Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học: " ẢNH HƯỞNG CỦA NGUỒN PROTEIN TRONG THỨC ĂN TINH ĐẾN LƯỢNG ĂN VÀO, TỶ LỆ TIÊU HÓA VÀ TĂNG TRỌNG Ở BÒ THNT" ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.17 KB, 8 trang )



37
TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 52, 2009


ẢNH HƯỞNG CỦA NGUỒN PROTEIN TRONG THỨC ĂN TINH
ĐẾN LƯỢNG ĂN VÀO, TỶ LỆ TIÊU HÓA VÀ TĂNG TRỌNG Ở BÒ THNT
Đinh Văn Dũng
Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế
Nguyễn Xuân Bả
Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế
TÓM TẮT
Thí nghiệm được thực hiện trên 12 bò Vàng Việt Nam tuổi từ 10 - 12 tháng với khối
lượng 88,3 kg (
±
3,3 kg) tại Trại thí nghiệm của Trường Đại học Nông Lâm Huế. Thí nghiệm
được thiết kế theo phương pháp phân lô ngẫu nhiên (3 lô thí nghiệm) theo nguyên tắc đồng đều.
Tất cả bò thí nghiệm được ăn cỏ tự nhiên với lượng 1,25% (so với khối lượng bò) vào ban ngày,
rơm tự do vào ban đêm và 1% (khối lượng bò) là thức ăn tinh bao gồm cám gạo, bột sắn, bột
ngô, rỉ mật, u rê và nguồn thức ăn giàu đạm: bột cá (lô 1), bột đậu nành (lô 2) hoặc khô dầu lạc
(lô 3). Tỷ lệ các thành phần có khác nhau nhỏ giữa các hỗn hợp thức ăn tinh ở các lô thí
nghiệm nhằm đảm bảo hàm lượng protein thô trong thức ăn tinh là 15%. Kết quả cho thấy
không có sự sai khác thống kê giữa các lô thí nghiệm về lượng thức ăn thu nhận, tỷ lệ tiêu hóa
các thành phần dinh dưỡng khu phần và tăng trọng của bò (P>0,05). Kết quả thí nghiệm đã
tạo cơ hội lựa chọn cho người nông dân về nguồn thức ăn giàu protein để nuôi bò thịt trong
từng điều kiện khác nhau của các địa phương.
I. Đặt vấn đề
Ch
ăn nuôi bò thịt đóng vai trò quan trọng trong hệ thống sản xuất nông nghiệp và
đời sống nông hộ ở nước ta. Tổng đàn bò và sản lượng thịt đã không ngừng tăng lên


trong nh
ững năm gần đây. Năm 2007, cả nước có 6,72 triệu con, tăng 3,29% so với năm
2006, s
ản lượng thịt bò tăng 9,66%/năm trong giai đoạn từ 2001 đến 2006 (Viện Chăn
nuôi, 2007). Tuy v
ậy, sản lượng thịt bò còn quá thấp so với nhu cầu, bình quân thịt bò
tiêu th
ụ mới đạt 1,7 kg hơi/đầu người/năm (Cục Chăn nuôi, 2006). Ngành chăn nuôi trâu
bò n
ước ta đang đứng trước nhiều khó khăn và thách thức lớn như giá thành sản phNm
cao, bò t
ăng trọng chậm, năng suất chăn nuôi thấp (Nguyễn Xuân Bả, 2006). Phương
th
ức chăn nuôi bò của các nông hộ ở vùng đồng bằng chủ yếu là chăn thả hoặc chăn dắt
vào ban ngày và b
ổ sung thêm rơm lúa khi bò về chuồng vào ban đêm. Thức ăn tinh
dùng
để nuôi bò thịt thường là cám gạo, bột ngô và bột sắn với mức khoảng 1-2 kg/ngày
(Ba và cs, 2005) và ngu
ồn thức ăn giàu protein trong khNu phần bò thịt chưa được người
dân quan tâm nhi
ều. Nhiều kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng bò được nuôi dưỡng bằng


