Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học: " QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT THƠ CỦA TRẦN DẦN, LÊ ĐẠT NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN TIẾP NHẬN" ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.16 KB, 9 trang )

TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 54, 2009


QUAN NI
ỆM NGHỆ THUẬT THƠ CỦA TRẦN DẦN, LÊ ĐẠT
NHÌN T
Ừ PHƯƠNG DIỆN TIẾP NHẬN
Hoàng Th Hu
Tr
ng i h c S ph m, i h c Hu
TÓM TẮT
Ngôn ng v i ch c n ng công c trong th truy n th ng n Tr n D n, Lê t ã c
cách tân: xem ch
là tính th nh t so v i ngh a. Ngôn ng không còn là công c chuy n t i hay
ch
a ng thông tin n a mà b n thân nó là thông tin th m m , là c u cánh, là m c ích. Nh ng
cách tân này khi
n ng i c không th th ng ti p thu nh khi ti p nh n th lãng m n, c
truy
n c m, hay c g i c m t nh ng n d trong th t ng tr ng n a. c gi , chính vì v y,
khi
n v i th Tr n D n, Lê t ph i mang m t t duy khác, tích c c và ng sáng t o. Nh ng
cách tân c
a nh ng nhà th này là nh ng thách th c l n t ra không ch cho quá trình i m i
th
ng i t ph ng di n sáng t o mà nó còn là nh ng th thách, nh ng v n m i t ra
cho truy
n th ng ti p nh n n a. Chính vì v y, xem xét i m i cách tân th c a nh ng nhà th
này là xem xét
hai ph ng di n sáng t o và ti p nh n. ây là hai quá trình không th thi u
c


a b t k hi n t ng v n h c nào.
Văn học trung đại Việt Nam trong gần 10 thế kỷ bị chi phối bởi quan niệm sáng
tác “V
ăn dĩ tải đạo”, “Thi dĩ ngôn chí” – tức xem văn chương là công cụ, là phương tiện
để thể hiện đạo đức thời phong kiến. Văn học nói chung, thơ ca nói riêng dùng để nói chí,
t
ỏ lòng, “ngôn chí’’, “thuật hoài”, “bảo kính cảnh giới” – gương báu răn mình Có thể
th
ấy toàn bộ văn thơ trung đại đều bị chi phối sâu sắc bởi quan niệm đó. Với quan niệm
v
ề chức năng văn học như vậy, độc giả đến với văn chương là để thấm nhuần tư tưởng
đạo lý, tác giả sáng tác theo kiểu tâm truyền, dùng văn chương để giáo huấn đạo đức.
Đến phong trào Thơ mới, các nhà thơ quan niệm làm thơ theo kiểu “không
chuyên tâm, không ch
ủ nghĩa” (Thế Lữ), “mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây’’, nhà thơ
là “con chim
đến từ núi lạ / Ngứa cổ hót chơi’’ (Xuân Diệu), “là khách bộ hành phiêu
lãng” ghé ngang v
ườn trần thế cất tiếng ca ngợi cuộc đời. Với tuyên bố đó, các nhà Thơ
m
ới đã mở ra một quan niệm thơ hoàn toàn khác hẳn thơ trung đại, giải phóng tư tưởng
cho nhà th
ơ. Thơ mới là thơ của tiếng nói đòi tự do cho cảm xúc riêng tư, tự do yêu
đương, là thế giới của cái nhìn cá thể hóa, của cái tôi nội cảm mang sắc thái cá nhân
đậm nét. Độc giả bị kéo tuột vào thế giới nghệ thuật do nhà thơ tạo ra, lang thang trong
đó, chấp nhận nó, bởi thế giới nghệ thuật ấy thoả mãn những khoái cảm thẩm mỹ ở độc
gi
ả, điều mà trong thế giới thật họ không có được. Như vậy, vai trò của độc giả ở đây là
hoàn toàn thụ động, họ bị mê hoặc bởi thế giới thơ, thưởng thức nó và chấp nhận tính ảo
c

