Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

Đề tài: Giải pháp mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hưng Yên pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (535.71 KB, 95 trang )

BÁO CÁO THỰC TẬP
Đ ti:
Giải pháp mở rộng cho vay đối với
doanh nghiệp ngoi quốc doanh
tại chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh
Hưng Yên
MỤC LỤC
B O C O TH C T PÁ Á Ự Ậ 1
t i:Đê a 1
Gi i pháp m r ng cho vay đ i v i doanh nghi p ả ở ộ ố ớ ệ
ngo i qu c doanh t i chi nhánh NHNo&PTNT t nh a ố ạ ỉ
H ng Yênư 1
M C L CỤ Ụ 2
L I NÓI UỜ ĐẦ 3
CH NG 1ƯƠ 5
DOANH NGHI P NGO I QU C DOANH VỆ À Ố À 5
VAI TRÒ C A T N D NG NG N H NG I V IỦ Í Ụ Â À ĐỐ Ớ 5
DOANH NGHI P NGO I QU C DOANHỆ À Ố 5
1.1. DNNQD TRONG N N KINH T TH TR NG VI T NAMỀ Ế Ị ƯỜ Ở Ệ 5
1.1.1. Khái ni m, phân lo i, c i m v vai trò c a DNNQD trong n n ệ ạ đặ để à ủ ề
kinh t th tr ng Vi t Nam.ế ị ườ ở ệ 5
1.1.2. Thu n l i v khó kh n c a DNNQD trong quá trình i m i.ậ ợ à ă ủ đổ ớ 13
1.1.3. Các ngu n v n c a DNNQD:ồ ố ủ 16
1.2. T N D NG NG N H NG I V I C C DNNQDÍ Ụ Â À ĐỐ Ớ Á 19
1.2.1. Khái ni m tín d ng ngân h ng.ệ ụ à 19
1.2.2. Vai trò c a tín d ng ngân h ng i v i DNNQD:ủ ụ à đố ớ 20
1.2.3. Các hình th c cho vay:ứ 22
1.2.4. Các nhân t nh h ng t i vi c m r ng cho vay i v i DNNQDốả ưở ớ ệ ở ộ đố ớ 23
1.2.5. S c n thi t ph i m r ng cho vay i v i DNNQD n c taự ầ ế ả ở ộ đố ớ ở ướ 31
CH NG 2ƯƠ 33
TH C TR NG HO T NG CHO VAY I V I DNNQD T I CHI Ự Ạ Ạ ĐỘ ĐỐ Ớ Ạ


NH NH NHNo&PTNT T NH H NG YÊNÁ Ỉ Ư 33
I. KH I QU T V CHI NH NH NHNo&PTNT T NH H NG YÊN.Á Á Ề Á Ỉ Ư 33
2. C c u t ch c c a chi nhánh NHNo&PTNT t nh H ng Yênơ ấ ổ ứ ủ ỉ ư 33
3. M t s tình hình ho t ng kinh doanh c a chi nhánh NHNo&PTNT ộ ố ạ độ ủ
t nh H ng Yênỉ ư 34
Ch tiêuỉ 36
N mă 36
N mă 36
T ng ngu n v nổ ồ ố 36
II - TH C TR NG HO T NG T N D NG I V I C C DNNQD T IỰ Ạ Ạ ĐỘ Í Ụ ĐỐ Ớ Á Ạ
CHI NH NH NHNo&PTNT T NH H NG YÊN.Á Ỉ Ư 54
1. c i m c a DNNQD trên a b n t nh H ng Yên.Đặ để ủ đị à ỉ ư 54
2. Th c tr ng ho t ng cho vay i v i DNNQD t i chi nhánh ự ạ ạ độ đố ớ ạ
NHNo&PTNT t nh H ng Yên.ỉ ư 55
CH NG 3ƯƠ 69
GI I PH P CH Y U M R NG CHO VAY I V I DNNQD T I Ả Á Ủ Ế ĐỂ Ở Ộ ĐỐ Ớ Ạ
CHI NH NH NHNo&PTNT T NH H NG YÊNÁ Ỉ Ư 69
I - QUAN I M V M R NG T N D NG C A CHI NH NH ĐỂ Ề Ở Ộ Í Ụ Ủ Á
NHNo&PTNT T NH H NG YÊN.Ỉ Ư 69
II - GI I PH P CH Y U M R NG CHO VAY I V I DNNQD Ả Á Ủ Ế ĐỂ Ở Ộ ĐỐ Ớ
T I CHI NH NH NHNo&PTNT T NH H NG YÊN.Ạ Á Ỉ Ư 71
1. T ng c ng khai thác ngu n v n theo c c u h p lý.ă ườ ồ ố ơ ấ ợ 71
2. Xây d ng v tri n khai chi n l c Marketing trong ó tr ng tâm l ự à ể ế ượ đ ọ à
chính sách khách h ng.à 72
3. Ho n thi n c ch chính sách tín d ng i v i DNNQDà ệ ơ ế ụ đố ớ 74
4. Nâng cao ch t l ng công tác th m nh tín d ng.ấ ượ ẩ đị ụ 77
5. T ng c ng công tác ki m tra sau khi cho vay.ă ườ ể 79
6. o t o, nâng cao ch t l ng i ng cán b cho chi nhánh Đà ạ ấ ượ độ ũ ộ
NHNo&PTNT t nh H ng Yên.ỉ ư 79
7. Hi n i hoá công ngh Ngân h ng.ệ đạ ệ à 82

8. T ng c ng công tác ki m tra, ki m soát n i b .ă ườ ể ể ộ ộ 82
9. X lý v n n quá h n.ử ấ đề ợ ạ 83
III - KI N NGH .Ế Ị 85
1. Ki n ngh i Nh n c.ế ị đố à ướ 85
2. Ki n ngh i v i Ngân h ng Nh n c.ế ị đố ớ à à ướ 86
3. Ki n ngh i v i NHNo&PTNT Vi t Nam.ế ị đố ớ ệ 87
K T LU NẾ Ậ 89
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Có thể khẳng định rằng, sau hơn một thập niên thực hiện công cuộc
đổi mới, cùng với khu vực kinh tế quốc doanh khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh đã có những bước phát triển nhanh chóng và ngày càng khẳng định
được vị trí và vai trò của mình trong nền kinh tế, hàng năm khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh đóng góp khoảng 60% - 65% vào GDP, 40% - 45% cho
ngân sách nhà nước và thu hút hơn 80% lao động cho xã hội.
Nhờ có chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, DNNQD mới
thực sự có điều kiện để phát huy lợi thế của mình trong cơ chế mới. Với
đặc điểm hoạt động linh hoạt, năng động và có tính tự chủ cao DNNQD đã
nhanh chóng hoà nhập với kinh tế thị trường, tạo ra nhiều sản phẩm cho xã
hội, góp phần kiềm chế lạm phát, giảm tỷ lệ thất nghiệp và là đối tác cạnh
tranh sôi động với DNNN, góp phần tích cực vào sự phồn vinh của đất
nước.
Vai trò và vị trí quan trọng của DNNQD đòi hỏi phải có cơ chế và
chính sách thích hợp tạo điều kiện cho DNNQD phát huy mạnh mẽ mọi
tiềm năng, thế mạnh của mình. Trên thực tế, trong những năm gần đây
nhận thức được tiềm năng to lớn của DNNQD các NHTM đã đẩy mạnh
hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp này tạo điều kiện cho doanh
nghiệp phát triển và mở rộng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng góp
phần vào sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế.
Tuy nhiên, trong thời gian thực tập tại chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh

