TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 54, 2009
TI
ẾP NHẬN TÁC PHẨM CỦA Y.KAWABATA Ở VIỆT NAM
Hà V n L ng
Tr
ng i h c Khoa h c, i h c Hu
TÓM TẮT
Yasunari Kawabata (1899 - 1972), là m t nhà v n l n c a v n h c Nh t B n và th gi i.
Ông là nhà v
n châu Á th hai c nh n gi i Nobel v n h c (1968). Nh ng tác ph m c a
Kawabata
c d ch và ph bi n nhi u n c trên th gi i, trong ó có Vi t Nam.
n c ta, Y.Kawabata c ti p nh n s m nh t vào n m 1969 và di n ra trong m y
th
p niên cu i th k XX n g n ch c n m u th k XXI. Bài vi t c a chúng tôi nghiên c u
s
ti p nh n tác ph m c a Y.Kawabata Vi t Nam di n ra ch y u trên ba ph ng di n: d ch
thu
t, nghiên c u và gi ng d y. Qua ó nh m kh ng nh v trí quan tr ng và tài n ng ngh
thu
t c áo c a nhà v n Y.Kawabata, giúp cho c gi n c ta hi u bi t sâu s c h n v t
n
c và tâm h n con ng i x s Phù Tang.
Là một nhà văn hiện đại lớn của văn học Nhật Bản và văn học thế giới, những
tác ph
ẩm của Y.Kawabata được dịch và giới thiệu ở nhiều nước trên thế giới. Tổ chức
qu
ốc tế UNESCO đã có chủ trương kêu gọi và dịch tác phẩm của nhà văn ra nhiều thứ
ti
ếng để giới thiệu rộng rãi với bạn đọc nhiều nước. Sau khi đọc xong tiểu thuyết Người
đẹp say ngủ, nhà văn của Colombia, Gabiel Garcia Marquez (Giải thưởng Nobel văn
h
ọc 1982) đã viết bài ca ngợi và xem đó là một trong những kiệt tác của thế giới thế kỷ
XX. Và chính ông c
ũng thú nhận đã học được rất nhiều từ bút pháp Y.Kawabata, đồng
th
ời từ đây G.G.Marquer mới thực sự chú ý đến văn học Nhật Bản.
Ở Việt Nam, tác phẩm của Y.Kawabata được tiếp nhận diễn ra trên ba bình diện:
d
ịch thuật, nghiên cứu phê bình và giảng dạy. Tuy nhiên, ở mỗi phương diện qua các
th
ời kỳ có sự không đồng đều, nhưng mục đích cuối cùng là giới thiệu với người đọc
n
ước ta một tài năng nghệ thuật đặc sắc, độc đáo của văn học hiện đại Nhật Bản.
1. D
ịch thuật và giới thiệu tác phẩm Y.Kawabata
So v
ới các tác giả khác của văn học thế giới, nhà văn Y.Kawabata được dịch ở
Vi
ệt Nam muộn hơn rất nhiều. Cho đến cuối những thập niên sáu mươi của thế kỷ XX
tr
ở đi, những tác phẩm đầu tiên của Y.Kawabata mới được giới thiệu ở Việt Nam. Từ
cu
ối những thập niên 80, 90 của thế kỷ XX và gần chục năm đầu thế kỷ XXI, những
sáng tác c
ủa ông được xuất bản với số lượng nhiều hơn.
Các tác ph
ẩm của Y.Kawabata với ba mảng lớn: truyện ngắn và truyện ngắn
trong lòng bàn tay, tiểu thuyết và tạp văn, phần lớn đã được dịch ra tiếng Việt thông qua
các b
ản dịch từ tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nhật và tiếng Nga. Theo khảo sát của
chúng tôi, cho
đến nay, tác phẩm của Y.Kawabata đã được giới thiệu ở Việt Nam với
m
ột số lượng lớn: Truyện ngắn trong lòng bàn tay: 85/140 (chiếm trên 60%); Truyện
ng
ắn: 7/11 (chiếm trên 70%); Tiểu thuyết: 6/14 (chiếm gần 50%); Tạp văn (ký, tiểu luận
phê bình): 3/4 (chi
ếm hơn 80%).
Qua th
ống kê trên, cho thấy các tác phẩm của Y.Kawabata đã được dịch ở nước
ta vào kho
ảng gần 70% đầu sách, trong đó, tạp văn và truyện ngắn chiếm số lượng
nhi
ều nhất. Đặc biệt, những tác phẩm nổi tiếng như Vũ nữ Izu, Cánh tay, Thuỷ nguyệt…
(truy
ện ngắn); Xứ tuyết, Ngàn cánh hạc, Cố đô, Người đẹp say ngủ (tiểu thuyết); Nhật
B
ản, xứ đẹp và tôi (Diễn từ văn chương nhận giải Nobel)… đã được giới thiệu ở Việt
Nam khá s
ớm.
