A. LỜI NÓI ĐẦU
Hiện nay, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đang có một vai trò đặc
biệt quan trọng không chỉ đối với các nước đang và kém phát triển mà thậm
chí cả đối với những nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản...
Riêng đối với Việt Nam, một nước đang phát triển, đang trong quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì FDI đã góp phần tạo nguồn vốn lớn
cho phát triển kinh tế đất nước, giúp nước ta có được những công nghệ mới
hiện đại, giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo động lực mới cho nền kinh tế...
Qua đó có thể thấy được tầm quan trọng của FDI đối với sự phát triển kinh tế
nước ta. Nhận thức được điều đó, nước ta đã có những chính sách nhằm thu
hút các nhà đầu tư nước ngoài. Điều đó được thể hiện rõ nét nhất trong việc
ban hành Luật Đầu tư nước ngoài ngày 29/12/1987 và các luật đầu tư sửa đổi
cùng các thông tư, nghị định khác. Kể từ đó đến nay các nhà đầu tư nước
ngoài ở các quốc gia khác nhau lần lượt đã tiến hành các hoạt động đầu tư tại
Việt Nam, trong số đó phải kể đến nhà đầu tư Nhật Bản.
Trong suốt 20 năm trở lại đây Nhật Bản luôn đứng trong nhóm các
quốc gia dẫn đầu về đầu tư trực tiếp tại Việt Nam. Một số lĩnh vực Nhật Bản
đầu tư đang trở thành sức sống của nền công nghiệp Việt Nam như sản xuất ô
tô, công nghiệp điện tử... Lợi ích to lớn mà các nhà đầu tư Nhật Bản mang lại
là không thể phủ nhận. Chính vì thế cho nên việc nhìn nhận và đánh giá một
cách nghiêm túc về đầu tư trực tiếp của Nhật Bản là một việc làm cần thiết.
Điều đó giúp cho nước ta có thể học hỏi được những bài học kinh nghiệm đã
giúp cho Nhật Bản sửa chữa những mất cân đối của nền kinh tế và tạo cho
nền kinh tế Nhật Bản tăng trưởng hài hoà với nền kinh tế toàn cầu, từ đó giúp
Việt Nam có thể xây dựng được một môi trường đầu tư hấp dẫn không chỉ đối
với các nhà đầu tư Nhật Bản mà cả các nhà đầu tư khác. Bởi một thực tế cho
thầy hiện nay môi trường đầu tư của nước ta còn nhiều hạn chế đặc biệt là về
hệ thống luật pháp, thủ tục hành chính.
Với những lý do trên, nhóm thảo luận E30 chúng em nhận thấy việc
nghiên cứu về đề tài này rất bổ ích nhưng cũng rất khó khăn. Hơn nữa, với
vốn kiến thức hạn hẹp, chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Chúng
em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy Nguyễn Anh Tuấn để bài
tiểu luận hoàn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
B. PHẦN NỘI DUNG
I. NHỮNG NHÂN TỐ THÚC ĐẨY FDI CỦA NHẬT BẢN VÀO VIỆT
NAM
1. Về phía Nhật Bản
Sự thay đổi tỷ giá hối đoái: Do đồng Yên tăng giá mạnh sau thỏa thuận
của hiệp ước Plaza tháng 9 năm 1985 , làm cho chi phí sản xuất ở Nhật Bản
tăng lên so với nước ngoài, điều này hạn chế khả năng sinh lãi. Chính vì thế,
để có thể tận dụng được chi phí sản xuất rẻ hơn ở các nước khác đã khiến các
nhà sản xuất Nhật Bản đẩy mạnh đầu tư trực tiếp ra nước ngoài (FDI)
Trước khi hiệp ước Plaza được ký kết thì xuất khẩu của Nhật Bản phát
triển rất mạnh mẽ và hàng hoá của Nhật lan tràn khắp các nước phát triển, đã
khiến cho các nền sản xuất của các nước này bị ảnh hưởng rât lớn. Chính vì
thế mà hàng Nhật trong giai đoạn này bị tẩy chay và bị các nước áp dụng các
biện pháp bảo hộ chặt chẽ. Do đó, để tránh hàng rào bảo hộ mậu dịch của các
nước thì Nhật Bản đã tăng cường hoạt động FDI.