ủa nó.
V
ới quan niệm làm thơ để cho mình, để hóa giải nỗi buồn, sự cô đơn, thơ ca là
ti
ếng nói trái tim , các nhà Thơ mới đã giải phóng văn chương khỏi trách nhiệm mang
vác các giá tr
ị đạo đức, chuẩn mực của xã hội thời kỳ trung đại. Độc giả tiếp nhận Thơ
m
ới trên tinh thần đồng cảm, sẻ chia, Thơ mới là thơ “truyền cảm”, người đọc vui buồn
v
ới tác giả, tìm thấy chính mình trong nhân vật trữ tình của bài thơ.
V
ới Trần Dần, Lê Đạt, những nhà thơ này quan niệm làm thơ là làm tiếng Việt,
ngôn ng
ữ thơ không tồn tại ở nghĩa từ điển thông thường mà tách khỏi nó để tồn tại với
cu
ộc sống riêng. Cuộc cách mạng trong Thơ mới là cuộc cách mạng phá bỏ ngôn ngữ ước
l
ệ, điển tích điển cố trong thơ cũ, đưa ngôn ngữ đời sống vào thơ, còn cuộc cách mạng
trong th
ơ nhóm “dòng chữ”
1
là triệt tiêu ngôn ngữ thường ngày với lối thơ là những “chữ
l
ạ hơi nhà” (seferis) trong một “văn phạm ngày còn ngái mộng” (René Char)
2
.
Tr
ần Dần đã phát biểu “Tôi chỉ viết cho những người bằng vai”
2

. Tức tác giả
ph
ải tạo ra độc giả qua tác phẩm của mình. Nhà thơ không giải thích hay giới thuyết bất
c
ứ điều gì về tác phẩm của mình. Tự tác phẩm sẽ gạn lọc, chọn độc giả “Mưa rơi không
c
ần phiên dịch”. Đó là câu Trần Dần trả lời Phùng Quán khi được hỏi về những bài thơ
khó
đọc của mình. Bởi với ông “Thơ vì thơ tuyệt đối. Hễ vì bất cứ thứ gì khác, dù cao
quý m
ấy, thơ sẽ chẳng còn là thơ”
3
. Thoát hẳn khỏi quan niệm làm thơ để cất lên tiếng
nói c
ủa trái tim “Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây” của Thơ mới, Trần Dần chống lại
thói quen
đọc để hiểu nghĩa, cảm nghĩa của độc giả đọc thơ truyền thống. Ông đẩy hoạt
động sáng tạo thơ lên một bước mới: “coi ngôn ngữ là mục đích, ngôn ngữ có giá trị tự
thân. Tr
ần Dần đã làm một cuộc cách mạng lần thứ hai sau Thơ mới. Một cuộc cách
m
ạng mang tính hiện đại”
3
. Ngôn ngữ với chức năng công cụ của thơ truyền thống đến
Tr
ần Dần, Lê Đạt đã được cách tân, nó không còn là công cụ chuyển tải hay chứa đựng
thông tin n
ữa mà bản thân nó là thông tin thẩm mỹ, là cứu cánh, là mục đích. Trần Dần
cách tân th
ơ “dựa vào hai nghệ thuật hàng xóm của thơ là âm nhạc và hội họa – thi nhân

s
ử dụng các biến tấu chữ và các biến tấu âm”
3
. Những cách tân này khiến người đọc
1
Tr n D n, Lê t và m t s nhà th khác xem tr ng vai trò sáng t o ngôn ng c a th , l p ra
nhóm th
“dòng ch ” ( i l p v i “dòng ngh a” là dòng xem n ng n i dung ý ngh a c a th ).
“Dòng ch ” mu n c t b cho ngôn ng cái ách ng ngh a l m khi bi n nó thành con bò ch
thông tin thông t c, mu n t o ngh a m i cho con ch , mu n làm s ng l i s trinh nguyên c a
con âm. Ti
ng Vi t là m t trong s ít ngôn ng có c m t không gian cho nh ng phút t do bay
b ng y khoái c m c a ng âm, v i s c kh i g i nh ng c m giác, liên t ng, nh ng tr ng thái
tâm linh ch a có tên g i. ( Lai Thúy )
2
Lê t , Bóng ch , NXB HNV H, 1994, tr 107 – 108.
3
Lai Thúy – Tr n D n – Thi trình s ch, vietnamnet.vn
không thể thụ động tiếp thu, được truyền cảm như khi tiếp nhận thơ lãng mạn, hay được
g
ợi cảm từ những ẩn dụ trong thơ tượng trưng nữa. Bởi ngôn ngữ không được tạo một
ngh
ĩa nhất định nào từ tác giả mà bản thân nó là một mỏ quặng nghĩa đang chờ độc giả
khai phá,
đòi hỏi ở độc giả tính tích cực, không thể đọc theo thói quen “há miệng chờ
sung”. J
ờ Joạcx (1963)- tiểu thuyết một bè đệm, là một minh chứng cho việc biến tấu
ch
ữ:
“m

