Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Fukushima 1 không phải là Chernobyl thứ hai pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.96 KB, 11 trang )

Fukushima 1không phải là
Chernobylthứ hai
Khi tôi viết những dòng này, trận động đất 9 độ Richter và sóng thần cao
10m tại tỉnh vùng Iwate –Miagi – Fukushima, Nhật Bản đã cướp đi sinh mạng của
5692 người, làm 9506 người mất tích, đồng thời gây ra tai hoạ tại nhà máy điện
nguyên tử (NMĐNT) Fukushima 1. Tin động đất hiện tràn ngập các phương tiện
truyềnthôngthế giớitrongđó cóViệtNam.Cácthôngtinđược đưaradồndập,với
những cách viết cường điệu đầy cảm tính, thậm chí theo xu hướng nhằm gây thất
thiệt,đã khiếnnhiềuđộc giả ở ngoàiNhậtBản,đặcbiệtlàtại Việt Nam, có một tâm
trạng losợ gầnnhư hoảngloạn. Trong bài này chúng tahãy bình tĩnh phân tíchtai
hoạ tại Fukushima 1 để hiểu rõ mức độ thiệt hại như thế nào và tại sao đây không
phải là một Chernobylthứ hai như một số nhà “tiêntri” từng cảnhbáo.
NMĐNT Fukushima 1 đi vào sử dụng từ năm 1971, toạ lạc tại tỉnh
Fukushima cách Tokyo 241 km về phía đông bắc. Nhà máy có 6 lò phản ứng dùng
nước sôi (BWR = boiling water reactor). Ngoài ra 2 lò phản ứng mới đang được
xây dựng. Tất cả 6 lò này đều được hãng General Electric của Hoa Kỳ thiết kế. Các
lò1,2, và6 do hãng GeneralElectric sản xuất,trong khilòsố 3 dohãngToshiba và
lò số 4 dohãng Hitachi sản xuất.Trận động đấtngày11/3/2011 đã làmnổ cáctoà
nhà của lò phản ứng số 1, 2. 3 và cháytại lòsố 4. Đây là cáclò loại BWR MarkI.
Hình 1:Tiết diện lò PRWMarkI
Lò BWR (Hình 1) hoạt động theo nguyên tắc như sau. Phản ứng phân hạch toả ra
nhiệt, đun sôi nước, tạo ra hơi nước sôi làm quay các turbine chạy máy phát ra
điện. Hơi nước sau đó được nước dẫn từ ngoài vào làm lạnh, ngưng tụ lại thành
nước.Nước nàylạiđượcbơmngược trở lạilòphảnứng để đượcnhiệtđunsôilàm
bốc hơi.
Nhiên liệu hạtnhân, chủ yếu là gốmuraniumdioxide UO2 (UOX)hayoxide
hỗnhợp gồm 7%plutoniumvà 93%uranium(Mixedoxide hayMOX). MOXđược
dùngtrong lò số 3 của NMĐNTFukushima1. Uranium dioxidecó nhiệt độ nóng
chảykhoảng 3000độ C. Nhiênliệu hạt nhân đượcsản xuất dưới dạng các viên nhỏ
hình trụ đường kính khoảng10 mm,trông như viên thuốc (Hình 2).
Hình 2: Viên nhiênliệu


Các viên nhiên liệu này được nhét vào những ống dài khoảng 4.5m, gắn kín
làm bằng hợp kim zirconium,thiếc,kền và sắt (Zircalloy), cónhiệtđộ nóng chảy
khoảng 2200độ C, gọi là các thanh nhiên liệu. Những thanhnhiênliệu được ghép
thành từng bó(Hình 3)tạothành lõi củalò phản ứng (1trong Hình1), chứavài
trămthanh nhiên liệu. Như vậy Zircalloytạo thành lớp vỏ thứ nhất ngăn cách chất
phóngxạ và bên ngoài. Lõi lòđược đặt trong buồngáp suất, tạo thành lớp vỏ thứ
hai, đảm bảo giữ cho lõi lò hoạt động antoànở nhiệt độ tới vài trăm độ C.