Nhật Bản là một nước khan hiếm về các nguồn tài nguyên thiên nhiên,
gần như là không có gì. Để có thể tận dụng được nguồn tài nguyên của nước
khác đã thúc đẩy Nhật Bản tiến hành đầu tư ra nước ngoài, xây dựng các cơ
sở sản xuất ngay tại các nước đó.
Ngoài ra, hiện nay Nhật Bản cũng lâm vào tình trạng thiếu nguồn lao
động, trong khi ở các quốc gia khác như Việt Nam, Thái lan... lại có một
nguồn lao động rất dồi dào, giá rẻ. Đó cũng là một động lực thúc đẩy các nhà
đầu tư Nhật Bản tiến hành đầu tư ra nước ngoài.
2. Về phía Việt Nam
Việt Nam có một nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, nguồn lao
động dồi dào, giá rẻ. Người lao động Việt Nam chăm chỉ, thông minh, ham
học hỏi. Không chỉ có vậy, một đất nước với hơn 80 triệu dân cũng hứa hẹn
một tiềm năng nhu cầu hàng hoá lớn cả cho đời sống và cho sản xuất. Đây là
một điểm hấp dẫn để thu hút các nhà đầu tư Nhật Bản.
Yếu tố kinh tế: Việc Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường đã
làm kích thích sản xuất hàng hoá, tăng cường khả năng cạnh tranh. Thêm vào
đó, “Việt Nam đã đưa ra các liều thuốc hiệu nghiệm để chữa chạy nền kinh
tế” (Lời của bà Yaeko Matsuzaki, nhà nghiên cứu của tổ chức mậu dịch quốc
tế Nhật Bản), công cuộc đổi mới cải cách kinh tế đã giúp cho Việt Nam phát
triển hơn theo xu hướng ổn định, tạo điều kiện tốt hơn cho các nhà kinh doanh
Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam.
Yếu tố chính trị: Việt Nam thực hiện một Đảng cầm quyền duy nhất
và đi theo đường lối của Đảng. Thực hiện mở rộng quan hệ với các nước
không phân biệt chế độ chính trị. Do đó nước ta luôn đảm bảo được ổn định
về chính trị, điều kiện quan trọng để đảm bảo cho phát triển kinh tế.
Yếu tố luật pháp: Hệ thống luật pháp của Việt Nam đang ngày càng
được hoàn thiện cho thích ứng với tình hình thực tiễn, đặc biệt là những đổi
mới hợp lý trong lĩnh vực đầu tư đã tạo điều kiện thu hút đầu tư như: luật Đầu
tư nước ngoài sửa đổi năm 2005; nghị định số 38/2003/NĐ-CP của chính phủ
về việc chuyển đổi một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sang hình
thức vốn cổ phần...
II. THỰC TRẠNG VÀ XU HƯỚNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA NHẬT
BẢN VÀO VIỆT NAM
Đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam chỉ chiếm chưa đầy 0,1% đầu tư
trực tiếp của Nhật Bản (JDI) ra nước ngoài núi chung và chỉ bằng 1/20 JDI đổ
vào khu vực ASEAN nhưng đối với sự nghiệp cụng nghiệp hoỏ, hiện đại hoỏ
của Việt Nam thỡ đây lại là một nguồn vốn rất quan trọng, cúý nghĩa tạo lập
những nền tảng cơ sở cho mối quan hệ hợp tỏc kinh tế Việt Nam – Nhật Bản.
1.1. Thực trạng của FDI từ Nhật Bản vào Việt Nam
a. Khỏi quỏt về tiến trỡnh đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam từ năm 1988
Năm 1988 là năm Nhật Bản bắt đầu tiến hành đầu tư trực tiếp vào Việt
Nam bằng dự ỏn của Cụng ty Kansai Kyodo trong lĩnh vực chế tạo thiết bị tại
cảng Hải Phũng.Tớnh đến cuối năm 1991, Nhật Bản mới đầu tư vào Việt
Nam khoảng 20 dự ỏn với số vốn là 103 triệu USD, đứng thứ 9 trong số các
đối tác đầu tư vào Việt Nam. Cỏc dự án đầu tư chủ yếu nhằm vào lĩnh vực du
lịch, dịch vụ với quy mụ nhỏ.
