Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học: " HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CƠ QUAN ĐĂNG KÝ KINH DOANH VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC HOẠT ĐỘNG" ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.04 KB, 6 trang )



125
TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 51, 2009


HOÀN THI
ỆN PHÁP LUẬT VỀ CƠ QUAN ĐĂNG KÝ KINH DOANH
VÀ GI
ẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC HOẠT ĐỘNG
Lê Thị Hải Ngọc
Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế
TÓM TẮT
Đăng ký kinh doanh (ĐKKD) là một thủ tục quan trọng để “khai sinh” doanh nghiệp,
giúp doanh nghiệp tham gia thị trường. Pháp luật Việt Nam đã quy định nhiệm vụ, chức năng
của cơ quan đăng ký kinh doanh; tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế, bất cập trong quá trình
thực hiện. Việc nghiên cứu các quy định về ĐKKD nhằm đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả
hoạt động của cơ quan ĐKKD là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế
hiện nay ở Việt Nam.

I. Quy định về cơ quan Đăng ký kinh doanh
K
ể từ khi thực hiện chính sách đổi mới kinh tế, đặc biệt là việc ra đời Luật
Doanh nghi
ệp 1999, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam đã phát triển mạnh
m
ẽ cả về quy mô và phạm vi hoạt động. Theo Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung
ương và Bộ Kế hoạch và Đầu tư, kể từ khi triển khai thực hiện Luật Doanh nghiệp vào
đầu năm 2000 tới đầu năm 2003 đã có 55.793 doanh nghiệp mới đăng ký (trong 9 năm
1991-1999 có 45.000 doanh nghi
ệp đăng ký); đưa tổng số doanh nghiệp đăng ký của


khu v
ực tư nhân của nước ta lên khoảng trên 100.000 doanh nghiệp. Sau hơn 5 năm
th
ực hiện Luật Doanh nghiệp 1999, đến cuối năm 2005 đã có trên 80.000 doanh nghiệp
m
ới đăng ký, đưa tổng số doanh nghiệp đăng ký lên tới hơn 200.000 doanh nghiệp. Số
doanh nghi
ệp đăng ký trung bình hàng năm hiện nay bằng 4,75 lần so với trung bình
c
ủa thời kỳ 1991-1999.
1
Đồng thời, hoạt động của các doanh nghiệp dân doanh đã đóng
góp 8% trong t
ổng sản phNm quốc nội (GDP) của cả nước, tạo công ăn việc làm cho
hàng tri
ệu lao động trong phạm vi toàn quốc. Đạt được thành tựu này là do Luật doanh
nghi
ệp 1999 đã tổ chức hợp lý hơn cơ quan quản lý Nhà nước về Đăng ký kinh doanh
(
ĐKKD) và đơn giản hoá trình tự, thủ tục ĐKKD thành lập doanh nghiệp.
Quy ch
ế ĐKKD là một công cụ quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước, đồng thời
là m
ột phương tiện để thực hiện quyền tự do kinh doanh của công dân. Nhận thức rõ



1

Theo báo cáo của Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương và báo cáo của Bộ Kế hoạch

và Đầu tư, năm 2005.



126
tầm quan trọng của công tác ĐKKD nên ngay sau khi triển khai thi hành Luật doanh
nghi
ệp 1999, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 03/2000/NĐ-CP ngày 03/02/2000 về
ĐKKD và sau đó Nghị định này được thay thế bằng Nghị định số 109/2004/NĐ-CP
ngày 02/04/2004 quy
định hệ thống cơ quan ĐKKD.
Hi
ện nay, các quy định về cơ quan ĐKKD được quy định cụ thể hơn ở Luật
doanh nghi
ệp 2005. Theo Nghị định 88/2006/NĐ - CP (văn bản hướng dẫn việc đăng ký
kinh doanh theo Lu
ật Doanh nghiệp 2005), cơ quan ĐKKD được tổ chức ở tỉnh, thành
ph
ố trực thuộc Trung ương (gọi chung là cấp tỉnh) và ở huyện, quận, thị xã, thành phố
thu
ộc tỉnh (gọi chung là cấp huyện).Cụ thể:

Ở cấp Tỉnh: Phòng ĐKKD thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư (sau đây gọi chung là
Phòng
Đăng ký kinh doanh cấp tỉnh). Riêng Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí
Minh có th
ể thành lập thêm một hoặc hai cơ quan ĐKKD cấp tỉnh và được đánh số lần
l
ượt theo thứ tự. Việc thành lập thêm cơ quan ĐKKD cấp tỉnh do Ủy ban Nhân dân
Thành ph

ố quyết định.
Ở cấp huyện: thành lập Phòng ĐKKD tại các quận, huyện, thị xã, thành phố trực
thu
ộc tỉnh có số lượng hộ kinh doanh cá thể và hợp tác xã đăng ký thành lập mới hàng
n
ăm trung bình từ 500 trở lên trong hai năm gần nhất
2
.
Tr
ường hợp không thành lập Phòng ĐKKD cấp huyện thì Phòng Tài chính - Kế
ho
ạch thực hiện nhiệm vụ đăng ký kinh doanh quy định tại Điều 8 Nghị định này (sau
đây gọi chung là cơ quan ĐKKD cấp huyện) và có con dấu riêng để thực hiện nhiệm vụ
này. Phòng
ĐKKD cấp tỉnh và Phòng ĐKKD cấp huyện có tài khoản và con dấu riêng.
Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh thống nhất với Ban Quản lý các khu kinh tế do Thủ tướng
Chính ph
ủ quyết định thành lập (sau đây gọi chung là Khu kinh tế) thành lập Phòng
ĐKKD tại khu kinh tế.
II. Một số hạn chế, bất cập của quy định pháp luật về cơ quan ĐKKD
H
ệ thống pháp luật về kinh tế nói chung, trong đó có quy định về cơ quan
ĐKKD nói riêng của Việt Nam tuy đã có nhiều tiến bộ trong thời gian qua, nhưng còn
nhi
ều hạn chế cần phải được giải quyết. Đó là, những quy định của văn bản luật còn quá
chung chung,
đòi hỏi có nhiều văn bản dưới luật chi tiết hoá như Nghị định, Thông tư,
các v
ăn bản của các ban, ngành liên quan… Các văn bản dưới luật này lại rải rác, tản
m

ạn, không có hệ thống, làm cho việc thực thi gặp nhiều khó khăn; chưa nói đến có
nh
ững văn bản dưới luật lại có thể vượt quá phạm vi của Luật. Tình trạng văn bản pháp
lu
ật còn thiếu đồng bộ, không nhất quán là nguyên nhân đã làm cho các doanh nghiệp
có tâm lý không t
ốt, luôn luôn lo sợ sự thay đổi của cơ chế, chính sách nên không dám
đầu tư phát triển kinh doanh. Ngoài ra, những quy định pháp luật về ĐKKD còn phức



2
.
Theo Điểm b Khoản 1 Điều 6 – Nghị định 88/2006/NĐ – CP ngày 29/8/2008 của Chính Phủ.


127
tạp, chồng chéo gây không ít những khó khăn, phức tạp cho các doanh nghiệp.
C
ụ thể: theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005, khi nhà đầu tư là tổ chức
n
ước ngoài muốn thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) hoặc Công ty cổ phần
t
ại Việt Nam thì phải có bản sao Giấy chứng nhận ĐKKD có chứng thực của cơ quan
n
ơi tổ chức đó đã đăng ký không quá ba tháng trước ngày nộp hồ sơ ĐKKD. Trong khi
đó, Nghị định số 88/2006/NĐ-CP của Chính phủ về ĐKKD đã vô tình “bỏ quên” quy
định này đã khiến cho các cán bộ Phòng ĐKKD trở nên lúng túng, sai sót khi tiến hành
ĐKKD cho doanh nghiệp. Có thể nói, đây là một trong những nhược điểm phổ biến tồn
t