Hình 3:Bó thanhnhiênliệu
Điều tối quan trọng của NMĐNT là toàn bộ hệ thống phảiđảm bảo cân bằng
năng lượng,có nghĩa là nhiệt năngdo lõi lò sản xuất ra phải bằng nhiệt năng được
tiêu thụ (choviệc chạycác turbines).Để đảm bảo an toàn trong trường hợpmất
cân bằng năng lượng, khiếnáp suấttronglò tăng cao, người ta thiết kế một hệ
thống làm giảm ápsuất mangtênMark I, Mark II, và MarkIII. Trong tấtcả các thiết
kế này buồng áp suấtcùng các ốngdẫn, hệ thốngmáy bơm,hệ thống dự trữ nước
làm lạnh, đượcgắn kíntrongmột cái hầm làmbằng bê-tôngcốt thép, rất dày để có
thể chứa vô thời hạn nếu lòtan chảy. Hầm chứa nàygồm 3 phần: giếngkhô (Hình
1: DW),giếngướt (Hình1: WW)có bể giảm áp chứa nước và hệ thống ốngthoát.
Toàn bộ hệ thống này được đặt trong một toà nhà, nhằm mục đích che mưa
nắng (Hình 1: B). Đây là những toànhà đã bị cháy hay nổ tung tại các lò số 1, 2, 3
và 4 của NMĐNTFukushima 1.
Phản ứng nhiệt hạch xảy ra như thế nào?
Đầutiên cáchạtnhân uranium trong cácthanh nhiênliệu phânhạch tự phát
phóngra cáchạtneutronschậm(còn gọi làneutron nhiệt).Hạtneutron bắnvỡ hạt
nhân uranium 235, phóng ra vài hạt neutrons mới. Các hạt neutrons này lại bắn
phá các hạtnhâ unranium 235 bên cạnh, tạo ra nhiều neutrons hơn, gâynên phản
ứng dây chuyền. Mỗi lần hạt nhân uranium 235 hấp thụ một hạt neutron, trở
thành uranium 236, rồibị phân mảnh, thì một năng lượng lớn lại thoátra, lớn gấp
hàng chục tới trăm triệu lần năng lượng được tạo bởi đốt than trong nhà máy
nhiệt điện. Để điều khiển phảnứng hạtnhândây chuyền tronglòphản ứng,người
ta dùng các thanh điều khiển. Các thanh nhiên liệu được làm từ hợp kim của các

nguyên tố kim loại có khả năng hấp thụ neutron mà bản thân không bị phân hạch,
ví dụ hợp kim bạc-indium-cadmium. Khi các thanh điều khiển cắm sâu vào giữa
các bó thanh nhiên liệu, chúng hấp thụ neutrons, khiến neutrons không còn bắn
phá được các hạt nhânuranium235nữa, nên phản ứng dây chuyềndừnglại.
Tuy nhiên, sau khiphản ứng nhiệt hạch đã dừng lại r i, uranium không phân
hạchnữa, nhưngmộtlô cácnguyênt phóng xạ trunggian, sinhra trong quá trı̀nh
phânmảnh, như iodine và cesium ti p tục phânrã và sảnra nhiệt.Vı̀ không phải là
phân rã dây chuy n nên s lượng của các nguyên t này giảm d n. K t quả là lò
phản ứngnguội d ncho đen khinàocác nguyênt trunggianđó phânrã h t.Quá
trı̀nhnguộilò nàythôngthườ̉ngkéodàivài ngày.Nhiệt đượctạora docácnguyên
t trung gian phân rã được gọi là nhiệt dư.
Như vậy cácnguyên tố phóngxạ ở đây là uranium trong các thanh nhiênliệu,
tạo ra nhiệt chạy turbines phát điện, và các nguyên tố phóng xạ trung gian, iodine
và cesium, tạo ra nhiệt dư.
Còn một loại nguyên tố phóng xạ khác, được tạo ra bên ngoài các bó thanh
nhiên liệu.Loạinguyêntố phóng xạ nàysinh rakhi mộtsố hạtneutrons, thay vìva
chạm với các hạt nhân uranium trong các thanh nhiên liệu, lại thoát ra khỏi bó
thanh nhiên liệu, húc vào các phân tử nước, hay khí quyển trong nước. Khi đó
nguyên tố phi phóng xạ trong nước hay khí quyển hấp thụ hạt neutron, trở thành
phóngxạ, như nitrogen 16,cáckhí trơ như argon,v.v. Nhưngnhững chấtphóngxạ
này có thời gian sống rất ngắn, chỉ độ vài giây, sau đó chúng bị phân hủy ngay
thành các nguyên tố phi phóngxạ vô hại.
Sự cố tại NMĐNT Fukushima 1 đã xảy ra như thế nào?
NMĐNTFukushima 1đượcthiếtkế chịu đượcđộng đất mạnh7.9 độ Richter.
