Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Giáo trình nghiên cứu phân tích ứng dụng chẩn đoán lâm sàn thú y p8 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (510.3 KB, 5 trang )

40
c. Thở khó
Thở khó là trạng thái rối loạn hô hấp phức tạp mà biểu hiện là thay đổi lực thở, tần
số hô hấp, nhịp thở, thở sâu và hậu quả là cơ thể thiếu oxy, niêm mạc tím bầm, trúng
độc toan huyết.
- Hít vào khó do đường hô hấp trên hẹp. Gia súc hít vào cổ vươn dài, vành mũi mở
rộng, 4 chân dạng, lưng cong, bụng thóp lại. Nguyên nhân có thể do viêm thanh quản,
liệt thanh quản, thanh quản thủy thũng hoặc do bộ phận bên cạnh viêm sưng chèn ép.
- Thở ra khó do phế quản nhỏ bị viêm, phổi mất đàn tính. Lúc gia súc thở ra khó
bụng thóp lại, cung sườn nổi lên, lòi hậu môn. Nguyên nhân có thể do các bệnh (phổi
khí thũng, viêm phế quản nhỏ, viêm phổi, viêm màng phổi).
- Thở khó hỗn hợp là động tác hít vào thở ra đều khó khăn. Nguyên nhân do các
bệnh sau:
+ Các bệnh ở hệ hô hấp: viêm phổi, thủy thũng phổi, sung huyết phổi, tràn dịch
màng phổi, tràn khí màng phổi, u phổi làm giảm diện tích hô hấp, khí thũng phổi làm
giảm đàn tính của phổi.
+ Viêm cơ tim, viêm nội tâm mạc, suy tim, những bệnh thiếu máu.
+ Những bệnh làm tăng thể tích xoang bụng hạn chế hoạt động hô hấp: dạ dày đầy
hơi, ruột đầy hơi, bội thực dạ cỏ, gan sưng to.
+ Những bệnh làm rối loạn thần kinh trung khu: u não, sung huyết não, viêm màng
não,…, và những bệnh gây sốt cao, nhất là bệnh truyền nhiễm cấp tính (nhiệt thán, tụ
huyết trùng).
3.2.2. Khám đường hô hấp trên
a. Nước mũi
Nước mũi là dịch trong suốt, không màu, do viêm cấp tính ở giai đoạn đầu. Do đó
gia súc khỏe không bị chảy nước mũi. Trâu bò có ít nước nhưng tự lau khô. Ngựa lúc
kéo nặng có ít nước mũi.
Nước mũi chảy nhiều do: viêm cata niêm mạc mũi, viêm thanh quản, cúm gia súc.
Viêm niêm mạc mũi cấp tính, tỵ thư cấp tính, viêm màng mũi thối loét ở bò, viêm màng
mũi truyền nhiễm ở thỏ, nước mũi chảy nhiều. Hoặc những bệnh mạn tính: viêm phế
quản mạn tính, viêm phổi mạn tính, lao, tỵ thư mạn tính, nước mũi chảy nhiều.


- Nước mũi chảy một bên thường do bên đó viêm; nếu chảy cả hai bên, có thể do
viêm phổi, viêm phế quản lớn.
Độ nhầy của nước mũi do chất nhày, mủ, mảnh tổ chức, sản phẩm của quá trình
viêm tạo thành.
- Nước mũi nhầy, đục do có mủ lẫn, do viêm thanh quản, viêm niêm mạc mũi mạn tính.
Click to buy NOW!
P
D
F
-
X
C
h
a
n
g
e

V
i
e
w
e
r
w
w
w
.
d
o

c
u
-
t
r
a
c
k
.
c
o
m
Click to buy NOW!
P
D
F
-
X
C
h
a
n
g
e

V
i
e
w
e

r
w
w
w
.
d
o
c
u
-
t
r
a
c
k
.
c
o
m
41
- Nước mũi đặc như mủ, có lẫn nhiều mảnh tổ chức thối rữa do viêm tổ chức hóa
mủ, viêm phổi hoại thư,…
Màu của nước mũi: nếu chỉ là tương dịch thì nước mũi trong không màu; nếu nước
mũi có mủ thì có màu vàng, xanh hoặc màu tro. Nước mũi màu đỏ tươi là do lẫn máu
(thấy trong các bệnh tỵ thư ở ngựa, xuất huyết phổi). Nước mũi màu rỉ sắt là triệu chứng
của bệnh viêm phổi thùy ở giai đoạn gan hóa.
Mùi nước mũi: nếu mùi thối là do viêm phổi hoại thư, viêm khí quản hoại thư.
- Nước mũi lẫn bọt khí do phổi thủy thũng, xuất huyết phổi.
- Nước mũi lẫn mảnh thức ăn là do liệt thanh quản.
b. Khám niêm mạc mũi