ại trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Nhìn nhận ở một phương diện khác, do các nhà
l
ập pháp nước ta trình độ lập pháp còn hạn chế nên ban hành văn bản pháp luật có tính
d
ự báo chưa cao, chưa thể dự liệu hết các tình huống xảy ra trong tương lai nên vướng
m
ắc ở khâu nào mới sửa đổi ở chỗ đó làm cho việc áp dụng pháp luật vào thực tiễn gặp
nhi
ều trở ngại.
Hi
ện nay, quy trình ĐKKD thành lập doanh nghiệp được quy định một cách cụ
th
ể tại Luật Doanh nghiệp 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành là Nghị định số
88/2006/N
Đ-CP về ĐKKD và Thông tư số 03/2006/TT-BKH. Qua nghiên cứu các văn
b
ản này đã cho thấy có sự không thống nhất giữa Luật Doanh nghiệp và các văn bản
h
ướng dẫn thi hành về ĐKKD. Chẳng hạn, theo quy định tại điều 15 Nghị định
88/2006/ N
Đ-CP của Chính phủ, hồ sơ ĐKKD đối với Công ty TNHH hai thành viên
tr
ở lên, Công ty cổ phần và Công ty hợp danh ngoài những giấy tờ quy định tại Điều 17,
Điều 18 và Điều 19 Luật Doanh nghiệp 2005 còn phải có thêm điều lệ hoặc tài liệu
t
ương đương khác đối với thành viên sáng lập hoặc cổ đông sáng lập là pháp nhân. Như
v
ậy, Nghị định 88/2006 về thực chất đã quy định thêm hồ sơ ĐKKD mà Luật Doanh
nghi
ệp không quy định. Việc quy định thêm quy phạm pháp luật trong Nghị định là trái

v
ới quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và sẽ gây ra tâm lý không
an tâm cho nhân dân v
ề sự “trên mở, dưới thắt” của các cơ quan quản lý Nhà nước. Vì
v
ậy, đối với các quy phạm pháp luật, cần bổ sung ngay trong Luật chứ không nên điều
ch
ỉnh bằng các văn bản pháp quy dưới luật như hiện nay.
Các quy
định pháp luật như hiện nay đã hạn chế việc thực hiện nhiệm vụ của cơ
quan
ĐKKD. Đó là:
Th
ứ nhất, Cơ quan ĐKKD không thể thực hiện được việc quản lý các hoạt động
ĐKKD trên địa bàn toàn quốc do các cơ quan ĐKKD không được tổ chức thành hệ
th
ống;
Th
ứ hai, Số lượng cán bộ ĐKKD còn thiếu và thường xuyên phải làm việc quá
t
ải, làm thêm giờ; phương tiện làm việc còn thô sơ, lạc hậu;
Th
ứ ba, Phòng ĐKKD cấp tỉnh chủ yếu tập trung vào thực hiện nghiệp vụ
ĐKKD theo Luật Doanh nghiệp, chưa thực hiện được nghiệp vụ giám sát và kiểm tra
doanh nghi
ệp theo các nội dung ĐKKD. Đây là những vấn đề cần giải quyết trong quá


128
trình tiếp tục hoàn thiện cơ quan ĐKKD của nước ta trong giai đoạn tiếp theo nhằm tạo