38
thức ăn thô xanh có tỉ lệ tiêu hóa thấp và đã đạt được tăng trọng đáng kể khi bổ sung
thêm th
ức ăn giàu năng lượng và protein (Hennessy và Murrison, 1982; Lee và cs, 1987;
Hennessy và cs, 1995). H
ơn nữa, khi tăng lượng thức ăn tinh trong khNu phần có thể rút

ng
ắn thời gian vỗ béo và làm tăng lợi nhuận. Ba và cs (2008) cho biết tăng lượng hỗn
h
ợp thức ăn tinh trong khNu phần bò Vàng sinh trưởng từ 0,33 lên 1,98% so với khối
l
ượng cơ thể bò đã làm tăng tuyến tính mức tăng trọng và hiệu quả kinh tế. Để cải thiện
dinh d
ưỡng cho bò thịt, việc sử dụng các nguồn thức ăn giàu protein là rất cần thiết. Tuy
v
ậy, việc sử dụng nguồn protein nào là vấn đề cần quan tâm. Xuất phát từ vấn đề trên
chúng tôi ti
ến hành nghiên cứu đề tài này. Giả thuyết của nghiên cứu là các nguồn
protein khác nhau trong th
ức ăn tinh để nuôi bò thịt có ảnh hưởng đến tăng trọng và hiệu
qu
ả chăn nuôi.
II. Vật liệu và phương pháp nghiên cứu
2.1. Thi
ết kế thí nghiệm và quản lý nuôi dưỡng
Thí nghi
ệm được thực hiện tại Trung tâm Nghiên cứu vật nuôi Thủy An, Trường
Đại học Nông Lâm Huế từ ngày 21/01/2008 đến 21/04/2008 (92 ngày) trên 12 bò đực
gi
ống bò Vàng Việt Nam với độ tuổi khoảng 10 - 12 tháng, khối lượng trung bình 88,3
± 3,3 kg. Bò
được phân lô theo nguyên tắc đồng đều vào 3 lô thí nghiệm tương ứng với
3 ngu
ồn protein trong thức ăn tinh. Sơ đồ bố trí thí nghiệm được trình bày ở bảng 1.
B
ảng 1: Sơ đồ bố trí thí nghiệm

Ch
ỉ tiêu
Lô thí nghi
ệm
Lô 1 Lô 2 Lô 3
Nguồn protein trong thức ăn tinh Bột cá Bột đậu tương

Khô dầu lạc
Số bò (con) 4 4 4
Khối lượng bò (kg) 88,6 ± 5,0 88,5 ± 4,9 87,9 ± 8,5
Thức ăn tinh cho ăn (% khối lượng
c
ơ thể)
1 1 1
Cỏ tự nhiên (% khối lượng cơ thể) 1,25 1,25 1,25
Rơm lúa Tự do Tự do Tự do
Tảng đá liếm khoáng Tự do Tự do Tự do
Bò được nuôi cá thể trong ô chuồng riêng có máng ăn, máng uống và được tNy
n
ội ngoại ký sinh trùng, tiêm vắc xin phòng bệnh tụ huyết trùng, bệnh lở mồm long
móng tr
ước khi đưa vào theo dõi thí nghiệm 15 ngày. Bò được cho ăn cỏ tự nhiên vào
ban ngày, chia làm hai b
ữa lúc 07 giờ 30 phút và 13 giờ 15 phút; rơm lúa được cho ăn
t
ự do vào ban đêm từ 18 giờ 30 phút đến 07 giờ 00 phút sáng hôm sau. Thức ăn tinh
được trộn đều các loại nguyên liệu với nhau trước khi cho ăn và cho bò ăn 3 bữa/ngày,
vào lúc 07 gi
ờ 15 phút, 13 giờ 00 phút và 16 giờ 30 phút. Lượng thức ăn dư thừa sẽ
được thu lại và cân vào lúc 06 giờ 00 phút sáng hôm sau. Luợng thức ăn tinh bổ sung

và l
ượng cỏ cho ăn được điều chỉnh hàng tuần sau khi cân bò để đảm bảo tỷ lệ cho ăn


39
1% đối với thức ăn tinh và 1,25% đối với cỏ tự nhiên tính theo khối lượng cơ thể của
t
ừng con. Tất cả bò được cung cấp tảng đá liếm khoáng và nước uống tự do trong suốt
th
ời gian thí nghiệm.
Th
ức ăn tinh của từng lô được phối trộn trên các nguyên liệu sẵn có và theo các
công th
ức nhất định, đảm bảo tỷ lệ protein thô khoảng 15%. Công thức phối trộn thức
ăn tinh ở các lô thể hiện ở bảng 2.
B
ảng 2: Thành phần và giá trị dinh dưỡng của các hỗn hợp thức ăn tinh
Lo
ại thức ăn
Th
ức ăn tinh lô
1
Thức ăn tinh lô
2
Thức ăn tinh lô
3
Cám gạo 40 43 42
Bột ngô 11 10 10
Bột sắn 28 24 24
Bột cá 8 - -