Trậnđộng đấthôm13/1/2011mạnh 9 độ Richtertạitâm địachấnngoài biểncách
đất liền 126 km, tương đương sức công phá của 474 triệu tấn thuốc nổ TNT, gấp
gần 50 lần sức chịu đựng của nhà máy. Khi vào tới bờ, sức mạnh của động đất đã
giảm xuống dưới 7.9 độ Richter, tức nằm trong giới hạn chịu đựng của nhà máy.
Rủithay trongthiếtkế của nhà máykhông lường trướckhả năngtànphácủa song
thần (tsunami)cao tới 10 m,mà khôngai tưởng tượngnổi.

Ngay sau khi động đất nện vào lúc 14:46, hệ thống tắt tự động đã cấm các
thanh điều khiển vào lói lò, làm ngừng phản ứng nhiệt hạch trong tất cả 5 lò vào
lúc 14:48 (Lò số 4 đang ở trong tình trạng bảo dưỡng nên đã ngừng hoạt động 4
tháng trước đó). Như vậy chỉ còn lại nhiệt dư, chiếm khoảng 3% toàn bộ nhiệt
năng sinhra tronglò, là thứ cần phải dùng nướclạnh để làm nguội.
Hệ thống làm lạnh cần điện để chạy máy bơm, nhưng toàn bộ các lò phản
ứng đã ngừng hoạt động, không sản ra điện nữa, ngoài ra toàn bộ các trạm phát
điệnkhácxung quanhđã bị độngđấtlàmtêliệt.Người taphảidùngmáy phátđiện
chạy bằng động cơ Diesel. Nhưng sóng thần cao 10m ập đến, làm tê liệt hoàn toàn
các động cơ Diesel dùng để chạy máy phát điện đi. Người ta buộc phải dùng tới
battery dự trữ để chạy máy phát điện, nhưng chỉ được 8 giờ đồng hồ là hết pin.
Trong thời gian8 giờ đó người ta vận chuyển động cơ Diesel lưu động đến,nhưng
không nối được. Kết quả là sau khi hết nguồn điện dự trữ,nhiệt dư không thể làm
nguội đi được nữa, đặt NMĐNT Fukushima 1 trước nguy cơ lõi lò bị tan chảy. Thế
nào là lõi lò bị tan chảy? Do không đủ nước ngập các bó thanh nhiên liệu (các ống
Zircalloy) bị lộ ra khỏi mặt nước (tiếng Ang gọi là bị exposed), tiếp tục nóng lên.
Khoảng 45 phút sau, nhiệt độ vượt ngưỡng tới hạn 2200 độ C làm chảy vỏ gốm
Zircalloybao bọc các viên uranium oxide.
Saukhiđã dùng mọiphươngánlàm nguộilò nhưngbấtthành,ngườitabuộc
phảihạ áp suấttronglòbằngcáchxả hơinước tích tụ trongbuồngápsuất ra ngoài
quacácvan.Nhiệtđộ lúcnàykhoảng500– 600 độ C.Nhằmtránhxả hơithẳngvào
môi trường bên ngoài, người ta đã xả hơi vào phần không gian trong toà nhà bao
bọclò phản ứng.Như trênđã đề cập, toànhànàychỉ có tácdụngchemưa nắngcho
lòphảnứng.Tòa nhànàybị hư hại khôngcónghĩalàlòphảnứngbị hư hại.Nếubó
nhiên liệu không bị tan chảy, hơi được xả ra mang theo nhiều nguyên tố phóng xạ
trung gianđã đề cập ở trên,như nitrogen hay argon,không gây nguyhiểm cho con
người. Tại nhiệt độ rất cao như vậy hơi nước bị phân tách thành hợp chất của khí
hydrogenvàoxygen,gâyphảnứng nổ.Đó làvìsaocáctoà nhà lò phảnửng1 – 3 bị
nổ và lò 4 bốc cháy.
Như vậy vấnđề ápsuấtxemnhư đã được giải quyết.Tuynhiên,nếulò không

được làm nguội, nước bốc hơi làm mực nước cạn, lộ các bó thanh nhiên liệu ra,
khiến cácthanh nhiên liệubị tan chảy, như đã đề cập ở trên. Khitan chảynhư vậy,
các nguyên tố sản phẩmphụ như iodine và cesium sinhratrong quá trình phân rã
uranium thoát ra hoà vào hơi nước xả ra ngoài. Khác với các nguyên tố phóng xạ
trung gian sinh ra bên ngoài các thanh nhiên liệu, có thời gian sống chỉ vài giây,
cesium 134 cóthời gian sống 2 năm còn cesium 137 cóthờigian sống tới 30 năm.