Hưng Yên em nhận thấy rằng hoạt động cho vay đối với DNNQD chưa
tương xứng với nhu cầu vốn thực tế của các doanh nghiệp này. Vì vậy sau
một thời gian nghiên cứu nắm bắt tình hình thực tế em đã lựa chọn đề tài
“Giải pháp mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại
chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hưng Yên” với mong muốn góp một phần
nhỏ bé kiến thức của mình vào việc tìm ra các giải pháp để mở rộng cho
vay đối với DNNQD tại chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Hưng Yên. Nội
dung đề tài là một vấn đề rộng và phức tạp vì vậy chuyên đề này sẽ không
tránh khỏi những khiếm khuyết. Em mong nhận được sự giúp đỡ của các
thầy cô, của ban lãnh đạo và cán bộ công nhân viên chi nhánh
NHNo&PTNT tỉnh Hưng Yên, đồng thời em cũng mong nhận được những
đóng góp của các bạn sinh viên để bài viết của em được hoàn thiện và có
thực tiễn hơn.
CHƯƠNG 1
DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH VÀ
VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH
1.1. DNNQD TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
1.1.1. Khái niệm, phân loại, đặc điểm và vai trò của DNNQD trong nền
kinh tế thị trường ở Việt Nam.
1.1.1.1. Khái niệm về DNNQD:
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở
giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật
nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
DNNQD là một bộ phận của nền kinh tế, lấy sở hữu tư nhân làm nền
tảng, được tồn tại lâu dài, được bình đẳng trước pháp luật và có tính sinh
lợi hợp pháp chủ động trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trong
khuôn khổ của pháp luật.
Xuất pháp từ hình thức sở hữu của DNNQD, Nhà nước không cấp
vốn hoạt động cũng như không tái cấp vốn mà vốn hoạt động của DNNQD

là vốn do tư nhân bỏ ra hay một nhóm các thành viên là các tổ chức, cá
nhân góp lại. Số tiền này nhiều hay ít phụ thuộc vào qui mô ngành nghề,
lĩnh vực sản xuất kinh doanh theo quy định của pháp luật (đựơc quy định
trong luật doanh nghiệp). Mặt khác, trong hoạt động sản xuất kinh doanh
của mình, DNNQD phải chịu trách nhiệm hữu hạn, vô hạn hay hỗn hợp cả
vô hạn và hữu hạn. Điều đó tuỳ thuộc vào đặc trưng của từng loại hình sản
xuất kinh doanh của DNNQD mà các cá nhân, tổ chức tham gia trong đó.
1.1.1.2. Phân loại DNNQD:
* Nếu căn cứ vào mức độ trách nhiệm trong hoạt động sản xuất
kinh doanh thì DNNQD bao gồm các doanh nghiệp chiụ trách nhiệm hữu
hạn (công ty TNHH, công ty cổ phần, hợp tác xã…), các doanh nghiệp chịu
trách nhiệm hỗn hợp (công ty hợp vốn đơn giản là công ty trong đó có một
thành viên nhận vốn chịu trách nhiệm vô hạn còn các thành viên góp vốn
khác chịu trách nhiệm hữu hạn trên phần vốn đóng góp mà thôi).
* Nếu chia theo tính chất sở hữu vốn, DNNQD bao gồm các loại
hình doanh nghiệp sở hữu một chủ (doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH
1 thành viên), sở hữu nhiều chủ (công ty cổ phần, công ty TNHH có từ 2
thành viên trở lên, hợp tác xã ).
Tuy nhiên dù phân loại theo hình thức nào thì DNNQD cũng bao
gồm các loại hình sau: Doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ
phần, hợp tác xã.
- Doanh nghiệp tư nhân: Điều 99 luật doanh nghiệp quy định “Doanh
nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp.
- Công ty TNHH: là doanh nghiệp gồm không quá 50 thành viên
góp vốn thành lập, thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các
nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết
góp vào doanh nghiệp.
- Công ty cổ phần: là doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ được hình

thành từ nhiều phần vốn góp bằng nhau gọi là cổ phần, người sở hữu cổ
phần gọi là cổ đông, cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các
nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào
doanh nghiệp.
- Hợp tác xã: là tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có
nhu cầu, có lợi ích chung tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy
định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và từng xã viên nhằm
giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất kinh doanh,
dịch vụ và cải thiện đời sống, góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
1.1.1.3. Đặc điểm của DNNQD ở Việt Nam:
Bắt đầu hình thành và phát triển từ năm 1986 cho đến nay, trải qua
một giai đoạn hơn mười năm các DNNQD nước ta có những đặc điểm sau:
* Quy mô vốn nhỏ bé:
Nền kinh tế Việt Nam vẫn là một nền kinh tế chậm phát triển, không
có sự năng động do đó khẳ năng tích luỹ vốn nội bộ rất thấp. Người dân
vẫn chưa có thói quen để đồng tiền nhàn rỗi của mình có thể sinh lời bằng
cách đầu tư vào sản xuất kinh doanh, mà chỉ gửi tiền tiết kiệm vào Ngân
hàng hoặc giữ tiền ở nhà. Các DNNQD dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất nên nguồn vốn mang tính chất nhỏ hẹp, mặt khác thâm niên tồn tại
chưa lâu nên chưa có điều kện để tích luỹ vốn. Nguồn vốn hoạt động chủ
yếu là đi vay từ bạn bè, vay tư nhân, vay Ngân hàng và các TCTD khác.
Song do uy tín của các DNNQD chưa cao nên việc vay vốn gặp rất nhiều
khó khăn, mặc dù đã có nhiều văn bản của chính phủ, NHNN quy định về
việc mở rộng cho vay đối với khu vực này. Hầu hết các DNNQD có quy
mô vừa và nhỏ (theo Nghị định số 90/2001/NĐ - CP của Chính Phủ định
nghĩa thì doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất kinh doanh theo pháp
luật hiện hành, có vốn đăng ký không qúa 10 tỷ đồng hoặc số lao động
trung bình hàng năm không quá 300 người). Thực tế số DNNQD có số vốn
sử dụng dưới 10 tỷ đồng chiếm 70%, bình quân số vốn thực tế sử dụng 1
DNNQD là 4,7 tỷ đồng, lao động bình quân của DNNQD là 36 người. Mức