Giai đoạn 1992 - 1997 đánh dấu sự bựng nổ hiện tượng đầu tư ồ ạt vào
Việt Nam. Cỏc doanh nghiệp Nhật Bản cũng khụng phải là ngoại lệ, họ đầu tư
với quy mụ lớn vào Việt Nam vốn là một thị trường chưa được khai thỏc vào
thời điểm đó.
+ Năm 1992, JDI vào Việt Nam tăng lên và đạt 310 triệu USD, đứng vị
trớ thứ tư.
+ Năm 1993 đạt 423 triệu USD đứng vị trớ thứ sỏu
+ Năm 1994 đạt 791 triệu, đứng vị trớ thứ năm.
Đạt được kết quả này là do tác động của chuyến thăm của đoàn điều tra
hợp tỏc kinh tế của Chớnh phủ Nhật Bản sang Việt Nam vào tháng 1/1992.
Thêm vào đó, các thành công của cụng cuộc Đổi mới ở Việt Nam trong
những năm trước đó cũng tạo thờm niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài,
trong đó có các nhà đầu tư Nhật Bản.
Đến cuối năm 1995, Nhật Bản đó cú 127 dự án đầu tư tại Việt Nam với
số vốn đăng ký 2,035 tỷ USD, giữ vị trớ thứ ba trong tổng số đối tác đầu tư
nước ngoài ở Việt Nam. Nguyên nhân là do đầu tư của Nhật Bản vào Việt
Nam dường như chỉ cú tớnh chất thăm dũ, quy mụ nhỏ, chưa hoàn toàn tương
xứng với khả năng và yêu cầu của hai bờn. Khi khụng cũn lý do để dố dặt
nữa, đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam đó thực sự cú một bước nhảy vọt.
Tính đến giữa tháng 11 năm 1997, Nhật Bản đứng hàng thứ tư trong số 58
quốc gia và vựng lónh thổ đầu tư vào Việt Nam, cú 194 dự án đang hoạt động
với số vốn đầu tư hơn 3.055 triệu USD. Trong đó có 131 dự ỏn liờn doanh với
cỏc tổ chức kinh tế Việt Nam với tổng số vốn đầu tư là 2.717 triệu USD, 63
dự ỏn 100% vốn Nhật Bản với tổng số vốn đầu tư là 338 triệu USD. Đến
30/09/1998, Nhật Bản vẫn giữ vững vị trớ thứ ba trong số cỏc quốc gia và
vựng lónh thổ đầu tư vào Việt Nam.
0
200
400
600
800
1,000
1,200
1,400
1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
Vèn ®Çu t (triÖu USD)
0
10
20
30
40
50
60
70
80
Sè dù ¸n
Vèn ®¨ng ký Vèn gi¶I ng©n Dù ¸n
Nhưng đến giai đoạn 1998 - 2003 đầu tư của cỏc doanh nghiệp Nhật
Bản giảm mạnh. Năm 1998 Việt Nam chỉ thu hút được 56 triệu USD vốn JDI
và 12 dự án. Sang năm 1999, tỡnh hỡnh cú được cải thiện khi tổng JDI vào
Việt Nam đạt 98 triệu USD và số dự án là 17, đứng thứ ba trong số cỏc quốc
gia và khu vực đầu tư vào Việt Nam. Tuy cú dấu hiệu phục hồi khi vốn đầu tư
cấp phộp của Nhật Bản tăng liên tục trong hai năm 2000, 2001, nhưng một
lần nữa lượng vốn này lại sụt giảm trong năm 2002. Năm 2002, vốn đầu tư
cấp phộp từ Nhật Bản là 95 triệu USD, ít hơn 15% so với mức của năm 1997.
Tỡnh hỡnh này cũng giống như tỡnh hỡnh đầu tư của các nước khỏc trờn thế
giới vào Việt Nam. Số dự án đầu tư tuy có gia tăng nhưng quy mô vốn đầu tư
trung bỡnh của một dự án có xu hướng giảm đi, kéo theo nguồn vốn cũng bị
thu hẹp.