Iodine gây nguy hiểm cho tuyến giáp, vìtuyến giáp hấp thụ iodine trong máu. May
thay iodine có thể được dung hoà bằng cách uống potassium iodide (uống 130
mg/1 ngày).Còncesium, tuykhông tíchtụ lâu trongngườido thoát ratheo đường
bài tiết qua mồ hôi và nước tiểu, nhưng đọng lại trong đất, nước, thực vật. Động
vật trong đó có người bị nhiễm liên tục qua đường tiêu hoá sẽ bị ung thư và vô
sinh.Việc độ phóngxạ đođượcrấtcaobên ngoàinhàmáyngaysau khi các toànhà
nổ tung, nhưng giảmđi nhanh chóng, cho thấy phầnlớn đó là các nguyên tố phóng
xạ trung gian gây nhiệt dư. Trong khi đó việc đo được iodine và cesium trong
phóngxạ thoát ra là dấu hiệu chothấy một phần của lõIlò đã bị tan chảy.
Để tránh bị kích hoạt trở thành chất phóng xạ, nước dùng làm nguội lò phải
là nước sạch khỏi các khoáng chất. Nếu nước chứa muối hay các tạp chất khác,
những chất này sẽ hấp thụ neutron, trở nên chất phóng xạ. Đối với việc làm nguội
lõilòthìviệcdùng nướcgìkhôngthành vấnđề.Nhưngxử lýnướcnhiễmphóngxạ
sẽ gâynhiều khó khăn. Nhưng nước sạch không đủ,vàngười ta đã buộc phải bơm
nước biển hoà boric acide vào để làm nguội lò. Boron trong boric acid hấp thu các
neutrons cònsót lại, đóng vaitrò chất xúctác đẩy nhanhquátrình làm nguội lò.
Trong trường hợp tồi tệ nhất, nếu không làm nguội được lò, người ta vẫn
phải tiếptục xả hơiđể làmgiảmápsuấttrong buồnglò.Sauđó người sẽ buộcphải
hànkínhầmbêtông cốtthépchứagiếngkhô, giếngướtcùngbể giảmáp,để cho lõi
lò tanchảy trong đó màkhông xả chất phóng xạ rangoài. Rồi ngườitalại phải đợi
một thờigianđể cácnguyên tố phóng xạ trunggian phân rã. Trong thờigian đó hệ
thống làm lạnh phải được phục hồi để làm nguội toàn bộ hầm bê tông chứa lõI đã
bị tan chảy. Tiếp đến làcông việc nặng nhọc nạo vét hầm lò xử lýcác chất thảicủa
lõi lò đã bị chảy. Việc thu dọn chiến trường này kéo dài vài năm. Các lò bị đánh

đắm bằngnước biểnlànhữnglòhỏngvĩnhviễn,khôngthể nào chữa điđể dunglại
được nữa.
Vấn đề cấp bách phát sinh hiện nay: Làm nguội bể chứa các bó thanh
nhiên liệu đã sử dụng
Hình 4: Bể chứa các thanh nhiên liệu đã qua xử dụng
Sau khi đã qua sử dụng, các thanhnhiên liệuđược rútra khỏi lõi lò, ngâm
trong nướctrong mộtbể chứa (spelt fuel pool)nằmngoàibuồng ápsuất (Hình 1:
SF). Bể này (Hình4) chứa2000tấn nước, hở phía trên để người ta dễ vận chuyển
các thanh nhiên liệu đã dùngvà đã được làmlạnh,đem đi xử lý. Phần che chắn duy
nhất của bể chứa là toà nhà bao bọclò phản ứng.Bể cần 50 tấn nước chảy quamỗi
ngày để làmnguội cácthànhnhiên liệu. Nếu nước không đủ,hoặc bể chứa bị vụ nổ
khí hydrogen thoát ratừ lò trước đó làm hư hại khiến nước thoát rangoài, mực
nước sẽ thấp xuống, làm mộtphần các thanhnhiênliệu bị lộ rakhỏi mặt nước, tiếp
xúc trực tiếp với khiquyển. Do không đủ nước làm nguội, nhiệt độ tiếp tụclên, và
các thanh nhiên liệu bị tan chảy saukhi nhiệt độ vượt ngưỡng tới hạn 2200độ C,
gây hoả hoạn khiến khí hydrogen và các phóng xạ nguy hiểm cho sứckhoẻ còn
người như iodine và cesium đã đề cập ở trên thoát vào môi trường với số lượng
lớn. Nhiều hayít phụ thuộc vào số thanhnhiên liệu nằm trong bể chứa, màthông
thường không vượtquá số thanh nhiên liệu đang sử dụng trong lò.Đó là những gì