trang bị tài sản trên 1 lao động chỉ có 44,7 triệu đồng. Lượng vốn tự có của
các doanh nghiệp chỉ đáp ứng từ 30% đến 40% yêu cầu.
Vấn đề thiếu vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh kéo theo các đặc
điểm về trình độ công nghệ lạc hậu, môi trường kinh doanh không thuận lợi.
* Trình độ kỹ thuật công nghệ sản xuất lạc hậu:
Do quy mô vốn hạn chế cùng với việc thiếu thông tin về công nghệ,
sự hạn chế trong việc áp dụng công nghệ tiên tiến dẫn đến trình độ công
nghệ của các DNNQD nhìn chung là không đồng bộ. Hầu hết là các thiết bị
đều cũ kỹ, lạc hậu, phần lớn là máy cũ tân trang lại, tuổi của các máy móc
thiết vào khoảng 20 tuổi. Theo số liệu điều tra của viện quản lý kinh doanh
trung ương năm 2003 thì chỉ có 25% doanh nghiệp sử dụng công ngệ tương
đối hiện đại, 38,5% doanh nghiệp sử dụng công nghệ cổ truyền, 36,5%
doanh nghiệp kết hợp cả công nghệ cổ truyền và hiện đại. Do trình độ công
nghệ quyết định đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm nên sản
phẩm của DNNQD làm ra có sức cạnh tranh kém trên thị trường.
* Môi trường sản xuất kinh doanh không thuận lợi, thị trường tiêu
thụ sản phẩm nhỏ bé, bấp bênh:
Kể từ năm 1986 cho tới nay hàng loạt các chính sách, chủ trương
liên quan đến phát triển DNNQD đã được ban hành tạo ra cơ sở pháp lí cho
các DNNQD hoạt động như luật công ty, luật doanh nghiệp tư nhân năm
1990; luật doanh nghiệp năm 2000. Nhưng để tạo hành lang pháp lý đầy đủ
cho kinh doanh thì vẫn còn thiếu như luật chống độc quyền, luật doanh
nghiệp vừa và nhỏ
Mặc dù quyền bình đẳng pháp lí giữa DNNN và DNNQD đã được
thừa nhận nhưng trong các chính sách kinh tế, điều này vẫn chưa nhất
quán, đặc biệt trong chính sách thuế, tín dụng, vốn, mặt bằng
Một khó khăn lớn của các DNNQD là thị trường tiêu thụ nhỏ hẹp
không ổn định, mặc dù thị trường trong nước có nhu cầu khá lớn, nhưng do
vốn đầu tư ban đầu ít, công nghệ sản xuất lạc hậu nên sản phẩm của
DNNQD làm ra có sức cạnh tranh kém ngoại trừ một số mặt hàng truyền

thống có uy tín. Cùng với đó là sự cạnh tranh khốc liệt của hàng ngoại nhập
tràn lan, hàng nhập lậu với giá rẻ. Mặt khác, các doanh nghiệp ít có sự giao
lưu trên thị trường quốc tế, thiếu hiểu biết về công nghệ mới, về kiến thức
kinh doanh và pháp luật quốc tế dẫn tới nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ
phá sản.
* Trình độ quản lý kinh doanh kém đặc biệt là trình độ yếu kém
trong việc lập kế hoạch tài chính, năng lực của người lao động thấp.
Việc lập kế hoạch tài chính, xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh
có hiệu quả phụ thuộc và nhiều nhân tố: trình độ, kinh nghiệm quản lý kinh
doanh, khả năng dự đoán về sự biến động của ngành, của nền kinh tế
Người chủ của các DNNQD đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ
yếu quản trị bằng kinh nghiệm, theo cách suy nghĩ hiểu biết riêng của
mình. Nhiều người trong số họ chưa qua đào tạo trường lớp nên ít am hiểu
về pháp luật, yếu kém về năng lực và kiến thức vì vậy rất khó khăn trong
việc lập kế hoạch tài chính, xây dựng các phương án sản xuất kinh doanh
khả thi, trong khi thói quen sử dụng các dịch vụ tư vấn mang tính chuyên
nghiệp chưa hình thành.
Các sổ sách kế toán của DNNQD thường quá đơn giản, không cập
nhật, không đầy đủ và không chính xác. Do vậy, việc đánh giá các doanh
nghiệp (để Ngân hàng quyết định cho vay) thực sự khó khăn đối với Ngân
hàng, nhất là hiện nay sổ sách của các doanh nghiệp hầu hết đều chưa được
kiểm toán.
Thêm vào đó đội ngũ lao động trong các DNNQD nói chung đều có
kỹ năng thấp, rất ít được qua đào tạo, hầu hết là lao động phổ thông. Điều
này cũng là đặc điểm chung của đội ngũ lao động ở nước ta ảnh hưởng
không nhỏ đến hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Các đặc điểm trên đây chính là những yếu tố tiềm ẩn gây rủi ro cho
Ngân hàng khi cho vay, vì thế để có thể tiếp cận được vốn tín dụng
DNNQD cần khắc phục những nhược điểm và phát huy những lợi thế của
mình. Cũng như Ngân hàng khi cho vay cần thẩm định khách hàng một