FDI của Nhật Bản đối với Việt Nam: 1991~2002
(Nguồn: Bộ Kế hoạch và đầu tư)
Trong năm 2002, Nhật Bản đứng ở vị trớ thứ 3 về số dự án được cấp
phộp trong số các nước đầu tư vào Việt Nam, nhưng về vốn thực hiện thỡ
Nhật Bản chiếm vị trớ dẫn đầu. Vốn đầu tư lũy kế dựa trên cơ sở giỏ trị thực
hiện đầu tư từ Nhật Bản tớnh từ năm 1988 đến tháng 6 năm 2003 vào khoảng
3,7 tỷ USD. Đầu tư trực tiếp từ Nhật Bản chủ yếu tập trung vào cỏc lĩnh vực
sản xuất chủ yếu, trong đó 71,8% tổng số dự án đầu tư và 75,2% tổng số vốn
đầu tư vào ngành công nghiệp chế tạo và xõy dựng - ngành đóng vai trũ nũng
cốt trong quỏ trỡnh phỏt triển đất nước. Mặt khác, đầu tư vào dịch vụ chiếm
21% tổng số dự án đầu tư và 23% tổng giỏ trị đầu tư.
Nguyờn nhõn là do cuộc khủng hoảng tài chớnh tiền tệ châu Á năm
1997. Một nguyờn nhõn khỏc về mặt cơ cấu là cỏc doanh nghiệp Nhật Bản
thõm nhập thị trường Việt Nam chủ yếu là doanh nghiệp sản xuất hàng hoỏ
phục vụ nhu cầu nội địa (Ô tô, hàng điện - điện tử, xi măng, kính v.v..). Việc
giảm đầu tư vào Việt Nam đương nhiên xuất phỏt từ ý muốn chủ quan của
phía nước ngoài, nhưng mặt khỏc cũng phải thấy rằng có xu hướng bóo hoà
trong thị trường Việt Nam - một thị trường quy mụ nhỏ, nhu cầu tăng trưởng
chậm, đặc biệt là trong mối tương quan với nguồn cung ngày một dồi dào về
hàng hoỏ phục vụ thị trường nội địa của cỏc doanh nghiệp Nhật Bản.
Khụng chỉ giảm sỳt về giỏ trị tuyệt đối mà đầu tư của Nhật Bản cũn
giảm sỳt về mặt tỉ lệ khi so sỏnh với các nước khỏc trong khối ASEAN.
Trong khu vực Đông Á, mô hỡnh "đàn sếu bay" đó được nhắc đến nhiều
trong đó Nhật Bản là con sếu dẫn đầu. Việt Nam nhập vào đàn sếu Đông Á
sau các nước cụng nghiệp mới NICs (Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore,
Hongkong), Trung Quốc và nhóm 4 nước ASEAN (Malaysia, Thỏi Lan,
Indonesia, Philippinnes). Việc di chuyển vốn và cụng nghệ từ quốc gia này
sang quốc gia khỏc theo ngành là một tất yếu.
Sau giai đoạn “khủng hoảng” về đầu tư nước ngoài 1998 – 2003, đầu
tư nước ngoài từ Nhật Bản vào Việt Nam cú nhiều khởi sắc. Chỉ tính riêng 3
tháng đầu năm 2004, theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư các doanh nghiệp cú vốn
đầu tư của Nhật Bản tại Việt Nam đó tăng thêm 10 dự ỏn với tổng vốn đầu tư
đăng ký trờn 100 triệu USD, nõng tổng số dự án đầu tư cũn hiệu lực của cỏc
doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam lờn 428 dự án. Trong đó, số dự án đó
được thực hiện chiếm trờn 86%, tương ứng khoảng 3.947 triệu USD. Cũng
trong năm 2004, Nhật Bản đó trở thành quốc gia cú số vốn đó đầu tư lớn nhất
vào Việt Nam với 4,1 tỷ USD, nhiều hơn quốc gia đứng thứ 2 là Singapore
gần 700 triệu USD.
