Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học: " CHẾ ĐNNH VỀ TÀI SẢN RUỘNG ĐẤT TRONG PHÁP LUẬT TRIỀU NGUYỄN" pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.56 KB, 11 trang )



25
TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 51, 2009



CH
Ế ĐNNH VỀ TÀI SẢN RUỘNG ĐẤT TRONG
PHÁP LU
ẬT TRIỀU NGUYỄN
Huỳnh Công Bá
Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế

TÓM TẮT
Bài viết trình bày về chế độ sở hữu ruộng đất công và chế độ sở hữu ruộng đất tư trong
pháp luật triều Nguyễn (1802-1884). Trong chế độ sở hữu ruộng đất công bao gồm ruộng đất
công của nhà nước và ruộng đất công của làng xã. Trong chế độ sở hữu ruộng đất tư nhân bao
gồm các loại ruộng đất của quý tộc, quan lại, địa chủ và nông dân tư hữu. Những quy định về
các chế độ ruộng đất này đã được nêu ra trong Hoàng Việt luật lệ và Đại Nam hội điển sự lệ.
1.1. Trong lịch sử nhân loại, ý niệm quyền sở hữu tư nhân đã đến với xã hội loài
ng
ười ngay từ giai đoạn tan rã của xã hội nguyên thủy, khi con người biết sử dụng các
công c
ụ bằng kim khí và do đó mà những của cải “thừa” bắt đầu xuất hiện. Trong thời
k
ỳ này, quyền sở hữu tư nhân được hạn chế vào các vật phNm săn bắt, hoặc tự tay người
ta ch
ế tạo ra, nghĩa là những đồ vật mà ngày nay được liệt vào các động sản. Các đồ vật
ấy họp thành gia sản của mỗi cá nhân và không ai có quyền được xâm đoạt đối với chủ
c


ủa nó.
Nói cách khác, trong l
ịch sử nhân loại, quyền sở hữu các động sản được coi như
m
ột sắc thái của tự nhiên pháp và đã xuất hiện trước quyền sở hữu về bất động sản.
Ngày nay, nhi
ều luật gia đã giải thích quyền sở hữu ấy như là sự kết tinh về sức lao
động của con người. Vì đã làm việc khó nhọc mới kiếm ra được nó nên người chế tạo ra

được quyền làm chủ các đồ vật ấy trong thành phần gia sản của mình và họ có quyền
được hoàn toàn hưởng dụng hoặc sử dụng chúng theo ý muốn của mình, mà không một
ai
được phép chiếm đoạt nó. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn có những tài sản chung của
c
ộng đồng và chúng đã bị những người có thế lực trong xã hội tìm cách chiếm hữu, dẫn
đến sự phân hóa giàu nghèo và sự hình thành giai cấp trong xã hội.
1.2.
Đến khi nghề nông ra đời và phát triển, tư liệu sản xuất cơ bản trong nông
nghi
ệp là ruộng đất đã trở thành một thứ tài sản và là loại bất động sản. Đồng thời, đây
c
ũng chính là loại tài sản đóng vai trò quan trọng nhất, trong khi đó các động sản chỉ
còn gi
ữ một vị trí khiêm tốn, được coi như những thứ tài sản phụ, không quan trọng.
C
ũng do đó mà trong cổ luật La Mã đã có quan niệm cho rằng “động sản là vật ti tiện”
(res mobis, res vilis), có ngh
ĩa là vật nhỏ mọn, không đáng giá trị gì. Sở dĩ như vậy là vì
nh
ờ có ruộng đất mà người ta mới sản xuất ra được thóc gạo và ngũ cốc để nuôi sống



26
con người hoặc để đổi chác lấy các đồ vật khác. Và do đó, ruộng đất đã được xem là
ngu
ồn gốc cơ bản của tất cả các loại tài sản khác. Cũng có thể nói, những biểu hiện cụ
th
ể về quan hệ sở hữu đối với tài sản ruộng đất trong một quốc gia chính là cơ sở tồn tại
c
ủa các loại hình sở hữu trong xã hội.
2.1.
Đối với xã hội phong kiến Việt Nam, một xã hội lấy nông nghiệp làm gốc
(d
ĩ nông vi bản) thì tài sản quan trọng nhất, đồng thời cũng là tư liệu sản xuất quy định
các quan h
ệ kinh tế - xã hội giữa người và người ở trong nước chính là tài sản về ruộng
đất (tức điền sản). Do đó, từ khá lâu, giá trị về ruộng đất đã được người Việt Nam nhận
th
ức một cách sâu sắc là: “Tấc đất, tấc vàng”. Và nhà nước phong kiến các thời đều ban
hành các v
ăn bản pháp luật để xác định về chế độ sở hữu đối với tài sản ruộng đất trong
ph
ạm vi quốc gia. Như vậy, muốn hiểu biết về chế độ ruộng đất ở Việt Nam không thể
không thông qua ngu
ồn tư liệu luật pháp của các đời. Ở triều Nguyễn, đó là tác phNm
Hoàng Vi
ệt luật lệ ban hành dưới thời vua Gia Long cùng với các Sắc chiếu được ban
hành b
ổ sung trong các đời vua sau Gia Long là Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức.
2.2. Quy