cách kỹ lưỡng, tư vấn cho khách hàng nhằm tránh các thiệt hại có thể xảy ra.
1.1.1.4. Vai trò của các DNNQD trong tiến trình đổi mới.
Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ra đời và phát triển trong nền kinh
tế thị trường, các DNNQD chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ nên rất linh hoạt,
nhạy bén thích ứng nhanh chóng với sự biến động của thị trường. Nó huy
động tối đa nguồn vốn trong dân cư để phát triển kinh tế đất nước. Với tính
tự chủ và khả năng thích nghi cao, DNNQD đóng một vai trò không thể
thiếu được trong nền kinh tế, thể hiện qua các mặt sau:
* DNNQD góp phần thu hút tối đa mọi nguồn vốn trong dân, giải
quyết nạn thất nghiệp tạo ra sự phát triển cân đối trong nền kinh tế.
- Trình độ lực lượng sản xuất của nước ta còn thấp, trong khi tiềm
năng phát triển còn lớn song khả năng khai thác còn hạn chế. Sự độc chiếm
của hình thức sở hữu Nhà nước và tập thể không cho phép khai thác những
tiềm năng lớn đó của đất nước, do đó vẫn còn một lượng vốn lớn còn nằm
trong dân cư. Chỉ có con đường phát triển DNNQD mới có thể khai thác
chúng.
- DNNQD tham gia vào hầu hết các ngành kinh tế từ công nghiệp,
thương mại đến dịch vụ, với đặc tính nhạy bén, tổ chức gọn nhẹ nên đã thu
hút được rất nhiều lao động có trình độ khác nhau. Đặc biệt trong quá trình
cải cách các DNNN đã nảy sinh một số vấn đề như thất nghiệp, sự bỏ ngỏ
một số ngành kinh tế và khu vực do nhà nước không đủ sức đảm trách hoặc
không có tầm quan trọng sống còn. Chính các DNNQD với đặc tính của
mình sẽ tạo ra công ăn việc làm giải quyết các vấn đề thất nghiệp, điều tiết
lực lượng phân giải trên các khu vực còn nhiều khoảng trống góp phần dãn
cách, điều hoà nhu cầu lao động. Sự hoạt động đa dạng trên nghiều ngành
nghề của các DNNQD đã tạo ra sự phát triển cân đối cho nền kinh tế.
* DNNQD phát triển tạo thêm nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
Với đặc điểm là được tổ chức gọn nhẹ, ít nhân công, dây chuyền
công nghệ đơn giản, có mối quan hệ sẵn có về cung cấp nguyên vật liệu và
tiêu thụ sản phẩm nên DNNQD có đặc điểm nổi bật là năng động, linh hoạt

thay đổi nhanh mặt hàng và phương hướng kinh doanh, Do vậy các
DNNQD đáp ứng khá nhanh nhậy các nhu cầu phong phú, đa dạng của thị
trường, từ đó tạo ra ngày càng nhiều lợi nhuận đóng góp đáng kể vào
nguồn thu ngân sách Nhà nước. Trên thực tế DNNQD đóng góp mỗi năm
khoảng 40% - 45% vào ngân sách Nhà nước.
* DNNQD tạo ra nhiều hàng hoá cho tiêu dùng và cho xuất khẩu.
Theo chiến lược phát triển hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu của Đảng
và Nhà nước ta, DNNQD với sự đa dạng về quy mô, ngành nghề và hình
thức kinh doanh đã khơi dậy tiềm năng to lớn trong dân để phát triển sản
xuất, thu hút vốn, kỹ thuật công nghệ của nước ngoài tạo ra ngày càng
nhiều sản phẩm phục vụ cho tiêu dùng và cho xuất khẩu. Đặc biệt là sự
khôi phục của các làng nghề truyền thống ở nông thôn đã làm ra các sản
phẩm có giá trị xuất khẩu đóng góp phần quan trọng vào việc nâng cao đời
sống cho dân cư ở nông thôn.
* DNNQD có tác dụng quan trọng đối với quá trình CNH - HĐH
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta.
Quá trình phát triển DNNQD cũng là quá trình cải tiến máy móc
thiết bị, nâng cao năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm để đáp ứng nhu
cầu thị trường, đến một mức độ nhất định sẽ dẫn đến đổi mới công nghệ,
làm cho quá trình CNH - HĐH đất nước không chỉ diễn ra theo chiều rộng
mà cả ở chiều sâu. Mặt khác, sự phục hồi các làng nghề ở một số vùng quê
đã thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
* DNNQD phát triển góp phần tạo ra môi trường cạnh tranh thúc
đẩy phát triển kinh tế.
Với sự đa dạng về lĩnh vực hoạt động, DNNQD đã tạo nên môi
trường cạnh tranh trong nền kinh tế với các DNNN. Theo quy luật thì cạnh
tranh sẽ là điểm khởi đầu của sự phát triển. DNNQD có tác dụng thúc đẩy
sự phát triển của DNNN, bù đắp những lỗ hổng do khu vực này tạo ra. Đặc
biệt nó có vai trò quan trọng trong việc chống lại xu thế độc quyền đang tác
động làm trì trệ, cản trở nền kinh tế phát triển. Việc phát triển DNNQD tạo

ra một sức ép lớn đối với DNNN trên cơ sở đó tạo ra hàng hoá, dịch vụ
ngày càng phong phú đa dạng, chất lượng cao hơn. Khi đó khách hàng sẽ
có điều kiện lựa chọn sản phẩm hàng hoá mà mình ưa thích. Bằng con
đường đó đã buộc DNNN phải quan tâm nhiều hơn đến vấn đề nâng cao
hiệu quả, cải tiến chất lượng sản phẩm, và đây sẽ trở thành định hướng cơ
bản cho sự phát triển của bản thân các doanh nghiệp này, từ đó thúc đẩy
nền kinh tế phát triển.
* DNNQD góp phần tạo ra thị trường vốn rộng lớn cho Ngân
hàng.
Sự xuất hiện và phát triển của các DNNQD đã tạo ra một nhóm
khách hàng thường xuyên cho Ngân hàng. Với tốc độ phát triển nhanh
chóng cả về quy mô và chất lượng các DNNQD đã tạo ra một nhu cầu lớn
cho Ngân hàng cả về vốn, thanh toán và các dịch vụ qua Ngân hàng. Điều
này tạo điều kiện cho Ngân hàng ngày càng phát triển. Như chúng ta biết,
hoạt động Ngân hàng phụ thuộc rất lớn vào nền kinh tế quốc dân mà trong
đó DNNQD chiếm một tỷ lệ đáng kể do vậy, trong tương lai DNNQD sẽ là
thị trường đầy triển vọng của ngành Ngân hàng.
Nhận thức được vai trò to lớn của DNNQD, Nhà nước ta đã khuyến
khích và tạo môi trường ngày càng thuận lợi cho khu vực này. Sau khi quốc
hội thông qua luật công ty và luật doanh nghiệp tư nhân tháng 12/1990
DNNQD đã có sự phát triển nhanh chóng và đã đạt được những kết quả
nhất định, phát huy tính tích cực trong việc huy động vốn, giải quyết việc
làm, tạo sự năng động trong kinh doanh và thoả mãn nhu cầu thị trường.
Một kết quả nổi bật là các DNNQD tăng lên nhanh chóng, tăng mức nộp
ngân sách và thu nhập khá cao. Đạt được những điều đó lá nhờ những điều
kiện khá thuận lợi như cơ chế chính sách của Nhà nước luôn khuyến
khích, hỗ trợ cho sự ra đời và hoạt động của DNNQD. Nhà nước cũng luôn
cố gắng tạo ra môi trường pháp lý bình đẳng, tự chủ trong kinh doanh để
các doanh nghiệp này có điều kiện vươn lên. Hơn nữa, lực lượng lao động
Việt Nam dồi dào, luôn sẵn sàng đáp ứng yêu cầu của thành phần kinh tế