ặt trời
mọc
lọc
jữa
h
o
a
mưa
Ja Jư-ớ-c. xxxxxxxxxxx
Tôi sướng hết đời không hết sướng”
Cách s
ắp xếp chữ, kiểu chữ, cách viết chữ khiến đoạn thơ được lạ hóa đến tột
cùng bu
ộc người đọc phải dừng lại, cố gắng luận giải những chữ đã được đẩy ra quá xa
ngh
ĩa gốc, dù có thể được hoặc không. Đọc tác phẩm của Trần Dần, người đọc buộc
ph
ải tham gia trò chơi chữ nghĩa “trong cuộc phiêu lưu của cái viết (écriture)” (Đỗ Lai
Thúy), v
ới một nền tảng tri thức nhất định để trở thành người chơi. Với chủ trương “viết
cho nh
ững người bằng vai”, Trần Dần đã khu biệt và phân loại loại độc giả rất rõ.
Không ph
ải ông chủ trương thơ phi giao tiếp hay thơ ông chỉ dành cho loại độc giả đặc
tuy
ển nhưng quần chúng văn học của anh như thế nào là do anh tạo ra”
4
.
“Chi
ều vô nghĩa” cũng mở ra nhiều tầng nghĩa nhờ cách sắp đặt chữ ở những vị

trí l
ạ, chữ không mang nghĩa tiêu dùng hàng ngày mà được đẩy về nghĩa nguyên sinh và
k
ết hợp với những chữ không hề gần nhau chút nào nếu xét theo nghĩa thông thường:
Chi
ều thu cổ lổ sĩ
Công viên đồng chí
Sương sa cà khịa
Cho tôi m
ột ngày chức năng vô lý !
(Chiều vô nghĩa)
4
Hoàng Ph Ng c T ng – G p g Tr n D n: i tho i m t ng - T p chí Sông H ng s 31,
tháng 5 – 6/ 1988, tr 20.

“Ngày chức năng” là một kết hợp mới và nghĩa được biểu đạt tối đa với “ngày
ch
ức năng vô lý”. Hoặc hình ảnh cái lồng chim, nhà ga không còn nguyên nghĩa, tất
c
ả được ẩn dụ hóa để mang những nét nghĩa mới:
Tôi có v
ệ tinh
r
ồi có nhà ga xanh
nhà ga tím
trong một vũ trụ
ch
ẳng hiền lành
Cái l
ồng chim quá chật

tôi bay
đâu
c
ũng đụng đầu.
Nh
ững ẩn dụ lớn trong thơ Trần Dần là những ẩn dụ về quê hương, về cuộc đời và
thân ph
ận con người mà hơn 30 năm sống ẩn thân ông phải mang vác. “Tôi có thể mặc
thây ngàn ti
ếng chửi tục tằn, trừ tiếng chửi “sống không sáng tạo.”
5
. Chính trong những
tháng ngày loay hoay v
ới nỗi cô độc, bơ vơ không có gì để nương tựa ngoài những người
b
ạn cùng chí hướng, tất cả sức lực, trí tuệ, tài năng Trần Dần đổ vào sáng tạo:
có ph
ố nào xanh
Hoa lay hàng d
ậu tím?
Có ph
ố mờ chờ tha thiết tự ngày xưa