Sau năm 2004, cú thể nói năm 2005 là một năm tiếp tục thành cụng
trong thu hỳt FDI từ Nhật Bản. Tớnh theo vốn đăng ký đầu tư, trong nửa đầu
năm 2005, đầu tư trực tiếp của Nhật vào Việt Nam đạt 161,8 triệu USD, tăng
3,3 lần so với cựng kỳ năm ngoái. Tổng đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam
trong giai đoạn từ tháng 1 đến tháng 6/2005 đứng thứ 4, chủ yếu là cỏc dự ỏn
vừa và nhỏ. Tuy nhiờn, Nhật Bản dẫn đầu các nước và vựng lónh thổ khỏc về
việc mở rộng những dự ỏn hiện tại với khoản đầu tư trị giỏ 347,2 triệu USD
của cỏc hóng lớn như Canon Inc., Honda Motor Co. và Toto Ltd.
Đầu tư của 5 quốc gia và vựng lónh thổ hàng đầu thỏng 11/2005
Quốc gia và vựng
lónh thổ
Số dự ỏn
Tỷ trọng
trong tổng
số dự ỏn
(%)
Tổng vốn
đăng ký (triệu
USD)
Tỷ trọng
trong tổng
vốn đăng
ký (%)
Đài Loan 132 18.8 1001.76 27.7
Luxembourg 2 0.3 770.48 25.8
Hàn Quốc 168 23.9 491.6 13.6
Hồng Kụng 27 4.2 381.9 10.5
Nhật Bản 77 10.9 259.5 7.1
(Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư)
b. Quy mụ dự án đầu tư
Cho đến nay, hầu hết cỏc tập đoàn kinh tế và thương mại hựng mạnh
của Nhật Bản như Sony, Mitsubishi, Toyota, Honda, Suzuki, Mitsu, Nissho
Iwai đều đó cú mặt ở Việt Nam với những dự án đầu tư rất đáng chú ý. Các
công ty khác của Nhật Bản cũng đó tỡm thấy những điều kiện cần thiết để
phỏt triển thương mại nờn rất mạnh dạn đầu tư vào Việt Nam. Trong số tất cả
những dự án đầu tư của Nhật Bản cú quy mụ lớn phải kể đến dự ỏn xõy dựng
nhà máy xi măng Nghi Sơn với tổng số vốn lờn tới 347 triệu USD được ký
kết với tập đoàn Mitsubishi Co; dự ỏn xõy dựng nhà mỏy Toyota ở huyện Mờ
Linh, và một số dự ỏn khỏc của tập đoàn Nomura về xõy dựng khu cụng
nghiệp ở Hải Phũng.
Phần lớn cỏc dự án đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam cho đến nay đều
cú quy mụ vừa và nhỏ, 55,1% dự ỏn cú vốn đầu tư dưới 5 triệu USD, 19,3%
số dự ỏn cú vốn đầu tư từ 5 - 10 triệu USD và 25,6% số dự ỏn cú vốn đầu tư
bỡnh quõn trờn 10 triệu USD. Vốn bỡnh quõn mỗi dự án đang hoạt động tại
Việt Nam là 12,2 triệu USD, thấp hơn mức vốn bỡnh quõn chung của cỏc dự
án đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (16,1 triệu USD). (Thống kờ của Bộ Kế
hoạch và đầu tư tháng 06/2002).
c. Cơ cấu lĩnh vực đầu tư
Từ năm 1995, các nhà đầu tư Nhật Bản bắt đầu chỳ trọng nhiều hơn
đến khu vực sản xuất vật chất, nhất là lĩnh vực cụng nghiệp. Tính đến ngày
31/12/1998, hoạt động đầu tư tập trung chủ yếu vào ngành cụng nghiệp nặng
với trờn 1/3 số dự ỏn và 50% tổng JDI ở Việt Nam. Kế tiếp là cỏc ngành cụng
nghiệp nhẹ với 51 dự ỏn và vốn đầu tư là 250 triệu USD, ngành giao thụng
vận tải, bưu điện với 17 dự ỏn và 405 triệu USD, xõy dựng với tổng số vốn là
412 triệu USD.