này.
1.1.2. Thuận lợi và khó khăn của DNNQD trong quá trình đổi mới.
1.1.2.1. Thuận lợi:
* Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh được sự khuyến khích phát
triển của Nhà nước. Nhà nước ta đã có chủ trương đa dạng hoá các thành
phần kinh tế, đặc biệt là tăng tỷ trọng thành phần kinh tế ngoài quốc doanh
để tận dụng các nguồn lực của nền kinh tế như: lao động và vốn. Môi
trường pháp lý sẽ ngày càng được khai thông để tạo điều kiện tối đa cho
khu vực này phát triển; bên cạnh đó Nhà nước có những chính sách ưu đãi
cho khu vực này như miễn giảm thuế trong những năm đầu đối với những
lĩnh vực được khuyến khích phát triển, giảm giá thuê đất Như vậy, các
DNNQD sẽ có rất nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển. Nhà nước đã ban
hành luật doanh nghiệp tư nhân, luật công ty và luật doanh nghiệp trong đó
công nhận quyền bình đẳng của chúng với các hình thức kinh tế khác trước
pháp luật. Đặc biệt, đối với ngành Ngân hàng, cơ chế cho vay đối với
DNNQD đã thông thoáng hơn: thủ tục cho vay đơn giản hơn, nếu phương
án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp khả thi thì có thể sử dụng chính
số vật tư hàng hoá hình thành từ vốn vay làm tài sản bảo đảm; các hình
thức cho vay phong phú hơn phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của
từng doanh nghiệp.
* Cơ sở hạ tầng của nền kinh tế: hệ thống giao thông, hệ thống
thông tin liên lạc, khoa học kỹ thuật công nghệ phát triển đã thúc đẩy sự
phát triển mạnh mẽ của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các
DNNQD nói riêng. Với sự hình thành và đi vào hoạt động của thị trường
chứng khoán đã tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty cổ phần thu hút vốn;
là cơ sở để thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam làm ăn lành mạnh, có hiệu
quả.
* Môi trường tài nguyên còn rất nhiều tiềm năng phù hợp với đặc
điểm của các DNNQD. Lực lượng lao động dồi dào và tiền công thấp là
một thuận lợi cho sự phát triển của các DNNQD. Thị trường trong nước

trong những năm gần đây đã phát triển mạnh mẽ cả về chất lượng và số
lượng, tuy nhiên các chủng loại hàng hoá vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu của
người tiêu dùng, nên đây là những tiềm năng để các DNNQD xâm nhập.
Ngoài ra thị trường quốc tế còn chưa có các mặt hàng đặc thù của Việt
Nam, điều này cũng tạo ra thị trường đầu ra lý tưởng cho các DNNQD.
* DNNQD bao gồm phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các
doanh nghiệp này có những thuận lợi riêng như: dễ triển khai hoạt động,
linh hoạt, dễ thích ứng, quay vòng nhanh, chi phí gián tiếp thấp, tận dụng
được các nguồn vốn nhỏ.
Mặc dù có những thuận lợi như vậy, nhưng DNNQD cũng gặp phải
không ít những khó khăn.
1.1.2.2. Khó khăn:
* Sự non nớt về kinh nghiệm quản lý, thông tin yếu kém. Vì mới
khẳng định sự tồn tại trong nền kinh tế thị trường nên kinh nghiệm thương
trường của các DNNQD còn rất ít, đặc biệt là trên thương trường quốc tế.
Điều này làm cho doanh nghiệp còn lúng túng trong việc chiếm lĩnh thị
trường, thất bại trong cạnh tranh, thậm chí bị lừa đảo. Trình độ quản lý và
thông tin là những yếu tố kỹ thuật, đòi hỏi phải luôn cập nhật, tuy vậy ở các
DNNQD những yếu tố này vẫn chưa đạt yêu cầu để có thể giúp các doanh
nghiệp đứng vững và phát triển trên thị trường.
* Thiếu vốn là một trong những căn bệnh kinh niên của các nước
đang phát triển, vốn là một trong những yếu tố đầu vào vô cùng quan trọng,
quyết định đối với sự hình thành, tồn tại và phát triển của các doanh
nghiệp, quyết định tới phạm vi ngành nghề kinh doanh, quy mô hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể ví vốn là một nguồn thức ăn
để nuôi sống doanh nghiệp. Một doanh nghiệp thiếu vốn như một cơ thể
thiếu dinh dưỡng, tê liệt, không thể hoạt động gì được. Tình trạng thiếu vốn
là do nước ta đang trong giai đoạn CNH - HĐH. Các nguồn vốn lớn tập
trung vào các công trình trọng điểm của quốc gia, cơ sở hạ tầng cần phải
tập trung xây dựng vẫn còn nhiều, tích luỹ từ nội bộ còn ít, số vốn có được

thì nằm ứ đọng trong dân cư vì thị trường tài chính chưa phát triển.
* Một trong những quy luật khắc nghiệt của kinh tế thị trường là
quy luật cạnh tranh. Quy luật này sẽ loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn
kém, không hiệu quả, thiếu năng động, non nớt trên thị trường. Trong bối
cảnh của nền kinh tế thị trường DNNQD không chỉ cạnh tranh lẫn nhau,
mà còn phải cạnh tranh với các DNNN có sự hỗ trợ của Nhà nước, cạnh
tranh với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mạnh hơn về nhiều
mặt.
* DNNQD chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tuy nhiều về số
lượng nhưng lại bị hạn chế về quy mô và ngành nghề kinh doanh. Cơ cấu
kinh tế mất cân đối của khối kinh tế ngoài quốc doanh là sản phẩm trực tiếp
của cấu trúc thị trường có tính độc quyền. Hầu hết các doanh nghiệp này
hoạt động trong các lĩnh vực thương mại dịch vụ, chế biến lương thực thực
phẩm, chưa đến 4% hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp. Doanh nghiệp
vừa và nhỏ chiếm tới 70% trong tổng số các doanh nghiệp. Chỉ có khoảng
1/3 số doanh nghiệp nhỏ vay được vốn của Ngân hàng. Trước mắt do các
doanh nghiệp nhỏ chưa đầu tư vào sản xuất, nên không tạo ra được năng
lực cải tiến công nghệ nội sinh và kéo theo nhu cầu đầu tư lớn. Chỉ có cải
tiến áp dụng công nghệ mới mới đem lại cơ hội đầu tư nhờ hạ giá thành,
kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm hay tạo ra sản phẩm mới.
Nắm giữ khoảng gần 30% tổng tài sản của xã hội, nhận được khoảng
35% trong tổng số mức tín dụng của các NHTM, DNNQD đã chứng tỏ
hiệu quả việc sử dụng vốn bằng việc đóng góp 40% - 45% vào Ngân sách
Nhà nước. Với sự phát triển năng động trong các năm qua, nếu giảm bớt
các cản trở về thể chế, DNNQD sẽ nổi nên là khách hàng quan trọng với
nhu cầu vốn lớn trong thời gian tới.
1.1.3. Các nguồn vốn của DNNQD:
1.1.3.1. Vốn tự có:
Điều kiện hàng đầu để khởi nghiệp trước khi được phép khai trương
của doanh nghiệp là phải có đủ vốn ban đầu theo quy định của pháp luật.