ra c
ơ chế thông thoáng hơn cho hoạt động ĐKKD của các doanh nghiệp.
III. Các giải pháp nâng cao năng lực hoạt động của cơ quan ĐKKD
Cùng v
ới việc xoá bỏ giấy phép con, điều mà doanh nghiệp quan tâm nhất là thủ
t
ục hành chính được đơn giản hoá nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp khi
ti
ến hành ĐKKD. Trên thực tế, tuy thủ tục hành chính được Luật doanh nghiệp đơn giản
hoá r
ất nhiều so với trước, nhưng trong nhiều trường hợp, thủ tục hành chính vẫn chưa
được thuận tiện, cán bộ thực hiện chưa tốt. Tại Diễn đàn doanh nghiệp lần thứ 17, các
c
ơ quan ĐKKD, cơ quan thuế lại khẳng định rằng, các cơ quan này không hề muốn gây
phi
ền hà cho doanh nghiệp trong quá trình ĐKKD, nhưng do năng lực của cơ quan
ĐKKD, cụ thể là: cơ sở vật chất quá chật chội, biên chế ít, khối lượng công việc quá lớn
nên c
ơ quan ĐKKD chưa thực hiện tốt công việc của mình.
Trong giai
đoạn từ năm 2000 đến 2010, do khối lượng nghiệp vụ ĐKKD ngày
càng t
ăng nên vấn đề kiện toàn cơ quan ĐKKD ở cấp Trung ương nói chung và Phòng
ĐKKD cấp tỉnh cần phải được đặt ra một cách cấp bách. Đó là:
- V
ề công tác quản lý nhà nước: Ở cấp Trung ương, ĐKKD chỉ do một đơn vị
c
ấp Phòng trong Cục Phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa với biên chế từ 3 đến 4 người
th
ực hiện là quá ít; trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ còn non yếu; thiếu thốn

v
ề cơ sở vật chất làm việc, không đủ điều kiện và năng lực để thực hiện chức năng,
nhi
ệm vụ mà Luật, Nghị định đã quy định; không đáp ứng được các yêu cầu của công
tác qu
ản lý Nhà nước trong điều kiện hội nhập. Vì vậy, trong thời gian tới, các cơ quan
Nhà n
ước có thNm quyền cần phải có sự quan tâm và đầu tư đúng mức để tạo điều kiện
cho c
ơ quan ĐKKD hoàn thành nhiệm vụ của mình. Đặc biệt, cần phải xây dựng hệ
th
ống cơ sở dữ liệu về doanh nghiệp toàn quốc để tiến hành có hiệu quả việc thực hiện
ĐKKD qua mạng trên phạm vi toàn quốc và thống nhất mã số ĐKKD, mã số thuế.
- V
ề số lượng cán bộ: Tăng thêm biên chế cho cơ quan ĐKKD cả ở cấp tỉnh và
c
ấp huyện.
- V
ề trình độ, chuyên môn: Cần đào tạo cán bộ có trình độ chuyên môn cao hơn,
th
ường xuyên cử cán bộ tham gia các lớp tập huấn, rút kinh nghiệm về chuyên môn để
nâng cao h
ơn trình độ nhằm đáp ứng được yêu cầu hiện nay, nhất là khi áp dụng cơ chế
m
ột cửa liên thông. Tổ chức nhiều hơn nữa các buổi toạ đàm, hội thảo có sự tham gia
c
ủa các chuyên gia pháp lý, đại diện các doanh nghiệp tại địa phương, cơ quan lãnh đạo
để trực tiếp trao đổi, tháo gỡ vướng mắc trong quá trình áp dụng Quy chế ĐKKD.
Ngoài vi
ệc nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ, công chức, còn chú ý tới

ph
Nm chất của cán bộ ĐKKD, tuyển chọn người làm công tác ĐKKD có chuyên môn
gi
ỏi, nắm vững quy định của pháp luật, phNm chất chính trị vững vàng, có lương tâm
ngh
ề nghiệp để đào tạo chuyên môn. Ngoài ra, cần có chế độ đãi ngộ cao đối với cán bộ