Để tôi phải bơ vơ
B
ơ vơ?
Tôi?
Tôi cô
đơn trời xanh cô đơn trời tím


đơn nắng đào cô đơn mưa tái nhợt đầu ô

đơn lòng ngõ rỗng trăng chênh

đơn sân ga tàu chạy tốc hành
Không
đỗ lại các cuộc đời xé lẻ
(C
ổng tỉnh – 1981)
5
Tr n D n ghi (1954-1960). X b i – Nam Dao – memorise – Paris, 2001

Những cách tân chữ - nghĩa trong Cổng tỉnh vẫn còn ở phương diện xem chữ là
công c
ụ nên những câu thơ còn tương đối thuận chiều dù những cách ghép rất lạ “cô
đơn trời”, “cô đơn xé lẻ”. Sau này, trong Jờ Joạcx (thơ – tiểu thuyết một bè đệm) chữ
được đẩy thành mục đích. Ở thiên thơ văn xuôi này, Trần Dần đã thay đổi cách viết chữ,
tr
ước hết là chữ cái như J, hoán đổi chức năng từ loại, đảo từ, in chữ bằng các kiểu khác
nhau. Cách làm này
đã lạ hóa chữ, có thể hiểu nhưng có thể không vì nó không còn bị
ràng bu
ộc trong nghĩa gốc (Đỗ Lai Thúy). Cách viết như vậy mở ra một khoảng rất tự
do cho ng
ười đọc tiếp nhận, mỗi người có thể hiểu mỗi cách khác nhau tùy vào tầm đón
đợi của độc giả. Và tác giả sống trong những đón đợi đó vì “mưa rơi không cần phiên
d
ịch” và “mọi giá trị chân thiện mỹ đều khó hiểu” (Trần Dần). Bạn đọc đến với thơ Trần
D
ần phải từ quan niệm: ngôn ngữ thơ ông không phải chỉ để đọc mà còn để nghe, nhìn,

ng
ắm nghía Thơ với Trần Dần là cách nhìn sự vật, không phải cách nhìn bề ngoài hời
h
ợt, nông cạn mà là cách nhìn sâu vào bên trong chạm tới bản chất của sự vật.
V
ới bản lĩnh của một người “chưởng môn”, Trần Dần đã xứng đáng là người
d
ẫn đầu nhóm “dòng chữ” với những sáng tạo, đổi mới thơ triệt để của mình. Ông đã
kh
ắc một dấu ấn đậm trong tiến trình đổi mới thơ Việt Nam hiện đại. Cùng quan niệm
nh
ư Trần Dần, Lê Đạt cũng đã làm nên một cuộc cách mạng trong thơ nhưng ở một kiểu
d
ạng khác. Lê Đạt tự nhận mình là phu chữ, một người suốt đời cày trên những con chữ
để buộc nó tạo nghĩa mới.
V
ới Lê Đạt, làm thơ không nên làm theo những quy luật thông thường, đóng
khung con ch
ữ trong nghĩa thông thường mà phải trải ra xung quanh nó những “vùng
ánh sáng
động đậy”. Chính vì vậy, cách tân ngôn ngữ trong thơ Lê Đạt thể hiện ở quan
ni
ệm xem chữ là tính thứ nhất so với nghĩa. Khác hẳn Thơ mới xem nghĩa là tính thứ
nh
ất, chọn nghĩa rồi mới chọn chữ. “Bóng chữ” của Lê Đạt là những con chữ vận động,
Th
ụy Khuê cho rằng: “Mỗi con chữ trong thơ ông chỉ là cái bóng của những chữ khác.