- Đối với các doanh nghiệp tư nhân, nguồn vốn này là của người
chủ đứng lên thành lập doanh nghiệp
- Đối với các công ty cổ phần, nguồn vốn này là vốn đóng góp của
các cổ đông dưới dạng phát hành cổ phiếu.
- Đối với các công ty TNHH, nguồn vốn này là vốn đóng góp của
các thành viên đứng lên thành lập công ty.
- Đối với hợp tác xã, nguồn vốn này do sự đóng góp của các xã viên.
Vốn điều lệ là số vốn đầu tư ban đầu khi thành lập doanh nghiệp và
được ghi rõ trong điều lệ của doanh nghiệp. Vốn điều lệ ít nhất phải bằng
số vốn pháp định theo quy định của pháp luật. Vốn pháp định quy định cho
mỗi loại hình doanh nghiệp nhiều hay ít phụ thuộc vào quy mô hoạt động
hay lĩnh vực kinh doanh . Vốn điều lệ sẽ được tăng và bổ sung dưới các
hình thức: huy động thêm vốn của các cổ đông, lợi nhuận bổ sung Vốn
này được dùng vào việc mua sắm tài sản cố định cho doanh nghiệp, một
phần dùng làm vốn lưu động phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh.
Ngoài vốn điều lệ, các doanh nghiệp còn có thể có các quỹ dự trữ
như: quỹ phát triển kỹ thuật, quỹ khấu hao tài sản cố định, quỹ bảo toàn
vốn, quỹ phúc lợi
Nguồn vốn tự có phản ánh sức mạnh tài chính của các doanh nghiệp,
phản ánh khả năng chống đỡ với các rủi ro trên thị trường, là cơ sở rất quan
trọng để thúc đẩy các doanh nghiệp phát triển.
1.1.3.2. Nguồn vốn đi vay:
Doanh nghiệp có thể vay từ bạn hàng qua hình thức tín dụng thương
mại hay vay Ngân hàng qua hình thức tín dụng Ngân hàng.
* Tín dụng thương mại.
Các doanh nghiệp khai thác nguồn vốn tín dụng thương mại hay
nguồn vốn tín dụng người cung cấp. Nguồn vốn này được khai thác tự
nhiên trong quan hệ mua bán chịu hay mua bán trả góp. Nguồn vốn tín
dụng thương mại có ảnh hưởng hết sức to lớn không chỉ đối với các doanh
nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế. Tín dụng thương mại là một

phương thức tài trợ tiện lợi và linh hoạt trong kinh doanh. Mặt khác nó còn
tạo ra khả năng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh, thúc đẩy sự lưu
thông của hàng hoá. Các điều kiện ràng buộc cụ thể có thể được ấn định
khi hai bên ký kết hợp đồng mua bán. Tuy vậy, đây chỉ là một nguồn vốn
ngắn hạn và sẽ gặp rủi ro khi quy mô tài trợ vượt quá giới hạn an toàn.
* Tín dụng Ngân hàng.
Các Ngân hàng có thể đáp ứng nhu cầu vốn tức thời cho các doanh
nghiệp với thời hạn có thể từ vày ngày cho đến vài năm, với lượng vốn
theo nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể
vay ngắn hạn (dưới 1 năm), vay trung hạn (từ 1 đến 5 năm), vay dài hạn
(trên 5 năm) với những mức lãi suất Ngân hàng và những điều kiện ràng
buộc khác nhau. Hiện nay ở Việt Nam thị trường tài chính chưa hoàn
chỉnh, việc thu hút vốn từ thị trường này là chưa phổ biến thì tín dụng Ngân
hàng là một hình thức huy động vốn phổ biến của các doanh nghiệp. Nó có
tác dụng to lớn đối với cả người đi vay và người cho vay. Nó có những đặc
điểm tiến bộ và có vai trò thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp nói
chung và các DNNQD nói riêng:
- Việc sử dụng tín dụng Ngân hàng sẽ giúp doanh nghiệp chia sẻ
bớt rủi ro cho Ngân hàng.
- Sử dụng tín dụng Ngân hàng không làm chia sẻ quyền lực của
người chủ doanh nghiệp.
- Tiền lãi vay được tính trong chi phí hợp lý do vậy sẽ giảm được
thuế cho doanh nghiệp.
1.2. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI CÁC DNNQD
1.2.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng.
Sự phân công lao động xã hội tạo điều kiện cho xã hội đẩy mạnh sức
sản xuất của mình, làm cho khối lượng hàng hoá tăng lên, nhu cầu trao đổi
và sản xuất hàng hoá ngày càng được mở rộng, theo đó nhu cầu về tiền
cũng tăng lên. Hơn nữa, khi nền kinh tế phát triển nhu cầu tiết kiệm và đầu
tư tăng, trong xã hội sẽ xuất hiện các chủ thể làm ăn có hiệu quả, có nhu

cầu vay vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh đồng thời có những chủ thể
tạm thời thừa vốn. Tín dụng ra đời đã giải quyết được quan hệ cung cầu về
vốn trong nền kinh tế. Các chủ thể kinh tế có thể trực tiếp gặp nhau, hoặc
thông qua thị trường tài chính, nhưng chủ yếu là gián tiếp qua các trung
gian tài chính, đặc biệt là NHTM.
NHTM là một tổ chức kinh doanh tiền tệ và hoạt động chủ yếu và
thường xuyên đó là huy động tiền gửi với trách nhiệm hoàn trả (vốn và
lãi), sau đó sử dụng số tiền huy động được để cho vay, thanh toán, chiết
khấu nhằm mục đích sinh lợi.
Như vậy ta thấy rằng Ngân hàng là trung gian thanh toán, trung gian
tín dụng của nền kinh tế. Hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu đem lại
lợi nhuận cho Ngân hàng.
Tín dụng Ngân hàng là một giao dịch về tài sản giữa bên cho vay
(Ngân hàng) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác),
trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một
thời gian nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô
điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Từ khái niệm trên ta suy ra các đặc trưng của tín dụng Ngân hàng:
- Tín dụng là sự cung cấp một lượng giá trị trên cơ sở lòng tin, ở
đây người cho vay tin tưởng người đi vay sử dụng vốn vay có hiệu quả sau
một thời gian nhất định và do đó có khả năng trả được nợ. Từ đặc trưng
này ta thấy sự tín nhiệm là điều kiện cần thiết để phát sinh quan hệ tín
dụng. Để có được lòng tin về khách hàng, Ngân hàng luôn thẩm định đánh
giá khách hàng trước khi cho vay. Nếu khâu này được thực hiện một cách
khách quan, chính xác thì việc cho vay của ngân hàng có thể mở rộng được
mà ít gặp phải rủi ro.
- Tín dụng là sự chuyển nhượng một lượng giá trị có thời hạn. Đặc
trưng này của tín dụng xuất phát từ tính chuyển nhượng tạm thời. Như vậy,
để đảm bảo thu hồi nợ đúng hạn Ngân hàng phải định kỳ hạn nợ một cách
phù hợp với đối tượng vay.