Bột đậu tương - 10 -
Khô dầu lạc - - 11
Rỉ mật 10 10 10
Urê 2 2 2
Muối 1 1 1
Giá trị dinh dưỡng của thức ăn
Vật chất khô (%) 82,99 83,72 83,55
Chất hữu cơ (% VCK) 88,20 88,75 88,99
Protein thô (%VCK) 14,72 15,06 14,72
NDF (%VCK) 31,95 36,56 35,55
Thí nghiệm kéo dài 92 ngày, lượng ăn vào được theo dõi hàng ngày bằng cách
cân l
ượng thức ăn cho ăn và lượng dư thừa. Bò thí nghiệm được cân từ 7 giờ 00 đến 7
gi
ờ 30 (trước khi cho ăn) và cân hàng tuần. Tăng trọng được tính toán theo phương trình
h
ồi quy.
T
ỷ lệ tiêu hóa khNu phần được xác định từ ngày 21 đến ngày 27 (giai đoạn 1) và
t
ừ ngày 42 đến ngày 48 (giai đoạn 2) của thí nghiệm. Mẫu thức ăn cho ăn và dư thừa
được thu hàng ngày, được sấy khô và bảo quản cho phân tích hóa học. Phân được thu
ngay sau khi gia súc th
ải ra và cân xác định khối lượng trong ngày. Cuối mỗi ngày được
tr
ộn đều, lấy mẫu phụ khoảng 5% và bảo quản trong tủ lạnh ở nhiệt độ -20
0
C. Cuối giai
đoạn thí nghiệm tiêu hóa phân được trộn đều theo từng gia súc và sấy khô ở nhiệt độ
60

0
C cho phân tích thành phần hóa học. Tất cả mẫu phân được nghiền qua lỗ sàng 1 mm
ở máy nghiền (Retsche, Germany).



40
2.2. Phân tích hóa học
M
ẫu thức ăn, phân được phân tích vật chất khô (VCK), ni tơ tổng số, khoáng
t
ổng số theo AOAC (1990). Protein thô được tính toán bằng công thức N x 6,25. Xơ
trung tính (NDF)
được xác định theo Van Soest et al. (1991).
2.3. X
ử lý số liệu
S
ố liệu được xử lý bằng phần mềm MINITAB version 14.0 theo phương pháp
phân tích ANOVA.
III. K
ết quả và thảo luận
3.1.
Ảnh hưởng của nguồn protein trong thức ăn tinh đến lượng thức ăn ăn
vào c
ủa bò
Lượng thức ăn ăn vào là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá giá trị
c
ủa các loại thức ăn. Thức ăn có giá trị dinh dưỡng cao, có tính ngon miệng cao sẽ được
gia súc thu nh
ận nhiều hơn. Kết quả đánh giá ảnh hưởng của các nguồn protein khác

nhau trong th
ức ăn tinh đến lượng thức ăn ăn vào của bò được trình bày ở bảng 3.
B
ảng 3: Lượng thức ăn ăn vào của bò ở các lô thí nghiệm (kgVCK/con/ngày)
Ch
ỉ tiêu
Lô thí nghi
ệm
SEM p
Lô 1 Lô 2 Lô 3
Rơm 1,36 1,38 1,36 0,036 0,886
Cỏ 1,04 1,01 1,02 0,037 0,872
Tổng thức ăn thô 2,40 2,39 2,37 0,067 0,916
Thức ăn tinh 0,94 0,93 0,98 0,081 0,916
Tổng TĂ /ngày 3,34 3,32 3,35 0,134 0,987
kgVCK/100P/ngày 3,16 3,20 3,23 0,090 0,847
Qua bảng 3 cho thấy, tổng lượng thức ăn ăn vào của bò ở các lô thí nghiệm
t
ương đương nhau từ 3,32 kg VCK/con/ngày (lô 2) đến 3,35 kgVCK/con/ngày (lô 3)
và không có s
ự sai khác có ý nghĩa về thống kê (p>0,05).
3.2.
Ảnh hưởng của các nguồn protein trong thức ăn tinh đến tỷ lệ tiêu hóa
các ch
ất dinh dưỡng trong khu phần
Cùng v
ới lượng thức ăn ăn vào, tỷ lệ tiêu hóa của thức ăn được coi là yếu tố then
ch
ốt đảm bảo cho năng suất chăn nuôi tăng cao. Kết quả đánh giá ảnh hưởng của các
ngu

ồn protein trong thức ăn tinh đến tỷ lệ tiêu hóa các chất dinh dưỡng trong khNu phần
ở các lô thí nghiệm được trình bày ở bảng 4.