Ngay t
ừ năm 1969, một số bản dịch tác phẩm của Y.Kawabata đã được giới
thi
ệu như Cô đào miền Izu, Tiếng núi rền, Ngàn cánh hạc (Vũ Thư Thanh dịch), Thủy
nguy
ệt (Chu Sỹ Hạnh dịch), Nốt ruồi (Mai Dzam dịch) đăng trên tạp chí Văn (miền
Nam) s
ố 140; ngày 15.10.1969; Xứ tuyết (Vũ Thư Thanh dịch) - Tạp chí Văn số 122
n
ăm 1969; Vùng băng tuyết (Chu Việt dịch) NXB Trình bày, 1969. Đó là những bản
d
ịch đầu tiên về Y.Kawabata xuất hiện ở nước ta từ tiếng Anh và tiếng Nhật. Mặc dù chỉ
là nh
ững đoạn trích dịch nhưng độc giả Việt Nam cũng được tiếp xúc với những sáng
tác
đặc sắc của một nhà văn lớn Nhật Bản vừa nhận giải Nobel trong năm trước (1968).
T
ừ những năm bảy mươi trở đi, đặc biệt sau ngày đất nước thống nhất cho đến
nh
ững thập niên cuối thế kỷ XX, số lượng tác phẩm đủ các thể loại của Y.Kawabata lần
l
ượt đến với bạn đọc cả nước như: Rập rờn cánh hạc (Nguyễn Tường Minh dịch, NXB
Sông Thao, 1970), C
ố đô (Thái Văn Hiến dịch, NXB Hải Phòng, 1988), Vùng băng
tuy
ết (Giang Hà Vy dịch, NXB Mũi Cà Mau, 1988), Ngàn cánh hạc (Giang Hà Vy dịch,
NXB T
ổng hợp Kiên Giang, 1988), Cô đào miền Izu (Ngô Quý Giang dịch, NXB Thanh
niên, 1989), Ng
ười đẹp say ngủ (Vũ Đình Phòng dịch, NXB Văn học, 1990), Tôi thuộc
v
ề vẻ đẹp Nhật Bản (Đoàn Lê dịch, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, tháng 7/1991),
Kawabata cu
ộc đời và tác phẩm (Giang Hà Vy và Thái Văn Hiến biên dịch, NXB Giáo
d
ục, 1997). Những năm đầu thế kỷ XXI, nhiều truyện ngắn, truyện ngắn trong lòng bàn
tay, ti
ểu thuyết của Y.Kawabata do Hoàng Long, Đào Thị Thu Hằng, Mai Kim Ngọc,
Nh
ật Chiêu, Lê Huy Bắc và một số tác giả khác dịch đăng trên các báo, tạp chí hoặc
xu
ất bản thành tuyển tập. Đó là Tuyển tập Y.Kawabata (NXB Hội Nhà văn, 2001),
Tuy
ển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel (NXB Hội Nhà văn, 2004), Tuyển tập
tác ph
ẩm Yasunari Kawabata (NXB Lao động, Trung tâm văn hóa và Đông Tây, 2005).
Bên c
ạnh đó, một số tạp chí, báo như tạp chí Văn nghệ Quân đội, Văn học nước ngoài,
Tác ph
ẩm mới, Sông Hương, báo Văn nghệ, Văn nghệ trẻ, Phụ nữ…cũng đăng tải những
truy
ện ngắn của Y.Kawabata.
Như vậy, thông qua các nhà xuất bản, tạp chí và báo chí và vai trò của các dịch
gi
ả, các tác phẩm của Y.Kawabata đã đến với độc giả nước ta trong vòng hơn bốn mươi
n
ăm nay, giới thiệu cho công chúng bạn đọc một cách đầy đủ, hệ thống toàn bộ những
sáng tác c
ủa nhà văn. So với một số nhà văn lớn Nhật Bản nói riêng và các nhà văn
khác c
ủa thế giới nói chung được giới thiệu ở Việt Nam, thì Y.Kawabata thuộc trong số
ít nh
ững tác giả được dịch nhiều nhất. Chính điều này góp phần khẳng định tài năng
ngh
ệ thuật đặc sắc của nhà văn; đồng thời nói lên sự tiếp nhận một cách chọn lọc, có ý
th
ức của độc giả nước ta trong việc tiếp thu, học tập những tinh hoa nghệ thuật thế giới.
2. Nghiên cứu và phê bình
Cho
đến nay, đã có hàng chục bài nghiên cứu, giới thiệu về cuộc đời và sáng tác
c
ủa Y.Kawabata. Trước hết là hai công trình nghiên cứu đã được xuất bản trong vòng
h
ơn mười năm trở lại đây: Yasunari Kawabata - cuộc đời và tác phẩm của Lưu Đức
Trung (NXB Giáo d
ục, Hà Nội, 1997) và cuốn Văn hóa Nhật Bản và Yasunari
Kawabata c
ủa Đào Thị Thu Hằng (NXB Giáo dục, Hà Nội, 2007). Phải nói rằng, công
trình nghiên c
ứu của tác giả Lưu Đức Trung là chuyên luận đầu tiên ở Việt Nam nghiên
c
ứu, phân tích khá sâu về nhà văn Y.Kawabata trên một số phương diện. Sau khi tìm
hi
ểu tư tưởng, cuộc đời và tác phẩm, những yếu tố thời đại có ảnh hưởng đến con đường
ngh
ệ thuật của Y.Kawabata và một số yếu tố khác, tác giả nêu bật phong cách đặc sắc
c
ủa Y.Kawabata là “chất trữ tình sâu lắng, nỗi buồn êm dịu” được “Kawabata kế thừa từ
trong dòng v
ăn học “nữ tính” thời đại Heian” [14, tr.18]. Cuốn Văn hóa Nhật Bản và
Yasunari Kawabata c
ủa Đào Thị Thu Hằng mới xuất bản gần đây là một hướng nghiên
c
ứu mới về Y.Kawabata: gắn sáng tác của nhà văn với văn hóa Nhật Bản để có cái nhìn
đối sánh. Với số lượng trên 300 trang in, bao gồm phần chính văn và phụ lục, tác giả
công trình
đã đặt sáng tác của Y.Kawabata trong dòng chảy của văn học truyền thống
Nh
ật Bản để khẳng định sự tiếp thu và cách tân của nhà văn đối với văn học Nhật Bản.