ền sở hữu về tài sản ruộng đất trong xã hội Việt Nam đã phải trải qua
m
ột quá trình diễn biến đặc biệt, đánh dấu sự xuất hiện song song của hai chế độ sở hữu
v
ề ruộng đất: chế độ công hữu và chế độ tư hữu. Trong đó, chế độ tư hữu, theo quy luật
khách quan,
đã ngày một mở rộng. Đến thời triều Nguyễn, chế độ tư hữu về ruộng đất ở
Vi
ệt Nam đã chiếm một tỉ lệ áp đảo so với chế độ công hữu về ruộng đất. Theo một
th
ống kê đương thời do Nguyễn Công Tiệp tiến hành cho biết, đến thời Minh Mạng, số
l
ượng ruộng đất tư trong cả nước là 2.816.221 mẫu, chiếm 82,92% tổng diện tích ruộng
đất thực canh trong cả nước (3.396.584 mẫu), trong khi ruộng đất công chỉ chiếm
580.363 m
ẫu (khoảng 17,08% trên tổng diện tích ruộng đất thực canh). Bên cạnh đó, do
tính t
ự trị của làng xã đã hình thành ở các địa phương một bộ phận ruộng đất riêng,
thu
ộc quyền sở hữu của tập thể làng xã mà nhà nước các cấp không thể tác động được:
đó là loại ruộng công bản của làng xã. Đây là loại ruộng đất thuộc về sở hữu công cộng,
nh
ưng là của tập thể làng xã. Như vậy, có thể khẳng định rằng dưới triều Nguyễn đã tồn
t
ại ba loại sở hữu ruộng đất: thứ nhất là sở hữu ruộng đất của nhà nước bao gồm quan
điền (thuộc quyền quản lý trực tiếp của nhà nước) và quan điền bản xã hay công điền,
công th
ổ (thuộc quyền quản lý gián tiếp của nhà nước); thứ hai là sở hữu ruộng đất của
làng xã (t
ức ruộng công bản); và thứ ba là sở hữu ruộng đất của tư nhân (cá nhân và hộ

gia
đình). Từ ba loại sở hữu ruộng đất trên có thể quy về hai loại hình sở hữu ruộng đất
sau
đây: sở hữu ruộng đất công cộng và sở hữu ruộng đất tư nhân. Tuy nhiên, quyền sở
h
ữu tối cao về toàn bộ ruộng đất trong cả nước cũng vẫn thuộc về vị Hoàng đế, bởi vì
Hoàng
đế có toàn quyền trưng dụng và điều chỉnh quyền sở hữu về ruộng đất trong
ph
ạm vi cả nước.
2.3. Ch
ế định về ruộng đất công nhà nước: Đây là loại ruộng đất thuộc quyền
qu
ản lý trực tiếp của nhà nước, bao gồm: ruộng sơn lăng, tịch điền, đồn điền, quan điền,
quan trại Về phương thức canh tác, nhà nước lấy nông phu ở các làng xã lân cận để


27
cày cấy ruộng tịch điền, ở khu vực kinh đô họ được trả lương (mỗi tháng một quan tiền
và m
ột phương gạo), ở các địa phương họ được miễn thuế thân và tạp dịch. Sản phNm
thu ho
ạch từ ruộng tịch điền được đem nộp vào kho của nhà nước. Đối với quan điền,
quan tr
ại nhà Nguyễn sử dụng một phần để ban cấp cho các đối tượng đặc biệt làm
ru
ộng thờ cúng, số còn lại đem phát canh cho dân sở tại hoặc các vùng lân cận cày cấy
gi
ống như ruộng tư của nhà nước. Còn đối với đồn điền thì chủ yếu sử dụng lao động
c

ủa binh lính hoặc những tù phạm để canh tác, sản phNm thu hoạch được đem nộp vào
kho công. V
ới phương thức canh tác và sử dụng sản phNm trên đây, nhà nước phong
ki
ến trung ương thể hiện vai trò của người chủ sở hữu thực sự trên loại ruộng đất này.
Nh
ằm bảo vệ quyền sở hữu của nhà nước, Điều 90 Luật Gia Long quy định việc
tr
ừng phạt đối với những người lén cày cấy trộm ruộng đất công của nhà nước. Theo đó,
phàm nh
ững kẻ cậy quyền thế lén lút cày cấy, gieo trồng hoặc cướp chiếm hoa lợi nơi
ru
ộng đất công của nhà nước, thì nếu phát hiện sẽ bị trừng phạt, cứ mỗi mẫu trở xuống
là 50 roi, thêm 5 m
ẫu thì phạt thêm 1 bậc tội, nhưng tối đa là 100 trượng; đối với loại
ru
ộng xấu thì được cho giảm tội 1 bậc (tức là phạt 40 roi), nhưng tối đa cũng chỉ lên đến
90 tr
ượng, truy thu những hoa lợi mà y đã cướp chiếm trên ruộng đất đó để đem trả về
cho nhà n
ước
1
.
2.4. Ch
ế định về ruộng đất công làng xã: Đây là loại sở hữu ruộng đất thuộc
quy
ền quản lý gián tiếp của nhà nước, thông qua bộ máy quản lý làng xã. Nó vốn là loại
ru
ộng đất của công xã, trở thành ruộng đất công của làng xã qua bao đời và bao gồm
các lo