129
ĐKKD để họ yên tâm công tác và hạn chế được những tiêu cực. Gắn chế độ đãi ngộ cao
v
ới những biện pháp kỹ luật nghiêm khắc đối với những cán bộ ĐKKD vi phạm pháp
lu
ật. Cán bộ ĐKKD làm sai phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và bồi thường thiệt
h
ại cho doanh nghiệp.
- V
ề cơ sở vật chất: Cần dành kinh phí thỏa đáng để trang bị hệ thống máy tính
cho các c
ơ quan ĐKKD, từng bước tiến hành nối mạng thông tin trong toàn quốc về
ĐKKD. Cần thiết phải đầu tư kinh tế thiết lập trang Web riêng của Sở Kế hoạch - Đầu
t
ư của tất cả các địa phương. Điều này vừa phục vụ cho quá trình ĐKKD được nhanh
chóng, v
ừa phục vụ cho việc cung cấp thông tin cho những người quan tâm đến hoạt
động của doanh nghiệp sau này.
- C
ần tuyên truyền, phổ biến tinh thần của Luật doanh nghiệp một cách sâu rộng
và hi
ệu quả trong đội ngũ cán bộ, công chức trực tiếp thực hiện các công việc có liên

quan
đến việc thực thi Luật Doanh nghiệp, mà đặc biệt là nhận thức đúng và đầy đủ
quy
ền và nghĩa vụ của cán bộ làm công tác ĐKKD. Cần xử lý nghiêm minh các hành vi
vi ph
ạm các quy định về ĐKKD của các cán bộ trong bộ máy thực thi Luật Doanh
nghi
ệp, sớm khắc phục tình trạng “trên bảo dưới không nghe” trong hệ thống cơ quan
ĐKKD.
Tóm l
ại, việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về cơ quan ĐKKD là vấn đề
r
ất quan trọng để nâng cao năng lực hoạt động của các cơ quan ĐKKD; giúp cho cơ
quan
đăng ký kinh doanh thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. Điều đó có ý nghĩa rất lớn
đối với các doanh nghiệp; giúp cho các doanh nghiệp nhanh chóng có cơ hội tham gia
ho
ạt động kinh doanh trên thương trường, tăng khả năng cạnh tranh trong thời kỳ kinh
t
ế hội nhập ở nước ra hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. ADB Việt Nam, Lộ trình phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa và môi trường pháp lý,
2003.
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Chương
trình t
ổng thể cải cách hành chính trong giai đoạn cho tới 2010 (thông qua ngày
17/9/2001).
3. Chính phủ, Nghị định số 88/2006/ NĐ – CP ngày 29/8/2006 của Chính phủ về đăng ký
kinh doanh.
4. Nguyễn Đình Cung, Tiếp tục hoàn thiện công tác đăng ký kinh doanh theo Luật doanh

nghiệp: một số vấn đề trao đổi và tìm kiếm giải pháp, Báo cáo tại Hội thảo ngày
31.10.2001 tại Hà Nội, năm 2001.
5. Vũ Quốc Tuấn, Một số kiến nghị để tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, Báo cáo
Hội thảo Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư, Hà nội tháng 5/2007.


130
6. Lê Thị Hải Ngọc, Thủ tục“khai sinh”doanh nghiệp nhanh gọn - cơ hội và điều kiện
thúc đy kinh tế Việt Nam phát triển trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới, Tạp chí
Khoa học Đại học Huế, số 34, năm 2006.
7. Lê Thị Hải Ngọc, Thực trạng Đăng ký kinh doanh tại Thừa Thiên Huế từ năm 2000 đến
năm 2006 – Thực trạng và giải pháp, Đề tài cấp Bộ, năm 2007.
8. Quốc hội, Luật Doanh nghiệp 2005, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, năm 2005
9. (www.vietnamnet.vn
) Vietnamnet, ngày 25.2.2004, Xoá rào cản cho Nhà đầu tư khởi
nghiệp: bao giờ?


PERFECTING THE VIETNAM LAW ON BUSINESS REGISTER UNITS
AND RESOLUTIONS FOR IMPROVING THEIR CAPACITY
Le Thi Hai Ngoc
College of Sciences, Hue University
SUMMARY
Business registration is an important procedure for “the birth” of an enterprise and
may help it join the market. Vietnamese legal provisions with regard to missions and functions
of register state units is available. However, these provisions still show some limitations.
Studying these provisions and proposing resolutions for improving the operation of the register
units have become very important in the current international economic integration of Vietnam.

×