Đạt dùng “con chữ” để chỉ những thực thể chữ nghĩa của mình. Vì nó sống, nó
chuy

ển động, nó biến đổi, nó tự nhân lên. Bản sắc của nó là đa ngã.”
6
.
Đến với thơ Lê Đạt, độc giả hãy thử để những hình ảnh những con chữ trong câu
th
ơ dẫn dắt trên con đường tâm thức ra khỏi lối đi ngữ nghĩa “tiêu dùng” một chiều
quen thu
ộc hàng ngày. Lê Đạt làm thơ như là một cách tầm duyên, nó đòi hỏi có cơ
duyên v
ới người đọc, đó là kiến thức, kinh nghiệm sống, nhưng có khi đó là giới hạn
c
ủa độc giả bởi đó là trò chơi chữ thú vị nhưng đầy cạm bẫy. Chữ trong thơ Lê Đạt vừa
là âm ti
ết, từ, tiếng, hình ảnh, biểu tượng nhưng không phải chỉ là con chữ bình
th
ường mà đã nhúng qua trải nghiệm của bản thân nhà thơ, được cấu trúc, sắp xếp lại để
mang m
ột chất lượng nghĩa, một sinh khí mới. Với Thơ mới, người đọc quen với món
6
Th y Khuê (1996) C u trúc th , V n ngh , California, Hoa K

ăn tinh thần “mềm”, dễ ăn, các phương diện nghĩa gần như đã được bày hết lên mâm cỗ
bài th
ơ, còn riêng với Lê Đạt, độc giả tiếp cận tác phẩm nghĩa là cùng tham gia trò chơi
ch
ữ với nhà thơ, cùng đồng hành sáng tạo, tích cực trong tiếp nhận, không đọc theo lối
ti
ếp thu ngữ nghĩa một chiều truyền thống. Có như vậy mới lĩnh hội đầy đủ sự ý vị của
th
ơ. Điều này đòi hỏi ở độc giả vốn kiến thức và tư duy sáng tạo.

V
ới ý thức đổi mới thơ, kích thích sự tìm tòi giải mã thơ ở độc giả, Lê Đạt đã cố
công s
ắp xếp chữ vào những vị trí đặc biệt nhằm lạ hoá ngôn từ. Ông đem những chữ
cách xa nhau không có liên quan gì nhau v
ề mặt nghĩa, đặt gần nhau để tạo nên một lớp
ngh
ĩa mới, độc giả sẽ không phải đi một lối mòn cũ kỹ mà phải vừa đi vừa phát quang
may ra m
ới mở được lối thông vào thế giới thơ ông. Vị trí của chữ luôn được chọn rất
đắc địa để trận đồ chữ trở nên hấp dẫn, biến đổi tạo nên màu sắc mới lạ cho thơ:
Nụ xuân chớp đông
hoa xuân chớp hồng
Chũm cau tứ thì chúm chím
ú ớ mơ ngần
một giấc chim xuân
Chiều bóng mây
hay mắt em rợp tím
Mày thon cong thân nắng cựa mình
(Nụ xuân)
Ch
ữ nụ xuân chỉ vẻ đẹp mơn mởn, đầy sức sống. Ở đây, tác giả đặt nó trong mối
quan h
ệ với “chũm cau tứ thì chúm chím” “mơ ngần” “thon cong” “thân nắng” những
ch
ữ vừa mang nghĩa liên tưởng vừa nghĩa biểu tượng, gợi vẻ đẹp hình thể của người
thi
ếu nữ. Nghĩa tồn tại trong tư duy ngôn ngữ thông thường chỉ có “trong ngần” “trắng
ng
ần”, nhưng với “mơ ngần” – một sáng tạo chữ của Lê Đạt – lại biểu hiện một nét

ngh
ĩa mới, có thể hiểu đó là giấc mơ trắng trong đẹp đẽ của lứa tuổi “trăng tròn” mới
l
ớn. Còn “thân nắng” lại mang một biểu tượng khác, gợi chúng ta nhớ đến “nắng vườn
cau, n
ắng mới lên” trong thơ Hàn Mặc Tử - thứ nắng dậy thì, nắng thiếu nữ ngây ngất
men say
ấy được kết hợp với “thân” tạo nên một vẻ đẹp mơn mởn, quyến rũ, đắm say
không t
ừ nào có thể diễn tả hay hơn được nữa. Những sáng tạo chữ như vậy tạo nên sự
l
ạ hóa trong tầm đón đợi của độc giả, buộc độc giả phải liên tưởng, suy nghĩ, phải đặt
tác ph
ẩm trong mối quan hệ liên văn bản để tiếp cận. Từ đây, có thể thấy chữ trong thơ