Dùng tay mở rộng vành mũi, hướng cho gia súc về phía ánh sáng hoặc dùng đèn pin
soi vào để khám. Khi khám niêm mạc mũi có thể thấy các trường hợp sau:
- Xuất huyết lấm tấm đỏ trên niêm mạc: do các bệnh truyền nhiễm có bại huyết,
thiếu máu truyền nhiễm.
- Niêm mạc sung huyết: do viêm màng mũi cấp tính, viêm họng.
- Niêm mạc mũi trắng bệch, tím bầm, hoàng đản (xem phần “khám kết mạc”).
- Niêm mạc sưng căng, mọng nước: do viêm niêm mạc mũi.
- Niêm mạc có những mụn loét trên bề mặt: do viêm cata, viêm hạch lâm ba, viêm
màng mũi thối loét, dịch tả trâu bò.
c. Khám thanh quản và khí quản
Nhìn bên ngoài: thanh quản sưng (ở ngựa do viêm hạch truyền nhiễm; ở trâu bò là
do bệnh truyền nhiễm, thủy thũng, xạ khuẩn). Nếu sưng cả vùng rộng lan xuống cả
vùng cổ do thủy thũng (ở bò là triệu chứng viêm bao tim do ngoại vật).
Sờ vùng thanh quản nóng: do viêm tại chỗ. Thanh quản, khí quản bị viêm, lòng hẹp
do sưng, dịch thẩm xuất đọng lại, khi gia súc thở có tiếng nghẹt, sờ có thể biết.
Nghe thanh quản: đặt ống nghe vào vùng hầu sẽ nghe được tiếng “khò” lúc gia súc
thở. Viêm thanh quản, viêm thanh quản thủy thũng, u thanh quản thì tiếng “khò” rất to.
Có khi có tiếng ran khô, ran ướt có dịch thẩm xuất, fibrin đọng lại.
Khám bên trong: nhìn trực tiếp hay qua đèn soi
- Với gia súc nhỏ: mở rộng mồm, dùng thìa sắt đã sát trùng đè mạnh lưỡi xuống
để quan sát niêm mạc họng, thanh quản. Nếu niêm mạc viêm sung huyết thì có màu
đỏ ửng.
- Với gia súc lớn có thể sờ trực tiếp, nhưng chú ý nguy hiểm.
- Với gia cầm: dùng tay kéo rộng miệng để xem những thay đổi bên trong.
Click to buy NOW!
P
D
F
-
X

C
h
a
n
g
e

V
i
e
w
e
r
w
w
w
.
d
o
c
u
-
t
r
a
c
k
.
c
o

m
Click to buy NOW!
P
D
F
-
X
C
h
a
n
g
e

V
i
e
w
e
r
w
w
w
.
d
o
c
u
-
t

r
a
c
k
.
c
o
m
42
d. Kiểm tra ho
Ho là một phản xạ nhằm tống ra ngoài những vật lạ như chất tiết, bụi bẩn, vi
khuẩn, gây kích thích niêm mạc đường hô hấp. Cung phản xạ ho bắt đầu từ nốt nhận
cảm trên niêm mạc qua thần kinh mê tẩu đến trung khu ho ở hành tủy. Kích thích hầu,
khí quản, cuống lưỡi, màng phổi, niêm mạc mũi đều có thể gây ho.
Gây ho bằng cách bóp mạnh vào phần sụn giữa thanh quản và đốt khí quản thứ
nhất. Với trâu bò có thể dùng vải gạc bịt chặt mũi để gây ho, gia súc nhỏ thì kéo dúm da
vùng tai, tay còn lại ấn mạnh xuống lưng có thể gây ho.
Khi viêm thanh quản, khí quản gây ho dễ dàng. Gia súc khỏe mạnh như trâu, bò gây
ho khó khăn.
Ho từng cơn: do viêm phế quản, viêm thanh quản, lòng khí quản có nhiều đờm, ho
đến lúc hết chất kích thích đó.
Ho khoẻ, vang: thường do bệnh ở họng, khí quản, phế quản bị viêm.
Ho yếu, tiếng trầm: do tổ chức phổi bị tổn thương, bị thấm ướt, đàn tính giảm,
màng phổi bị dính trong bệnh viêm phổi, viêm màng phổi, lao, tỵ thư, viêm phổi thuỳ,
viêm phế quản nhỏ.
Tiếng ho ngắn hay ho dài do thanh quản quyết định. Tiếng ho vang gọn là do thanh
quản khoẻ, đóng kín; tiếng ho “bể” là do thanh quản viêm, thủy thũng, thanh quản đóng
không kín, động tác ho kéo dài.
Ho đau: biểu thị là lúc ho gia súc khó chịu, cổ vươn dài, chân cào đất, rên. Do viêm
màng phổi, thủy thũng thanh quản, viêm họng nặng.