thực sự đang xảy ra tại các lò số 3 và 4 trong ngày 15và 16/3.Vì không đủ máy
phátđiện đế bơm nước vào bể chứa,người ta đã thử dụng máy baytrực thăngvà
vòi phunnước cuả cảnh sát để đưa nước vàobể qua lỗ thủng trên mái toànhà sau
khi các toà nhàbị nổ hoặc cháy. Nhữngbiện pháp này cầnngười điều khiển, vì thế
khôngthể tiếp cận đượctoànhà sau khiđộ phóng xạ quanhđó tăng caođe doạ sức
khoẻ của nhữngngười làm nhiệm vụ cứu hộ. Đó là vì sao, trong ngày 16/3, máy
bay trực thăngcủa quân đội phải rútlui sau khiđộ phóng xạ lên tới trên 50
milisieverts/giờ (mSv/giờ)ngay bênngoài nhà máy.Ngày hôm nay,17/3, khi
độphóngxạ ở độ cao90 m cách mặt đất tăngtới 87700µSV/giờ, hai trực thăng của
quân đội đã tiếptục tưới nước. Sau khivòi phuntrên xe cảnh sátphun không
trúng mục tiêu, 5 xeđặc chủng củaquân độiđã phun 30 tấn nước vào bể chứa các

thanh nhiên liệu đã qua sử dụng. Côngty điệnlực TEPCOvừathôngbáo họ đã
hoàn tất đường dẫn điện mới để cung cấp điện cho các máy bơmnhưng không nói
rõ khinào đường điệnđó sẽ cóthể hoạt động. HãngGeneral Electric, nơi đã sản
xuấtlò số 1, 2 và 6 của NMĐNTFukushima 1, đã bắtđầu vận chuyển máy phátđiện
từ Mỹ sangNhật. Một khi nguồn điện đượckhôi phục, người ta hy vọng hệ thống
bơm trong bể chứa vàlò sẽ hoạt độnglại vàsẽ hoàn thành việc làm nguội toàn bộ
các thanh nhiên liệu.
Liều lượng phóng xạ
Liều lượng phóng xạ được đobằng đơnvị sievert, viếttắt làSv, theo tên cuả
nhà vậtlý yhọc người Thụy Điển,Rolf Sievert. Đây là đơn vị đonănglượng phóng
xạ,tínhbằng joule (J),ngấm vào 1kg vậtchất: 1 Sv =1 J/kg =1m2/giây2.
1 Sv =1000 mSv(milisieverts)= 1 000000 µSv(microsieverts) =100 rem
Như vậy 1 mSv= 1000 µSv
Dưới đây là một số ví dụ về liều lượngphóng xạ:
- Một lần chụp răng bằng X-quang 5µSv
- Một lần chụp kiểm tra ungthư vú 3000 µSv
- Một lần chụp CT scan ngực6000 –18000 µSv
- Phóngxạ tự nhiên trong cơ thế con nguời 400µSv/năm, tứckhoảng 0.046
µSv/giờ
- Liều lượngphóng xa.Cao nhất màcon người có thể chịu được mà không bị
tổn hại sức khoẻ
- Hút 15 baothuốc lá mỗi ngày 13mSv/năm,hay 1.48µSv/giờ
- Độ phóng xạ cao nhấtbên ngoài lò số 3 tại NMĐNTFukushima:400 000
µSv/giờ sau đó nhanh chóng giảm xuống 5000µSv/giờ
- Vụ nổ NMĐNTtại Chernobyl 300000000µSv/giờ (300 triệu µSv/giờ), tức
gấp750 lần độ phóng xạ cao nhất thoát ratại Fukusima 1
- Phóngxạ đo được tại Tokyochiều15/3/2011(tứclà saukhi toànhà lò số 2
tại NMĐNTFukushima 1phát nổ) 0.8µSv/giờ
Theo số liệu của Ủy ban khẩn cấp của viện RIKEN tại thành phố Wako, nơi
tôi đang sống và làm việc, hồi 3giờ sáng ngày 15/3, mức phóng xạ là bìnhthường

(0.04µSv/giờ).Saukhitoànhàlòphảnứngsố 2 củanhàmáyFukushima1phátnổ
lúc 6:00 giờ sáng, tại Wako city mức phóng xạ đo được tăng gấp 3 lần. Đến 10 giờ
37 mức đó tăng cao nhất, gấp 40 lần mức bình thường, nhưng tới 14 giờ 30 thì
giảm xuốngcòn0.13 µSv/giờ, tứcgấp3.25 lầnmức bìnhthường. Tuynhiênnhững
con số nàytại Wako city, kể cả lúccao nhất (1.6µSv/giờ) vẫncòn íthơn vài lần(ít
hơn 3.6 lần) so với giớihạn cho phép của mức phóng xạ mà con người cóthể chịu
mà không nguy hại cho sức khoẻ là 50000 µSv/năm tức khoảng 5.8 microSv/giờ.