Đạt ở vị trí trung tâm phát nghĩa, nghĩa không tồn tại ở phương diện nghĩa tiêu dùng
hàng ngày mà là ngh
ĩa mới được phát sinh nhờ mối quan hệ giữa chữ ấy với những chữ
khác trong câu và trong m
ối quan hệ liên văn bản với văn học truyền thống.
Ngoài vi
ệc dụng công tìm vị trí đắc địa cho chữ để chữ phát nghĩa, Lê Đạt còn
rất chú ý đến phương diện ngữ âm của chữ. Trong gần hơn hai mươi bài của tập thơ
Bóng ch
ữ, tất cả các con chữ đều không hề đứng yên dù trên cùng một phương diện ngữ
âm:
Chữ khép lối đồi chim non câu ngủ
Trang t
ầm xuân
Cau ch

ưa mở nụ ngà
B
ến cửa, ngực đèn, lòng ga trăng rõi
Ngõ tr
ắng bời bời mây nổi
Ú ú thiên hà
Tàu nhả khói
Ngã ba
(M
ới tuổi)
Ngõ tr
ắng bời bời mây nổi biểu đạt một tâm trạng ngẩn ngơ, mộng mị trước vẻ
đẹp đầy sức xuân của vóc dáng người thiếu nữ. Đồng thời, âm thanh do chữ “ú ú” tách
ra
ở đầu câu còn mở ra nhiều liên tưởng mới lạ, thú vị. Người đọc truyền thống tiếp
nh
ận thụ động từ phương diện nghĩa sau đó đến chữ. Còn người đọc hiện đại là người
đọc đồng hành sáng tạo, Lê Đạt đã hoán vị đổi ngôi để chữ trở thành tính thứ nhất của
ngôn ng
ữ thơ, vì vậy người đọc buộc phải tích cực tham dự làm phát lộ nghĩa với tác giả.
T
ập Ngó lời ra đời sau Bóng chữ vài năm vẫn tiếp nối cái lạ của thơ ở phương diện này:
B
ụi lồ ô câu lấp ló
Tr
ăng nguyên tiêu
Xuân tú
ụ cỗ rằm
(Tranh h
ọa đồ)

Các ch
ữ lồ ô, lấp ló, tú ụ tạo nên sức vang của chuỗi âm thanh tiếp nối từ chữ
đến chữ và tiếng vọng của các tầng nghĩa. Đó là âm vang vui tươi của tiếng suối, thoáng
ng
ỡ ngàng trước vầng trăng tròn đầy, thiên nhiên đầy sức xuân viên mãn như mâm cỗ ứ
tràn v
ẻ tươi trẻ của thiên nhiên mà đất trời ban tặng cho con người. Hay “vườn thức một
mùi hoa
đi vắng” cũng là một cách tạo nghĩa rất lạ, vườn thức là vườn không ngủ,
nh
ưng nếu nói vậy thì không còn hay nữa. Vườn thức một mùi hoa đi vắng – chính mùi
hoa
đã mở thông lối về với kỷ niệm, ký ức ngập đầy mùi hương quen thuộc - cõi ngày
x
ưa hiện về đầy ắp nhớ thương, “hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình” là vì vậy.
T
ừ khảo sát thơ Trần Dần, Lê Đạt có thể thấy những cách tân nghệ thuật của các
nhà th
ơ này đã đem lại cho thơ Việt Nam một bước ngoặt lớn thứ hai sau Thơ mới. Đó
là s
ự thay đổi quan niệm sáng tạo, xem ngôn ngữ như một mục đích tự thân, chữ là tính
thứ nhất của ngôn ngữ, chứ không phải nghĩa. Sử dụng chữ như nó vốn có, không bị lệ
thu
ộc vào nghĩa từ điển, nghĩa tiêu dùng, đặt nó vào một vị trí mới để tự nó phát nghĩa,
làm giàu thêm cho ngôn ng
ữ tiếng Việt. Như Roland Barthes trong Độ không của lối
vi
ết đã chỉ ra rằng: vấn đề trong thơ hiện đại là vấn đề về từ, thơ hiện đại “có một thứ
địa chất hiện sinh”- thơ hiện đại là sự bùng nổ của từ. Ngày nay, khuynh hướng coi khai
thác hi