M
ục đích chính của công trình là trên cơ sở “khảo sát Nhật Bản và cái đẹp lấy đó làm
n
ền tảng, (kết hợp với lý thuyết tự sự hiện đại phương Tây) để tìm hiểu Nghệ thuật kể
chuy
ện của Yasunari Kawabata qua các bình diện: người kể chuyện, nhân vật, không
gian, th
ời gian…” [7, tr.211]. Từ sự phân tích, khảo sát các yếu tố của nghệ thuật kể
chuy
ện trong tác phẩm của Y.Kawabata, tác giả Đào Thị Thu Hằng khẳng định: đó là
“ngh
ệ thuật kể chuyện vừa mang tính dân tộc vừa mang tính quốc tế. Được đánh giá cao
b
ởi thi pháp chân không và những nguyên lý thẩm mỹ độc đáo do tiếp thu Thiền tông
trong th
ơ haiku, trong thư họa, trong văn chương cổ điển, Kawabata cũng được so sánh
v
ới Hemingway…, đặc biệt là nghệ thuật kể chuyện độc đáo với thủ pháp tảng băng
trôi” [7, tr.214].
Ở các bài nghiên cứu, phê bình và giới thiệu về sáng tác của Y.Kawabata, các tác
gi
ả chủ yếu tập trung vào ba vấn đề lớn: những vấn đề chung về tác giả, những vấn đề
c
ụ thể của tác phẩm và thi pháp thể loại.
Nghiên cứu những vấn đề chung về tác giả, tác phẩm, xuất hiện sớm nhất là các
bài Chân dung Yasunari Kawabata - gi
ải văn chương Nobel 1968 của Đào Hữu Dũng
(T
ạp chí Văn (Miền Nam), số 90, tháng 6/1969), Yasunari Kawabata - cuộc đời và sự
nghi
ệp của Vũ Như Thanh và Yasunari Kawabata dưới nhãn quan phương Tây của Chu
S
ỹ Hạnh (Tạp chí Văn (Miền Nam) số 140, tháng 10/1969). Nếu tác giả Vũ Như Thanh
nh
ấn mạnh thứ văn chương hoa mỹ, nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh và chất
th
ơ trong văn xuôi Y.Kawabata và nhà văn đã sống “như hồn thiêng sông núi Nhật
B
ản… làm những cây cầu cho chúng ta bước vào cái thế giới đặc thù Á đông” [13,
tr.43], thì
Đào Hữu Dũng ở bài nghiên cứu trên đã cho rằng, Y.Kawabata “đã làm cho cả
th
ế giới biết cái vẻ đẹp tượng trưng sức sống Tổ quốc mình… và giải văn chương Nobel
1968 v
ề tay ông già tóc trắng ở Kamakura rốt cục không phải là một chuyện lạ vì ông
t
ượng trưng cho cả một dân tộc trong cộng đồng loài người” [4, tr.38]. Bài Từ Murasaki
đến Kawabata của Hà Thanh Vân trong cuốn Văn hóa, văn học - Từ một góc nhìn (NXB
Khoa h
ọc Xã hội, Hà Nội, 2002) là một cái nhìn vừa mang tính tổng thể và cụ thể về
Kawabata trong dòng ch
ảy của văn học Nhật Bản thời quá khứ mà tiêu biểu là Murasaki
Shikibu (978 - 1014). Phân tích, so sánh vi
ệc phản ánh cái đẹp truyền thống được thắp
sáng t
ừ thời Murasaki, tác giả bài viết cho rằng, qua các sáng tác của mình, Y.Kawabata
đã “phục sinh những truyền thống cũ tốt đẹp trong sự dung hòa với thế giới hiện tại. Tác
ph
ẩm của ông là một sự kết hợp hài hoà giữa phương Đông và phương Tây… Kawabata
- ng
ười nghệ sỹ Nhật Bản thuần túy trong những trang văn trực cảm và duy mỹ, nhưng
c
ũng là nhà văn của thế giới khi biết dùng ngòi bút của mình hướng tới những chủ đề
v
ĩnh cửu của nhân loại” [15, tr.400]. Giới thiệu và khảo sát sáng tác của Y.Kawabata
trong bài Yasunari Kawabata gi
ữa dòng chảy Đông - Tây, tác giả Đào Thị Thu Hằng đã
kh
ẳng định rằng, những tác phẩm của nhà văn vừa mang những đặc điểm phương Đông
v
ừa đan cài những yếu tố phương Tây hiện đại. Và “chảy trong huyết quản dòng máu
ph
ương Đông thuần khiết cộng thêm một tâm hồn rộng mở, tư tưởng tiên tiến, ông luôn
bi
ết đón nhận cái mới bằng thái độ cầu thị đầy cẩn trọng và có chọn lọc… Ông chính là
ng
ười xây cầu nối giữa hai bờ Đông – Tây… một lữ khách u buồn lang thang đi tìm cái
đẹp” [8, tr.104]. Cũng trong mạch chung đó, trong bài Tago trong mắt Kawabata và
Nh
ật Bản trong mắt Tago, tác giả Đoàn Minh Tiến đã dẫn ra những cảm nhận và đánh
giá c
ủa Tago về Y.Kawabata và về văn học Nhật Bản. Và nhà văn Y.Kawabata đã làm
đúng như lời của Tago: “Mỗi dân tộc phải giới thiệu những gì tốt đẹp nhất của mình với
các dân t
ộc khác”.