41
Bảng 4: Tỷ lệ tiêu hóa các chất dinh dưỡng trong khu phần (%)
Chỉ tiêu
Lô thí nghi
ệm
SEM P
Lô 1 Lô 2 Lô 3
Vật chất khô 65,71 62,91 65,08 1,753 0,508
Chất hữu cơ 62,59 65,97 68,00 2,822 0,408
Protein thô 68,65 68,57 70,73 1,680 0,596
NDF 64,17 57,29 64,30 2,977 0,218
Qua bảng 4 cho thấy tỷ lệ tiêu hóa chất khô khNu phần ở các lô thí nghiệm trong
kho
ảng 62,91% đến 65,71%, tỷ lệ tiêu hóa chất hữu cơ là từ 62,59 đến 68%, tỷ lệ tiêu
hóa protein t
ừ 68,57 đến 70,73% và tỷ lệ tiêu hóa NDF từ 57,29 đến 64,3%. Khi sử
d
ụng các nguồn protein khác nhau trong thức ăn tinh bổ sung cho bò đã không ảnh
h
ưởng có ý nghĩa đến tỷ lệ tiêu hóa các chất dinh dưỡng trong khNu phần (p>0,05). Với
t
ỷ lệ tiêu hóa protein như trên thì lượng protein tiêu hóa ăn vào và chất hữu cơ tiêu hóa
ăn vào ở lô 1, lô 2, lô 3 lần lượt tương ứng là 0,27; 0,27 và 0,28 kg/con/ngày và 1,72;
1,94 và 2,02 kg/con/ngày.

Kết quả đánh giá tỷ lệ tiêu hóa các thành phần dinh dưỡng khNu phần trong thí
nghi
ệm này là khá cao có lẽ do bò thí nghiệm ở độ tuổi có tốc độ sinh trưởng cao (10-12
tháng tu
ổi) và lượng thức ăn tinh sử dụng ở mức thấp (1% so với khối lượng cơ thể bò)
nên
đã có ảnh hưởng xúc tác đến lượng ăn vào và tỷ lệ tiêu hóa so với khNu phần 100% là
th
ức ăn xơ thô. Ba và cs (2008a) cho biết khi tăng lượng bột sắn trong khNu phần từ 0 -
2,21 kg/con/ngày cho bò nuôi b
ằng khNu phần cơ bản là rơm lúa và cỏ đã làm tăng tuyến
tính t
ỷ lệ tiêu hóa chất hữu cơ từ 56,5% đến 67,2% và tỷ lệ tiêu hóa NDF giảm từ 62,3%
xu
ống còn 41,3%. Một thí nghiệm khác đánh giá ảnh hưởng của các mức hỗn hợp thức ăn
tinh t
ừ 0 – 2,45 kg/con/ngày cho bò Vàng nuôi bằng rơm và cỏ cho biết tăng lượng thức
ăn tinh đã làm tăng tuyến tính tỷ lệ tiêu hóa chất hữu cơ từ 51,2- 60,5% và tỷ lệ tiêu hóa
NDF gi
ảm từ 56,2% xuống còn 46,4% (Ba và cs, 2008b).
3.3. Ảnh hưởng của các nguồn protein trong thức ăn tinh đến tăng trọng, tiêu
t
ốn và chi phí thức ăn
K
ết quả đánh giá ảnh hưởng của các nguồn protein khác nhau trong thức ăn tinh đến
t
ăng trọng, tiêu tốn và chi phí thức ăn cho 1 kg tăng trọng của bò được trình bày ở bảng 5.
B
ảng 5: Tăng trọng, tiêu tốn và chi phí thức ăn của bò ở các lô thí nghiệm
Ch