Hai ngày sau, 16 và 17/3 độ phóng xạ tại Wako city ổn định ởmức 0.13 – 0.14
µSv/giờ.
Vì sao Fukishima 1 không phải là Chernobyl thứ hai?
Vấn đề tốiquan trọnghiệnnaylàbơm đủ nướcđể làmngập cácthanh nhiên
liệuđã quaxử dụngdựngtrongbể chứa, tránhcho chúngbị phơirakhôngkhí,làm
nguội chúng, để chúngkhỏi tan chảy. Nếukhông, một lượng lớnphóng xạ sẽ thoát
vàokhíquyển.Cácchấtphóngxạ phátracáctia α (alpha),β (beta), γ (gamma).Hạt
α nặngvà chậm, nên khả năng đâm xuyên yếu, không qua nổi một tờ giấy. Hạt β
nhẹ và nhanh, có khả năng đâm xuyên trung bình, dễ dàng bị chặn lại bằng một
tấm nhôm hay nhựa. Vì thế các hạt α và β không thoát nổi ra ngoài buồng áp suất
của lò phản ứng. Các tia γ có khả năng đâm xuyên lớn, nên người ta phải dùng
những tấm chì dày, hay tường bê tông để cản chúng. Một loại bức xạ nguy hiểm
nữa là bức xạ neutron, được tạo bởi các hạt neutrons tự do thoát ra từ phân hạch
tự phát hay phân hạch trong phản ứng dây chuyền của các hạt nhân uranium xảy
ra bên trong lõi lò. Neutron có khả năng đâm xuyên sâu, phá hủy các phân tử và
nguyên tử tạo nên vật chất, làm các chất không phóng xạ trở thành chất phóng xạ
(kích hoạt neutron), gây phàn ứng tạo ra bức xạ proton. Đối với neutron tấm che
chắn bằng kim loại nặng (như chì) trở nên không có hiệu lực. Người ta phải dùng
các chất liệu giàu hydrogen để cản neutron (tường bê tông dày, các khối paraffin,
nước). Sau khi đã neutron đã bị các chất liệu trên làm chậm lại, người ta dùng các
đồng vị như lithium 6 để hấp thụ neutron. Trong thảm hoạ Chernobyl (xaôy ra
ngày 26/4/1986 tại Ukraine thuộc Liên Xô cũ), do thiết kế sai và điều hành kém,
hydrogen nổ ngay trong buồng áp suất bên trong lò phản ứng trước khi các thanh

nhiên liệu kịp ngừng phản ứng dây chuyền, khiến toàn bộ lò nổ tung, văng tất cả
nhiên liệuphóng xạ độc hại như uranium oxide vàcác nguyên tố phóng xạ khác ra
ngoài trong mộtvùngbán kínhhơn9 km.
Một vụ nổ như tại Chernobyl hầu như không có khả năng xảy trong sự cố
NMĐNT Fukushima 1 bởi tất cả cá lò đã ngừng hoạt động và các phản ứng dây
chuyền khiến lò có thể nổ như một “quả bom bẩn” (dirty bomb) Chernobyl đã
được loại trừ từ lúc 14:48 ngày 13/3, ngay sau khi xảy ra động đất. Các vụ nổ khí
hydrogen tại Fukishoma 1 đều xảy ra bên ngoài lò phản ứng, không làm hư hại
buồng lò.
Việc khắc phục hậu quả của phóng xạ đã nhiễm vào khí quyển, đất, nước,
thực vật là một vấn đề nghiêm trọng khác đối với Nhật Bản và sẽ kéo dài trong
nhiều năm tới.

×