ại: công điền, công thổ, thân minh đình, hồ ao Làng xã được nhà nước giao
nhi
ệm vụ trực tiếp phân chia ruộng đất công cho nhân dân trong xã cày cấy và nộp tô
thu
ế cho nhà nước. Ở đây, quyền lực của nhà nước được thể hiện một cách rõ nét thông
qua chính sách quân
điền.
L
ợi ích của nhà nước đối với ruộng đất công làng xã chính là các nghĩa vụ về tô
thu
ế và lao dịch của người xã dân phải gánh vác hằng năm. Đó cũng chính là cơ sở về
kinh t
ế và xã hội cho sự ổn định và phát triển của nhà nước trung ương tập quyền.
Chính vì v
ậy, ngay sau ngày thành lập, nhà nước Nguyễn cũng giống như các nhà nước
phong ki
ến khác ở Việt Nam trước đây, đã phải lo giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông
dân trong các làng xã. S
ắc chiếu năm Gia Long nguyên niên (1802) quy định vấn đề sở
h
ữu ruộng đất bị bỏ hoang trong thời kỳ loạn lạc và được canh tác lại. Theo đó, phàm
các ru
ộng đất công hay tư đã bị chính quyền thời Tây Sơn đem cấp cho người khác thì
tùy theo ru
ộng, đất, hồ ao công hay tư, phải trả lại cho chủ cũ hay làng xã được quản
nghi
ệp và cày cấy, rồi chiếu theo đẳng hạng để đánh thuế. Riêng các ruộng đất tư sản
c
ủa nhà Tây Sơn cùng với công điền, công thổ, quan trại của nhà Lê do chính quyền




1
Nguyễn Văn Thành. Hoàng Việt luật lệ. Tập II. NXB Văn hóa, Hà Nội, 1994, trang 305-307.


28
Tây Sơn chiếm dụng, thì đều sung làm ruộng đất công
2
.
Do tình tr
ạng khởi nghĩa nông dân thường xuyên diễn ra, nên trong suốt thời
gian tr
ị vì của triều Nguyễn, các vua Nguyễn sau Gia Long cũng đều có những nguyên
t
ắc cấp ruộng đất hoang hóa cho các dân ly tán hồi cư trở về bản quán làm ăn
3
. Đến khi
Hoàng Vi
ệt luật lệ ra đời, ở Điều 84, pháp luật triều Nguyễn quy định: Tại những nơi
dân c
ư phải phiêu tán vì loạn lạc, nếu sau này họ trở về nguyên quán mà trong nhà
không có
đủ người để canh tác như xưa, thì nhà nào cày cấy thực sự bao nhiêu cho phép
được theo diện tích ấy mà nộp thuế. Nhưng nếu chiếm dụng quá nhiều ruộng đất mà
làm không h
ết, phải bỏ hoang, thì bị phạt 30 roi (nếu bỏ hoang từ 3 đến 10 mẫu). Nếu
di
ện tích bỏ hoang tăng thêm 10 mẫu nữa thì tội sẽ gia tăng thêm 1 bậc, nhưng tối đa
c

ũng chỉ đến 80 trượng, số ruộng đất bỏ hoang ấy bị đem sung công. Ngược lại, nếu là
xã có
đinh nhiều mà ruộng ít thì cho phép được làm đơn xin cấp các ruộng đất hoang ở
nh
ững khu vực lân cận để cày cấy, quan ty sở tại sẽ chiếu theo khả năng canh tác thực
s
ự mà cấp ruộng đất cho. Đối với những ruộng đất nhà nước không sử dụng nữa hoặc
m
ới được bồi trúc thì nhà nước cho phép được nhập làm ruộng đất công làng xã
4
. Sắc
chi
ếu năm Minh Mạng thứ 3 (1822) quy định, đối với các ruộng xuất phòng (tức ở
nh
ững nơi đóng đồn binh) bị bỏ hoang từ lâu năm thì cho phép được sát nhập vào các
làng xã lân c
ận để làm thành công điền, đem chia cho xã dân cày cấy. Đến Sắc chiếu
n
ăm Minh Mạng thứ 8 (1827) còn quy định đối với những dòng sông cũ đã được bồi lấp
và có th
ể cày cấy được thì cho phép sát nhập vào các làng xã lân cận để chia cho xã dân
canh tác và n
ộp thuế cho nhà nước. Và Sắc chiếu năm Minh Mạng thứ 17 (1836), nhà
vua m
ột lần nữa quy định, đối với đất lở và đất bồi cho phép dân các xã có đất bị lở
xu
ống sông được phép khai khNn những bãi tân bồi do phù sa của những nơi đất lở và
b
ồi thành để làm thành công điền bản xã
5

.
Để bảo vệ ruộng đất công làng xã, nhà nước đã ra lệnh cấm không được bán đứt
hay c
ầm cố ruộng đất công làng xã. Chẳng hạn, lệnh cấm ban hành vào năm 1803 nêu
rõ: “Theo l
ệnh cũ thì công điền, công thổ cho dân gian, quân cấp đem bán riêng là có
t
ội”
6
, “nếu xã thôn nào trái lệnh cấm, quen thói cũ mua bán riêng với nhau, việc phát
giác ra thì ng
ười mua nhầm bị mất tiền gốc, người làm văn khế, người cùng đứng tên
trong v
ăn khế và những người làm chứng đều bị trị tội nặng, ruộng đất đem bán trong



2
Nội các triều Nguyễn. Đại Nam điển lệ. trang 159, đoạn 113. Dẫn theo: Vũ Văn Mẫu. Cổ luật Việt Nam
lược khảo. Quyển II. Trường Đại học Luật khoa Sài Gòn xuất bản, Sài Gòn, 1968, trang 160.
3
Nội các triều Nguyễn. Đại Nam hội điển sự lệ. trang 161, đoạn 113 và 114. Dẫn theo: Vũ Văn Mẫu. Cổ
luật Việt Nam lược khảo. Quyển II. Trường Đại học Luật khoa Sài Gòn xuất bản, Sài Gòn, 1968, trang
160.
4
Nguyễn Văn Thành. Hoàng Việt luật lệ. Tập II. NXB Văn hóa, Hà Nội, 1994, trang 292-295.
5
Deloustal. Sưu tập các sắc lệnh chính yếu về luật pháp triều Nguyễn. Dẫn theo: Vũ Văn Mẫu. Cổ luật
Việt Nam lược khảo. Quyển II. Trường Đại học Luật khoa Sài Gòn xuất bản, Sài Gòn, 1968, trang 160.
6

Quốc sử quán triều Nguyễn. Đại Nam thực lục chính biên. Tập III. NXB Sử học, Hà Nội, 1963, trang
126.