- Tín dụng là sự chuyển nhượng một lượng giá trị trên nguyên tắc
hoàn trả cả gốc và lãi. Đây là thuộc tính riêng có của tín dụng. Vì vốn để
cho vay của Ngân hàng chủ yếu là vốn huy động từ những người tạm thời
thừa vốn, nên trong một thời gian nhất định Ngân hàng phải trả lại cho
người ký thác. Mặt khác, Ngân hàng cần phải có nguồn để bù đắp chi phí
hoạt động như khấu hao tài sản cố định, trả lương cán bộ công nhân viên,
chi phí văn phòng phẩm Nên người vay ngoài việc trả nợ gốc còn phải trả
cho Ngân hàng một khoản lãi. Đây là nguồn thu nhập chính của Ngân
hàng, là cơ sở để Ngân hàng tồn tại và phát triển.
1.2.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với DNNQD:
Tín dụng Ngân hàng có vai trò rất to lớn đối với toàn bộ nền kinh tế
nói chung và nhất là đối với các DNNQD. Vai trò đó thể hiện là:
Thứ nhất, tín dụng Ngân hàng tạo điều kiện ra đời các tổ chức kinh
tế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh. Các tổ chức kinh tế
này buổi đầu gặp nhiều khó khăn về vốn kinh doanh, về hạch toán kế toán
trong kinh doanh, cũng như trong mối quan hệ bạn hàng với nhau, trong đó
sự thiếu thốn về vốn hoạt động và sự yếu kém về hạch toán kế toán nổi lên
hàng đầu. Về phương diện này, tín dụng ngân hàng sẽ là công cụ tài trợ đắc
lực trong việc tạo lập cơ sở vật chất cũng như vốn lưu động trong hoạt
động sản xuất và lưu thông của họ. Thông qua quan hệ tín dụng, Ngân hàng
sẽ giúp cho các tổ chức kinh tế này nâng dần trình độ hạch toán kế toán
thống kê của họ. Bởi vì hầu hết các tổ chức kinh tế không tự mình hạch
toán, thống kê được quá trình kinh doanh, sẽ không thực hiện được một
cách đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước cũng như thiếu những điều kiện
cần thiết để vay vốn Ngân hàng.
Thứ hai, tín dụng Ngân hàng có vai trò trong việc tạo điều kiện phát
triển ngành nghề mới trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Việc phát
triển từ nhu cầu sản xuất và tiêu dùng từng lĩnh vực kinh tế, từng chủ doanh
nghiệp rất khó có thể thông hiểu một cách rộng khắp nhu cầu của thị
trường. Thông qua hoạt động cấp tín dụng, hệ thống Ngân hàng có khả

năng thấy được nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng hiện tại cũng như tương
lai, cùng với nguồn vốn của mình, tín dụng Ngân hàng sẽ thúc đẩy sự ra
đời những ngành nghề mới, đáp ứng cho yêu cầu phát triển ngày càng đi
lên của nền kinh tế.
Thứ ba, tín dụng Ngân hàng trở thành đòn bẩy kinh tế quan trọng
giúp nhà sản xuất kinh doanh thực hiện đêù đặn quá trình tái sản xuất, ứng
dụng khoa học kỹ thuật mới, phục vụ thị hiếu của người tiêu dùng cũng
như đòi hỏi khắt khe của người sản xuất.
Thứ tư, tín dụng Ngân hàng có vai trò tích cực trong việc hạn chế,
xoá bỏ tệ nạn cho vay nặng lãi góp phần tích cực vào việc xây dựng, bổ
sung hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính, thúc đẩy DNNQD phát triển.
Nhận thức được tầm quan trọng của tín dụng Ngân hàng đối với
DNNQD, Đảng và Nhà nước ta đã có hàng loạt chính sách khuyến khích
lĩnh vực tín dụng này, hệ thống Ngân hàng đã có những thay đổi căn bản
tạo sự bình đẳng trong việc cho vay giữa các thành phần kinh tế.
1.2.3. Các hình thức cho vay:
Theo điều 3 của quy chế cho vay của các TCTD quy định: “cho vay
là một hình thức cấp tín dụng, theo đó TCTD giao cho khác hàng vay một
khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận
với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi”.
Hoạt động cho vay của Ngân hàng đối với các DNNQD có nhiều
hình thức:
* Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay:
- Cho vay công và thương nghiệp, dịch vụ.
- Cho vay nông nghiệp.
- Cho vay tiêu dùng.
* Căn cứ vào thời hạn vay vốn:
- Cho vay ngắn hạn: Là loại hình cho vay có thời hạn dưới 12
tháng được sử dụng vốn để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh
nghiệp. Đối với các NHTM, loại hình cho vay này thường chiếm tỷ trọng cao.

- Cho vay trung hạn: Là loại hình cho vay có thời hạn từ 1 năm đến
5 năm, chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến
hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng
các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh.
- Cho vay dài hạn: Là loại hình cho vay có thời hạn trên 5 năm, chủ
yếu là để đáp ứng nhu cầu dài hạn như: xây dựng nhà ở, đầu tư các thiết bị,
phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới.
* Căn cứ vào tính chất bảo đảm:
- Cho vay có bảo đảm: Loại hình cho vay này được Ngân hàng
cung ứng vốn phải có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc phải có sự bảo lãnh của
bên thứ ba. Việc bảo đảm này sẽ là căn cứ pháp lý để Ngân hàng có thêm
một nguồn thu nợ thứ hai bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc
chắn.
- Cho vay không có bảo đảm: Đó là các khoản cho vay tín nhiệm,
các khoản cho vay mà không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của
bên thứ ba, việc cho vay này chủ yếu dựa vào uy tín của khách hàng mà
không cần có điều kiện bổ sung. Ở nước ta hình thức cho vay này chủ yếu
áp dụng đối với DNNN, việc áp dụng hình thức này đối với DNNQD chưa
được rộng rãi.
* Căn cứ vào phương pháp cấp tiền vay:
- Phương thức cho vay từng lần: Là phương thức cho vay mà mỗi
lần vay vốn, khách hàng và Ngân hàng đều phải làm thủ tục vay vốn cần
thiết và ký kết hợp động tín dụng. Phương thức này được áp dụng đối với
những khách hàng có nhu cầu vay vốn không thường xuyên; cho vay vốn
lưu động, cho vay bù đắp thiếu hụt tài chính tạm thời.
- Phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng: Khách hàng và
Ngân hàng thoả thuận một hạn mức tín dụng được duy trì trong một thời
gian nhất định. Trong thời gian duy trì hạn mức tín dụng, khách hàng được
rút vốn phù hợp với tiến độ và yêu cầu sử dụng vốn thực tế nhưng phải
đảm bảo không được vượt quá hạn mức tín dụng đã ký kết. Mỗi lần rút vốn

