bổ sung tài sản
được bảo hiểm sau khi đã được cấp giấy chứng nhận bảo hiểm. Các công ty
cần xem xét kỹ yêu cầu thay đổi như : giá trị bảo hiểm, các yếu tố ảnh
hưởng đến tỷ lệ phí để từ đó tính toán, điều chỉnh lại tỷ lệ phí, phí bảo hiểm
cho thích hợp. Bản bổ sung sửa đổi cũng được lập thành bốn bản trao cho
các bộ phận nói trên.
Ngoài ra các cán bộ khai thác cũng cần định kỳ xuống thăm các đối
tượng bảo hiểm, kiểm tra các công tác PCCC, nêu ra các đề xuất để tăng
cường công tác này. Đồng thời phải phối hợp với các bộ phận tài vụ để
theo dõi việc đóng phí của khách hàng, nhắc nhở họ tái tục bảo hiểm khi
thời hạn bảo hiểm sắp hết.
1.5 Hoa hồng
Trong công tác khai thác không thể không nói đến vấn đề hoa hồng.
Đây là một khoản chi được tính theo tỷ lệ phần trăm so với số phí bảo