Nghiên c
ứu về những đặc điểm thể loại văn xuôi Y.Kawabata đã được nhiều
ng
ười hướng đến nhằm phân tích, chỉ ra những đóng góp của nhà văn từ góc nhìn loại
hình tác ph
ẩm. Với một cách tiếp cận mang tính khái quát, khảo sát truyện ngắn
Y.Kawabata trên các bình di
ện như: xây dựng cốt truyện, thi pháp chân không và thi
pháp chi
ếc gương soi và vai trò người dẫn truyện…, trong bài Đặc điểm truyện ngắn
c
ủa Yasunari Kawabata, nhìn từ góc độ thi pháp, tác giả Hà Văn Lưỡng sau khi phân
tích, chứng minh những vấn đề trên đã đi đến kết luận: “Mỗi tác phẩm của Y.Kawabata
là nh
ững viên ngọc quý long lanh với nhiều sắc màu. Truyện ngắn của ông là những
m
ảng màu thạch bích mà mỗi lần đọc, ta phát hiện thêm những vẻ đẹp của nó” [10,
tr.73]. Trong bài Truy
ện ngắn trong lòng bàn tay – cái nhìn thẩm mỹ trong suốt (đăng
trên http: //www.evan.com.vn n
ăm 2007), Trần Thu Hằng đã phân tích một cách khá sâu
s
ắc những đặc điểm nghệ thuật nổi bật của thể loại này về phương thức kể chuyện, thi
pháp chân không, th
ời gian, không gian nghệ thuật… và khẳng định truyện ngắn trong
lòng bàn tay c
ủa Y.Kawabata là một chỉnh thể thẩm mỹ thống nhất, trong suốt. Chính
“ni
ềm khao khát hạnh phúc và cái đẹp, niềm bi cảm trước những đổi thay sinh tử của
cu
ộc đời được thể hiện trong các truyện ngắn trong lòng bàn tay, rồi các truyện ngắn
c
ũng như tiểu thuyết của ông”. Từ góc nhìn thể loại, Lưu Đức Trung đã nêu ra những
đặc điểm thi pháp tiểu thuyết của Y.Kawabata trong bài Thi pháp tiểu thuyết của
Yasunari Kawabata - nhà v
ăn lớn Nhật Bản (Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 9/1999).
Nh
ấn mạnh những yếu tố thuộc về đặc trưng thi pháp tiểu thuyết Y.Kawabata như: thi
pháp chân không, thi pháp th
ơ haiku, kết cấu, cốt truyện thể hiện trong một số tác phẩm
tiêu bi
ểu (Xứ tuyết, Ngàn cánh hạc, Cố đô), tác giả Lưu Đức Trung đã khẳng định: “Ba
b
ộ tiểu thuyết xuất sắc trên đây đã thể hiện rõ phong cách nghệ thuật của Kawabata. Cái
ch
ất trữ tình sâu lắng, nỗi buồn êm dịu đó phải chăng Kawabata đã kế thừa từ trong
dòng v
ăn học “nữ tính” trong thời đại Heian (794 - 1192), từ tác phẩm Genji
Monogatari (Truy
ện Genji) của Murasaki Shikibu (978 - 1044) đầy chất bi cảm” [1,
tr.47].