ệu quả ngôn ngữ như mục đích tự thân của thơ đã phát triển thành một trong số
các trào l
ưu áp đảo ở Mỹ, trào lưu “language poetry” (thơ ngôn ngữ)
7
. Nó xác lập cho
mình m
ột tiêu chí khác, không trùng khít với hiện thực đời sống đang nhìn thấy mà
trùng khít v
ới bản thể đời sống, để tồn tại với tư cách là chính nó - chữ là trung tâm phát
ngh
ĩa, không lệ thuộc vào ngôn ngữ từ điển hay nghĩa tiêu dùng như ngôn ngữ thơ
truy
ền thống.
Tr
ần Dần - Lê Đạt, một cặp đôi thời nhân văn, cả hai cùng tiến về phía hiện đại
v
ới quan niệm xem chữ là mục đích sáng tạo, nhưng Lê Đạt khai phá chữ theo một cách
khác. M
ỗi nhân tài sẽ có một cách chọn cho mình con đường để đến đỉnh vinh quang,
dù gian lao, g
ập ghềnh, chông gai, bất trắc.
Độc giả, chính vì vậy, khi đến với thơ Trần Dần, Lê Đạt phải mang một tư duy
khác, tích c
ực và đồng sáng tạo. Những cách tân của những nhà thơ này là những thách
th
ức lớn đặt ra không chỉ cho quá trình đổi mới thơ đương đại và truyền thống sáng tạo
mà nó còn là nh
ững thử thách, những vấn đề mới đặt ra cho truyền thống tiếp nhận nữa.
Chính vì v
ậy, xem xét đổi mới cách tân thơ của những nhà thơ này là xem xét ở hai

ph
ương diện sáng tạo và tiếp nhận. Đây là hai quá trình không thể thiếu của bất kỳ hiện
t
ượng văn học nào.
TÀI LI
ỆU THAM KHẢO
1. Tr n D n ghi (1954-1960). X b i – Nam Dao – memorise – Paris, 2001
2. Lê
t, Ch b u lên nhà th , V n ngh (34), 1994.
3. Lê
t, Hãy t o ra nh ng l tai m i, V n ngh (7), 1997.
4. Lê
t, Bóng ch , NXB HNV, Hà N i, 1994.
5. Lê
t, Ngó l i – th Hai kâu, NXB V n h c, Hà N i, 1997.
6. Tr
n D n, Th Tr n D n, NXB Hà N i, 2007.
7. Tr
n D n, S th , 1976.
8. Th
y Khuê, C u trúc th , V n ngh , California, Hoa K , 1996.
7
V n h c h u hi n i th gi i – NXB H i Nhà V n, 2003

9. Lai Thúy, Tr n D n – Thi trình s ch, vietnamnet.vn.
10. Hoàng Ph
Ng c T ng – G p g Tr n D n: i tho i m t ng , T p chí Sông H ng
s
31, tháng 5 – 6/ 1988.
11. Nhi

u tác gi , V n h c h u hi n i th gi i, NXB H i Nhà V n, 2003.


TRAN DAN AND LE DAT’S POETIC ART CONCEPTION
FROM RECEIVING ASPECTS
Hoang Thi Hue
College of Pedagogy, Hue University
SUMMARY
The language as a tool in traditional poems is renewed by Le Dat and Tran Dan: words
are recognized as the first character in comparison with meaning. Language, which is no longer
used as a transforming tool or to contain information, is not only aesthetic information but
target, and purpose as well. This innovation makes readers acquire poems actively, not so
passively as they do with romantic poems or being emotive, suggestive from metaphors in
symbolic poems. As a result, with Tran Dan or Le Dat’s poems, readers must have a different,
active and co-creative thought. The renovation by these poets is a great challenge not only for
the renew process of contemporary poem from creative field but also the challenge, the new
issue for traditional receiving. Therefore, considering the renovation by these poets is focused in
terms of creation and receiving. These are two key processes to enter any literacy phenomena.

×