29
văn khế vẫn phải truy trả cho dân trong xã; lại theo lệ, lấy một mẫu ruộng để thưởng
cho ng
ười tố cáo, được hưởng hoa lợi trong thời gian 3 năm”
7
. Cũng để bảo vệ quyền sở
h
ữu của nhà nước, Điều 90 Luật Gia Long quy định về việc lén lút cày cấy ruộng đất
công làng xã. Theo
đó, phàm những kẻ cậy quyền thế lén lút cày cấy gieo trồng hoặc
c
ướp chiếm hoa lợi nơi ruộng công của làng xã, nếu phát hiện sẽ bị phạt cứ mỗi mẫu trở
xu
ống là 50 roi, thêm 5 mẫu thì phạt thêm 1 bậc tội, nhưng tối đa là 100 trượng; đối với
lo
ại ruộng xấu thì được giảm 1 bậc tội (tức là 40 roi và tối đa là 90 trượng), cho truy thu
nh
ững hoa lợi mà y đã cướp chiếm trên ruộng đất công làng xã để trả về cho làng xã
8
.
M
ột biểu hiện khác thể hiện quyền lực của nhà nước trung ương đối với sở hữu
ru
ộng đất làng xã là việc nhà nước cho ban hành chính sách quân điền, biến bộ máy
qu
ản lý làng xã thành người giúp việc cho nhà nước trong việc quản lý đối với ruộng

đất công làng xã. Nhà Nguyễn đã cho thi hành chính sách quân điền ngay sau khi triều
đại được thành lập (1804). Theo Lệ năm Gia Long thứ 3 (1804), quy định cứ hạn ba
n
ăm làng xã tiến hành quân cấp một lần; đến kỳ quân cấp các làng xã phải đem chia đều
các ru
ộng nhất đẳng, nhị đẳng và tam đẳng hiện có trong làng xã cho các dân đinh trong
xã. Các ru
ộng xấu hay tốt đều được cấp cho dân đinh một cách công bằng, và phải tránh
vi
ệc để cường hào xâm chiếm hết những ruộng đất tốt và chia các ruộng đất xấu cho
ng
ười khác
9
. Đến năm 1840 (Minh Mạng thứ 21), nhà vua tiếp tục ra Sắc chiếu về vấn
đề quân phân công điền. Theo đó, ngoại trừ các binh điền được cấp cho binh lính làm
ru
ộng lương, còn lại các công điền công thổ khác đem quân phân cho tất cả dân đinh
trong xã, g
ồm: viên chức, binh lính, thợ thuyền và tráng đinh. Việc đánh thuế điền thổ
và s
ưu dịch phải cho công bằng dựa trên sổ sách đã định. Theo Điều 78 Luật Gia Long
quy
định: Nếu hữu ty làm sai, thu thuế đinh điền đối với xã dân không công bằng thì bị
ph
ạt 100 trượng và bắt phải sửa lại. Nếu thượng ty không chịu thụ lý hồ sơ do dân kiện
th
ưa về việc thu thuế không công bằng thì cũng bị phạt 80 trượng. Nếu quan ty do nhận
c
ủa đút lót mà làm sai trái thì phải dựa vào tang vật, khép vào tội “làm cong vẹo pháp
lu

ật” mà xét xử
10
.

Để có điều kiện thực hiện chính sách quân điền, đồng thời quản lý được ruộng
đất và người cày trong các làng xã, triều đình nhà Nguyễn đã cho thiết lập lại sổ địa bạ

đinh bạ. Theo quy định của Điều 73 Luật Gia Long thì quân, dân, thầy, thợ đều phải
l
ấy làng gốc của mình để làm nơi ổn định. Và một khi được hưởng quyền lợi ở làng xã
thì h
ọ phải chịu nghĩa vụ đối với nhà nước. Nếu trá mạo để được miễn hoặc tránh thuế
thì b
ị phạt 80 trượng. Quan ty nếu dối trá chuyển đổi từ hạng lính ra hạng dân, cải đổi



7
Nội các triều Nguyễn. Đại Nam hội điển sự lệ. Quyển 38. NXB Thuận Hóa, Huế, 1993.
8
Nguyễn Văn Thành. Hoàng Việt luật lệ. Tập II. NXB Văn hóa, Hà Nội, 1994, trang 305-307.
9
Deloustal. Sưu tập các sắc lệnh chính yếu về luật pháp triều Nguyễn. Dẫn theo: Vũ Văn Mẫu. Cổ luật
Việt Nam lược khảo. Quyển II. Trường Đại học Luật khoa Sài Gòn xuất bản, Sài Gòn, 1968, trang 154.
10
Nguyễn Văn Thành. Hoàng Việt luật lệ. Tập II. NXB Văn hóa, Hà Nội, 1994, trang 285-286.