Hướng tập trung nghiên cứu về những tác phẩm và những vấn đề cụ thể của văn
xuôi Y.Kawabata chi
ếm số lượng bài nhiều hơn cả (khoảng 15 bài) đăng trên các tạp
chí: Nghiên c
ứu văn học, Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, Châu Mỹ ngày nay,
V
ăn… và các trang web. Viết về cái đẹp biểu hiện trong sáng tác của Y.Kawabata từ
nhi
ều hướng tiếp cận, đã có một số bài viết nghiên cứu khá sâu sắc. Nhà nghiên cứu phê
bình v
ăn học Nhật Chiêu trong bài Thế giới Kawabata Yasunari (hay là cái đẹp: hình và
bóng) và Kawabata Yasunari và th
ẩm mỹ của chiếc gương soi, đã chỉ ra đặc điểm của
cái
đẹp và nghệ thuật sử dụng chiếc gương soi trong tác phẩm Y.Kawabata. Nói đến cái
đẹp của Y.Kawabata, tác giả Nhật Chiêu chỉ ra rằng, đó là sự tiếp nối ngọn lửa thắp lên
t
ừ “ngọn đèn huyền thoại” ngàn xưa truyền lưu. Dung hợp trong văn xuôi của ông là
phong cách haiku và tính hi
ện đại, cảm xúc thẩm mỹ phương Đông với dòng ý thức,
tinh th
ần Thiền tông với tính siêu thực để từ đó “Kawabata tạo nên thế giới của cái
đẹp… cái mà ông gọi là “Bi no sonzai” (mỹ chi tồn tại)” [2, tr.89]. Khảo sát các biểu
hi
ện của thẩm mỹ “chiếc gương soi” trong một số tác phẩm tiêu biểu của nhà văn
Y.Kawabata (g
ương, tấm kính toa tàu, giọt sương, mặt nước…), Nhật Chiêu kết luận
“Th
ực chất của thẩm mỹ gương soi là hồn thơ khao khát vươn tới điều chưa biết trong
Kawabata
đã vận dụng thần tình mỹ cảm phương Đông, mỹ cảm Nhật Bản và cả mỹ
c
ảm hiện đại, phản ánh tất cả trong một giọt sương sáng tạo đầy bản lĩnh” [1, tr.36]. Hai
tác giả, Nguyễn Thị Mai Liên trong bài Yasunari Kawabata - “lữ khách muôn đời đi tìm
cái
đẹp”, và Đào Thị Thu Hằng với bài Kiểu nhân vật lữ khách đi tìm cái đẹp trong tác
ph
ẩm của Yasunari Kawabata, cùng chung một hướng nghiên cứu là chỉ ra cái đẹp biểu
hi
ện trong văn xuôi Y.Kawabata thông qua loại nhân vật lữ khách. Nếu Nguyễn Thị Mai
Liên kh
ảo sát các cung bậc thẩm mỹ của cái đẹp trong sáng tác của nhà văn qua vẻ đẹp
khiêm nh
ường”, “vẻ đẹp thanh tao, trong sáng”, “vẻ đẹp thanh xuân”, “vẻ đẹp hài hoà”,
“v
ẻ đẹp u buồn” và “vẻ đẹp hư ảo”, thì tác giả Đào Thị Thu Hằng lại thống kê và chỉ ra
các lo
ại nhân vật lữ khách đi tìm cái đẹp như Shimamura (Xứ tuyết), Shingo (Tiếng rền
c
ủa núi), Eguchi (Người đẹp say ngủ) và kết luận rằng: “Trong hành trình tìm kiếm của
mình, h
ọ luôn được sống trong cảm giác chân - thiện - mỹ rất con người. Họ đã trở
thành m
ột kiểu nhân vật quen thuộc không thể thiếu. Họ chính là phiên bản của
Kawabata - “l
ữ khách muôn đời đi tìm cái đẹp”. [5, tr.62]. Phân tích vẻ đẹp của Cánh
tay mang b
ản chất nữ tính đã qua đêm cùng với một người đàn ông, Trần Thị Thuận
nh
ấn mạnh “cái đẹp cũng là cái thiện được thể hiện trong sự tuơng giao giữa người đàn
ông và cánh tay cô gái mang m
ột ý nghĩa nhân bản đẹp đẽ… được ngời sáng từ cái đẹp
c
ủa bản ngã nữ tính”.
S
ử dụng các yếu tố huyền ảo như một thủ pháp nghệ thuật để phản ánh và khai
thác chi
ều sâu tâm lý nhân vật được Y.Kawabata thể hiện trong hầu hết các sáng tác của
mình.
Đặt trong sự so sánh đối chiếu, Đào Thị Thu Hằng đã nêu ra những sự giống và
khác nhau gi
ữa các yếu tố huyền ảo trong sáng tác của Y.Kawabata và G.G.Marquez qua
bài Y
ếu tố huyền ảo trong tác phẩm của Yasunari Kawabata và Gabriel Gareia Marquez
(T
ạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 9/2005). Nhìn trong sự đối sánh các yếu tố huyền ảo ở
c
ấp độ thời gian, không gian, chi tiết liên truyện và giọng điệu, nhịp điệu kể chuyện của
sáng tác Y.Kawabata và G.G.Marquez, tác gi
ả bài viết chỉ ra sự giống và khác nhau giữa
chúng và
đi đến kết luận: “Hai nhà văn thuộc hai trường phái, chủ nghĩa khác nhau, hai
n
ền văn hóa và phương trời nghệ thuật hoàn toàn cách biệt, nhưng với những điểm
t
ương đồng và khác biệt, họ đã đóng góp cho nhân loại những tác phẩm xuất sắc mang
đầy tính hiện thực, triết lý, nhân văn” [6, tr.62]. Ở bài Đọc “Xứ tuyết” suy nghĩ về cái
nhìn huy
ền ảo của Kawabata Yasunari, Đào Ngọc Chương vận dụng phương pháp so
sánh, h
ệ thống khi tiếp cận tác phẩm để lý giải “cái nhìn huyền ảo” của nhà văn trong
X
ứ tuyết. Theo tác giả bài viết, yếu tố huyền ảo hầu như bàng bạc trong tác phẩm và