khách hàng phải lập giấy nhận nợ. Phương thức này được áp dụng với
những khách hàng có nhu cầu vay vốn thường xuyên hay khách hàng có
đặc điểm sản xuất kinh doanh, luân chuyển vốn không phù hợp với phương
thức cho vay từng lần.
1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới việc mở rộng cho vay đối với DNNQD
Mở rộng cho vay đối với DNNQD không có nghĩa là tăng khối
lượng cho vay, mà mở rộng cho vay phải luôn gắn liền với nâng cao chất
lượng cho vay. Có nhiều nhân tố tác động đến việc mở rộng cho vay đối
với DNNQD của các Ngân hàng, trong đó có thể chia thành 2 nhóm sau:
1.2.4.1. Các nhân tố khách quan:
Nhóm này thường gồm: tình trạng của nền kinh tế, tình trạng xã hội và
hệ thống pháp luật. Đó là những nhân tố ảnh hưởng mạnh mẽ tới hoạt động
cho vay đối với các thành phần kinh tế nói chung và đối với DNNQD nói riêng.
* Nhân tố kinh tế.
Chúng ta biết rằng nền kinh tế là một hệ thống bao gồm nhiều hoạt
động kinh tế có quan hệ biện chứng, ràng buộc lẫn nhau nên bất kỳ một sự
biến động của hoạt động kinh tế nào đó cũng gây ảnh hưởng cho hoạt động
sản xuất kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm của các ngành, lĩnh vực còn lại.
Hơn nữa, hoạt động của các NHTM được coi như “chiếc cầu nối” giữa các
lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế. Vì vậy sự ổn định hay bất ổn định, sự
tăng trưởng nhanh hay chậm của nền kinh tế sẽ tác động mạnh mẽ đến
“chiếc cầu nối” đặc biệt là hoạt động cho vay của Ngân hàng.
- Các biến số kinh tế vĩ mô như lạm phát, khủng hoảng sẽ ảnh
hưởng lớn đến quy mô tín dụng và chất lượng tín dụng. Một nền kinh tế ổn
định, tỷ lệ lạm phát vừa phải sẽ hấp dẫn đầu tư. Lúc đó nhu cầu vay vốn sẽ
tăng lên để mở rộng sản xuất kinh doanh nhằm kiếm thêm lợi nhuận do vậy
hoạt động cho vay của Ngân hàng có điều kiện để mở rộng. Ngược lại, nếu
nền kinh tế không ổn định, tỷ lệ lạm phát tăng cao thì doanh nghiệp sẽ rất
khó khăn trong việc kế hoạch sản xuất kinh doanh của mình vì vậy thường
có xu hướng “co cụm” hoạt động và do vậy làm giảm khả năng mở rộng

cho vay của Ngân hàng.
- Chu kỳ kinh tế có tác động không nhỏ tới hoạt động cho vay: nếu
nền kinh tế đang ở chu kỳ tăng trưởng, nhu cầu tiêu dùng tăng cao kéo theo
nhu cầu đầu tư mở rộng sản xuất cũng tăng cao do vậy làm tăng khả năng
mở rộng cho vay của Ngân hàng. Ngược lại, nếu nền kinh tế đang ở chu kỳ
suy thoái, sản xuất vượt quá nhu cầu của nền kinh tế dẫn tới sự đình trệ
trong sản xuất kinh doanh, hàng tồn kho lớn buộc các doanh nghiệp phải
thu hẹp sản xuất do vậy làm giảm khả năng mở rộng cho vay của Ngân
hàng. Mặt khác, khi nền kinh tế suy thoái các doanh nghiệp sẽ gặp khó
khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm do vậy không có nguồn để trả nợ Ngân
hàng và làm ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng.
* Nhân tố xã hội.
Các nhân tố xã hội ở đây bao gồm: niềm tin tưởng lẫn nhau, tình
hình an ninh trật tự và an toàn xã hội, trình độ dân trí
- Quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng và khách hàng dựa trên cơ sở
niềm tin. Đối với khách hàng nào hoạt động kinh doanh hiệu quả, có uy tín
với Ngân hàng thì được ưu đãi trong quan hệ cho vay. Nếu Ngân hàng nào
hoạt động an toàn, hiệu quả, nhanh chóng đáp ứng nhu cầu đa dạng của
khách hàng thì sẽ được khách hàng lựa chọn. Ngược lại, nếu khách hàng
không tin tưởng vào hoạt động của Ngân hàng thì sẽ không quan hệ với
Ngân hàng và nếu Ngân hàng không tin vào uy tín cũng như năng lực tài
chính của khách hàng sẽ không cho khách hàng vay.
- Ngoài ra, an ninh trật tự xã hội cũng có có ảnh hưởng trực tiếp
đến hoạt động cho vay của Ngân hàng. Thật vậy nếu một nơi nào mà an
ninh trật tự không đảm bảo, an toàn xã hội kém sẽ gây ra tâm lý không yên
tâm cho các chủ đầu tư và các chủ đầu tư cũng không đầu tư vào những nơi
như thế. Do vậy, nhu cầu vay vốn cũng hạn chế, làm thu hẹp tín dụng của
ngân hàng. Ngược lại, nơi nào có trật tự an ninh tốt, ít trộm cướp và tệ nạn
xã hội thì sẽ an toàn cho hoạt dộng đầu tư.
- Nếu như trình độ dân trí thấp, người dân sẽ không hiểu biết về các

hoạt động của Ngân hàng, không biết các thủ tục khi vay vốn và họ sẽ vay
vốn chủ yếu từ thị trương tài chính - tiền tệ trực tiếp và nó cũng là một
nhân tố làm thu hẹp trị trường tín dụng của Ngân hàng.
* Nhân tố pháp lý.

×