30
loại dân làm loại thợ để được miễn thuế và nghĩa vụ, làm xáo trộn sổ sách thì cũng bị trị

t
ội như trên. Quân dân ở vào trường hợp đó nếu không chịu cải chính sự dối trá của
mình thì s
ẽ bị phạt 100 trượng, bắt sung lính và phát phối ra biên giới xa
11
. Ở Điều 74
Lu
ật Gia Long còn quy định: Nếu Xã trưởng che giấu số trai tráng trong làng để làm
ng
ười cày ruộng cho mình thì nếu giấu 1 đinh phải phạt 60 trượng, giấu thêm 1 đinh nữa
thì b
ị phạt thêm 1 bậc tội, giấu từ 7 cho đến 8 dân đinh thì bị phạt 60 trượng đồ 1 năm,
n
ếu Nn giấu 9 đinh thì phải tăng thêm 1 bậc tội phạt 70 trượng đồ 1 năm rưỡi, cứ thế mà
ti
ếp tục tăng lên
12
. Theo Điều 84 Luật Gia Long, nhà nước trừng phạt khá nặng những
tr
ường hợp không kê khai ruộng đất công làng xã vào sổ bộ để trốn thuế. Phàm âm mưu
Nn lậu ruộng đất, khai là ruộng gò, ruộng hoang nhàn, ruộng tốt chuyển thành ruộng xấu
để trốn thuế thì từ 1 đến 5 mẫu bị phạt 40 roi và cứ trốn thuế thêm 5 mẫu thì tội lại gia
t
ăng thêm 1 bậc, cho đến tối đa là 100 trượng, ruộng đất bị đem sung sông và phải trả số
thu
ế Nn lậu cho nhà nước. Lý trưởng nếu biết việc Nn lậu mà không tố giác thì cũng bị
khép vào t
ội đồng phạm
13
. Ngoài ra, cũng trong Luật Gia Long có nhiều điều khoản nói

v
ề việc thu lúa thuế (các điều 110, 111, 112, 113) và về tội trốn thuế (Điều 132). Đồng
th
ời, quy định các Lý trưởng và sai dịch có trách nhiệm phải thu thuế theo định kỳ và
n
ộp cho nhà nước. Nếu gian dối về điền lương thì bị xử trượng, và truy thu để nộp vào
kho c
ủa nhà nước. Đối với những ruộng đất làng xã do nhà nước sử dụng hay bị sụt lở
ho
ặc ở những nơi bị thiên tai, hoạn nạn, mùa màng thất bát thì quan ty phải tra xét đúng
s
ự thực và được nhà nước cho phép miễn hoặc giảm thuế. Chẳng hạn, Sắc chiếu năm
Minh M
ạng thứ 8 (1827) quy định: Khi các công thổ bị truất hữu để làm việc công ích
nh
ư đê điều thì các làng xã được cho miễn giảm thuế về các số ruộng đất đã bị truất hữu.
Chính s
ử của triều Nguyễn cũng cho biết, vào năm Minh Mạng thứ 2 (1821), 18 làng xã
thu
ộc các huyện Thanh Liêm, Thanh Trì (nay thuộc tỉnh Hà Đông), Gia Lâm (nay thuộc
t
ỉnh Bắc Ninh), Phúc Thọ (nay thuộc tỉnh Sơn Tây) đã được miễn thuế về các ruộng đất
b
ị sụt lở, cùng với 470 mẫu đất thổ đã bị truất hữu để làm quan trạm, quan lộ và đê điều.
Có th
ể nói, nhà nước Nguyễn đã rất quan tâm đến ruộng đất công làng xã, bởi vì
đây chính là cơ sở ổn định của xã hội.
2.5. Ch
ế định về ruộng đất tư nhân: Luật Gia Long quy định vấn đề tư hữu
ru

ộng đất trong Quyển 3 với nhan đề là Hộ luật, bao gồm 66 điều khoản. Trong quyển
này, có m
ột chương Điền trạch gồm 10 điều (từ Điều 84 đến Điều 93) liên hệ đến các
v
ấn đề ruộng đất, vườn tược, trong đó có nhiều điều khoản liên quan đến vấn đề ruộng
đất tư hữu. Ngoài ra, Luật Gia Long còn quy định về việc quản lý đối với “cựu điền” và
“trang
điền” để tránh tình trạng bỏ hoang lãng phí đối với ruộng đất.



11
Nguyễn Văn Thành. Hoàng Việt luật lệ. Tập II. NXB Văn hóa, Hà Nội, 1994, trang 274.
12
Nguyễn Văn Thành. Hoàng Việt luật lệ. Tập II. NXB Văn hóa, Hà Nội, 1994, trang 275-276.
13
Nguyễn Văn Thành. Hoàng Việt luật lệ. Tập II. NXB Văn hóa, Hà Nội, 1994, trang 292-295.