được thể hiện qua những yếu tố như tuyết, tiếng gió, lửa, tấm kính… “Và đó là cái nhìn
huy
ền ảo về một chân lý thống nhất chứ không phải duy nhất” [3, tr.103]. Nghiên cứu
nh
ững yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi Y.Kawabata, ở bài Yếu tố kỳ ảo trong một số sáng tác
c
ủa Y.Kawabata, nhìn từ phương thức biểu hiện, Hà Văn Lưỡng đã chỉ ra chiếc mặt nạ,
nh
ững giấc mơ, các sự vật siêu thực… là những biểu hiện của cái kỳ ảo trong sáng tác
c
ủa nhà văn. Những cái kỳ ảo này đặt trong mối quan hệ với các yếu tố thực tạo nên
m
ột trường thẩm mỹ nghệ thuật có sức hấp dẫn, lôi cuốn người đọc. Và “những yếu tố
k
ỳ ảo trong sáng tác của Y.Kawabata… là những yếu tố nghệ thuật độc đáo mang vẻ đẹp
của phương Đông gắn với tư duy nghệ thuật và thi pháp của nhà văn. Đó là sự tiếp nối
mang tính truy
ền thống trong văn học Nhật qua các thời đại và sự học tập những
ph
ương thức nghệ thuật hiện đại của phương Tây” [11, tr.59]. Tiểu thuyết Người đẹp say
ng
ủ là tác phẩm lớn cuối cùng trong sự nghiệp sáng tác của Y.Kawabata đặt ra nhiều
v
ấn đề mang tính thời sự và nhân sinh. Phân tích những “thủ pháp tương phản” trong
truy
ện Người đẹp say ngủ của Kawabata Yasunari, bên cạnh việc chỉ ra sự tương phản
v
ề không - thời gian, hình thức - nội tâm, già - trẻ…, Khương Việt Hà đã cho rằng
“t
ương phản được Kawabata Yasunari sử dụng như một thủ pháp cốt yếu bàng bạc trong
t
ừng trang Người đẹp say ngủ… Với thủ pháp tương phản và thành công của tác phẩm
Ng
ười đẹp say ngủ, Kawabata Yasunari đã hoàn thiện văn đạo của mình” [9, tr.105-106].
Trong bài Th
ời gian và không gian nghệ thuật tiểu thuyết “Người đẹp say ngủ” của
Yasunari Kawabata, tác gi
ả Hà Văn Lưỡng đi vào khảo sát các loại thời - không gian
bi
ểu hiện khác nhau và vai trò của nó đối với các yếu tố nghệ thuật trong Người đẹp say
ng
ủ. Và bài viết kết luận “Những biểu hiện của các loại không - thời gian nghệ thuật
trong tác ph
ẩm là những đặc trưng thi pháp đặc sắc mà nhà văn sử dụng để khai thác
chi
ều sâu tâm lý nhân vật. Nó góp phần tạo nên thành công về phương diện nghệ thuật
c
ủa Người đẹp say ngủ” [12, tr.72]. Qua sự so sánh giữa kịch No và Người đẹp say ngủ
v
ề các mặt thời gian, không gian, phân vai và kết cấu tác phẩm, trong bài Kịch No và
“Ng
ười đẹp say ngủ” của Yasunari Kawabata, Đào Thị Thu Hằng đã cho rằng giữa
chúng có s
ự tương đồng rõ rệt. Điều đó chứng tỏ kịch No có sức sống mãnh liệt. Và
vi
ệc “kế thừa văn hóa truyền thống không hề làm giảm đi bản sắc sáng tạo cá nhân của
ng
ười nghệ sĩ nói chung và Kawabata nói riêng, ngược lại, chính từ sự kế thừa đó nhà
v
ăn đã để lại cho độc giả những tác phẩm bất hủ” (Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số
2 (84) tháng 2.2008, tr.61).
Với một khối lượng tác phẩm của Y.Kawabata giới thiệu ở nước ta khá đầy đủ,
nh
ưng việc nghiên cứu nó mà chúng tôi điểm qua như trên là chưa tương xứng và hãy
còn quá ít
ỏi. Nhiều vần đề thuộc nội dung và nghệ thuật những sáng tác của nhà văn
v
ẫn chưa được đề cập đến hoặc phân tích, lý giải chưa sâu sắc. Tuy nhiên, những công
trình nghiên c
ứu xuất bản thành sách và các bài viết trên các tạp chí chuyên ngành và
báo chí c
ũng đã chỉ ra được những tài năng nghệ thuật đặc sắc của Y.Kawabata, đồng
th
ời có ý nghĩa định hướng tiếp nhận cho độc giả nước ta đối với tác phẩm của nhà văn
này nói riêng và v
ăn học Nhật Bản nói chung.
3. Tác phẩm của Y.Kawabata trong nhà trường Việt Nam
Trong ch
ương trình giảng dạy văn học nước ngoài ở nước ta, so với văn học
Trung Qu
ốc, văn học Pháp, văn học Nga, văn học Mỹ…, văn học Nhật Bản đưa vào dạy
ở bậc phổ thông, cao đẳng và đại học không chỉ muộn hơn về thời gian mà số lượng tác
gi
ả, tác phẩm quá ít ỏi. Trong khi đó, nền văn học Nhật Bản với một chiều dài lịch sử
phát tri
ển đã có những thể loại văn học và tác giả lớn được giải Nobel văn học: thơ
haiku, kịch No (thế kỷ XVII), Y.Kawabata (Nobel 1968), K.Ôe (Nobel 1994). Điều này
có th
ể lý giải bằng nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan. Cho đến nay, một số tác
gi
ả văn học Nhật Bản như M.Basho, R.Akutagawa và Y.Kawabata đã được giảng dạy
ở nhà trường Việt Nam. Tuy nhiên, số lượng giờ và tác phẩm trích giảng cũng rất ít.