ỉ tiêu
Lô thí nghi
ệm
SEM p
Lô 1 Lô 2 Lô 3
Khối lượng bò bắt đầu thí nghiệm (kg) 88,6 88,5 87,9 6,376 0,996
Khối lượng bò kết thúc thí nghiệm (kg) 120,3 116,3 118,4 6,810 0,918
Tăng trọng (g/con/ngày) 344 302 332 28,09 0,570
Tiêu tốn thức ăn (kg/kg tăng trọng) 10,7 12,2 10,2 0,519 0,059
Chi phí thức ăn (đồng/kg tăng trọng) 24138

26803 24118 2132 0,609


42
Qua bảng 5 cho thấy, khối lượng của bò lúc bắt đầu thí nghiệm có độ đồng đều
cao. Sau 92 ngày thí nghi
ệm khối lượng bò ở lô 1 cao nhất với 120,3 kg, thấp nhất là ở
lô 2 ch
ỉ với 116,3 kg. Tuy nhiên, sự sai khác này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
T
ăng trọng của bò ở lô 1 cao nhất với 344 g/con/ngày, tiếp đến là lô 3 với 332
g/con/ngày, t
ăng trọng thấp nhất là ở lô 2 chỉ với 302 g/con/ngày. Tiêu tốn thức ăn dao
động từ 10,2 (lô 3) đến 12,2 kg thức ăn/kg tăng trọng (lô 2), chi phí thức ăn cho cho 1
kg t
ăng trọng thấp nhất là lô 3, cao nhất là ở lô 2. Tuy vậy, các sự sai khác này là không
có ý ngh
ĩa về mặt thống kê (p>0,05).
T

ăng trọng của bò trong thí nghiệm này là thấp và chi phí thức ăn cho tăng trọng
còn cao do th
ời gian chúng tôi triển khai thí nghiệm đúng vào dịp rét đậm, rét hại vào
cu
ối năm 2007 và đầu năm 2008 nên năng lượng cho duy trì đã tăng lên. Ba và cs
(2008b) cho bi
ết ảnh hưởng của các mức hỗn hợp thức ăn tinh từ 0 - 2,45 kg/con/ngày
cho bò Vàng nuôi b
ằng rơm và cỏ đã làm tăng tuyến tính mức tăng trọng của bò (LWG
= 0,19 (+
0,026) + 0,29 (+ 0,021) CI (R
2
= 0,916; p<0,001)) và ở mức thức ăn tinh 1%
so v
ới khối lượng bò thì mức tăng trọng đạt khoảng 500g/con/ngày.
Theo V
ũ Văn Nội và cs (1999) cho biết các nguồn protein ở mức 14% trong
kh
Nu phần không hề ảnh hưởng đến khả năng tăng trọng của bò. Trong thí nghiệm của
chúng tôi do s
ử dụng thức ăn tinh ở mức thấp (1% khối lượng bò) và hàm lượng
protein trong th
ức ăn tinh chỉ ở mức 15% và như vậy hàm lượng protein của khNu
ph
ần chỉ ở mức 11,37% và vì vậy đã không làm ảnh hưởng đến khả mức tăng trọng
của bò.
Song kết quả trên đã gợi mở ra nhiều cơ hội lựa chọn nguồn thức ăn giàu
protein cho bò th
ịt ở từng điều kiện cụ thể của từng địa phương.
IV. K

ết luận và kiến nghị
S
ử dụng các nguồn protein khác nhau (bột cá, bột đậu tương và khô đầu lạc)
trong th
ức ăn tinh với mức 1% so với khối lượng bò và hàm lượng protein trong hỗn
h
ợp thức ăn tinh chỉ 15% cho bò nuôi bằng khNu phần rơm và cỏ đã không ảnh hưởng
có ý ngh
ĩa đến lượng thức ăn ăn vào, tỷ lệ tiêu hoá các chất dinh dưỡng và tăng trọng
c
ủa bò (p>0,05). Cần có các nghiên cứu về ảnh hưởng của các nguồn thức ăn giàu
protein trong kh
Nu phần vỗ béo bò thịt đến năng suất và chất lượng thịt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. AOAC, Official Methods of Analysis, 15th edn. Association of Official Analytical
Chemists, Arlington, Virginia, 1990.
2. Nguyễn Xuân Bả, Đánh giá khả năng sử dụng cây dâu tằm (Morus alba), cây dâm bụt
(Hibiscus Rosa Sinensi) làm thức ăn cho gia súc nhai lại ở miền Trung, Việt Nam,
Luận án tiến sĩ Nông Nghiệp, 2006.
3. Ba, N. X., L. D. Ngoan, C. M. Gloag and P. T. Doyle, Feed resources for cattle in
Quang Ngai, south central Vietnam, Proceedings of AHAT/BSAS International