Hầu hết cỏc dự án đầu tư của Nhật Bản vào Việt nam đều cú trỡnh độ
cụng nghệ cao, tập trung phần lớn vào cỏc lĩnh vực cụng nghiệp mũi nhọn mà
nước ta cũn yếu và chỳ trọng phỏt triển. Cỏc dự ỏn trong lĩnh vực cụng
nghiệp hiện chiếm 65,4% tổng số dự ỏn và 81,5% tổng số vốn JDI đang hoạt
động tính đến thỏng 06/2002. Riờng lĩnh vực lắp rỏp và sản xuất ụ tụ, cỏc
cụng ty Nhật Bản tham gia đông đảo nhất với 7 dự ỏn cú tổng số vốn đầu tư
giai đoạn đầu là 384 triệu USD. Sản phẩm chủ yếu hiện nay của cỏc doanh
nghiệp Nhật Bản ở Việt Nam gồm cỏc loại ô tô, xe máy, hàng điện tử và cỏc
mặt hàng cơ khí cao cấp đạt chất lượng tiờu chuẩn quốc tế.
Cỏc cụng ty Nhật Bản đó đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tần 3
khu cụng nghiệp lớn: Công ty Nomura đầu tư xây dựng khu cụng nghiệp rộng
153ha tại Hải Phũng với số vốn đầu tư 163 triệu USD. Công ty Nissho Iwai
đầu tư 41 triệu USD xõy dựng khu cụng nghiệp rộng 100ha tại Đồng Nai.
Công ty Sumitomo đầu tư 53 triệu USD xõy dựng khu cụng nghiệp Thăng
Long rộng 128ha.
Cú thể núi Việt Nam đang chứng kiến làn sóng đầu tư thứ hai của các
nhà đầu tư Nhật Bản. Điều này thể hiện rất rừ trong số lượng các nhà đầu tư
Nhật Bản tại Hà Nội. Hai năm trước đây mới chỉ có 120 nhà đầu tư Nhật Bản
tại Hà Nội, nay con số này đó lờn tới 180. Đồng thời, các nhà đầu tư cũ cũng
đó gia tăng mức độ đầu tư. Chẳng hạn, Tập đoàn Canon tại Khu cụng nghiệp
Bắc Thăng Long (Hà Nội) đó gia tăng quy mô đầu tư lên gấp đôi. Thành công
của các nhà đầu tư hiện tại đó củng cố niềm tin để các nhà đầu tư mới của
Nhật Bản vào làm ăn tại Việt Nam.
ễng Oka Motoyuki, Chủ tịch Ủy ban Kinh tế Nhật-Việt thuộc Liờn hiệp
cỏc tổ chức kinh tế Nhật Bản (Nippon Keidanren) đó phỏt biểu rằng: “Chưa
bao giờ ở Nhật Bản, sự quan tõm tới Việt Nam lại nóng như hiện nay. Điều
đó cho thấy mối quan tõm lớn của Nhật Bản đối với việc mở rộng và gia tăng
đầu tư tại Việt Nam, mở ra cơ hội mới cho "làn sóng" đầu tư thứ hai của Nhật
tại Việt Nam”.
1.2. Xu hướng đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản vào Việt Nam
a. Tăng cường đầu tư trực tiếp vào Việt Nam
Theo một cố vấn cấp cao Cơ quan Đầu tư nước ngoài Nhật Bản
Kyoshiro Ichikawa và Giám đốc văn phũng đại diện Tổ chức Ngoại thương
Nhật Bản tại Hà Nội Yuichi Bamba đều nhận định rằng nền kinh tế Việt Nam
đang phát triển khỏ mạnh so với các nước khác nên đầu tư vào thị trường Việt
Nam sẽ cú lợi hơn. Ông Bamba cũn cho biết, các nhà đầu tư Nhật Bản đánh
giá cao nỗ lực của Chớnh phủ Việt Nam trong việc cải thiện môi trường đầu
tư thông qua việc ban hành và hoàn thiện nhiều luật liờn quan. Ngoài ra, triển
vọng Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới vào cuối năm 2006
cũng đang khích lệ cỏc cụng ty Nhật Bản tăng cường đầu tư.