3.1. Tác ph
ẩm của Y.Kawabata trong trường phổ thông
Nh
ư trên chúng ta đã nói, tác giả M. Basho (1664 - 1694) gắn với thể thơ haiku
đưa vào chương trình học của phổ thông trung học (lớp 10). Chọn 11 bài thơ haiku của
M.Basho v
ới những nội dung phản ánh khác nhau để khẳng định những giá trị nghệ
thu
ật của nó nhằm giúp cho học sinh biết được một cách cơ bản hình thức và nội dung
th
ơ haiku, đồng thời nhấn mạnh tài năng nghệ thuật của tác giả là một sự lựa chọn đúng
đắn.
Đối với văn xuôi Y.Kawabata, trong chương trình Văn học 12, tập hai, truyện
ng
ắn Thủy nguyệt được giảng dạy cùng với một số tác phẩm văn học nước ngoài khác.
V
ới số tiết không nhiều (3 tiết), tác giả biên soạn đã có phần giới thiệu khái quát về
cu
ộc đời và sự nghiệp sáng tác của Y.Kawabata, nhấn mạnh những giá trị truyền thống
và nh
ững nét đặc sắc trong văn chương ông. Mặc dù không nhiều, nhưng với trình độ và
m
ục đích tiếp thu của học sinh phổ thông, chỉ phân tích một truyện ngắn là phù hợp.
Ch
ọn Thủy nguyệt để trình bày là một sự lựa chọn hoàn toàn đúng đắn về phương diện
n
ội dung và nghệ thuật biểu hiện. Bởi vì, đây là tác phẩm không chỉ tiêu biểu cho thể
lo
ại truyện ngắn, mà còn thể hiện một cách cao độ “nghệ thuật chiếc gương soi” - một
bi
ện pháp nghệ thuật độc đáo trong hệ thống thi pháp của văn xuôi Y.Kawabata, góp
ph
ần tạo nên phong cách của nhà văn. Mặt khác, truyện ngắn này cũng thể hiện sự tiếp
thu m
ột cách sáng tạo nghệ thuật phương Tây hiện đại về phương diện phân tích tâm lý
nhân v
ật (nghệ thuật độc thoại, thủ pháp đồng hiện…).
Nh
ư vậy, so với tài năng nghệ thuật và khối lượng tác phẩm của Y.Kawabata
được phổ biến ở nước ta, việc chỉ chọn giảng dạy một truyện ngắn là còn ít. Nếu đưa
thêm m
ột số truyện ngắn trong lòng bàn tay và trích giảng một số đoạn trong Xứ tuyết
ho
ặc Ngàn cánh hạc thì sẽ cung cấp cho học sinh có một kiến thức rộng hơn về nhà văn
Y.Kawabata.
3.2. Tác ph
ẩm của Y.Kawabata trong trường đại học và cao đẳng
Ở khoa Ngữ Văn của các trường đại học và cao đẳng nước ta, việc giảng dạy văn
h
ọc Nhật Bản nói chung và Y.Kawabata nói riêng mang tính hệ thống và với khối lượng
tác gi
ả, tác phẩm nhiều hơn. Môn văn học Nhật Bản được giảng dạy thành một học
ph
ần riêng biệt, hoặc nằm trong phần văn học phương Đông. Tác giả Y.Kawabata cùng
v
ới những tác phẩm của ông được trình bày một cách đầy đủ, theo thể loại bên cạnh các
tác gi
ả khác như M.Basho, R.Akutagawa, Y.Mishima… Cũng như văn học Mỹ, văn học
Đức, văn học Nhật được giảng dạy trong các trường đại học và cao đẳng mới non hai
chục năm trở lại đây. Mặt khác, chương trình giảng dạy văn học Nhật và Y.Kawabata
(bao g
ồm số tiết và nội dung) ở các trường cũng không giống nhau. Một số trường
không d
ạy văn học Nhật Bản thành một học phần riêng biệt mà nó nằm chung trong học
ph
ần văn hóa Nhật Bản. Theo chúng tôi biết, hiện nay Y.Kawabata và văn học Nhật Bản
ch
ủ yếu được giảng dạy ở khoa Ngữ Văn các trường đại học tại Hà Nội, Huế và thành
ph
ố Hồ Chí Minh với số lượng số tiết nhiều hơn.
Tác gi
ả Y.Kawabata được trình bày với tư cách là một nhà văn xuôi tiêu biểu của
v
ăn học hiện đại Nhật Bản. Số lượng tiết dao động trong khoảng từ 5 đến 7 tiết dành
cho các th
ể loại, trong đó nhấn mạnh những đặc trưng của thi pháp nghệ thuật của ông
qua m
ột số tác phẩm tiêu biểu như Thủy nguyệt, Vịnh cánh cung, Xứ tuyết, Ngàn cánh
h
ạc, Người đẹp say ngủ… Trong tương quan với một số tác giả như M.Basho,
R.Akutagawa, Y.Mishima…, tác ph
ẩm của Y.Kawabata giảng dạy với một số lượng
nhi
ều hơn. Việc nhấn mạnh và khẳng định những giá trị nghệ thuật của văn xuôi
Y.Kawabata
đối với văn học Nhật Bản và văn học thế giới đã cung cấp cho sinh viên
nh
ững kiến thức cơ bản có bề rộng và sâu về một tác gia văn học lớn, qua đó hiểu biết
v
ề tâm hồn con người và đất nước Phù Tang.