3.2.3. Khám ngực
Áp dụng các phương pháp: nhìn, sờ nắn, gõ và nghe. Khi cần thiết chọc dò xoang
ngực; chụp chiếu X - quang,
a. Nhìn vùng ngực
Gia súc khoẻ lúc thở hai bên lồng ngực hoạt động rõ và đều đặn. Nếu lồng ngực co,
thở không rõ có thể do phổi khí thũng, viêm màng phổi, viêm phế quản nhỏ.
b. Sờ nắn
Dùng tay sờ nắn và ấn mạnh vào các khe sườn: Nếu từng vùng da nóng là do viêm
tại chỗ; sờ nắn gia súc đau do viêm màng phổi hay bị thương tại chỗ, tổn thương cơ, gẫy
xương sườn vùng ngực. Những gia súc gầy, lồng ngực lép, lúc viêm màng phổi, sờ bên
ngoài cảm giác được hiện tượng cọ màng phổi.
c. Gõ vùng phổi
Căn cứ tính chất của tiếng phát ra lúc gõ vào vùng phổi để chẩn đoán tình trạng của
phổi. Với gia súc lớn dùng bản gõ và búa gõ; với gia súc nhỏ gõ bằng ngón tay. Nên gõ
Click to buy NOW!
P
D
F
-
X
C
h
a
n
g
e

V
i
e

w
e
r
w
w
w
.
d
o
c
u
-
t
r
a
c
k
.
c
o
m
Click to buy NOW!
P
D
F
-
X
C
h
a

n
g
e

V
i
e
w
e
r
w
w
w
.
d
o
c
u
-
t
r
a
c
k
.
c
o
m
43
theo trình tự từ trước ra sau, từ trên xuống dưới; mỗi điểm gõ hai cái, điểm này cách

điểm kia 3 - 4cm. Gõ cả hai bên (phổi phải và phổi trái) để so sánh và phát hiện vùng
phổi bị viêm.

Hình 3.2. Vùng gõ phổi ở chó và bò
* Gõ vùng phổi
Vùng gõ phổi là vùng ngực trong có phổi. Có vùng ngực trong có phổi nhưng
không gõ được như vùng trước bả vai, vùng bả vai.
Ở loài nhai lại: vùng gõ phổi là một vùng tam giác, phía trước là vùng cơ khuỷu
làm ranh giới; cạnh trên cách sống lưng gần một bàn tay và cạnh sau là một đường cong
đều bắt đầu từ gốc sườn 12 và qua các giao điểm của đường kẻ ngang kẻ từ gờ xương
cánh hông và xương sườn 11, đường ngang kẻ từ khớp vai và xương sườn thứ 8 và tận
cùng ở gian sườn 4, tiếp với vùng âm đục tuyệt đối của tim.
Những con bò sữa gầy có một vùng trước xương bả vai khoảng một bàn tay có thể
gõ phổi được nhưng kết quả không rõ lắm.
Ở ngựa, la, lừa: cạnh trước và cạnh trên của vùng gõ phổi giống ở trâu bò. Cạnh sau
là một đường cong đều bắt đầu từ gốc sườn 17 qua các giao điểm của đường ngang kẻ
từ gờ xương cánh hông và xương sườn thứ 16, đường ngang kẻ từ mỏm xương ngồi và
xương sườn thứ 14, đường ngang kẻ từ khớp xương bả vai và xương sườn thứ 10 và tận
cùng ở gian sườn thứ 5.
Ở lợn: cạnh sau bắt đầu từ gốc sườn 11 qua giao điểm của đường kẻ ngang kẻ từ
mỏm xương ngồi và xương sườn thứ 9, đường ngang kẻ từ khớp xương bả vai và xương
sườn 7, tận cùng ở gian sườn 4.
Ở chó: cạnh trước giáp xương bả vai, cạnh trên cách sống lưng 2 - 3 ngón tay; cạnh
sau bắt đầu từ gốc xương sườn 12 qua các giao điểm của đường kẻ từ gờ xương cánh
hông và xương sườn 11, đường ngang kẻ từ mỏm xương ngồi và xương sườn 10, đường
ngang kẻ từ khớp bả vai và xương sườn 8, tận cùng ở gian sườn 6.
Xác định vùng gõ phổi: kẻ 3 đường ngang: một đường qua gờ xương cánh hông,
một đường qua mỏm xương ngồi và một đường qua khớp vai. Gõ theo ba đường đó để
định giới hạn phía sau. Từ ranh giới phía sau gõ về phía trước, lần lượt từ trên xuống
dưới để định diện tích vùng gõ và so sánh với diện tích bình thường.