31
Trước hết là việc nhà nước có những chế định bảo vệ đối với quyền tư hữu về
ru
ộng đất. Điều 87 Luật Gia Long đã quy định về tội bán lén ruộng đất của người khác
m
ột cách trái phép, hoặc bán những ruộng đất dùng vào việc thờ tự tổ tiên (ruộng hương
h
ỏa). Theo đó, phàm đem bán trộm ruộng đất của người khác, hoặc đem ruộng đất xấu
c
ủa mình đánh tráo ruộng đất tốt của người khác, mạo nhận ruộng đất của người khác
làm ru

ộng đất của mình, chấp giữ sau thời hạn những ruộng đất người ta bán thục cho
mình và c
ả việc xâm chiếm ruộng đất của người khác đều bị trị tội. Đối với việc bán lén
ru
ộng đất của người khác từ 1 mẫu trở xuống đều phải phạt 50 roi. Nếu thêm 5 mẫu thì
b
ị phạt thêm 1 bậc tội, nhưng tối đa là 80 trượng đồ 2 năm. Nếu cưỡng chiếm hồ ao,
v
ườn nhà của người khác, không kể mẫu sào, đều bị phạt 100 trượng, lưu 3.000 dặm
14
.
Đối với ruộng đất hương hỏa, Điều 87 (khoản lệ) Luật Gia Long quy định: Phàm
con cháu
đem bán lén ruộng đất thờ cúng do ông bà tổ tiên để lại đến 50 mẫu thì xử
chi
ếu theo luật về tội bán lén tài sản hương hỏa và đem sung lính, phát phối ra biên giới
xa. N
ếu bán dưới 50 mẫu và lén bán nghĩa điền thì xử tội theo bán trộm ruộng nhà nước
mà tr
ị tội. Nếu người mua biết rõ sự việc bán lén nhưng vẫn mua, hoặc cùng với người
con cháu bàn l
ập mưu kế để mua thì cũng bị tội y như người con cháu phạm tội đó. Và
cho thu h
ồi lại tài sản để giao trả lại cho trưởng tộc quản lãnh, còn tiền bán thì bị tịch
thu
đem sung công. Nếu người mua không biết rõ sự việc bán lén thì không phải tội.
M
ột điều lưu ý là đối với những tự sản cũng như nghĩa điền bị bán lén thì trưởng tộc
ph
ải tập họp con cháu trong gia tộc để thống nhất ý kiến, xác định đúng sự việc bán lén,

m
ới được phép đem trình quan. Nếu kết quả tra xét cho thấy không phải là tài sản chung
c
ủa tộc họ thì người khai báo bị buộc vào tội vu cáo người khác và bị trị tội
15
.
C
ũng ở Điều 87 Luật Gia Long, nếu cùng tranh chấp đất đai, việc chưa được
gi
ải quyết rõ ràng, mà đem điền sản đó nói dối là của mình, mờ ám hiến tặng cho quan
trên, ho
ặc người có thế lực quan trọng, thì cả người hiến lẫn người nhận đều bị phạt 100
tr
ượng đồ 3 năm. Trong tất cả các trường hợp, số ruộng bán lén hay hiến lén cũng như
ti
ền đã nhận được sau khi bán lén ruộng đất của người ta, cùng với vật sản xuất ra từ
ru
ộng đất ấy (như vàng, bạc, đồng, thiếc, sắt cục ), hoa lợi thu hoạch trong năm trên
ru
ộng đất ấy, đều bị truy thu đem sung công hoặc đem trả lại cho người chủ của nó. Nếu
công th
ần mắc phải những lỗi này thì vẫn chiếu luật xử tội và tâu lên để nhà vua định
đoạt, truy thu tiền bán trộm cũng như hoa lợi đã cướp bán để trả lại cho chủ cũ
16
.

Ở Điều 90 Luật Gia Long đã trừng phạt cả về tội lén lút cày cấy ruộng tư của
ng
ười khác. Theo đó, phàm lén lút cày cấy gieo trồng hoặc cướp chiếm hoa lợi nơi
ru

ộng vườn của người khác, bị thưa với quan, sẽ phạt cứ mỗi mẫu trở xuống là 30 roi,



14
Nguyễn Văn Thành. Hoàng Việt luật lệ. Tập II. NXB Văn hóa, Hà Nội, 1994, trang 300-303.
15
Nguyễn Văn Thành. Hoàng Việt luật lệ. Tập II. NXB Văn hóa, Hà Nội, 1994, trang 295-299.
16
Nguyễn Văn Thành. Hoàng Việt luật lệ. Tập II. NXB Văn hóa, Hà Nội, 1994, trang 300-303.


32
tội tăng thêm một bậc nếu diện tích cày cấy lén lút tăng thêm 5 mẫu, nhưng hình phạt
t
ối đa cũng chỉ đến 80 trượng là cùng. Các ruộng đất và hoa lợi đó phải hoàn lại cho chủ
c
ủa nó
17
.

Điều 92 Luật Gia Long đã trừng phạt đối với tội ăn trộm dưa và quả trong trong
v
ườn ruộng của người khác. Phàm tự tiện lấy ăn những dưa, quả trồng trong vườn ruộng
ng
ười khác thì buộc tội theo tang vật. Tính gồm những dưa quả đã ăn trộm làm thành
tang v
ật để áp dụng hình phạt. Nếu giá trị từ 1 lạng bạc trở xuống thì phạt 10 roi, 2 lạng
ph
ạt 20 roi, cứ thế đến tối đa là 60 trượng, đồ 1 năm. Nếu ngắt bỏ, làm hư thối thì tội