Cùng v
ới việc giảng dạy, dưới sự hướng dẫn của giáo viên, đã có hàng chục đề
tài niên lu
ận, khóa luận của sinh viên về tác giả Y.Kawabata được thực hiện. Chỉ riêng ở
khoa Ng
ữ Văn, Trường Đại học Khoa học Huế, đến nay đã có 10 khóa luận tốt nghiệp,
15 bài t
ập tốt nghiệp và hơn 20 niên luận viết về sáng tác của Y.Kawabata.
Nh
ư vậy, việc tiếp nhận Kawabata ở Việt Nam trên các phương diện: dịch thuật,
nghiên c
ứu, giảng dạy diễn ra khá toàn diện so với các tác giả văn học Nhật Bản khác.
Tuy nhiên, v
ới một tác gia lớn như Y.Kawabata, việc tiếp nhận diễn ra chậm và một số
tác ph
ẩm của nhà văn vẫn chưa dịch hết sang tiếng Việt (đặc biệt là tiểu thuyết). Mặt
khác, nh
ững công trình nghiên cứu tổng thể và cụ thể tác giả, tác phẩm Y.Kawabata hãy
còn th
ưa thớt. Các bài viết chưa khám phá hết đặc sắc nghệ thuật văn chương của ông;
th
ời lượng giảng dạy tác giả này trong trường phổ thông và đại học, cao đẳng còn chưa
h
ợp lý. Vì vậy, việc tiếp nhận Y.Kawabata ở nước ta vẫn tiếp tục trong hiện tại và tương
lai.
TÀI LI
ỆU THAM KHẢO
1. Nh t Chiêu, Kawabata Yasunari và th m m c a chi c g ng soi, T p chí Nghiên c u
Nh
t B n, s 4 (28), 2000.
2. Nh
t Chiêu, Th gi i Kawabata Yasunari (hay là cái p: Hình và bóng), T p chí V n
h
c, s 3/2000.
3.
ào Ng c Ch ng, c X tuy t ngh v cái nhìn huy n o c a Kawabata Yasunari,
T
p chí V n, s 15 tháng 6/2001.
4. ào H u D ng, Yasunari Kawabata, gi i Nobel v n ch ng 1968, T p chí V n h c s
90, tháng 6/1969.
5.
ào Th Thu H ng, Ki u nhân v t “l khách i tìm cái p trong tác ph m c a
Y.Kawabata”, T
p chí Nghiên c u Nh t B n và ông B c Á, s 3, tháng 5/2004.
6.
ào Th Thu H ng, Y u t k o trong tác ph m c a Y.Kawabata và Gabriel Garcia
Marquez, T
p chí Châu M ngày nay, s 9/2005.
7.
ào Th Thu H ng, V n hóa Nh t B n và Yasunari Kawabata, NXB Giáo d c, Hà N i,
2007.
8.
ào Th Thu H ng, Yasunari Kawabata gi a dòng ch y ông – Tây, T p chí Nghiên
c
u v n h c, s 7/2005.
9. Kh
ng Vi t Hà, Th pháp t ng ph n trong truy n Ng i p say ng c a Kawabata
Yasunari, T
p chí Nghiên c u v n h c, s 1/2004.
10. Hà V
n L ng, c i m truy n ng n c a Yasunari Kawabata, nhìn t góc thi pháp,
T
p chí Khoa h c i h c Hu , s 6 (40) tháng 12/2007.
11. Hà V
n L ng, Y u t k o trong sáng tác c a Y.Kawabata, nhìn t ph ng th c bi u
hi
n, T p chí Nghiên c u Nh t B n và ông B c Á s 9 (69) tháng 11/2006.
12. Hà V
n L ng, Th i gian và không gian ngh thu t trong ti u thuy t Ng i p say
ng
c a Y.Kawabata, T p chí ông B c Á, s 81, tháng 11/2007.
13. V
Th Thanh, Y. Kawabata, cu c i và s nghi p, T p chí V n s 140/1969.
14. L
u c Trung, Yasunari Kawabata – cu c i và tác ph m, NXB Giáo d c, Hà N i,
1997.
15. Hà Thanh Vân, T Murasaki n Kawabata trong cu n V n hóa h c t m t góc nhìn,
NXB H
i Nhà v n, Hà N i, 2002.
THE ABSORPTION Y. KAWABATA’S WORKS IN VIETNAM
Ha Van Luong
College of Sciences, Hue University
SUMMARY
Yasunari Kawabata (1899 - 1972), was the greatest writer of Japanese Literature and of
the world. He was the first Japanese and the second Asian writer who received the Nobel Prize
in Literature (1968). Kawabata’s works have been translated and have become popular in many
countries all over the world, especially in Vietnam.
In our country, Y.Kawabata had been received the earliest since 1969 until the end of
the 20
th
century and nearly ten years by the beginning of the 21
st
century. Our article presents
the research on receiving Y.Kawabata’s work in Vietnam focusing on three aspects: translation,
research and teaching. Through these aspects, we can affirm Y.Kawabata’s important position
and his original talent of art which help our readers to understand the nation and human soul of
Phu tang more profoundly.