Vị trí phổi của chó
Vị trí phổi của bò

Click to buy NOW!
P
D
F
-
X
C
h
a
n
g
e

V
i
e
w
e
r
w
w
w
.
d
o
c
u

-
t
r
a
c
k
.
c
o
m
Click to buy NOW!
P
D
F
-
X
C
h
a
n
g
e

V
i
e
w
e
r
w

w
w
.
d
o
c
u
-
t
r
a
c
k
.
c
o
m
44
Chú ý: những gia súc nhỏ, vùng cơ khuỷu và cơ lưng dày, vùng phổi hẹp.
* Diện tích vùng phổi thay đổi: Vùng phổi mở rộng hay thu hẹp do bệnh ở phổi hay
xoang ngực quyết định.
- Vùng phổi mở rộng về phía sau: do diện tích phổi tăng hoặc do khí tích trong lồng
ngực. Phổi khí thũng, thể tích tăng, ranh giới phía sau ngang cung sườn; vùng âm đục
của tim thu nhỏ. Phổi khí thũng mạn tính thường kéo theo tim nở dày, vùng âm đục của
tim thay đổi không rõ. Một bên phổi có tổn thương (viêm, xẹp, u, giun phổi), bên phổi
còn lại làm bù dần đến khí thũng, diện tích vùng phổi mở rộng.
- Vùng phổi thu hẹp: ranh giới lùi về phía trước. Do dạ cỏ chướng hơi, ruột chướng
hơi, gan sưng đẩy cơ hoành về phía trước. Vùng phổi thu hẹp do vùng âm đục tim mở
rộng (tim nở dày, viêm bao tim, bao tim tích nước, tim giãn).
* Âm gõ phổi

- Âm gõ phổi bình thường (phế âm)
Phế âm là tiếng phát ra khi gõ lên vùng phổi. Ở giữa vùng phổi, phổi dày, nhiều khí,
phế âm vang. Ngược lại hai bên rìa do phổi mỏng, cơ che khuất nên phế âm nhỏ, đục.
Gia súc thể vóc to, béo, tầng mỡ dày, phế âm nhỏ. Gia súc bé gầy thì ngược lại.
- Những âm gõ phổi bệnh lý:
Âm đục: do lượng khí trong phế nang giảm, phổi xẹp hoặc chất thẩm xuất đọng lại
trong phế nang, trong phế quản, trong xoang ngực. Vùng phổi có âm đục hoặc âm đục
tương đối thường thấy ở các bệnh sau:
+ Viêm phổi thùy (Pneumonia crouposa) ở thời kỳ gan hóa. Vùng âm đục thường ở
vùng rìa dưới phổi, tiếp giáp với vùng âm đục của tim. Khi phổi bị gan hoá gõ vào nền
phổi thu được âm đục tập trung, mở rộng theo đường cánh cung.
+ Viêm phổi - phế quản, vùng âm đục thường phân tán; xen kẽ những vùng âm đục
nhỏ là những vùng phổi thường hay vùng có âm bùng hơi.
Ở bò sữa vùng âm đục ở phổi thường gặp trong bệnh lao, giun phổi, viêm màng
phổi. Ở ngựa vùng âm đục ở phổi thường thấy trong bệnh tỵ thư, viêm phổi - màng phổi
truyền nhiễm. Ở lợn thường thấy ở bệnh dịch tả mạn tính.
Khi phổi bị thủy thũng, dịch tiết làm tắc phế nang, nếu thủy thũng nhẹ âm gõ không
thay đổi.
Những bệnh ở màng phổi: viêm màng phổi thì vùng âm đục ở dưới và có ranh giới
nằm ngang. Viêm màng phổi mạn tính vùng âm đục ở dưới lâu dài.
Những gia súc lớn, lồng ngực rộng nên khi viêm màng phổi có nhiều dịch thẩm
xuất nhưng không có vùng âm đục trên màng phổi.
Tràn dịch màng phổi cũng có triệu chứng tương tự.
Chú ý các nguyên nhân ngoài phổi: da ở vùng ngực viêm, tổ chức dưới da thủy
thũng, khối u, cũng thấy vùng âm đục.
Click to buy NOW!
P
D
F
-

X
C
h
a
n
g
e

V
i
e
w
e
r
w
w
w
.
d
o
c
u
-
t
r
a
c
k
.
c

o
m
Click to buy NOW!
P
D
F
-
X
C
h
a
n
g
e

V
i
e
w
e
r
w
w
w
.
d
o
c
u
-

t
r
a
c
k
.
c
o
m

×