c
ũng như vậy
18
.
Điều 91 Luật Gia Long còn trừng phạt về tội hủy hoại những mùa màng trên
ru
ộng của người khác. Theo đó, phàm cố ý chặt phá những loại cây trồng trên ruộng của
ng
ười khác thì kể theo tang vật là những vật bị phá hư ấy, chiếu theo tội ăn trộm của
ng
ười ta để xử, cho được miễm xăm chữ, nhưng thiệt hại dù lớn bao nhiêu thì hình phạt
c
ũng chỉ tối đa là 100 trượng, lưu 3000 dặm. Nếu do sơ ý làm hư hại thì được giảm 3
b
ậc tội so với trường hợp cố ý làm hư hại, nhưng phải bồi thường lại các vật bị hư hại
cho ch
ủ của nó
19
.
Khác v
ới luật Hồng Đức, luật pháp dưới triều Nguyễn đã quy định về nghĩa vụ
tô thu
ế đối với ruộng đất tư hữu. Theo đó, tất cả ruộng đất tư hữu của quý tộc, quan lại,
nhân dân
đều phải nộp thuế cho nhà nước theo biểu thuế đối với ruộng đất tư. Ngay cả
đối với ruộng tư của những người trong họ nhà vua cũng phải chịu thuế. Điều 84 (khoản
l
ệ) quy định đối với ruộng đất do người trong họ nhà vua mua ở các làng xã và giao cho
qu
ản trang quản lý việc canh tác, nhưng nếu quản trang dựa vào uy thế của chủ không

ch
ịu nộp thuế cho chính quyền địa phương thì phải điều tra cNn thận và đem người quản
trang
đó ra xử tội theo luật công thần Nn lậu ruộng đất. Nếu người tông thất biết mà vẫn
ch
ấp chứa thì giao cho nha môn sát nghị, nhưng vẫn truy thu tiền thuế. Nếu quản quan ở
địa phương a tòng che dấu thì quan doanh trấn nơi đó được phép tham tấu lên vua để
giao cho b
ộ nghị xử
20
. Đối với ruộng đất tư của công thần, Điều 86 Luật Gia Long quy
định: Về các ruộng đất tư của nhà các quan công thần phải nộp thuế. Theo đó, núi và
ru
ộng đất của các công thần do vua ban cấp để ân thưởng thì không phải chịu thuế và
được ghi vào sổ riêng. Còn những ruộng đất tư của các công thần mua lại của các tư
nhân thì ph
ải chịu thuế và giao cho người quản trang đem hết số ruộng đất ấy khai báo
cho quan s
ở tại ghi vào sổ bộ, chiếu theo ngạch cùng loại ruộng đất để nộp thuế giống
nh
ư ruộng dân. Nếu trái lệnh, âm mưu che giấu, thì người quản trang phải tội. Tội nặng
nh
ẹ sẽ dựa theo số ruộng trốn thuế nhiều hay ít: nếu từ 1 mẫu đến 3 mẫu thì bị phạt 60



17
Nguyễn Văn Thành. Hoàng Việt luật lệ. Tập II. NXB Văn hóa, Hà Nội, 1994, trang 305-307.
18
Nguyễn Văn Thành. Hoàng Việt luật lệ. Tập II. NXB Văn hóa, Hà Nội, 1994, trang 309-310.

19
Nguyễn Văn Thành. Hoàng Việt luật lệ. Tập II. NXB Văn hóa, Hà Nội, 1994, trang 307-309.
20
Nguyễn Văn Thành. Hoàng Việt luật lệ. Tập II. NXB Văn hóa, Hà Nội, 1994, trang 292-295.


33
trượng, nếu tăng thêm 3 mẫu ruộng Nn lậu nữa thì hình phạt sẽ tăng thêm 1 bậc, nhưng
t
ối đa hình phạt chỉ đến đồ 3 năm và đánh 100 trượng. Còn ruộng đất trốn thuế thì bị
đem sung công, nhưng vẫn phải đem ruộng đất đó chiếu theo số mẫu, số năm và số
ng
ạch thuế để truy thu tiền thuế nộp vào kho của nhà nước. Nếu Lý trưởng và quan lại
h
ữu quan hùa nhau khám xét không thực, hoặc biết mà không chịu tố cáo thì cũng phải
t
ội giống như người quản trang; còn ngược lại, nếu không biết tình trạng Nn giấu thì
không ph
ải tội
21
.

Đối với những trường hợp bị thiên tai, mất mùa, luật pháp triều Nguyễn cũng
cho phép vi
ệc miễn giảm thuế đối với chủ ruộng đất tư. Điều 85 Luật Gia Long quy
định về việc khám xét thuế ruộng bị tai ương mất mùa do hạn hán, lụt lội hay sâu hại
c
ắn phá. Theo đó, phàm trong nước gặp phải những tai ương thì nên miễn thuế ruộng
đất. Quan hữu ty nếu nhận được báo cáo mà không thân báo lên thượng ty và không tự
mình ho

ặc cử người đến tận nơi để khám xét thực hư thì bị phạt 80 trượng. Nếu Lý
tr
ưởng hoặc Giáp thủ ở nơi ấy thông đồng với nhau thêm bớt, đem ruộng thu hoạch
được bảo là ruộng hư hại, hoặc ngược lại, đem ruộng bị hư hại bảo là ruộng thu gặt
được để làm chuyện gian dối với quan trên hoặc là để hại dân, thì đều phạt mỗi người
100 tr
ượng, bãi chức, không kể thứ bậc. Còn nếu có đầy đủ các chứng cứ về sự thực hư
h
ại thì được cho miễn giảm thuế. Nếy Lý trưởng, Giáp thủ thông đồng với quan trên
được cử về kiểm tra để khai báo không thực thì bị phạt nặng. Nếu quan lại làm nhiệm
v
ụ kiểm tra cùng với Lý trưởng, Giáp thủ vốn không vì tham nhũng, mà do sơ hở mất
c
ảnh giác, bị người ta khai báo không thực, thì nếu số diện tích khai báo không thực đó
ch
ỉ từ 10 mẫu trở xuống được cho miễn tội, còn từ 10 mẫu trở lên đến 20 mẫu thì phạt
20 roi, n
ếu nhiều thêm 20 mẫu thì phạt thêm 1 bậc tội, nhưng tối đa là 80 trượng. Và
trong các m
ức phạt kể trên, người quan lại đó đều được phép cho lưu dịch tiếp tục làm
vi
ệc. Đối với người chủ ruộng khai man, nếu số ruộng khai man từ 1 mẫu đến 5 mẫu thì
b
ị phạt 40 roi, nếu số ruộng khai man nhiều hơn thì cứ mỗi 5 mẫu cho tăng thêm 1 bậc
t
ội, nhưng tối đa cũng chỉ 100 trượng mà thôi. Phải tính gồm số lượng ruộng đất mạo
khai
Nn thuế đó và quy chiếu theo thời gian Nn thuế để truy thu và đem nộp vào kho
công
22