43
conference: Integrating systems to meet the challenges of globalisation, Vol 2 (2005),
P4 .
4. Ba, Nguyen Xuan, Nguyen Huu Van, Le Duc Ngoan, Clare M. Leddin & Peter T.
Doyle, Amount of cassava powder fed as a supplement affects feed intake and live
weight gain in Laisind cattle in Vietnam, Asian-Australasian Journal of Animal
Science, Vol. 21, No.8, (2008a), 1143-1150.

5. Ba, N. X., N. H. Van, L. D. Ngoan, C. M. Leddin and P. T. Doyle, Effects of amount of
concentrate supplement on forage intake, diet digestibility and live weight gain in
yellow cattle in Vietnam, Asian-Aust. J. Anim. Sci. 20, 2008b.
6. Cục chăn nuôi, Báo cáo tình hình chăn nuôi giai đoạn 2001-2005 và định hướng phát
triển thời kỳ 2006-2015, Hà Nội, 2006.
7. Hennessy, D. W. and R. D. Murrison, Cottonseed meal and molasses as sources of
protein and energy for cattle offered low quality hay from pastures of the north coast
of New South Wales, Aust. J. Expt. Agric. Anim. Husb. 22 (1982), 140-146.
8. Hennessy, D. W., P. J. Kohun, P. J. Williamson, D. A. Brown and J. V. Nolan, The
effect of nitrogen and protein supplementation on feed intake, growth and digestive
function of steers with different Bos indicus, Bos taurus genotypes when fed a low
quality grass hay, Aust. J. Agric Res. 46 (1995), 1121-1136.
9. Lee, G. J., D. W. Hennessy, J. V. Nolan and R. A. Leng, Responses to nitrogen and
maize supplements by young cattle offered a low-quality pasture hay, Aust. J. Agric.
Res. 38 (1987), 195-207.
10. Vũ Văn Nội, Phạm Kim Cương, Đinh Văn Tuyền, Nguyễn Văn Vinh, Nghiên cứu sử
dụng các nguồn thức ăn sẵn có để vỗ béo bò nâng cao khả năng cho thịt và hiệu quả
kinh tế, Báo cáo khoa học tại Hội nghị khoa học Bộ Nông nghiệp và PTNT, tháng
6/1999, phần dinh dưỡng và thức ăn.
11. Van Soest, P.J., J. B. Robertson and B. A. Lewis, Methods for dietary fibre, neutral
detergent fibre and non-starch polysaccharide in relation to animal nutrition, J. Dairy
Sci. 74 (1991), 3583-3597.
12. Viện Chăn nuôi, Hội nghị đy mạnh sản xuất, chế biến, bảo quản thức ăn thô xanh
phát triển chăn nuôi gia súc ăn cỏ, Hà Nội, 18-19/12/2007.



44
EFFECTS OF PROTEIN SOURCES IN MIXED CONCENTRATE ON FEED
INTAKE, DIGESTIBILITY AND LIVEWEIGHT GAIN OF BEEF CATTLE

Dinh Van Dung
College of Padagogy, Hue University
Nguyen Xuan Ba
College of Agriculture and Forestry, Hue University
SUMMARY
A feeding experiment was conducted to test the hypothesis that growth rates of cattle
given differrent protein sources in concentrate would be different. Twelve Vietnamese Yellow
cattle, 10-12 months old with an average liveweight of 88,3 kg (
±
3,3 kg) were allocated into
three treatments: a basal diet of native grass fed at 1,25% of BW and rice straw fed ad libitum
and supplemented with 1% of BW of mixed concentrate consisted of different protein sources
(fish meal, soyabean powder or groundnut cake). The crude protein content in supplement was
15%. There was no significant difference (P>0,05) in the total feed intake, apparent digestibility
of organic matter or crude protein or in digestibility of neutral detergent fibre or liveweight gain
between treatments. It was concluded that in beef cattle diet with the limited amount of mixed
concentrate (below 1% of BW) and the low crude protein content, the protein sources would not
effect the growth rate of cattle.

×