.
3. Qua các
điều khoản dẫn dụng trên đây cho thấy trong Hoàng Việt luật lệ có
nh
ững điều khoản quy định về vấn đề tài sản ruộng đất của nhà nước và của tư nhân ở
n
ước ta hồi nửa đầu thế kỷ XIX. Nhưng nếu so sánh những quy định về tài sản ruộng
đất trong pháp luật triều Nguyễn với các điều khoản trong dân luật hiện đại, thì chúng ta
có th
ể dễ dàng nhận ra sự khác biệt rất sâu sắc từ quan niệm cho đến kỹ thuật pháp lý.
Không nh
ững trong cổ luật chúng ta không tìm thấy những danh từ như quyền sở hữu,



21
Nguyễn Văn Thành. Hoàng Việt luật lệ. Tập II. NXB Văn hóa, Hà Nội, 1994, trang 299-300.
22
Nguyễn Văn Thành. Hoàng Việt luật lệ. Tập II. NXB Văn hóa, Hà Nội, 1994, trang 295-299.


34
quyền chấp hữu, quyền ứng dụng thu lợi, quyền địa dịch , mà cả các phương pháp thủ
đắc hay bảo vệ quyền sở hữu cũng hoàn toàn khác hẳn so với nội dung của pháp luật
hi
ện đại. Do đó, có thể nói, trong lĩnh vực tài sản về ruộng đất, nền pháp luật Việt Nam
đã hoàn toàn đổi mới kể từ khi chúng ta tiếp xúc với kỹ thuật pháp lý của Tây phương.
Tuy nhiên, nói nh
ư vậy không có nghĩa là trong cổ luật Việt Nam nói chung, và trong
pháp lu

ật triều Nguyễn nói riêng, đã thiếu vắng những quy định về vấn đề tài sản ruộng
đất, hoặc những quy định ấy là quá sơ lược, mà thực ra, nếu nghiên cứu một cách đầy
đủ, chúng ta cũng sẽ thấy rằng những quy định đó không đến nỗi quá thiếu sót. Thậm
chí, nó cho th
ấy là nhà nước phong kiến Việt Nam nói chung, và nhà nước phong kiến
Nguy
ễn nói riêng, đã rất quan tâm đến tài sản ruộng đất và cũng đã có những quy định
khá tinh vi trong vi
ệc bảo vệ quyền sở hữu ruộng đất của nhà nước và của tư nhân. Nhờ
nh
ững quy định cụ thể và chặt chẽ đó mà nó đã góp phần trong việc ổn định trật tự xã
h
ội và bảo vệ quyền lợi của người dân trong các làng xã.
TÀI LI
ỆU THAM KHẢO
1. Vũ Văn Mẫu, Dân luật khái luận. Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1958.
2. Vũ Văn Mẫu, Việt Nam dân luật lược khảo. Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Sài Gòn,
1962.
3. Vũ Văn Mẫu, Cổ luật Việt Nam lược khảo. Quyển II. Trường Đại học Luật khoa Sài
Gòn xuất bản, Sài Gòn, 1968.
4. Vũ Văn Mẫu, Pháp luật nhập môn. Trường Đại học Luật khoa Sài Gòn xuất bản, Sài
Gòn, 1973.
5. Vũ Văn Mẫu, Việt Nam dân luật lược giảng. Trường Đại học Luật khoa Sài Gòn xuất
bản, Sài Gòn, 1973.
6. Vũ Văn Mẫu, Cổ luật Việt Nam và Tư pháp sử. Trường Đại học Luật khoa Sài Gòn
xuất bản, Sài Gòn, 1973.
7. Vũ Văn Mẫu, Pháp luật thông khảo. Trường Đại học Luật khoa Sài Gòn xuất bản, Sài
Gòn, 1974.
8. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam hội điển sự lệ. Quyển 38. NXB Thuận Hóa, Huế,
1992.

9. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục chính biên. Tập III. NXB Sử học, Hà
Nội, 1963.
10. Nguyễn Văn Thành (Tổng tài), Hoàng Việt luật lệ. Tập II. NXB Văn hóa, Hà Nội, 1994.




35

CULTIVATED LAND REGULATIONS IN THE LAWS
OF NGUYEN DYNASTY
Huynh Cong Ba
College of Pedagogy, Hue University
SUMMARY
This article gives a full explaination of the regulations of common cultivated land and
private cultivated land of Nguyen dynasty (1802-1884). The common cultivated land included
state cultivated land and village cultivated land. The private cultivated land include that of
aristocracies, mandarins, landowners and peasants. These regulations were presented in the
Hoang Viet luat le and Dai Nam hoi dien su le.




×